Bài Ca Ngắn Đi Trên Bãi Cát [Nội Dung + Nghệ Thuật + Phân Tích]

Bài Ca Ngắn Đi Trên Bãi Cát ❤️️ Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích ✅ Tổng Hợp Những Sơ Đồ Tư Duy, Bố Cục, Dàn Ý, Ý Nghĩa Nhan Đề.

Nội Dung Bài Thơ Bài Ca Ngắn Đi Trên Bãi Cát

Thơ văn của Cao Bá Quát bộc lộ thái độ phê phán mạnh mẽ chế độ phong kiến trì trệ, bảo thủ và chứa đựng tư tưởng khai sáng, phản ánh nhu cầu đổi mới của xã hội Việt Nam trong giai đoạn giữa thế kỉ XIX. Bài ca ngắn đi trên bãi cát là một trong những tác phẩm như vậy. Sau đây là Nội Dung Bài Thơ Bài Ca Ngắn Đi Trên Bãi Cát.

Bài ca ngắn đi trên bãi cát
Tác giả: Cao Bá Quát

Phiên âm

Trường sa phục trường sa
Nhất bộ nhất hồi khước.
Nhật nhập hành vị dĩ,
Khách tử lệ giao lạc.
Quân bất học tiên gia mỹ thụy ông,
Đăng sơn thiệp thuỷ oán hà cùng.
Cổ lại danh lợi nhân,
Bôn tẩu lộ đồ trung.
Phong tiền tửu điếm hữu mỹ tửu,
Tỉnh giả thường thiểu, tuý giá đồng.
Trường sa, trường sa, nại cử hà?
Thản lộ mang mang úy lộ đa.
Thính ngã nhất xướng cùng đồ ca.
Bắc sơn chi bắc, sơn vạn điệp,
Nam sơn chi nam, ba vạn cấp,
Quân hồ vi hồ sa thượng lập?

Dịch nghĩa

Bãi cát dài, lại bãi cát dài
Đi một bước như lùi một bước.
Mặt trời lặn mà vẫn còn đi.
Khách (trên đường) nước mắt lã chã rơi.
Anh không học được ông tiên có phép ngủ kĩ
Cứ trèo non lội nước mãi, bao giờ cho hết ta oán!
Xưa nay hạng người danh lợi,
Vẫn tất tả ở ngoài đường sá.
(Hễ) quán rượu ở đầu gió có rượu ngon,
(Thì) người tình thường ít mà người say vô số!
Bãi cát dài, bãi cát dài, biết tính sao đây?
Bước đường bằng phẳng thì mờ mịt, bước đường ghê sợ thì nhiều
Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng”,
Phía bắc núi Bắc núi muôn trùng,
Phía nam núi Nam sống muôn đợt.
Anh còn đứng làm chi trên bãi cát?

Dịch thơ

Bãi cát dài lại bãi cát dài,
Đi một bước như lùi một bước.
Mặt trời đã lặn, chưa dùng được,
Lữ khách trên đường nước mắt rơi.
Không học được tiên ông phép ngủ,
Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!
Xưa nay, phường danh lợi,
Tất tả trên đường đời.
Đầu gió hơi men thơm quán rượu,
Người say vô số, tỉnh bao người?
Bãi cát, bãi cát dài ơi!
Tính sao đây?
Đường bằng mờ mịt,
Đường ghê sợ còn nhiều, đầu ít?
Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng”,
Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng,
Phía nam núi Nam, sóng dào dạt.
Anh đứng làm chi trên bãi cát?

Có thể bạn sẽ cần 🌿Bài Ca Ngất Ngưởng🌿 Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị Nghệ Thuật 

Về Nhà Thơ Cao Bá Quát

Xem thêm một vài thông tin chính Về Nhà Thơ Cao Bá Quát.

  • Cao Bá Quát (1809?- 1855) tự là Chu Thần, hiệu là Cúc Đường, Mẫn Hiên
  • Quê tại Phú thị- Gia Lâm- tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc Long Biên – Hà Nội)
  • Cao Bá Quát là một nhà thơ có tài năng và bản lĩnh, được người đương thời tôn là Thánh Quát (Thần Siêu, Thánh Quát).
  • Thơ ông bộc lộ sự phê phán mạnh mẽ chế độ phong kiến, chứa đựng tư tưởng khai sáng có tính chất tự phát.
  • Ngay sau khi cuộc nổi dậy ở Mỹ Lương (tỉnh Sơn Tây) bị thất bại (1855-1856), các tác phẩm của Cao Bá Quát đã bị triều đình nhà Nguyễn cho thu đốt, cấm tàng trữ và lưu hành, nên đã bị thất lạc không ít.
  • Hiện còn 1353 bài thơ và 21 bài văn xuôi, gồm 11 bài viết theo thể ký hoặc luận văn và 10 truyện ngắn viết theo thể truyền kỳ.
  • Về chữ Nôm, có một số bài hát nói, thơ Đường luật và bài phú Tài tử đa cùng (Bậc tài tử lắm cảnh khốn cùng). Về chữ Hán, khối lượng thơ nhiều hơn, được tập hợp trong các tập: Cao Bá Quát thi tậpCao Chu Thần di thảoCao Chu Thần thi tậpMẫn Hiên thi tập.

Mời bạn đọc xem thêm tác phẩm🌻Vịnh Khoa Thi Hương🌻 Sơ Đồ Tư Duy, Các Bài Phân Tích Hay

Về Tác Phẩm Bài Ca Ngắn Đi Trên Bãi Cát

Về Tác Phẩm Bài Ca Ngắn Đi Trên Bãi Cát, bài thơ viết theo thể hành (còn gọi là ca hành). Đây là một thể thơ cổ, có tính chất tự do phóng khoáng, không bị gò bó về số câu, độ dài của câu, niêm luật, bằng trắc, vần điệu.

“Bài ca ngắn đi trên bãi cát” được sáng tác trong quá trình Cao Bá Quát lên kinh dự thi Hội, khi đi qua các tỉnh miền Trung đầy cát trắng. Với chủ đề thể hiện sự chán ghét đối với con đường danh lợi tầm thường và niềm khát khao thay đổi cuộc sống.

Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Ca Ngắn Đi Trên Bãi Cát

Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Ca Ngắn Đi Trên Bãi Cát như sau:

Hoàn cảnh sáng tác bài thơ khi Cao Bá Quát đỗ cử nhân năm 1831 tại trường thi Hà Nội. Sau đó nhiều lần ông vào kinh đô Huế đi thi nhưng không đỗ. “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” có thể được hình thành trong những lần Cao Bá Quát đi thi hội ấy, qua các tỉnh miền Trung đầy cát trắng như Quảng Bình, Quảng Trị.

Nhưng lại có ý kiến của giáo sư Vũ Khiêm cho rằng bài thơ này được sáng tác khi họ Cao làm quan cho nhà Nguyễn và bắt đầu cảm thấy chán nản, bế tắc. Dù là sáng tác trong hoàn cảnh nào thì ta cũng thấy hiện lên trong bài thơ là hình ảnh của một con người chán chường, thất vọng, không tìm ra lối thoát trong cuộc đời.

Có thể bạn sẽ cần tác phẩm 🌷Thương Vợ [Tú Xương] 🌷 đầy đủ nhất

Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Ca Ngắn Đi Trên Bãi Cát

Xem thông tin Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Ca Ngắn Đi Trên Bãi Cát bên dưới.

Nhan đề “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” mang đến cho người đọc hình dung đến một cuộc hành trình đi qua bài cát dài với nhiều thử thách. Đó là con đường đầy khó khăn mà con người phải vượt qua để đi đến đích.

Nhan đề này góp phần nào bày tỏ rằng muốn tìm được cân lí, tìm được cái đích thực có ý nghĩa cho cuộc đời, con người ta phải trải qua vô vàn khó khăn, nhọc nhằn, thử thách.

Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật Của Bài Ca Ngắn Đi Trên Bãi Cát

Cùng Thohay.vn tìm hiểu những Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật Của Bài Ca Ngắn Đi Trên Bãi Cát sau đây.

Giá trị nội dung

  • Sự chán ghét của Cao Bá Quát đối với con đường mưu cầu danh lợi tầm thường của hầu hết những con người trong xã hội đương thời. Gần như ai cũng bị ràng buộc bởi vòng luẩn quẩn của danh lợi, của tiền tài, kể cả chính ông cũng buộc lòng phải theo đuổi.
  • Niềm khao khát đến mãnh liệt được đổi mới cuộc sống, được phá tung nhưng rào cản, lễ giáo phong kiến trong hoàn cảnh xã hội nhà Nguyễn bảo thủ, trì trệ. Qua đó, ta cũng thấy được khí phách hiên ngang của Cao Bá Quát – một con người có ý chí, có khát khao và hoài bão lớn.

Giá trị nghệ thuật

  • Tác giả sử dụng thể hành (thể thơ cổ), có tính chất tự do, phóng khoáng, không bị gò bó về số câu, độ dài của câu, niêm luật, bằng trắc, vần điệu.
  • Hình ảnh biểu tượng giàu ý nghĩa: Bãi cát dài, người say – tỉnh,…
  • Sử dụng bút pháp đối lập nhuần nguyễn, sáng tạo trong việc dùng điển tích, điển cố

Chia sẻ bạn đọc tác phẩm🌿Thu Vịnh [Nguyễn Khuyến]🌿 Nội Dung, Giá Trị Nghệ Thuật 

Bố Cục Bài Ca Ngắn Đi Trên Bãi Cát

Bố Cục Bài Ca Ngắn Đi Trên Bãi Cát gồm 3 phần chính:

  • Phần 1 (4 câu đầu): Hình ảnh đi trên bãi cát dài bất tận và hình ảnh lữ khách.
  • Phần 2 (6 câu tiếp theo): Tâm trạng suy tư của lữ khách.
  • Phần 3 (còn lại): Sự bế tắc của lữ khách trước con đường trắc trở phía trước.

Dàn Ý Bài Ca Ngắn Đi Trên Bãi Cát

Sau đây là Dàn Ý Bài Ca Ngắn Đi Trên Bãi Cát hay nhất.

I. Mở bài:

– Những nét chính về tác giả Cao Bá Quát: Một tác giả trung đại có cuộc đời bất hạnh nhưng hào hùng. Ông mang đến thơ văn sự độc đáo mới mẻ theo hướng bám sát hiện thực.

– Giới thiệu Bài ca ngắn đi trên bãi cát: được sáng tác trên đường tác giả đi thi Hội. Bài thơ thể hiện tâm tư của một sĩ tử trên đường danh lợi.

II. Thân bài:

1. Bốn câu đầu

– Tiếng khóc cho cuộc đời dâu bể.

  • “Bãi cát dài lại bãi cát dài”: Điệp từ gợi lên hình ảnh những bãi cát nối tiếp nhau đến vô tận. ⇒ Hình ảnh bãi cát dài mênh mông, nối tiếp nhau tượng trưng cho môi trường xã hội, con đường đời đầy chông gai, gian khổ, nhọc nhằn.
  • “Đi một bước lùi một bước”: sự vất vả, khó nhọc của người đi đường, đây vừa là cảnh thực vừa là tượng trưng cho con đường công danh gập ghềnh của tác giả.
  • “Mặt trời đã lặn chưa dừng được”: Mặt trời lặn mà vẫn còn đi, nước mắt rơi lã chã, tâm trạng đau khổ.
  • “Lữ khách trên đường nước mắt rơi”: Cảnh tượng một người đi trong không gian mù mịt, mênh mông, khó xác định được phương hướng.

⇒ Hình ảnh bãi cát dài mênh mông, nối tiếp nhau, hình ảnh con đường như bất tận, mờ mịt, tình cảnh của người đi đường khó khăn, bất lợi.

⇒ Nhà thơ nhìn thấy con đường danh lợi đáng buồn, đầy chông gai

2. Tám câu tiếp

– “Không học …lội suối, giận khôn vơi!”: sử dụng điển tích, tác giả giận mình vì không có khả năng như Hạ Hầu Ấn có thể nhắm mắt mà vẫn bước đều khi leo suối, lội nước ⇒ oán giận con đường công danh.

– “Xưa nay… đường đời”: sự cám dỗ của cái bả công danh đối với người đời, danh lợi khiến con người “tất tả”.

⇒ sự chán ghét, khinh bỉ của Cao Bá Quát đối với danh lợi, ông không muốn sa vào con đường ấy, nhưng vẫn chưa tìm ra hướng đi khác cho mình,

– “Đầu gió … tỉnh bao người”: chuyện mưu cầu danh lợi cũng hấp dẫn như thưởng thức rượu ngon, làm say người, ít ai có thể tránh được sự cám dỗ. ⇒ ông nhận ra sự cám dỗ của danh lợi đối với con người.

– “Bãi cát dài…nhiều, đâu ít?”: Nhận ra sự cám dỗ công danh, nhà thơ như trách móc, giận dữ nhưng cũng chính đang tự hỏi bản thân. Ông nhận ra tính chất vô nghĩa của lối khoa cử đương thời nhưng cũng vẫn đang bước trên con đường ấy ⇒ Tâm trạng băn khoăn, day dứt, bế tắc, bước trên con đường công danh thì mù mịt mà “đường ghê sợ” thì nhiều không ít.

– “Khúc đường cùng”: nghĩa biểu tượng, đây là bài ca về con đường cùng của chính tác giả, về sự bế tắc, tuyệt vọng của mình trước cuộc đời.

3. Ba câu cuối

Phía Bắc núi Bắc núi muôn trùng
Phía Nam núi Nam sóng dào dạt”

+ Tả thực: khung cảnh gợi cảm giác ngột ngạt, bó buộc.

⇒ Thiên nhiên phía Bắc, phía Nam đều đẹp hùng vĩ nhưng cũng đầy khó khăn hiểm trở, đi mà chỉ thấy phía trước là núi là biển mênh mông mịt mờ.

+ Biểu tượng cho ý niệm: cuộc đời bế tắc, ngột ngạt.

⇒ Nghĩa ẩn dụ, tượng trưng: con đường đời đầy chông gai mà kẻ sĩ như Cao Bá Quát phải dấn thân để mưu cầu công danh.

– “Anh còn đứng làm chi trên bãi cát”: tiếng kêu bi phẫn, bế tắc, tuyệt vọng.

⇒ Tư thế dừng lại nhìn bốn phía mà hỏi vọng lên trời cao, lại hỏi chính lòng mình thể hiện khối mâu thuẫn lớn đang đè nặng trong tâm trí nhà thơ.

4. Nghệ thuật

– Sử dụng thơ cổ thể, hình ảnh có tính biểu tượng.

– Thủ pháp đối lập, sáng tạo trong dùng điển tích.

III. Kết bài:

– Khẳng định lại những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật.

– Khúc bi ca mang đậm tính nhân văn của một con người cô đơn, tuyệt vọng trên đường đời thể hiện qua hình ảnh bãi cát dài, con đường cùng và hình ảnh người đi cùng.

Đừng vội bỏ lỡ phân tích tác phẩm🌱 Câu Cá Mùa Thu 🌱 Nội Dung, Nghệ Thuật 

Sơ Đồ Tư Duy Bài Ca Ngắn Đi Trên Bãi Cát

Nhất định đừng bỏ qua các Sơ Đồ Tư Duy Bài Ca Ngắn Đi Trên Bãi Cát sau đây.

Sơ Đồ Tư Duy Bài Ca Ngắn Đi Trên Bãi Cát Đơn Giản
Sơ Đồ Tư Duy Bài Ca Ngắn Đi Trên Bãi Cát Đơn Giản
Sơ Đồ Tư Duy Bài Ca Ngắn Đi Trên Bãi Cát Đầy Đủ
Sơ Đồ Tư Duy Bài Ca Ngắn Đi Trên Bãi Cát Đầy Đủ
Sơ Đồ Tư Duy Bài Ca Ngắn Đi Trên Bãi Cát Sinh Động
Sơ Đồ Tư Duy Bài Ca Ngắn Đi Trên Bãi Cát Sinh Động
Sơ Đồ Tư Duy Bài Ca Ngắn Đi Trên Bãi Cát Viết Tay
Sơ Đồ Tư Duy Bài Ca Ngắn Đi Trên Bãi Cát Viết Tay

Mời bạn đón đọc 💚 Tự Tình [Hồ Xuân Hương]💚 Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật

5 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Bài Ca Ngắn Đi Trên Bãi Cát Hay Nhất

Cuối cùng là 5 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Bài Ca Ngắn Đi Trên Bãi Cát Hay Nhất mà Thohay.vn tổng hợp cho bạn đọc.

Phân Tích Bài Thơ Bài Ca Ngắn Đi Trên Bãi Cát Hay Nhất – Mẫu 1

Cao Bá Quát là người học rộng, tài cao, bản lĩnh, ông được người đời mệnh danh là Thánh Quát (Thần Siêu, Thánh Quát). Thơ văn của ông bộc lộ thái độ phê phán mạnh mẽ chế độ phong kiến trì trệ, bảo thủ, và mong muốn đổi mới xã hội. Tác phẩm Bài ca ngắn đi trên bãi cát là một trong những sáng tác thể hiện tâm trạng của ông trước thực trạng xã hội đương thời.

Bài ca ngắn đi trên bãi cát có thể được hình thành trong những lần Cao Bá Quát đi thi hội, phải đi qua những sa mạc đầy nắng gió, bởi vậy ông đã viết bài thơ này. Mượn hình ảnh những người đi trên bãi cát để hình dung con đường mưu cầu danh lợi đáng ghét mà ông buộc phải theo đuổi. Mở đầu bài thơ là hình ảnh những bãi cát dài nối tiếp nhau:

Bãi cát dài lại bãi cát dài
Đi một bước như lùi một bước

Từ “bãi cát” được lặp lại hai lần, kết hợp với từ “lại” gợi ra trước mắt người đọc không gian hoang vu, tít tắp không có điểm dừng. Không gian ấy rộng lớn, như nuốt chửng người bộ hành cô đơn giữa sa mạc. Bãi cát ấy bị bao quanh bởi “Bắc sơn chi bắc sơn vạn điệp/ Nam sơn chi nam ba vạn cấp” con đường đó bị bao quanh bởi núi muôn trùng, sóng muôn đợt, đó là con đường tù túng, không lối thoát.

Hành trình càng trở nên khó khăn vất vả hơn khi tiến một bước lại như lùi một bước. “Mặt trời đã lặn chưa dừng được” bởi hành trình đó quá xa xôi, quá nhiều thử thách khiến cho người bộ hành không dám dừng chân lấy một phút dù cả khi mặt trời đã xuống núi, muôn loài đã vào trạng thái nghỉ ngơi.

Trong hành trình đầy cực khổ, vất vả lại không thể nhìn thấy đích tới, tất yếu tâm trạng của người bộ hành sẽ cảm thấy vô cùng mệt mỏi, bải hoải: Lữ khách trên đường nước mắt.

Hình ảnh người lữ khách trên đường tủi cực, chán nản cũng chính là hình ảnh của tác giả và các trí thức đương thời trước thực tại xã hội đầy nhiễu nhương, rối ren lúc bấy giờ. Bởi vậy mà con đường theo đuổi công danh, hoạn lộ cũng gặp nhiều trắc trở, khó khăn hơn. Để từ đó Cao Bá Quát có những nhận thức về việc theo đuổi công danh:

Xưa nay, phường danh lợi
Tất tả trên đường đời.
Đầu quán hơi men thơm quán rượu,
Người say vô số, tỉnh bao người?

Ông đồng nhất công danh với danh lợi, cách đồng nhất như vậy cho thấy thái độ mỉa mai, coi thường theo quan điểm của một nhà nho chân chính. Công danh vốn là cái nợ mà người làm trai phải trả đối với non sông, đất nước: “Đã làm trai ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông”.

Nhưng thực trạng xã hội đương thời nhiễu loạn, rối ren thì chí làm trai đó đâu có cơ hội để thực hiện, mộng công danh của những người quân tử bị vùi lấp, phường danh lợi đua chen tất tả, thắng thế. Đây cũng chính là nỗi đau của biết bao thế hệ nho sĩ trong thời buổi đất nước loạn lạc.

Nhưng không ít người bị hơi men công danh làm cho chếnh choáng, không tỉnh táo, không ý thức được những việc mình đang làm. Câu hỏi tu từ “tỉnh bao người” vừa bộc lộ thái độ phê phán, vừa thể hiện sự đau xót của người trí thức chân chính trước thực trạng đau lòng của xã hội đương thời.

Qua bốn câu thơ Cao Bá Quát bộc lộ thái độ coi thường với những người theo đuổi con đường công danh vô nghĩa và bản thân những kẻ mê muội đang miệt mài ngày đêm đi trên con đường đó.

Trước thực trạng đó, Cao Bá Quát cũng băn khoăn lựa chọn: “Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt/ Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít?”. Và để sau đó ông đã đưa ra lựa chọn dứt khoát:

Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng”,
Phía bắc núi Bắc muôn trùng,
Phía nam núi Nam, sóng dào dạt.
Anh đứng làm chi lên bãi cát?

Tác giả một lần nữa nhận định về con đường công danh: con đường đó đầy chông gai, nguy hiểm, đường phẳng thì mờ mịt, không thấy lối, chỉ có bước đường ghê sợ chông gai thì nhiều. Đó còn là con đường bế tắc, không hi vọng “núi muôn trùng” “sóng muôn đợt” bủa vây lấy người nho sĩ. Bởi vậy “Anh còn đứng làm chi trên bãi cát” là thái độ dứt khoát của tác giả từ bỏ theo đuổi con đường hoạn lộ công danh vô nghĩa.

Hình ảnh thơ giàu ý nghĩa biểu tượng, bãi cát vừa mang ý nghĩa tả thực vừa biểu tượng cho con đường công danh nhiều gian nan, đua tranh vô nghĩa. Nhịp điệu bài thơ thay đổi linh hoạt diễn tả những trắc trở khi đi trên bãi cát và con đường công danh. Sử dụng nhiều câu hỏi tu từ thể hiện sự thức tỉnh của người trí sĩ khi nhận ra sự vô nghĩa của con đường công danh đương thời.

Bằng hình ảnh bãi cát giàu ý nghĩa biểu trưng, tác phẩm đã khắc họa rõ nét hình ảnh người trí thức đương thời vừa cô độc, nhỏ bé, bi phẫn vừa kiên quyết khi từ bỏ con đường công danh. Từ đó bài thơ phản ánh thực trạng xã hội thối nát, đầy nguy hiểm với người trí thức tài hoa.

Phân Tích Bài Thơ Bài Ca Ngắn Đi Trên Bãi Cát Đặc Sắc – Mẫu 2

Cao Bá Quát xưa nay nổi tiếng vì thơ hay, chữ đẹp, càng nổi tiếng hơn vì tư tưởng tự do, phóng khoáng, bản lĩnh kiên cường trước cường quyền, vì lối sống thanh cao mạnh mẽ. Người đời thường ca ngợi ông: Văn như Siêu Quát vô tiền hán. Một trong những tác phẩm hay nhất mà gửi gắm tư tưởng, ý chí của Cao Bá Quát đó chính là bài Sa hành đoản ca.

Mở đầu bài thơ, mở ra hình ảnh không gian mênh mông, hoang vắng đến rợn ngợp:

“Bãi cát dài, lại bãi cát dài ơi
Đi một bước như lùi một bước
Mặt trời đã lặn chưa dừng được
Lữ khách trên đường ngước mắt rơi.”

Người đi đường vất vả, trầy trật đi trên con đường cát cô đơn, mệt mỏi. Giữa thiên nhiên rộng lớn, hoang vu hình ảnh con người hiện lên nhỏ bé, cô đơn, đầy mệt nhọc. Hình ảnh bãi cát dài ấy là biểu tượng cho con đường công danh, sự nghiệp mà chính ông và bao nho sĩ đương thời tất tả theo đuổi, nhưng không phải ai cũng thành công và mỗi bước đi đều gặp sóng gió, cô đơn, khắc nghiệt: Lữ khách trên đường nước mắt rơi.

Sang đến những câu thơ tiếp theo, tác giả tiếp tục bộc lộ tâm sự u uất của mình:

“Không học được tiên ông phép ngủ
Trèo non lội suối giận khôn vơi.”

Tác giả tự cảm thấy giận mình vì không có khả năng như người xưa, thờ ơ trước sự đời mà phải tự mình hành hạ mình trên con đường hoạn lộ. Từ đó, hé mở một tâm hồn thanh cao, có hoài bão, hùng tâm tráng chí, quyết không để mình trở thành kẻ nhàn rỗi, hèn hạ.

“Xưa nay phường danh lợi
Tất tả trên đường đời
Đầu gió hơi men say quán rượu
Kẻ say vô số tỉnh bao người.”

Từ chuyện danh lợi, tác giả nhận ra được rằng con đường mưu cầu công danh đã bị gắn liền với danh lợi, và lòng tham làm mờ mắt, làm say sưa vô số kẻ, đánh mất đi tâm hồn thanh khiết, cao đẹp của chính mình, bị bùa bả công danh làm cho mê hoặc.

Cũng chính vì lẽ đó, người đi đường càng cảm thấy buồn, cô đơn hơn khi không có ai cùng mình đi trên con đường dài đầy mù mịt. Sự bế tắc trào ra dâng lên trong lòng thi sĩ khúc ca đường cùng đầy bi phẫn:

“Hãy nghe ta hát khúc đường cùng
Phía Bắc núi Bắc núi muôn trùng
Phía nam núi Nam sóng dào dạt
Anh đứng làm chi trên bãi cát.”

Khúc đường cùng, khúc cuồng ca bi phẫn tuyệt vọng. Thất vọng nhưng không đẻ thói đời đê mạt, đó là hình ảnh người đi đường trong khổ thơ kết. Câu hỏi cuối bài là câu hỏi đầy đau đớn, nhức nhối, hỏi chính lòng mình.

Bài ca thể hiện niềm thất vọng, bi phẫn của nhà thơ trước đường đời trắc trở và bế tắc vô vọng, phản ánh cảm quan của Cao Bá Quát về một thời đại đen tối lúc bấy giờ. Bằng cách xây dựng hình tượng đặc sắc, ngôn ngữ hàm súc, giàu sức gợi, bài ca ngắn đi trên bãi cát thực sự đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

Phân Tích Bài Thơ Bài Ca Ngắn Đi Trên Bãi Cát Tiêu Biểu – Mẫu 3

Cao Bá Quát là một nhà nho nổi tiếng học giỏi và viết chữ đẹp nhưng rất lận đận về đường công danh. Sống trong cảnh chính quyền phong kiến hà khắc, chuyên chế, áp bức dân lành, ông cũng như những người khác thuộc tầng lớp trí thức, dù có tài nhưng cũng không được coi trọng. Khí phách, bản lĩnh và hoài bão lớn lao của ông đã khiến ông trở nên chán ghét những khuôn khổ bó hẹp của chế độ phong kiến hủ bại.

Các tác phẩm của ông thể hiện sự bất mãn đối với những bất công, ngang trái trong cuộc đời và đối với chế độ đương thời. “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” là một tác phẩm được sáng tác sau khi tác giả đi qua miền Trung, nhìn những bãi cát dài trắng chạy dài vô tận.

Đó là bãi cát – hay cũng chính như cuộc đời, như đường công danh mà những người trí thức lúc bấy giờ vẫn đang theo đuổi, nhọc nhằn, mờ mịt. Mở đầu bài thơ là hình ảnh người đi khó nhọc trên bãi cát:

“Bãi cát lại bãi cát dài,
Đi một bước như lùi một bước.”

Những bãi cát dài cứ nối tiếp nhau không bao giờ ngừng nghỉ, tựa như chẳng thấy điểm kết thúc. Bốn bề đều là một màu cát trắng, núi và biển. Chỉ thấy màu nắng, màu cát mà thôi. Trong khung cảnh vắng lặng ấy, có một người đang lê từng bước khó nhọc, “đi một bước như lùi một bước”. Giữa thiên nhiên mênh mông, giữa bốn bề cát trắng, con người thật nhỏ bé, cô độc biết bao.

“Mặt trời đã lặn, chưa dừng được
Lữ khách trên đường nước mắt rơi”

Mặt trời đã lặn, nhưng làm sao có thể dừng bước vì giữa biển cát, biết tìm đâu ra chỗ ngủ cho đêm nay. Một con đường đi, cứ đi, đi mãi mà chẳng thể dừng lại, mà tiếp cũng chẳng biết bao giờ sẽ tới nơi. Hình ảnh con đường trên cát bất tận, hình ảnh người lữ khách nhỏ bé bất lực giữa thiên nhiên, hay đó chính là con đường công danh mà Cao Bá Quát, cũng như rất nhiều những trí sĩ đương thời đang dấn thân vào.

Một con đường đầy gian nan, thử thách, cay đắng, mệt nhọc. Ngay chính nhà thơ, cũng rất lận đận với con đường thi cử, công danh, rất nhiều lần bị đánh tụt hạng, đánh trượt trong các khoa thi nhưng cũng chỉ biết chấp nhận. Bất lực, bế tắc, nhà thơ chỉ biết tự oán:

“Không học được tiên ông phép ngủ,
Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!
Xưa nay, phường danh lợi,
Tất tả trên đường đời.
Đầu gió hơi men thơm quán rượu,
Người say vô số, tỉnh bao người ?”

Nhà thơ chỉ tiếc mình không thể học được phép ngủ của tiên ông, cứ sống mà mặc kệ mọi danh lợi, mọi oán hận của thế gian. Mắt không thấy thì tâm không đau. Nhìn người, nhìn mình. Biết con đường công danh là gian nan, là phải “tất tả” ở nơi phường danh lợi, thế nhưng vẫn cứ dấn thân vào. Rồi càng đi vào, càng thấy hoang mang, không biết lối ra cũng chẳng thể dừng lại. Vì công danh phải vất vả.

Vì công danh phải cố bước. Bởi công danh như hơi men rượu, lôi cuốn, hấp dẫn người ta, như hơi men trong gió từ quán rượu, cũng đủ làm người ta say trong mê muội. Vô số người tìm đến rượu, bị rượu hấp dẫn, rồi say trong đó không biết lối ra.

Có biết bao người say, có được bao nhiêu người tỉnh táo để không bị cái danh lợi mê hoặc? Nhà thơ tỉnh, nhưng rồi tỉnh với nỗi băn khoăn không biết con đường này có nên đi tiếp hay không? Người đi trên bãi cát đã quá cùng cực, chán ngán, tuyệt vọng:

“Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!
Tính sao đây ? Đường bằng mờ mịt,
Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít ?
Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng”
Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng,
Phía nam núi Nam, sóng dào dạt
Anh đứng làm chi trên bãi cát ?”

Người lữ khách loay hoay, cô độc, chỉ biết hỏi nơi bãi cát vô tri xem phải tính sao với con đường khó khăn này. Đường bằng thì mờ mịt, mà đường gập ghềnh ghê sợ thì cũng đâu phải ít. Đường công danh là thế, biết bao chông gai, cạm bẫy luôn rình rập. Làm thế nào để được sống như mình muốn trên con đường ấy đây?

Một cảm giác tuyệt vọng, bất lực trào dâng trong lòng người khách độc hành, chỉ biết cất lên khúc hát “đường cùng” để bày tỏ tâm trạng.

Nhìn bốn bề, chỉ thấy sóng, thấy núi, chưa có một con đường nào để người lữ khách có thể bước đi cả. Nhưng chẳng lẽ đứng mãi nơi cồn cát ấy? Anh còn đứng làm gì trên bãi cát ấy. Hãy đi đi, băng qua núi, băng qua biển, có gian truân, có vất vả nhưng có lẽ sẽ không còn mờ mịt như việc anh đi cứ hoài trên bãi cát kia.

Câu hỏi cuối, như dự báo một hành động dứt khoát lựa chọn rời khỏi đường công danh, mà lựa chọn một con đường, một lí tưởng cho riêng mình.

Bài thơ là lời tâm sự, băn khoăn của một trí thức có tư tưởng, có hoài bão lớn, không cam chịu bó buộc trong những gò bó của chế độ phong kiến bất công, đồng thời cũng là báo hiệu cho sự thức tỉnh của một con người, một thế hệ.

Phân Tích Bài Thơ Bài Ca Ngắn Đi Trên Bãi Cát Nổi Bật – Mẫu 4

Thơ văn Cao Bá Quát đã thể hiện tráng chí của một kẻ sĩ hăm hở vào đời, đồng thời nói lên bi kịch của một đấng tài trai không gặp thời, gặp vận. Thời trẻ ông từng hát: Ngã dục đăng cao sầm – Hạo ca kí vân thủy (Ta muôn trèo lên đỉnh cao ngất – Hát vang lên để gửi tấm lòng vào mây nước). Nhưng trong bài Sa hành đoản ca, ông lại viết:

Trường sa, trường sa, nại cừ hà!
Thản lộ mang mang úy lộ đa.

(Bãi cát, bãi cát, ngao ngán lòng
Đường phẳng mờ mịt, đường hiềm vô cùng!)

Sa hành đoản ca (Bài ca ngắn đi trên bãi cát) chỉ có thể có được Cao Bá Quát viết ra khi ông đã nếm trải nhiều cay đắng trên con đường công danh, hoạn lộ? Có thể trên đường từ Huế ra Bắc đi nhận chức Giáo thụ huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây, ông mới viết bài thơ này.

“Ca” là một thế loại của thơ cố: câu thơ dài, ngắn tùy thuộc vào cảm hứng và âm điệu, vần điệu. Bài thơ của Cao Bá Quát gồm có 16 câu thơ ngũ ngôn và thất ngôn đan xen vào nhau. Sa hành đoản ca nói về ‘một người dang lặn lội trên bãi cát dài, khi tóc đã ngả màu sương, suy ngẫm về đường dời và cái bá công danh ‘.

Bôn câu thơ đầu gợi tả bãi cát. Hình ảnh ‘trường sa ‘ điệp lại trong câu thơ ‘Trường sa phục trường sa ‘ gợi lên bãi cát dài và rộng bao la, mênh mông, kéo dài đến vô tận. Đó là những bãi cát nằm dọc con đường thiên lí thuộc hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị dằng dặc nơi khúc ruột miền Trung.

Khách lữ hành đi một bước lại như lùi một bước. Nước mắt lả chã tuôn rơi. Mặt trời đã lặn nhưng người lử khách vần còn đi. Câu thơ ngũ ngôn với điệp ngữ và tương phản đã làm nồi bật sự cực nhọc, mệt mỏi của người đang lầm lụi đi trên bãi cát dài:

Trường sa phục trường sa
Nhất bộ nhất hồi khước
Nhập nhập hành vị dĩ
Khách tử lệ giao lạc.

(Bãi cát dài, bãi cát dài!
Mỗi bước lại như lùi
Mặt trời đã lặn đi chưa nghỉ
Khách bộ hành nước mất tuôn rơi)

Tám câu thơ tiếp theo nói lên cái giá phải trả đối với hạng người hám danh lợi. Không học được ‘phép ngủ kĩ ‘ của Tiên ông Hạ Hầu An ngày xưa mà vẫn ‘cứ trèo non, lội nước mãi ‘ cho khổ! Tự hỏi mình rồi lại tự trách mình: Vì hám danh lợi nên phải ‘tất tả ‘ ngược xuôi:

Cổ lai danh lợi nhân Bôn tẩu lộ đồ trung.
(Xưa nay phường danh lợi Bôn tẩu trên đường đời.)

Trên đời, kẻ hám danh lợi khác nào người say rượu. Người say rượu cũng như kẻ hám công danh thì nhiều vô số, còn kẻ tỉnh thì ít. Đó là nguyên nhân mọi bi kịch của người đời:

Phong tiền bửu hữu mĩ tửu
Tính giả thường thiểu, túy giả đồng.

Nghệ thuật so sánh giữa ‘tỉnh giả thiểu ‘ với ‘túy giả đồng ‘ đã làm nôi bật chất triết lí về sự hám danh lợi của người đời. Nếu Lý Bạch hơn nghìn năm về trước từng cảm nhận: ‘Hành lộ nan, hành lộ nan! Đa kì lộ, kim an tại? ‘ (Đường đi khó, đường đi khó! Nhiều ngả rẽ giờ đang ở nơi nào?) thì trong Sa hành đoản ca, Cao Bá Quát cũng viết:

Bãi cát dài, bãi cát dài, biết tính sao dây?
Bước đường bằng phẵng thì mờ mịt, bước đường ghê sợ thì nhiều.

Khách lữ hành không chỉ cảm thấy đường đi khó mà còn cảm thấy đường đời lắm ngả, biết đi về đâu, biết chọn hướng nào, nẻo đường nào? Giữa bãi cát dài bao la mênh mông, người lữ khách như bị lạc lôi, băn khoăn tự hỏi: ‘Biết tính sao đây? ‘. Hơn bao giờ hết, lữ khách mới thâm thìa con đường đời, con đường danh lợi ‘bằng phẳng thì mờ mịt ‘, mà ‘bước đường ghê sợ thì nhiều ‘.

Cao Bá Quát coi đó là sự trải nghiệm, chiêm nghiệm. Nổi tiếng thần đồng nhưng chỉ đỗ cử nhân: mấy lần thi Hội đều hỏng. Dưới chế độ phong kiến, không phải cứ có tài, có chí là công thành danh toại.

Có lúc Cao Bá Quát cất lời than: ‘Trượng phu ba mươi tuổi, chẳng nên danh gì! ‘. Mãi đến năm 32 tuổi, ông mới được vua nhà Nguyễn triệu vào kinh bô làm hành tẩu bộ Lễ – một chức thư lại quèn! Sau đó là những năm tù đày, đi ‘dương trình hiệu lực ‘ sang đến tận In-đô-nê-xi-a… Câu thơ ‘Dường phẳng mờ mịt, dường hiểm vô cùng ‘ đã được Cao Bá Quát viết bằng nước mắt, tiếng thở dài và máu.

Khép lại bài thơ là khúc ca ‘đường cùng ‘. Phía Bắc và phía Nam, trước mặt và sau lưng, núi nhấp nhô ‘muôn trùng ‘, núi lượn sóng ‘muôn đợt ‘. Cặp câu song hành sử dụng hình ảnh biểu tượng đã tô đậm cái khó của con đường đời. Lữ khách tự hỏi và khẽ trách mình. Kết thúc bài thơ là một câu hỏi đầy ám ảnh:

Nghe ta ca ‘cùng đồ ‘ một khúc
Phía Bắc núi Bắc, núi muôn lớp!
Phía Nam núi Nam, sóng muôn đợt!
Sao mình anh còn trơ trên bãi cát?

Người lữ hành đã và đang sống trong tâm trạng buồn cô đơn và mệt mỏi. Biết đi đâu về đâu khi mặt trời đã lặn, lặn từ lâu rồi! Biết tìm hướng nào khi tóc đã ngả màu sương. Sa hành đoản ca là lời than của người lữ khách về sự gian truân trên đường đời, về sự mờ mịt ghê sợ của con đường danh lợi.

Bài thơ là một bài học, một triết lí về con đường danh lợi và cái giá của khách danh lợi trên mọi nẻo đường gần xa. Hình tượng bãi cát dài và người đi trên bãi cát lúc mặt trời đã lặn, nước mắt chảy ra cứ ám ảnh mãi hồn người.

Phân Tích Bài Thơ Bài Ca Ngắn Đi Trên Bãi Cát Ấn Tượng – Mẫu 5

Cao Bá Quát là một trong những nhân tài hiếm hoi trong xã hội phong kiến triều Nguyễn. Ông là một người có bản lĩnh, có cá tính mạnh mẽ, là một nhà thơ có tài năng, được nhiều người ca ngợi. Thơ của ông hướng về xã hội phong kiến trì trệ với thái độ phê phán mạnh mẽ, phản ánh nhu cầu đổi mới xã hội Việt Nam. Thế nhưng, ông gần như không thể cống hiến được tài năng của mình bởi nhiều lần đi thi mà không đỗ.

Bài thơ “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” của ông là một trong những sáng tác của ông viết về con đường danh lợi gập ghềnh mà ông chán ghét nhưng buộc phải theo đuổi và sự bế tắc của xã hội phong kiến đương thời.

Bài thơ “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” của Cao Bá Quát được viết theo thể hành, là một thể thơ tự do, tình chất phóng khoáng. Có lẽ chính vì thế mà nó đã bộc lộ hết được những suy tư, trăn trở của nhà thơ trước thời cuộc và chính cuộc đời của mình.

Mở ra trước mắt người đọc là hình ảnh của một bãi cát dài, trắng mênh mông, vô tận cùng hình ảnh người khách lữ hành đang lang thang vô định giữa miền cát vô tận ấy.

“Bãi cát dài lại bãi cát dài
Đi một bước như lùi một bước
Mặt trời đã lặn, chưa dừng được
Lữ khách trên đường nước mắt rơi”

Bốn câu thơ đầu của bài thơ như là tiếng thở dài, tiếng khóc đầy nghẹn ngào của Cao Bá Quát trước cuộc đời đầy gian truân của mình. Mở ra trước mắt ông là hình ảnh chỉ mênh mông là cát ngút ngàn tầm mắt, không có một phương hướng hay chỉ đường.

Đây là hình ảnh chân thực trong những lần ông vượt qua các tỉnh miền Trung để lên kinh đô thi Hội, nó đã in đậm vào tâm trí ông. “Bãi cát” hay chính là môi trường xã hội, con đường mưu cầu danh lợi mà ông đang đi, khó khăn, vất vả, cứ đi miết mà không tìm thấy đích đến.

Câu thơ là một tiếng thở dài đầy ngao ngán “bãi cát lại bãi cát dài” của ông bởi đi bao lâu cũng chỉ thấy là cát mà chẳng thấy một lối ra, một ốc đảo xanh tươi để dừng lại ngơi nghỉ. Những bước chân nặng nề trên cát, “đi một bước như lùi một bước” tức là người đi như đang giậm chân tại chỗ, chẳng thể tiến lên thêm một bước nào.

Hai câu thơ như lời ẩn dụ cho con đường danh lợi ông đang cố theo đuổi với đầy những khó khăn, trắc trở, lại mênh mông chẳng thấy hướng ra. Bao lần ông lên kinh thi Hội là bấy nhiêu lần tìm lại sự thất vọng, mệt mỏi, chán chường. Bãi cát kia là con đường công danh ông theo đuổi hay cũng chính là cái vòng luẩn quẩn của xã hội phong kiến triều Nguyễn đang bế tắc, quẩn quanh?

Vậy mà giữa mênh mông biển cát ấy, vẫn có một người lữ khách đang mải miết bước đi. Mặt trời đã về núi, vậy mà người lữ khách kia vẫn chưa dừng bước chân, vẫn đang tiếp tục tiến về phía trước. Thế nhưng, người khách đường dài kia chẳng hề thấy vui vẻ, mà lại đau khổ khôn cùng “nước mắt rơi”. Dường như người lữ khách đang muốn nghỉ ngơi, muốn rời bỏ con đường đi mênh mông phía trước mà chẳng thể được.

“Mặt trời đã lặn, chưa dừng được
Lữ khách trên đường, nước mắt rơi”

Phải chăng đây chính là tâm trạng, hình ảnh của Cao Bá Quát trên con đường mưu cầu danh lợi của bản thân mình? Ông bước đi trên đó với sự cô đơn, đau khổ, sự chán ghét, lạc lõng, vô phương hướng mà lại chẳng thể dừng chân, rời đi, tìm một hướng đi mới. Ông mệt mỏi tới cùng cực trên con đường tìm kiếm công danh phù phiếm mà ông buộc lòng phải theo đuổi.

Hình ảnh “bãi cát” dài nối tiếp nhau như là ẩn dụ cho con đường đời mù mịt, bất tận của chính tác giả “người lữ khách”. Người lữ khách ấy cứ mải miết đi, mải miết bước dù có mệt mỏi, kể cả khi bóng tối đã bao trùm.

Bốn câu thơ đầu là lời thở dài đầy ngao ngán của nhà thơ trước con đường công danh mà ông đang phải theo đuổi. Trên con đường ấy, ông như người lữ khách giữa biển cát mênh mông, cô đơn, lạc lõng vô cùng. Không chỉ cô đơn, mỏi mệt, lẫn trong đó là tiếng khóc nghẹn ngào, đầy sự bế tắc của ông về cuộc đời bể dâu, về công danh, lợi lộc, muốn tìm kiếm hướng ra nhưng lại mịt mờ, chẳng rõ.

Ai oán là thế, nhưng người lữ khách Cao Bá Quát lại không thể rời bỏ con đường mưu cầu danh lợi mà mình chán ghét được. Ông muốn được như Hạ Hầu Ấn, có thể vừa ngủ vừa đi, không cần nghỉ ngơi mà vẫn bước đi đều đặn. Bởi con đường của ông có quá nhiều chông gai, quá nhiều “non”, nhiều “suối”, ông phải băng qua, thật mệt mỏi biết bao.

Ông cũng muốn được như “tiên ông ngủ”, đi mà vẫn ngủ, chẳng cần nghỉ ngơi. Đây cũng là lời oán hận của Cao Bá Quát với cuộc đời, với xã hội bất công luôn bắt ông phải cố gắng hết mình mà vẫn mãi chẳng đạt tới danh lợi phù phiếm kia.

Chiêm nghiệm lại cuộc đời từ xưa tới nay, ông nhận ra rằng, con người chưa bao giờ bỏ được danh lợi xa hoa ấy. Con người luôn phải “tất tả”, vội vã, bon chen để đạt tới mục đích cuối cùng trên con đường danh lợi phù phiếm và chính ông cũng đang như vậy.

“Xưa nay phường danh lợi
Tất tả trên đường đời”.

Họ “tất tả”, ngược xuôi vì danh lợi cũng là điều đương nhiên thôi, bởi vì có ai cưỡng lại được công danh, lợi lộc được cơ chứ? Cũng như con người chẳng mấy ai có thể cưỡng được hương vị thơm của rượu ngon nơi “đầu gió” cả. Danh lợi như một chum rượu ngon, khiến bao người phải “say”, phải tìm tới. Có mấy ai tỉnh táo mà nhận ra sự phù phiếm của nó hay chăng?

Câu hỏi “tỉnh bao người” như là lời tự hỏi chính bản thân mình của Cao Bá Quát. Liệu ông có phải là người “tỉnh” trong “quán rượu” ngon kia chăng? Hay ông cũng chỉ là một trong vô số những người đang say trong hương rượu nồng? Câu hỏi cũng như lời tự thân bất lực của ông trước vòng xoáy danh lợi ông đang theo đuổi, bất lực trước cả thời cuộc, xã hội nữa.

Đến đây, người ta có thể nhận ra sự mệt mỏi, chán chường của ông trước cuộc đời như thế nào. Ông băn khoăn trước con đường mình chọn.

“Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!
Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt
Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít?”

Hình ảnh “bãi cát” lại một lần nữa được nhắc tới trong bài thơ. Vẫn là tiếng thở dài đầy ngao ngán trước cuộc đời, trước con đường mình chọn đang mờ mịt không có lối ra.

Ông tự hỏi “tính sao đây?”, tính sao trước cuộc sống đầy chán chường, bế tắc này? Đường đi “bằng” phẳng thì “mờ mịt”, không thấy hướng, còn những con đường gập ghềnh “ghê sợ” kia thì sao? Chúng cũng “đâu ít” gì? Cao Bá Quát tự hỏi chính mình, ông “tính sao” trước thời cuộc này, trước sự bế tắc của xã hội này?

Lời thơ như lời trách móc, giận dữ chính bản thân mình khi chính ông cũng đang lao đầu vào chính những cám dỗ ấy. Ông nhận ra cái vô nghĩa của những khoa thi cử đương thời, khi mà người tài lại chẳng được trọng dụng, chẳng thể giúp đổi mới cho một xã hội bảo thủ, trì trệ.

Và giờ đây, ông đứng giữa “bãi cát” mênh mông ấy, cất lên khúc ca về sự tuyệt vọng, chán chường của bản thân mình. “Khúc đường cùng” hay chính là khúc ca cuối cùng của Thánh Quát, con người cả một đời phải theo đuổi con đường công danh mà mình chán ghét, ghê sợ?

Chán chường, tuyệt vọng là thế, đến cuối cùng, ông vẫn phân vân tự hỏi với chính bản thân mình.

“Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng
Phía nam trời Nam, sóng dào dạt
Anh đứng làm chi trên bãi cát?”.

Người lữ khách – Cao Bá Quát đứng giữa bãi cát mênh mông nhìn ra xung quanh bốn phía. Phía bắc là núi non trùng trùng điệp điệp, phía nam là sóng cao biển sâu, chẳng hướng nào có thể vượt qua được. Một khung cảnh thiên nhiên đẹp hùng vĩ đến vậy nhưng lại nguy hiểm, trắc trở vô cùng.

Người lữ khách chơi vơi giữa “bãi cát” mênh mông ấy chẳng thể tiến, chẳng thể lùi, chẳng biết nên đi về hướng nào. Phải chăng, Cao Bá Quát đang muốn hướng tới cái xã hội phong kiến tù túng, ngột ngạt trong bế tắc kia và cái con đường công danh ông theo đuổi cả đời cũng mãi mịt mờ, trắc trở như thế?

Câu cuối cùng của bài thơ là một câu hỏi, tác giả tự hỏi chính bản thân mình:

“Anh đứng làm chi trên bãi cát?”

Biết con đường ấy mịt mờ, đầy gồ ghề, lại bế tắc, chán ghét, vậy tại sao cả đời ông lại theo đuổi nó tới cùng? Câu hỏi ấy như là sự phân vân, bi phẫn đến tuyệt vọng của chính tác giả.

Ông hiểu được sự bế tắc của xã hội, của con đường danh lợi ông theo đuổi, ông chán ghét nó tới cùng cực nhưng lại chẳng thể nào rời bỏ nó. Vậy rốt cuộc, ông đứng đây để làm chi, để chờ đợi điều gì? Một sự mâu thuẫn quá đỗi trong lòng của nhà thơ.

Bài thơ “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” như là lợi tự bạch đầy chán chường của Cao Bá Quát trước con đường danh lợi tầm thường mà ông buộc phải theo đuổi xen lẫn trong đó là sự bất lực khi ông khao khát được đổi mới cuộc sống trong xã hội phong kiến triều Nguyễn bảo thủ, trì trệ, ngột ngạt, tù túng. Về nghệ thuật, bài thơ được viết theo thể hành, phóng khoáng, tự do, có sử dụng những hình ảnh với tính biểu tượng lớn.

Cao Bá Quát cũng sử dụng rất tinh tế các điển tích, điển cố để làm diễn giải ý thơ của mình. Nhịp thơ tùy biến, nhanh chậm nhịp nhàng, đầy sáng tạo cũng là một phần góp lên thành công cho bài thơ khi miêu tả những suy tư của nhân vật trữ tình trên con đường danh lợi đầy trắc trở.

Bài thơ đã giúp cho chúng ta hiểu được sự chán ghét của một người trí thức đầy tài năng – Cao Bá Quát (Thánh Quát) với con đường mưu cầu danh lợi tầm thường trong một xã hội với những bế tắc, trì trệ, không lối thoát.

Đây có lẽ chính là lý do lớn nhất giải thích vì sao mà ông lại đứng lên khởi nghĩa chống lại triều đình nhà Nguyễn. Bởi ông luôn khao khát được đổi mới cuộc đời của mình, đổi mới xã hội, được cống hiến cho nước nhà, được trở thành một con người có ích cho Tổ quốc.

Viết một bình luận