Đi Lấy Mật: Nội Dung Tác Phẩm + Giá Trị + Phân Tích

Đi Lấy Mật ❤️️ Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích ✅ Tổng Hợp Sơ Đồ Tư Duy, Xuất Xứ Và Hoàn Cảnh Sáng Tác, Giá Trị Tác Phẩm.

Nội Dung Truyện Ngắn Đi Lấy Mật

“Đi lấy mật” là đoạn trích được trích trong tiểu thuyết “Đất rừng phương Nam” của nhà văn Đoàn Giỏi, kể về cuộc sống của cậu bé An, lấy bối cảnh là miền Tây Nam Bộ những năm 50 của thế kỉ XX. Ngay bên dưới đây là nội dung truyện ngắn Đi lấy mật đầy đủ.

Buổi sáng, đất rừng thật lả yên tĩnh. Trời không gió, nhưng không khí vẫn mát lạnh. Cái lành lạnh của hơi nước sông ngòi, mương rạch, của đất ẩm và dưỡng khí thảo mộc thở ra từ bình minh.  Anh sáng trong vắt, hơi gợn một chút óng ánh trên những đâu hoa trảm qua một lớp thuỷ tình.

Tía nuôi tôi đi trước, bên hông lũng lắng chiếc túi [….], lưng mang cái gùi bằng tre đan đã trát chai, tay cầm chả gạc. Lâu lâu, ông vung tay lên một cái, đưa con dao rừng rất sắc phạt ngang một nhánh gai và đùng cái đầu mấu cong ở đầu lưỡi dao dài có đến sáu bảy tấc ấy lôi phăng nhánh gai chắn đường vứt ra một bên đề lây lôi đi. Thắng Cò đội cái thúng to tướng, trong thúng đựng một vò nước, mây gói cơm nắm và cái áo ướt mồ hôi nó vừa cởi ra cuộn lại, trên thúng úp chiếc nón lá rách. Tôi đã chen vào giữa, quẩy tròn ten một cái gùi bẻ mã má nuôi tôi đã bơi xuồng đi mượn của nhà ai ngoài xóm bìa rửng từ chiêu hôm qua. Con Luốc chạy tung tăng sục sạo trong các bụi cây.

Lần đầu tiên tôi theo tía nuôi tôi và thẳng Cò đi “ăn ong” ở đây! Mấy hôm trước, má nuôi tôi đã kể tỉ mỉ cho tôi nghe cách gác kèo ong thế nào, nhưng tôi vẫn chưa hình dung được “ăn ong” ra sao. Những điều má nuôi tôi kể, trong các sách giáo khoa không thể nói. Khoa học tự nhiên ở trường chỉ mới cho tôi một khái niệm chứng chung về xã hội loài ong, vẻ những lợi ích của con ong, đại khái vậy thôi. Hiển nhiên từ những thời xa xôi thuở con người ăn lông ở lỗ cho đến ngày nay, người ta vẫn đi tìm lấy mật rừng bằng cách theo dấu đường bay của những con ong về tổ. Người ta phải khó nhọc. lắm mới đưa được con ong rừng vẻ nuôi thành con ong nhà, vì như thế, việc lấy mật sẽ để đảng và bảo đảm hơn.

Trong kho tàng kinh nghiệm của những nhà nuôi ong trên thế giới ghi chép trong các sách vở mà tôi được nghe thấy giáo tôi kẻ, không thấy cỏ nơi nào nói đến việc lấy mật bằng cách gác kèo như má nuôi tôi đã bảo cho tôi nghe vừa rồi.

– Thôi, đừng lại nghỉ một lát. Bao giờ thẳng An đỡ mệt, ăn cơm xong hẵng đi! – Tía nuôi tôi ra lệnh cho chúng tôi như vậy.

Quả là tôi đã mệt thật. Tía nuôi tôi chỉ nghe tôi thở đằng sau lưng ông thôi mà biết chứ ông có quay lại nhìn tôi đâu! Chúng tôi đã bơi xuồng đi từ lúc gà vừa gáy rộ canh tư. Thằng Cỏ thì coi bộ chưa thấm tháp gì. Cặp chân của nó như bộ giỏ nai, lội suốt ngày trong rừng còn chả mùi gì nữa là! 

Tía nuôi tôi ngôi tựa lưng vào một gốc cây ngái, nhỏ thuốc lá vào tẩu. Con chó săn trung thành bao giờ cũng ngôi bảo vệ bên chân chủ. Thắng Cò bưng vò nước ra, ngửa cổ kể miệng vào vỏ uống nước ừng te. Bỗng nó đặt vòi nước xuống, thúc vào lưng tôi:

– Đồ mày biết con ong mật là con nào

Hỏi xong, nó đưa tay trỏ lên phía trước mặt Tôi đảo mắt nhìn khắp nơi vẫn không thấy gì. Rừng cây im lặng quả. Một tiếng lá rơi lúc này cũng có thể khiến người ta giật mình. Lạ quá, chim chóc chẳng nghe con nào kêu. Hay vẫn có tiếng chim ở một nơi xa lắm, vì không chú ý mả tôi không nghe chăng? 

Cao quá đầu tôi một với tay, có những chấm đen không nhúc nhích. Đó là ruồi xanh đang bay đứng. Ông ảnh lướt những lá bông súng dưới vũng kia là con chuồn chuồn bay ngang với những cảnh mỏng và đài. Bé như hạt khẻ, cứ lắc lư lắc lư từ đất nhoi lên vả đáp vào một cảnh ngải khô trên đậu tía môi tôi là điệu bay của con mối cánh.

– Chịu thua mày đó! Tao không thấy con ong mật đâu cả

Thằng Cò nghe tôi chịu thua, nó bèn vênh mặt lên cười, quay sang tôi

– Bây giờ máy cứ nhìn kỹ vào khoảng cách giữa hai nhánh tràm cao kia! Ờ! Đúng rồi. Nhìn một chỗ trồng ấy thôi nhé. Nó tới liền bây giờ.

Đã lâu lắm mà sao tôi chưa thấy gì cả. Tôi vừa toan đứng dậy thì tia nuôi tôi đã đến cầm tay tôi trỏ lên

– Đó, con thấy nó chưa?

– Thấy rồi!

Tôi kêu khe khẽ. Ở, phải rồi! Phải hết sức tinh mắt, thính tai mới tìm được những tay sử giả của bình minh này. Một con… hai con… ba con… Rồi một đàn mười mấy con bay nối nhau như một xâu chuỗi hạt cườm, trong những tảng xanh cây lá, có một cái chấm nâu đen cỡ đầu đũa vụt qua rất nhanh. Trên những ngọn trảm cao, đang lướt qua một đàn li tỉ như nắm trâu bay, phát ra những tiếng kêu eo… eo… eo… eo… Tiếng kêu thật nhỏ, không chú ý theo dõi thì không thể nào nghe được.

Chúng tôi giở những nắm cơm vắt ra. Ăn xong, bấy giờ bỏng nắng mới bắt đầu lên. Gió cũng bắt đầu thôi rao rao theo với khôi mặt trời tròn đang tuôn ánh sáng vàng. rực xuống mặt đất. Một làn hơi đất nhè nhẹ tỏa lên, phủ mờ những bụi cây cúc áo, rồi nhè nhẹ tan dần theo hơi ấm mặt trời. Phút yên tĩnh của rừng ban mai dân dân biến đi.

Chim hót líu lo. Nắng bốc hương hoa tràm thơm ngây ngất. Gió đưa mùi hương. ngọt lan ra, phảng phát khắp rừng. Mây con kỳ nhông nằm vươn mình phơi lưng trên gốc cây mục, sắc đa lưng luôn luôn biến đổi từ xanh hóa vàng, từ vàng hóa đỏ, từ đỏ hoá tím xanh,… Con Luốc động đây cánh mũi, ròn rén mò tới. Nghe đông tiếng chân con chó săn nguy hiểm, những con vật thuộc loài bò sát bổn chân, to hơn ngón chân cái kia, liên quật chiếc đuôi đải chạy tứ tán. Con núp chỗ gốc cây thi biển thành màu xám vỏ cây. Con đeo trên tấm lá ngái thì biển ra màu xanh lá ngái.

Chúng tôi tiếp tục đi tới một cải trảng rộng. Giữa vùng cỏ tranh khô vàng, gió thổi lao xao, một bẫy chim hàng nghìn con vịt cất cánh bay lên. Chim áo già màu nâu, chim manh manh mỏ đỏ bóng như màu thuốc đánh móng tay, lại có bộ lông, xám tro điểm những chấm trắng chấm đỏ li ti rất đẹp mắt… Những con chim nhỏ bay vủ vù kêu líu ríu lượn vòng trên cao một chốc, lại đáp xuống phía sau lưng chúng tôi.

– Chim đẹp quá, Cò ơi! – Tôi tặc lưỡi, kêu lên

– Thứ chim cỏ này mà đẹp gi!

– Ở đây chim nhiều quả. [… ]

– Thứ đỏ bỏ, không ăn thua gì đâu. May mà gặp “sân chim” thì mày sẽ biết

Nó nói một cách lơ là như vậy rồi cứ cắm củi đội cái thúng đi. Tôi muốn hỏi về cái “sân chim”, nhưng vì tự ái và nghĩ nếu mình gặp cái gì cũng hỏi thì nó sẽ khinh mình đốt, bèn im im đi tới.

[…] Tôi chẳng hỏi gì thêm, cứ lặng thinh. Nó cũng không thèm chú ý đến vẻ mặt khó đăm đăm của tôi, cứ nắm tay tôi lôi đi, lại còn khoát tay ra hiệu bảo tôi đi thật khẽ

Tôi nhìn theo ngón tay nó trỏ lên một kèo ong gác trên cây trảm thấp. Tổ ong kia rồi!

Sự mừng rỡ làm tôi quên phắt cái bực mình vừa qua. Tôi lại hỏi

– Sao biết nó về cây này mà gác kèo?

– Thăng mau quên hé! Vậy chở mấy bữa nay, má nói gì cho mày nghe đó? – Nó chảnh môi ra cười hỉ hả, trông cái miệng thầy ghét quả

Tôi ngước nhìn tổ ong như cái thúng, lúc nhúc không biết bao nhiêu ong, dân dẫn nhớ lại lời má nuôi tôi kể:

– Rừng thì mênh mông, biết bao nhiêu cây! Một cây còn biết bao nhiêu nhánh! Biết con ong sẽ đóng tổ Nội dung câu chuyện của má y nào, nhánh nào? Có phải bạ chỗ nào nó cũng gửi… nuoi An. mật đâu! Nhưng làm nghề nào rồi khắc phải thạo nghề  đây con ạ! – Má nuôi tôi đưa mắt trông ra những cảnh rừng tràm lờ mờ khuất sau những bụi cây bình bát dại mọc quanh hè, ngẫm nghĩ một lúc rồi nói tiếp: – Gió thổi có hướng, cây tốt cũng có vùng. Chọn được vùng rừng tốt, biết rằng đến mùa xuân tràm sẽ kết nhiều hoa, minh mới định chỗ gác kèo. Phải xem hướng gió, tính trước đường bay của ong mật, Đó là những chỗ “âm”, cây dày, không bị ngọn gió thốc thẳng vào vả ít khí có những dấu chân người đi bắt rắn, người đốn củi lội đến.

– Kèo là gì, hở má?

– Ở, kẻo cũng là nhánh tràm thôi. Nó to cỡ cổ tay, mang nhiều nhánh con tua tủa vào quãng giữa. Minh chặt là một khúc đải non phước tây, một đầu có các nhánh con đừng làm cái mâu. Chọn được vùng rồi, còn phải chọn cây nào vừa kín, vừa im, có ít nhiều bóng nắng kia! Con ong không thích đóng chỗ rợp. Ở những nơi đó, bao giờ mật cũng chua, để bị âm. Gác chiếc kèo chênh chếch lên cây tràm xong, phải “rửa” bớt những nhánh chung quanh đẻ khi lấy mật khỏi vướng. Kẻo chặt vào khoảng giữa tháng, Mười một. Những cơn mưa muộn sẽ rửa hết mùi sắt ở hai đầu kèo bị đao rựa chặt, và nhánh kèo cũng đủ thời gian khô đi, cũ đi, giống với những nhánh khô khác trên cây. Keo nào còn mùi sắt của con đao mới chặt thì con ong mật chúa kị, nó không bao giờ đóng tổ đâu.

– Coi bộ cũng không khó lắm hở má?

Má môi tôi vò đầu tôi, cười rất hiền lành. Tôi cũng cười theo. Bà đằng chẳng, nói:

– Chẳng để đâu, con ạ! Nhiều người trở thành “dân ăn xong” đã năm mươi năm trong nghề, vậy mà gác kẻo xong tới mùa mật, mang gùi lên lưng vào rừng, lại mang gùi không trở về

– Ủa! Tại sao vậy, má?

– Định không đúng chỗ, đoản sai hưởng gió chứ sao!

Mắt tôi vẫn không rời tổ ong lúc nhúc trên cây trảm tháp kia

[..] Tôi ngồi nhìn lên kẻo ong, thây nó cũng giống như những tổ ong trong sách vậy thôi. Nhưng có điều khác là không phải ngẫu nhiên mà nó đóng trên một cành cây nào đó. Chỉnh tía nuôi tôi đã định sẵn cho chúng nó một nơi về đóng tô… Theo như lời thầy giáo của tôi bảo, người La Mã xưa kia nuôi ong trong những cải tổ bằng đồng hình chiếc vại, có đục thủng nhiều hàng lỗ côn vòng quanh miệng, quanh đáy. Người Mễ Tây Cơ” làm tổ nuôi ong bằng đất nung, như một cái ông có hai cái loa hai đầu, giữa lưng ống đắp một hình đầu người nho nhỏ làm vật trang trí, dùng hai sợi thừng treo lên cành cây. Người Ai Cập nuôi ong trong những tổ bằng sảnh, hình ống dải, xếp chồng lên nhau, đặt trên bãi cỏ. Ở Phi châu người ta đục ruỗng một khúc thân cây, vít kín hai đầu, chỉ chừa một lỗ khoét nho nhỏ cho ong ra vào, treo lên bằng một đoạn dây nhỏ có mấu. Ở xứ Tây Âu, tổ ong lại lợp, bên bằng rơm đủ kiểu, hình thủ khác nhan… Không có nơi não, xứ nào có kiểu tổ ong hình nhánh kèo như vùng U Minh này cả.

Những con ong vẫn nổi cánh nhau bay đi bay về trên tổ, trước mặt chúng tôi kia. Con nào cũng lượn một vòng tròn trước khi đáp xuống. Người ta bảo rằng đó là vũ điệu báo hiệu của loài ong.

[..] Chúng tôi ngồi ăn cơm dưới một bụi cây tràm râm mát. Bóng nắng nghiêng. nghiêng rọi chếch xuống chỗ tôi ngồi. Mây con gầm ghì?’ sắc lông màu xanh đang, tranh nhau với bẫy vẹt mỏ đỏ, giảng mổ những quả chín trên cây bỏ đẻ. Lâu lâu, vải ba trái quả vàng rụng rơi lộp bộp, lăn vào cạnh chân tôi như hòn bi.

Khám phá thêm🌱 Bầy Chim Chìa Vôi 🌱 Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích

Tóm Tắt Đi Lấy Mật

Có thể bạn sẽ cần đến bản tóm tắt Đi lấy mật.

Đoạn trích “Đi lấy mật” kể về một lần An cùng Cò và cha nuôi cùng nhau vào rừng U Minh đi lấy mật ong. Xuyên suốt đoạn trích là cảnh sắc đất rừng phương Nam được tác giả miêu tả hiện lên vô cùng sinh động, vừa bí ẩn, hùng vĩ, lại vừa thân thuộc, gắn liền với cuộc sống của người dân nơi đây qua những suy nghĩ của cậu bé An.

Về Nhà Văn Đoàn Giỏi

Xem thêm những thông tin chính về nhà văn Đoàn Giỏi sau đây.

  • Đoàn Giỏi (1925 – 1989) quê ở Tiền Giang.
  • Ông là nhà văn của miền đất phương Nam với những sác tác về vẻ đẹp thiên nhiên trù phú, con người chất phác, thuần hậu, can đảm, trọng nghĩa tình và cuộc sống nơi đây.
  • Gia đình: xuất thân trong một gia đình địa chủ lớn trong vùng và giàu lòng yêu nước.
  • Ông có lối miêu tả vừa hiện thực vừa trữ tình và ngôn ngữ đậm màu sắc địa phương.
  • Một số tác phẩm tiêu biểu: Đường về gia hương (1948), Cá bống mú (1956), Đất rừng phương Nam (1957).

Chia sẻ cho bạn đọc ✨ Gặp Lá Cơm Nếp [Thanh Thảo] ✨ Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật

Về Tác Phẩm Đất Rừng Phương Nam

Về tác phẩm Đất rừng phương Nam, tiểu thuyết này được ra đời năm 1957 là một trong những cuốn sách đầu tiên của NXB Kim Đồng trong những ngày đầu thành lập. Tác phẩm đã làm nên tên tuổi lừng lẫy của nhà văn Đoàn Giỏi và là một trong những tác phẩm vàng ròng của nền văn học thiếu nhi Việt Nam suốt mấy chục năm qua.

Câu chuyện mượn hình ảnh một cậu bé bị lưu lạc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp ở Nam bộ để giới thiệu “Đất rừng Phương Nam”. Nơi đó, một vùng đất vô cùng giàu có, hào phóng và hùng vĩ với những con người trung hậu, trí dũng, một lòng một dạ theo kháng chiến.

“Đất rừng phương Nam” của Đoàn Giỏi như một xã hội của miền sông nước Tây Nam bộ thu nhỏ. Bởi ở nơi đó, người đọc đã tìm thấy hình ảnh người dân của vùng đất phương Nam từ sông Tiền, sông Hậu trải dài đến Kiên Giang – Rạch Giá, rồi xuống tận rừng U Minh, sau đó dừng lại ở Năm Căn Cà Mau.

Xuất Xứ Và Hoàn Cảnh Sáng Tác Đi Lấy Mật

Khám phá xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác Đi lấy mật sau đây.

  • Đất rừng phương Nam là cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất của Đoàn Giỏi.
  • Tác phẩm gồm 20 chương, đã được dựng thành phim Đất phương Nam (1997)
  • Đất rừng phương Nam kể về cuộc sống của cậu bé An, lấy bối cảnh là miền Tây Nam Bộ những năm 50 của thế kỉ XX. Vì chiến tranh, An bị lạc mất gia đình và trở thành một đứa trẻ lang thang. Cậu được bố mẹ Cò cưu mang và trở thành con nuôi của họ. Sống với gia đình Cò, An được yêu thương như con đẻ và cũng học hỏi được nhiều điều mới lạ, thú vị.
  • Đoạn trích Đi lấy mật là tên chương 9, kể lại một lần An theo tia nuôi (cha nuôi) và Cò đi lấy mật ong trong rừng U Minh.

Đừng vội bỏ lỡ phân tích 💚 Ngàn Sao Làm Việc [Võ Quảng] 💚 Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích

Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm Đi Lấy Mật

Ngay bên dưới là ý nghĩa nhan đề tác phẩm Đi lấy mật.

Nhan đề “Đi lấy mật” đã thông báo trước cho người đọc một hoạt động chính xuyên suốt trong văn bản được nói đến đó là đi lấy mật ong rừng.

Đoạn trích kể về một lần An cùng tía và Cò cùng nhau đi vào rừng lấy mật. Trong quá trình đi lấy mật, An học hỏi được nhiều điều, đặc biệt là không gian đất rừng phương Nam đẹp bí ẩn và cách thức lấy mật độc đáo của người dân vùng U Minh.

Bố Cục Văn Bản Đi Lấy Mật

Bố cục văn bản Đi lấy mật được chia thành 3 phần chính:

  • Phần 1: Từ đầu đến “không thể nào nghe được”: Suy nghĩ của An khi cùng tía nuôi và An đi lấy mật.
  • Phần 2: Tiếp theo đến “cây tràm thấp kia”: Cảnh sắc đất rừng phương Nam hiện lên trên đường đi lấy mật.
  • Phần 3: Còn lại: Cách “thuần hóa” ong rừng khác biệt của người dân vùng U Minh.

Xem ngay phân tích tác phẩm 🔻 Ông Giuốc – Đanh Mặc Lễ Phục 🔻 Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích

Đọc Hiểu Tác Phẩm Đi Lấy Mật

Nhất định đừng bỏ qua nội dung đọc hiểu tác phẩm Đi lấy mật.

1. Suy nghĩ của An khi cùng tía nuôi và An đi lấy mật.

* Khung cảnh thiên nhiên buổi sáng qua cái nhìn của nhân vật An:

– Không gian: Yên tĩnh, ánh sáng trong vắt, hơi gợn một chút óng ánh trên những đầu hoa tràm.

– Tiết trời: 

+ Trời không gió

+ Không khí mát lạnh bởi hơi nước sông ngòi, mương rạch, của đất ẩm và dưỡng khí thảo mộc thở ra từ bình minh.

– Nghệ thuật: 

+ So sánh: “những đầu hoa tràm rung rung” buổi sớm như được “bao qua một lớp thủy tinh”

+ Liệt kê: Nơi xuất phát cái lạnh của hơi nước.

* Nhân vật tía nuôi của An:

– Đi trước, dẫn An và Cò đi lấy mật

– Ngoại hình:

+ Đeo bên hông lủng lẳng chiếc túi

+ Lưng mang cái gùi bằng tre đan đã trát chai

+ Tay cầm chả gạc

– Cử chỉ:

+ Lâu lâu vung tay lên một cái, phạt ngang một nhánh gai 

+ Dùng mẩu cong ở lưỡi dao lôi phăng nhánh gai chắn đường vứt ra một bên để lấy lối đi.

– Để tâm thấy An đã mệt chỉ qua tiếng thở và bảo hai con dừng lại nghỉ ngơi

– Ngồi vào gốc cây ngái, nhồi thuốc lá vào tẩu

– Cầm tay An trỏ lên phía cây có con ong mật

→ Tía nuôi là một người cha ấm áp, quan tâm đến con trai, ông không hề có sự phân biệt giữa con đẻ và con nuôi, trái lại còn có những sự quan tâm đặc biệt đến An, con nuôi của mình.

* Nhân vật Cò

– Ngoại hình:

+ Đội cái thủng to tướng đựng nhiều đồ đạc và thức ăn

+ Cặp chân như giò nai, lội suốt ngày trong rừng cũng không biết mệt

– Cử chỉ:

+ Bưng vò nước ra, ngửa cổ kề miệng uống ừng ực

+ Thúc vào lưng An, trỏ lên trời và đố con ong mật ở đâu

+ Giảng giải cho An cách nhìn thấy bầy ong, đoán trước được chúng sẽ xuất hiện.

+ Vênh mặt lên khi thấy An chịu thua câu đố

→ Cậu bé sinh ra và lớn lên tại đất rừng U Minh nên lanh lợi, nhanh nhẹn, thành thục với công việc đi rừng hơn An. 

2. Cảnh sắc đất rừng phương Nam hiện lên trên đường đi lấy mật.

* Cảnh đẹp phong phú, sống động của khu rừng

– Đàn ong: Nối nhau bay như chuỗi cườm, lướt trên những ngọn tràm cao.

– Bóng nắng lên, mặt trời tròn tuôn ánh sáng vàng rực : Trời chuyển sang trưa

– Gió thổi rao rao, chim hót líu lo.

– Mùi hương hoa tràm lan tỏa khắp rừng

– Mấy con kì nhông đổi màu

– Cái trảng rộng: gió thổi, các loài chim khác nhau bay lên.

* Câu chuyện lấy mật của má nuôi An:

– Rừng có bao nhiêu cây nhưng những người dân nơi đây luôn biết chính xác nơi ong sẽ đóng tổ

– Chọn vùng rừng tốt. đất ấm, cây dày, ít gió và ít khi có những dấu chân người để gác kèo 

– Quá trình gác kèo cũng cần kỹ lưỡng, cẩn thận từng chi tiết 

→ Sự tài giỏi, lành nghề của người “dân ăn ong” nơi đây.

3. Cách “thuần hóa” ong rừng khác biệt của người dân vùng U Minh.

* Sự khác biệt trong cách “thuần hóa” ong rừng của người dân vùng U Minh.

– Kèo ong rừng không phải có thể đặt ở bất cứ đâu

– So sánh: Những tổ ong rừng giống như trong sách vẽ

+ Người La Mã xưa: Nuôi ong trong những cái tổ bằng đồng hình chiếc vại.

+ Người Mễ Tây Cơ: Tổ ong bằn đất nung, treo lên cành cây

+ Người Ai Cập: Tổ ong bằng sành, hình ống dài, xếp lên nhau trên bãi cỏ

+ Người châu Phi: Đục ruỗng thân cây, vít kín hai đầu, treo lên bằng một đoạn dây nhỏ có mấu.

+ Xứ Tây Âu: Bện tổ ong bằng rơm đủ kiểu, hình thù khác nhau

→ Người U Minh có cách “thuần hóa” ong rừng vô cùng khác biệt: Tính toán, gác kèo để ong rừng tự bay về làm tổ

→ Cách lấy mật này đòi hỏi kinh nghiệm, mắt nhìn và đầu óc tính toán cực kì chi tiết, kỹ lưỡng của những “dân ăn ong” lành nghề, từng thất bại.

Giá Trị Tác Phẩm Đi Lấy Mật

Tìm hiểu những giá trị tác phẩm Đi lấy mật sau đây.

Giá trị nội dung

  • Đoạn trích “Đi lấy mật” kể về trải nghiệm đi lấy mật ong rừng của An cùng Cò và cha nuôi.
  • Trong hành trình này, phong cảnh rừng núi phương Nam được tác giả tái hiện vô cùng sinh động, huyền bí, hùng vĩ nhưng cũng rất thân thuộc, gắn liền với cuộc sống của người dân vùng U Minh.

Giá trị nghệ thuật

  • Cách kể chuyện hấp dẫn , lôi cuốn
  • Miêu tả chi tiết tính cách nhân vật qua lời nói và hành động
  • Nghệ thuật tả cảnh giàu tính hình tượng
  • Ngôi kể thứ nhất thể hiện rõ nét về sự tò mò của nhân vật An trong lần đầu đi lấy mật ong
  • Ngôn ngữ nhân vật giản dị, gần gũi đậm chất miền Tây Nam Bộ
  • Kết hợp tự sử, miêu tả và biểu cảm

Chia sẻ cho bạn đọc tác phẩm 🌻Đi Bộ Ngao Du🌻 Nội Dung, Nghệ Thuật

Soạn Bài Đi Lấy Mật

Ngay sau đây Thohay.vn chia sẻ gợi ý soạn bài Đi lấy mật.

👉Câu 1 (trang 24 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1): Đoạn trích có những nhân vật nào? Em hãy chỉ ra mối quan hệ giữa các nhân vật đó.

Trả lời:

– Bốn nhân vật xuất hiện trong đoạn trích là: An, Cò, tía nuôi và má nuôi.

– Mối quan hệ của bốn nhân vật trong đoạn trích là: An được ông lão bán rắn nhận làm con nuôi và là anh em của thằng Cò. An đã được sống trong một gia đình hạnh phúc và tràn đầy yêu thương.

👉Câu 2 (trang 24 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1):

Nêu cảm nhận về nhân vật tía nuôi của An. Cảm nhận của em dựa trên những chi tiết tiêu biểu nào?

Trả lời:

Tía nuôi của An là một người đàn ông từng trải và rất quan tâm đến những đứa con. Đưa các con vào rừng “ăn ong”, ông đi trước, mang theo những vật dụng cần thiết như túi, cái gù, chà gạc và dẫn đường cho chúng. Một người từng trải và nhiều kinh nghiệm đi rừng sẽ luôn đi trước để dẫn dắt. Bên cạnh đó, chi tiết ông nói các con nghỉ chân ăn cơm cho thấy ông là người cha quan tâm và yêu thương con. Tuy không cần quay lại nhìn nhưng chỉ cần nghe nhân vật “tôi” thở, ông cũng cảm nhận được cậu bé đang mệt, cần nghỉ ngơi.

👉Câu 3 (trang 24 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1):

Cảnh sắc thiên nhiên rừng U Minh được nhà văn tái hiện qua cái nhìn của ai? Em hãy nhận xét khả năng quan sát và cảm nhận về thiên nhiên của nhân vật ấy.

Trả lời:

Cảnh sắc thiên nhiên rừng U Minh được nhà văn tái hiện qua cái nhìn của cậu bé An. Cảnh sắc thiên nhiên của rừng U Minh hiện lên tràn đầy sức sống, có sự xuất hiện của các loài vật, loài cây cũng như những sự vật của thiên nhiên. Điểu này cho thấy khả năng quan sát và cảm nhận về thiên nhiên một cách tinh tế và sâu sắc của nhân vật cậu bé An.

👉Câu 4 (trang 24 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1):

Theo em, nhân vật Cò là một cậu bé sinh ra và lớn lên ở đâu? Điều gì khiến em khẳng định như vậy? 

Trả lời:

Theo em nhân vật Cò sinh ra và lớn lên ở núi rừng U Minh. Em khẳng định như vậy nhờ chi tiết nhân vật “tôi” suy nghĩ về thằng Cò “Cặp chân của nó như bộ giò nai, lội suốt ngày trong rừng còn chả mùi gì nữa là!”.

👉Câu 5 (trang 24 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1):

Nhân vật An đã được nhà văn miêu tả qua những chi tiết nào (ngoại hình, lời nói, hành động, suy nghĩ, cảm xúc, mối quan hệ với các nhân vật khác, …)? Em hãy dựa vào một số chi tiết tiêu biểu để khái quát đặc điểm tính cách của nhân vật An.

Trả lời:

Nhân vật An được nhà văn miêu tả qua những chi tiết:

– Hành động:

 +Chen vào giữa, quảy tòn ten một cái gùi bé mà má nuôi tôi đã bơi xuồng đi mượn. + Đảo mắt khắp nơi để tìm bầy ong mật.

+ Reo lên khi nhìn thấy bầy chim đẹp.

+ Ngước nhìn tổ ong như cái thúng.

– Suy nghĩ:

+ Về những lời má nuôi đã dạy mà không có trong sách giáo khoa.

+ Về thằng Cò: An nghĩ Cò chưa thấm mệt vì cặp chân như bộ giò nai, lội suốt ngày trong rừng còn chẳng thấy mùi.

+ Lặng im vì nghĩ rằng nếu hỏi gì thì bị khinh vì cái gì cũng không biết.

+ Nghĩ lại những lời má kể

 – Trạng thái, cảm xúc:

+ Mệt mỏi sau một quãng đường đi.

+ Vui vẻ reo lên và đúc kết ra những điều quý giá để có thể nhìn thấy được bầy ong mật.

– An có những quan sát và miêu tả rất tinh tế về khu rừng U Minh.

– An có mối quan hệ rất tốt với bá nuôi và tía nuôi, cậu bé luôn lăng nghe những lời chỉ bảo của mọi người. Tuy An với Cò rất hay cãi nhau, nghịch ngợm nhưng cũng đều là những người thân thiết, gắn bó.

An là một cậu bé nghịch ngợm nhưng lại ham học hỏi và khám phá. Cậu bé có những suy nghĩ, quan sát và rút ra được những bài học kinh nghiệm sâu sắc.

👉Câu 6 (trang 24 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1):

Đọc đoạn trích, em có ấn tượng như thế nào về con người và rừng phương Nam?

Trả lời:

Qua đoạn trích, cong người và núi rừng phương Nam để lại cho em ấn tượng vô cùng đặc biệt. Thiên nhiên núi rừng tràn đầy nhựa sống, hùng vĩ, hoang sơ. Con người chăm chỉ lao động và có nhiều kinh nghiệm với nghề…

Xem thêm bài viết đầy đủ 💌 Hai Cây Phong 💌 Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích

Giáo Án Đi Lấy Mật

Đừng bỏ lỡ nội dung giáo án Đi lấy mật.

ĐI LẤY MẬT

(Trích Đất rừng phương Nam – Đoàn Giỏi)

KHỞI ĐỘNG

Kể về một vùng đất em đã từng đến thăm, em có cảm nhận như thế nào về cảnh sắc thiên nhiên và con người vùng đất đó?

NỘI DUNG BÀI HỌC

  1. TÌM HIỂU CHUNG
  2. TÌM HIỂU CHI TIẾT
    1. Thiên nhiên, cuộc sống phương Nam
    2. Các nhân vật trong truyện
  • TỔNG KẾT

I. TÌM HIỂU CHUNG

  1. Tác giả Đoàn Giỏi

– Tên: Đoàn Giỏi

– Năm sinh – năm mất: 1925 – 1989

– Quê quán: Tiền Giang

– Đề tài: thiên nhiên, con người và cuộc sống miền đất phương Nam.

– Đặc trưng: Lối miêu tả vừa hiện thực vừa trữ tình, ngôn ngữ đậm màu sắc địa phương.

– Tác phẩm tiêu biểu: Đường về gia hương (1948), Cá bống mú (1956), Đất rừng phương Nam (1957)…

  1. Tác phẩm Đi lấy mật
  • Tác phẩm Đi lấy mật được trích từ tiểu thuyết Đất rừng phương Nam.
  • Ngôi kể: Ngôi thứ nhất.
  • Nhân vật: tía nuôi, An và Cò.
  • – Nội dung chính: kể về cuộc sống của cậu bé An vì chiến tranh mà lạc mất gia đình và trở thành một đứa trẻ lang thang. Cậu được bố mẹ Cò cưu mang và trở thành con nuôi của họ. Sống với gia đình Cò, An được yêu thương như con đẻ và cũng học hỏi được nhiều điều mới lạ.

II. TÌM HIỂU CHI TIẾT

  1. Thiên nhiên, cuộc sống phương Nam
  • Thiên nhiên được miêu tả trong không gian nào?
  • Tìm những chi tiết cho thấy sự thay đổi của thiên nhiên ở những thời điểm khác nhau trong ngày. Từ đó nêu cảm nhận của em về thiên nhiên?
  • Không gian: rừng tràm U Minh
  • Thời gian:
    • Buổi sáng: bình yên, trong vắt, mát lành.
    • Buổi trưa: tràn đầy ánh nắng, ngây ngất hương thơm hoa tràm, tiếng chim hót líu lo và hàng ngàn con chim bay lên;…

ð Vẻ đẹp đầy chất thơ, hoang dã của rừng U Minh, sức sống đa dạng của các loài sinh vật mang đến sự hấp dẫn, lôi cuốn người đọc.

  • Cảnh sắc thiên nhiên rừng U Minh được nhà văn tái hiện qua cái nhìn của ai?
  • Nhận xét khả năng quan sát và cảm nhận về thiên nhiên của nhân vật ấy?

– Cảnh sắc thiên nhiên được tái hiện qua cái nhìn của nhân vật An.

ð Khả năng quan sát tinh tế, trong sáng, biết phát hiện, cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên.

  1. Các nhân vật trong truyện

Nhân vật Tía nuôi

THẢO LUẬN CẶP ĐÔI

Tìm hiểu nhân vật tía nuôi của An, qua đó em có cảm nhận gì về nhân vật này?

– Hình dáng bên ngoàitoát lên vẻ đẹp của một người lao động từng trải, can đảm: vóc dáng khoẻ mạnh, vững chãi; cử chỉ mạnh mẽ, dứt khoát,…

– Lời nói, cách cư xử của ông với An:  thể hiện sự quan tâm, tình yêu thương dành cho cậu con nuôi.

– Ông gác kèo cho ong rừng làm tổ rất giỏi và bảo vệ đàn ong, trân trọng sự sống.

  • Ông là một người lao động dày dạn kinh nghiệm; tính cách mạnh mẽ; giàu lòng nhân hậu, yêu thương con người và thiên nhiên.

THẢO LUẬN NHÓM

Nhóm 1,3:

  • Cò đi rừng như thế nào?
  • Cò đã giảng giải cho An những gì?
  • Cò có những hiểu biết gì về sân chim, rừng U Minh?

Nhóm 2,4:

  • An cảm nhận như thế nào về tía má nuôi, về Cò? Chi tiết nào thể hiện điều đó?
  • An suy nghĩ gì khi nghe má nuôi kể về cách “ăn ong” của người dân U Minh?

Nhân vật Cò

  • Cò nhanh nhẹn, tháo vát, dẻo dai.
  • Cò hiểu biết rất rõ về sân chim, sự xuất hiện của ong mật, nơi ong làm tổ…
  • Cò là một cậu bé sinh ra và lớn lên ở đất rừng phương Nam nên có sự am hiểu và gắn bó với thiên nhiên.

Nhân vật An

  • An rất yêu quý tía, má nuôi, luôn nghĩ về họ với tình cảm gần gũi, thân thuộc, ấm áp.
  • Tính cách:

+ Giận hờn trẻ con nhưng luôn ngạc nhiên, ngưỡng mộ sự nhanh nhẹn, hiểu biết về rừng U Minh của Cò.

+ Thông minh, ham hiểu biết.

III. TỔNG KẾT

NỘI DUNG

Qua văn bản, đã thể hiện được vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên hoang sơ, kì thú, giàu có, đầy chất thơ và ấn tượng về con người phương Nam vừa gần gũi, bình dị vừa mạnh mẽ, phóng khoáng.

NGHỆ THUẬT

  • Miêu tả thiên nhiên đặc sắc.
  • Ngôn ngữ mang màu sắc Nam Bộ, thể hiện được tính cách, con người đậm chất phương Nam.

CUỘC ĐUA RỪNG XANH

Hôm nay, các muông thú trong rừng xanh tham gia tranh tài để chọn ra người giỏi nhất đứng đầu khu rừng. Em hãy chọn những con vật xuất sắc nhất để vào chung kết cuộc thi bằng cách trả lời các câu hỏi mà mỗi con vật đang cất giữ.

Câu 1. Tác giả của văn bản Đi lấy mật?

  1. Nguyễn Quang Thiều
  2. Đoàn Giỏi
  3. Võ Quảng
  4. Tô Hoài

Câu 2. Trong văn bản Đi lấy mậtkhông có nhân vật nào sau đây?

  1. Tía nuôi
  2. An
  3. Mên

Câu 3. Thời điểm được nhắc đến trong phần mở đầu văn bản là:

  1. Sáng sớm
  2. Buổi trưa
  3. Đầu giờ chiều
  4. Chiều tối

Câu 4. Theo văn bản, đây là lần đầu tiên An được theo tía nuôi và Cò đi đâu?

  1. Đi nuôi và lấy mật ong rừng
  2. Đi săn chim
  3. Đi kiếm củi trong rừng
  4. Cả A và B

Câu 5. Qua văn bản, con người phương Nam không hiện lên nét tính cách nào sau đây?

  1. Nhân hậu
  2. Gần gũi, giản dị
  3. Sắc sảo, lanh lợi
  4. Mạnh mẽ, phóng khoáng

VẬN DỤNG

Viết đoạn văn (khoảng 5 – 7 câu) trình bày cảm nhận của em về một chi tiết thú vị trong đoạn trích Đi lấy mật.

HƯỚNG DẪN VỀ NHÀ

Hoàn thành bài tập phần vận dụng.

Ôn tập lại văn bản Đi lấy mật.

Soạn bài: Thực hành tiếng việt

Sơ Đồ Tư Duy Đi Lấy Mật

Tiếp theo là các sơ đồ tư duy Đi lấy mật.

Sơ đồ tư duy Đi lấy mật dễ hiểu
Sơ đồ tư duy Đi lấy mật dễ hiểu
Sơ đồ tư duy Đi lấy mật đặc sắc
Sơ đồ tư duy Đi lấy mật đặc sắc

Khám phá thêm bài ⚡ Chiếc Lá Cuối Cùng ⚡ Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích

5 Mẫu Phân Tích Đi Lấy Mật Hay Nhất

Tổng hợp cho bạn đọc 5 mẫu phân tích Đi lấy mật hay nhất.

Phân Tích Đi Lấy Mật Đặc Sắc – Mẫu 1

Văn bản “Đi lấy mật” được trích trong tiểu thuyết Đất rừng phương Nam của nhà văn Đoàn Giỏi. Nổi bật trong đó là nhân vật cậu bé An đã để lại nhiều ấn tượng.

Nội dung của đoạn trích kể về một lần An và Cò theo người tía nuôi đi lấy mật. Trên đường đi, An cảm nhận được vẻ đẹp của núi rừng. Tía nuôi đi trước dẫn đường, An và Cò theo sau. Khi An thấy mệt, họ ngồi lại nghỉ ngơi, ăn trưa rồi mới tiếp tục hành trình. Lúc đó, Cò đã chỉ cho An cách xem đàn ong mật. Trên đường đi, họ tới một cái trảng rộng, nhìn thấy biết bao là chim.

An vô cùng thích thú, nhưng khi nghe Cò nói đến “sân chim”, cậu lại im lặng vì từ cái nghĩ nếu cái gì cũng hỏi thì Cò sẽ khinh mình dốt. Bắt gặp một kèo ong, An nhớ lại lời má nuôi dạy cách “thuần hóa” ong rất đặc biệt của người dân vùng U Minh.

An là nhân vật chính, cũng đóng vai là người kể chuyện. Cậu đã được nhà văn khắc họa qua nhiều phương diện khác nhau. Trong hành trình đi lấy mật cùng với tía nuôi và Cò, An đã có được một nhiều nghiệm thú vị.

Trước hết, An cũng giống như bao đứa trẻ khác, nghịch ngợm nên đã có những hành động như: “Chen vào giữa, quảy tòn ten một cái gùi bé”; “Đảo mắt khắp nơi để tìm bầy ong mật”; “Reo lên khi nhìn thấy bầy chim đẹp”; “Ngước nhìn tổ ong như cái thúng… ”. Qua những hành động này, có thể thấy An là một đứa trẻ khá hiếu động và nghịch ngợm.

Hồn nhiên là vậy nhưng An vẫn biết suy nghĩ, ham tìm hiểu. Cậu luôn nhớ về lời má nuôi dạy, về cách lấy mật, lời thằng Cò nói về cách xem ong, về sân chim. Khi nghe má nuôi dạy cách lấy mật, nếu không hiểu gì, An lại hỏi ngay: “Sao biết nó về cây này mà gác kèo”, “Kèo là gì, hở má?”, “Coi bộ cũng không khó lắm hở má?”, “Ủa, tại sao vậy má?”…

Bên cạnh đó, không chỉ tinh nghịch và ưa khám phá, cậu còn có con mắt quan sát thật tinh tế và sâu sắc.

Dưới con mắt của An, cảnh rừng U Minh hiện lên sống động và hoang sơ, trù phú: “Buổi sáng, đất rừng yên tĩnh”, còn “ánh sáng trong vắt, hơi gợn một chút óng ánh trên những đầu hoa tràm rung rung, khiến ta nhìn cái gì cũng giống như là nó bao qua một lớp thủy tinh”. Điều này cho thấy, An là một cậu bé có tinh tế, biết phát hiện ra những cái đẹp của thiên nhiên.

Có thể thấy rằng, cậu bé An hiện lên với vẻ hồn nhiên, trong sáng nhưng cũng rất ham học hỏi, tìm hiểu.

Phân Tích Đi Lấy Mật Tiêu Biểu – Mẫu 2

Đoạn trích “Đi lấy mật” được trích trong tiểu thuyết “Đất rừng phương Nam” của Đoàn Giỏi, kể về cuộc sống của cậu bé An, lấy bối cảnh là miền Tây Nam Bộ những năm 50 của thế kỉ XX. Vì chiến tranh, An bị lạc mất gia đình và trở thành một đứa trẻ lang thang.

Cậu được bố mẹ Cò cưu mang và trở thành con nuôi của họ. Sống với gia đình Cò, An được yêu thương như con đẻ và cũng học hỏi được nhiều điều mới lạ, thú vị. Qua đoạn trích “Đi lấy mật”, người đọc có dịp tham quan rừng U Minh và cảm nhận hai nhân vật An, Cò trong hành trình cùng cha nuôi đi lấy mật ong rừng đầy thú vị.

“Đi lấy mật” kể về một lần An cùng Cò và cha nuôi cùng nhau vào rừng U Minh đi lấy mật ong. Xuyên suốt đoạn trích là cảnh sắc đất rừng phương Nam được tác giả miêu tả hiện lên vô cùng sinh động, vừa bí ẩn, hùng vĩ, lại vừa thân thuộc, gắn liền với cuộc sống của người dân nơi đây qua những suy nghĩ của cậu bé An.

An là một cậu bé lanh lợi, yêu thiên nhiên và có những quan sát đầy tinh tế, mới mẻ. Khung cảnh thiên nhiên buổi sáng qua cái nhìn của nhân vật An cũng vì thế mà trở nên độc đáo, với không gian yên tĩnh, ánh sáng trong vắt, hơi gợn một chút óng ánh trên những đầu hoa tràm. Trời không gió, không khí mát lạnh bởi hơi nước sông ngòi, mương rạch, của đất ẩm và dưỡng khí thảo mộc thở ra từ bình minh.

Trong không gian ban mai đó, người tía hiện lên với những chi tiết như đi trước, dẫn đường cho An và Cò, đeo bên hông lủng lẳng chiếc túi, mang cái gùi bằng tre đan đã trát chai trên lưng và tay cầm chả gạc, vừa đi vừa phạt nhánh gai mở đường đi cho các con. An là một cậu bé lễ phép và ngoan ngoãn, thể hiện qua cách xưng hô với tía và má rất ôn hòa, lễ độ.

Những hành động của cậu với ba mẹ nuôi vô cùng lễ phép, thể hiện thái độ trân trọng, biết ơn. An cũng là một cậu bé ngoan ngoãn, ham học hỏi, khi liên tục hỏi tía, má những điều mà cậu còn thắc mắc hay vẫn muốn khám phá.

Đối với Cò, An coi cậu là một người bạn, vừa là anh em trong nhà, cách xưng hô mày-tao vừa thân quen, vừa gần gũi: “Chịu thua mày đó! Tao không thấy con ong mật đâu cả.” Khi đối diện với một người am hiểu vùng đất này như Cò, An luôn có thái độ tôn trọng, đôi lúc còn tự ái, không dám hỏi nhiều, âm thầm ghi nhớ những kinh nghiệm đã học được.

Tuy An thể hiện là một cậu bé khá trầm tĩnh và hiền lành, nhưng trong cậu có những suy nghĩ rất phong phú, bên cạnh việc cảm nhận tốt vẻ đẹp thiên nhiên, cậu còn có những cảm nhận, so sánh đặc biệt về cách nuôi ong và lấy mật từ khắp nơi trên thế giới, từ đó rút ra kết luận về sự đặc biệttrong cách “thuần hóa” ong rừng của người dân vùng U Minh.

Đối với nhân vật Cò, cậu bé này đối với An tuy cùng tuổi nhưng lại có tương đối nhiều điểm khác biệt. Cò là một cậu bé sinh ra và lớn lên ở vùng núi rừng U Minh. Hoàn toàn có thể khẳng định được như vậy là bởi cậu bé có những hiểu biết về rừng, về cách phân biệt nhiều loài ong, chim khác nhau.

Khác với An mệt mỏi phải dừng lại nghỉ, thì Cò đội trên đầu cái thủng to tướng đựng nhiều đồ đạc và thức ăn, cặp chân như giò nai, lội suốt ngày trong rừng cũng không biết mệt.

Mọi hành động đều cho thấy Cò là một cậu bé tinh nghịch, giàu năng lượng, lúc nghỉ ngơi, Cò bưng vò nước ra, ngửa cổ kề miệng uống ừng ực; hay thúc vào lưng An, trỏ lên trời và đố con ong mật ở đâu, rồi lại tự giảng giải cho An cách nhìn thấy bầy ong, đoán trước được chúng sẽ xuất hiện. Khi thấy An chịu thua câu đố, Cò đắc ý, vênh mặt tự tin về những hiểu biết của mình.

Cò giảng giải cho An cách để tìm thấy ong mật: “Cứ nhìn kĩ vào khoảng cách giữa hai nhánh tràm cao kia” “nhìn một chỗ trống ấy” “nó tới liền bây giờ”.

Qua đoạn trích, bên cạnh con người và núi rừng phương Nam để lại cho em ấn tượng vô cùng đặc biệt. Thiên nhiên núi rừng tràn đầy nhựa sống, hùng vĩ, hoang sơ. Con người chăm chỉ lao động và có nhiều kinh nghiệm với nghề… thì hai bạn nhỏ An và Cò cũng để lại nhiều ấn tượng đặc biệt. Cũng nhờ hai cậu bé, người đọc như được khám phá đất rừng phương Nam qua hai vị hướng dẫn viên đặc biệt.

Phân Tích Đi Lấy Mật Chọn Lọc – Mẫu 3

Tiểu thuyết “Đất rừng phương Nam” của nhà văn Đoàn Giỏi viết về cuộc đời phiêu bạt của cậu bé tên An. Bối cảnh của tiểu thuyết là miền Tây Nam Bộ, Việt Nam vào những năm 1945, sau khi thực dân Pháp quay trở lại xâm chiếm Nam Bộ.

Trong chương trình phổ thông, em được học đoạn trích “Đi lấy mật”, cũng chính là tên chương 9, kể lại một lần An theo tia nuôi (cha nuôi) và Cò đi lấy mật ong trong rừng U Minh. Bằng việc đọc hiểu đoạn trích này, em không chỉ cảm nhận được cảnh sắc đất rừng phương Nam đặc sắc, mà còn cảm nhận được những nét đặc biệt trong tính cách, hình dáng, cử chỉ của hai nhân vật An và Cò.

Văn bản Đi lấy mật kể về câu chuyện 3 cha con Cò An đi vào rừng lấy mật, qua đó tác giả bật mí cho chúng ta về cách làm tổ cho loài ong mật. Trong đoạn trích có 4 nhân vật gồm tía nuôi, má nuôi An, An và Cò, với mối quan hệ hết sức đặc biệt: Cò là con đẻ của tía má, An là con nuôi của tía má.

Vì chiến tranh, An bị lạc mất gia đình và trở thành một đứa trẻ lang thang. Cậu được bố mẹ Cò cưu mang và trở thành con nuôi của họ. Sống với gia đình Cò, An được yêu thương như con đẻ và cũng học hỏi được nhiều điều mới lạ, thú vị.

An là một cậu bé thông minh với những hiểu biết, cảm nhận vô cùng tinh tế. Qua cái nhìn của nhân vật An, khung cảnh thiên nhiên của rừng U Minh được hiện lên tràn đầy nhựa sống, có sự kết hợp giữa vẻ đẹp của các loài vật, loài cây cũng như những sự vật của thiên nhiên như trời, ánh sáng, đầu hoa tràm, sông ngòi…khiến ta nhìn cái gì cũng có cảm giác như là nó bao qua một lớp thủy tinh. Điều đó cho thấy khả năng quan sát và cảm nhận về thiên nhiên của nhân vật An vô cùng tinh tế và sâu sắc.

Cũng từ quan sát của An, tía nuôi hiện lên là một người cha chu đáo, tận tình, qua tâm đến con từ những chi tiết nhỏ. Ông thậm chí nghe tiếng thở của An để nhận ra con đang mệt, ra hiệu cho các con dừng lại nghỉ ngơi, ăn uống, trên đường đi thì phát quang những bụi gai để mở đường cho các con theo sau.

Đáp lại tình cảm của tía, má nuôi, An cũng là một cậu bé ngoan ngoãn, lễ độ, cậu bé lắng nghe và lễ phép với cha mẹ. Từ đó, An cũng học được rất nhiều bài học kinh nghiệm quý báu từ cả tía và má. Má nuôi An có dặn dò và chỉ An cách nhận biết được bầy ong, lấy mật bằng cách quan sát nhành cây, hướng gió, tính trước đường bay của ong mật.

Khác với sự hiền lành của An, Cò lại là một cậu bé sinh ra và lớn lên ở núi rừng U Minh. Cũng vì là người dân bản địa, Cò vô cùng nhanh nhẹn, lanh lợi, hoạt bát. Lợi thế này cũng giúp cho Cò “lên mặt” với cậu bạn cùng nhà An ít nhiều lần.

Cùng đi vào rừng lấy mật, nhưng Cò giàu năng lượng và mạnh mẽ hơn An khá nhiều, cậu bé đội cái thủng to tướng đựng nhiều đồ đạc và thức ăn, cặp chân như giò nai, lội suốt ngày trong rừng cũng không biết mệt.

Khi dừng lại nghỉ, Cò bưng vò nước ra, ngửa cổ kề miệng uống ừng ực, lúc thì thúc vào lưng An, trỏ lên trời và đố con ong mật ở đâu, giảng giải cho An cách nhìn thấy bầy ong, đoán trước được chúng sẽ xuất hiện… Tất cả những miêu tả của tác giả đều giúp người đọc hình dung ra một cậu bé thuộc về U Minh, sinh ra tại đất rừng phương Nam nên cậu biết rõ nơi đây như lòng mình vậy.

Từ câu chuyện của mẹ, cậu bé An bộc lộ những hiểu biết của mình về cách lấy mật, nuôi ong ở khắp nơi trên thế giới.

Nếu người La Mã xưa nuôi ong trong những cái tổ bằng đồng hình chiếc vại, người Mễ Tây Cơ xây tổ ong bằn đất nung, treo lên cành cây, người Ai Cập làm tổ ong bằng sành, hình ống dài, xếp lên nhau trên bãi cỏ, ở châu Phi người ta đục ruỗng thân cây, vít kín hai đầu, treo lên bằng một đoạn dây nhỏ có mấu, Xứ Tây Âu bện tổ ong bằng rơm đủ kiểu, hình thù khác nhau… thì người U Minh có cách “thuần hóa” ong rừng vô cùng khác biệt: Tính toán, gác kèo để ong rừng tự bay về làm tổ, quá trình gác kèo cũng cần kỹ lưỡng, cẩn thận từng chi tiết.

Cách lấy mật này đòi hỏi kinh nghiệm, mắt nhìn và đầu óc tính toán cực kì chi tiết, kỹ lưỡng của những “dân ăn ong” lành nghề, từng thất bại. Tất cả những chi tiết từ câu chuyện của mẹ đã cho ta thấy An là một cậu bé ngoan ngoãn, ham học hỏi, thích quan sát và yêu thiên nhiên.

Cả hai cậu bé An và Cò đều có nhiều nét đặc biệt, thú vị trong ngoại hình, cử chỉ, tích cách. Dẫu vậy, khi đồng hành cùng An và Cò trong hành trình “đi lấy mật”, người đọc như được tham quan, trải nghiệm đất rừng U Minh đẹp diệu kì với hai vị “hướng dẫn viên” đặc biệt.

Phân Tích Đi Lấy Mật Ấn Tượng – Mẫu 4

Đất rừng phương nam là một cuốn tiểu thuyết của nhà văn Đoàn Giỏi viết về cuộc đời của một cậu bé tên An. Bối cảnh của tiểu thuyết là các tỉnh Tây Nam, Việt Nam vào năm 1945, sau khi thực dân Pháp trở về xâm chiếm miền Nam.​

Trong chuyến lưu lạc của mình An đã được gặp và tiếp xúc với nhiều người, trong đó phải kể đến tía, má nuôi và Cò. Trong đoạn trích từ chương 9, “Đi lấy mật” là hành trình vào rừng lấy mật, “ăn ong” của ba cha con, hai nhân vật An và Cò đã đưa người đọc tới những trải nghiệm thú vị nơi đất rừng U Minh.

Đoạn trích “Đi lấy mật” kể về trải nghiệm đi lấy mật ong rừng của An cùng Cò và cha nuôi. Trong hành trình này, phong cảnh rừng núi phương Nam được tác giả tái hiện vô cùng sinh động, huyền bí, hùng vĩ nhưng cũng rất thân thuộc, gắn liền với cuộc sống của người dân vùng U Minh.

Câu chuyện được kể theo ngôi thứ nhất, người kể chính là nhân vật An, cậu bé xưng “tôi” giúp cho lời kể tự nhiên, chân thực. Cũng nhờ đó, khung cảnh thiên nhiên của rừng U Minh được hiện lên tràn đầy nhựa sống, có sự kết hợp giữa vẻ đẹp của các loài vật, loài cây cũng như những sự vật của thiên nhiên như trời, ánh sáng, đầu hoa tràm, sông ngòi…khiến ta nhìn cái gì cũng có cảm giác như là nó bao qua một lớp thủy tinh.

Tác phẩm đã tái hiện một vẻ đẹp trù phú, sống động vô cùng của núi rừng, là cả một đất trời thiên nhiên ưu đãi, cánh đồng bát ngát mênh mông, sóng nước rì rầm, rừng rậm bạt ngàn trù phú, thú rừng hoang dã muôn loài… Điều đó cho thấy khả năng quan sát và cảm nhận về thiên nhiên của nhân vật An vô cùng tinh tế và sâu sắc.

Trong mắt An, tía nuôi của mình hiện lên là một người cha luôn yêu thương và quan tâm con cái, không cần quay lại, chỉ cần nghe “tôi” thở thôi cũng cảm nhận được cậu đang mệt và cần được nghỉ ngơi. Tía đi trước hai anh em, Bên hông lủng lẳng chiếc túi […], lưng mang cái gùi bằng tre đan đã trát chai, tay cầm chà gạc.

Lâu lâu, ông vung tay lên một cái, đưa con dao rừng rất sắc phạt ngang một nhánh gai và dùng cái mẩu cong ở đầu lưỡi dao dài có đến sáu bảy tấc ấy lôi phăng nhánh gai chắn đường đứt ra một bên để lấy lối đi. Trong lúc chỉ An về phía cây có con ong mật, tía nuôi đang âm thầm truyền dạy cho con những kinh nghiệm quý báu trong công việc.

Bên cạnh người tía nuôi ấm áp, An cũng có những suy nghĩ, quan sát về người bạn đồng hành của mình – Cò. Cò là một cậu bé sinh ra và thuộc về vùng đất U Minh này, nên cậu bé vô cùng lanh lợi, nhanh nhẹn, lém lỉnh. An miêu tả “thằng Cò” đội cái thúng to tướng, trong thúng đựng một vò nước, mấy gói cơm nắm và cái áo ướt mồ hôi nó vừa cởi ra cuộn lại, trên thúng úp chiếc nón lá rách.

Tuy đội thúng to, nhưng cặp chân của “nó” như bộ giò nai, đên mức “lội suốt ngày trong rừng còn chả mùi gì nữa là!” Dường như Cò không hề mệt mỏi, cậu bé đã quá quen với địa hình nơi này, cũng đã đi rừng cùng cha rất nhiều lần, Cò giàu năng lượng và yêu công việc này cùng tía.

Cò là cậu bé tự tin, lém lỉnh. Cậu bé rất thích thú khi thể hiện sự hiểu biết vượt trội của mình với một người mới đi rừng như An. Việc này thể hiện ở chi tiết Cò liên tục đặt ra những câu đố, những lần cậu bé vênh mặt khi An chịu thua, tỏ ra bình thản khi An reo lên khi nhìn thấy bầy chim đẹp mắt…

Tưởng chừng sự tự tin này khiến Cò trở thành một cậu bé tự đắc, nhưng ngược lại, Cò hiện lên là một nhân vật nhanh nhẹn và có nét đáng yêu riêng. Cậu bé giảng giải cho An cách để tìm thấy ong mật: “Cứ nhìn kĩ vào khoảng cách giữa hai nhánh tràm cao kia” “nhìn một chỗ trống ấy” “nó tới liền bây giờ”. Tuy An với Cò rất hay cãi nhau, nghịch ngợm nhưng cũng đều là những người thân thiết, gắn bó.

Nếu An là một cậu bé ngoan ngoãn, ham học hỏi và khám phá, thường có những suy nghĩ, quan sát và rút ra được những bài học kinh nghiệm sâu sắc…thì Cò lại là một cậu bé lanh lợi, thạo việc, giàu năng lượng và ấm áp. Cả hai nhân vật này đều mang lại cho người đọc những cảm giác dễ chịu, thú vị khi đồng hành cùng đoạn trích “Đi lấy mật”, học hỏi thêm những kinh nghiệm đặc biệt trong lao động của người dân nơi đây.

Phân Tích Đi Lấy Mật Nổi Bật – Mẫu 5

Tiểu thuyết “Đất rừng phương Nam” là một trong những sáng tác tiêu biểu của nhà văn Đoàn Giỏi. Bên cạnh An và người tía nuôi, nhân vật Cò được tác giả khắc họa với những đặc điểm và vẻ đẹp nổi bật trong đoạn trích “Đi lấy mật”.

Thông qua những lời miêu tả của An, Cò hiện lên với vẻ khỏe mạnh của một người chuyên đi rừng. Khác với An, Cò sinh ra và lớn lên ở vùng núi U Minh. Chính vì vậy, việc đội cái thúng to tướng lỉnh kỉnh bao nhiêu đồ không hề làm khó cậu. Trong khi An đã thấm mệt thì Cò chẳng thấm tháp gì.

Cò có đôi chân khỏe, dẻo dai như “bộ giò nai”, lội suốt ngày trong rừng. Cậu rất giàu năng lượng và vô cùng khỏe khoắn, điều đó được thể hiện qua hành động “bưng vò nước ra, ngửa cổ kề miệng vào vò nước uống ừng ực” rồi thúc vào lưng An mà hỏi “Đố mày biết con ong mật là con nào?”. Ở Cò, tuy còn nhỏ tuổi nhưng dáng vẻ và hành động ấy cho thấy cậu sẽ là một người “băng rừng lội suối” giỏi trong tương lai.

Nổi bật hơn cả là tình yêu thiên nhiên và tài quan sát tỉ mỉ của cậu trong cuộc trò chuyện với An. Thấy An lúng túng trước câu hỏi của mình, Cò khoái chí “vênh mặt lên cười” rồi từ tốn giải thích cho An. Cuối cùng, An rất bất ngờ trước khả năng quan sát tinh tường của Cò khi cậu đã đoán trúng kèo gác ong. Có thể nói, Cò là người hiểu biết về rừng và có thể phân biệt nhiều loài động vật khác nhau.

Cò hiện lên chân thực qua lời kể của An, đặc điểm nhân vật được thể hiện rõ nét ở lời nói và hành động. Ngôn từ được sử dụng trong văn bản trong sáng, giản dị, hình ảnh gần gũi, quen thuộc đã góp phần tô đậm dáng vẻ của Cò.

Có thể nói, nhà văn đã miêu tả thành công nhân vật Cò – hình ảnh con người Nam Bộ gắn bó sâu sắc với tự nhiên. Hình tượng nhân vật Cò sẽ luôn ghi dấu trong lòng người đọc bởi nét hồn hậu, chất phác của con người phương Nam.

Viết một bình luận