Bài Thơ Màu Tím Hoa Sim Hữu Loan [Nội Dung + Cảm Nhận]

Bài thơ Màu tím hoa sim Hữu Loan Về tác giả, Nội dung, cảm nhận và hoàn cảnh ra đời của bài thơ.

Bài Thơ Màu Tím Hoa Sim Hữu Loan

Bài thơ: Màu Tím Hoa Sim
Tác giả: Hữu Loan

Nàng có ba người anh
Đi bộ đội
Những em nàng còn chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh.

Tôi là người chiến binh
Xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo cưới,
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giày đinh bết bùn đất hành quân,
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo.
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi!

Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng đời chiến chinh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
Thì thương người vợ chờ
Bé bỏng chiều quê …

Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người gái nhỏ hậu phương
Tôi về không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con
Đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương
Tàn lạnh vây quanh …

Tóc nàng xanh xanh
Ngắn chưa đầy búi
Em ơi!
Giây phút cuối
Không được nghe nhau nói
Không được trông thấy nhau một lần.

Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa một mình
đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa…

Một chiều rừng mưa
Ba người anh
Trên chiến trường Đông Bắc,
Biết tin em gái mất
Trước tin em lấy chồng.

Gió sớm thu về
Rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió thu về
Cỏ vàng chân mộ chí.

Chiều hành quân
Qua những đồi sim ..
Những đồi hoa sim …,
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
Tím cả chiều hoang biền biệt
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa.
Áo tôi sứt chỉ đường tà,
Vợ tôi chết sớm mẹ già chưa khâu

Chia sẽ cùng bạn những bài Thơ Hài Hước , chỉ cần đọc là không nhịn được cười. 😄

Về Nhà Thơ Hữu Loan

Nhà thơ Hữu Loan – Bút danh Hữu Loan, tên thật là Nguyễn Hữu Loan. Ông sinh ngày 2/4/1916, quê tại làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Tập thơ của ông có khoảng 60 bài thơ, các bài thơ của ông viết thường được làm theo thể tự do, có các âm điệu giàu nhạc tính để chuyển tải những tâm sự của ông vào thơ. Vì thế, hầu hết những bài thơ hiếm hoi của ông đều sống trong lòng độc giả.

Nhà thơ Hữu Loan sinh ra và lớn lên ở Thanh Hóa và tham gia vào Mặt trận Bình dân năm 1936.

Năm 1943, ông về gây dựng phong trào Việt Minh ở quê nhà và cho đến khi cuộc Cách Mạng tháng 8 nổ ra ông đảm nhiệm chức Phó chủ tịch Ủy Ban khởi nghĩa huyện Nga Sơn.

Trước năm 1945, ông đã từng có thời gian là cộng tác viên trên các tập san văn học xuất bản tại Hà Nội.

Kháng chiến chống thực dân Pháp nổ ra, một lần nữa ông lại đi theo tiếng gọi của Tổ Quốc tham gia vào Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, phục vụ trong đại đoàn 304. Sau năm 1954 nhà thơ Hữu Loan về làm việc tại Báo Văn Nghệ.

Màu tím hoa sim là một trong những bài thơ nổi tiếng của Hữu Loan, được sáng tác trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp và được lưu hành rộng rãi trong vùng kháng chiến thời đó. Có nhiều những thông tin cho rằng, do nội dung của bài thơ mang nặng tình cảm, làm ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý của quân nhân nên ông bị giải ngũ.

Trở về quê nhà tại Nga Sơn ông làm nghề thợ đá và nuôi gia đình. Đời sống văn học Hà Nội thiếu vắng đi bóng dáng của nhà thơ. Bạn bè nhớ ông cũng chỉ dám nhớ âm thầm như Quang Dũng. Trong bài thơ có câu : “ Một chiếc linh hồn nhỏ/Đi về chân núi xanh”.

Hồi trai trẻ, Hữu Loan đỗ tú tài, nhưng chỉ dạy học ở nhà để chờ thời tham gia cách mạng. Suốt một đời người 94 năm ông, đến năm 1990 ông mới in thành tập Màu tím hoa sim.
Sau kháng chiến, nhà thơ Hữu Loan rời xa Hà Nội, ông về Nga Sơn. Bấy giờ Thanh Hóa quê ông nghèo lắm, dắt theo vợ con và bắt đầu với nghề thợ đá. Ông nạy từng khối đá đưa lên chiếc xe cút kít thô sơ đem đi bán ở các lò thợ làm cối, làm thớt, làm kê chân cột và làm vật liệu xây dựng. Bán cả chục xe đá mới kiếm đủ ngày hai bữa cơm dưa muối cho đàn con nhỏ.

Một năm, hai năm, ba năm…Hữu Loan trở thành người thợ đá da đen như sừng, chân tay sần sẹo, tua tủa tóc rễ tre, đi đứng nói năng mạnh mẽ. Cặm cụi thân sương gió để nuôi đàn con thơ. Đến giờ cả mười đứa con đã có chín nên vợ nên chồng, sinh cho ông đàn cháu 37 đứa. Chỉ còn cậu út là chưa lập gia đình.

Cuộc đời nhà thơ Hữu Loan dành hết cho gia đình và cho các con. Sau cuộc đời 95 năm nhọc nhằn, vất vả. Ông đã nằm xuống nhẹ nhàng, thanh thản, để lại sau đó là một câu chuyện kể thật nhưng lạ kỳ như một huyền thoại về một lão thi nhân.

Mười người con lần lượt lớn lớn và trưởng thành nhờ có một người cha kiên cường và một người mẹ chắt chiu, tần tảo. Nhà thơ Hữu Loan, bận bịu với cuộc sống mưu sinh, nuôi đàn con khôn lớn. Ban ngày, mòi vai thồ đá, ban đêm vác te vó nuôi con.

Ngoài việc thiếu thốn về vật chất, các con của ông cho biết 10 anh em chưa một lần trách móc, hờn giận gì về những lựa chọn của ông. Ngược lại, họ còn rất tự hào vì phần nào trong con người mình ít nhiều của được thừa hưởng từ sự tài hòa và tính cách thẳng thắn của ông để trưởng thành.

Nhà thơ Hữu Loan ra đi vào tháng 3/2010. 95 năm cực nhọc, rắn rỏi với cuộc đời. Bóng dáng của một nhà thơ, một người chồng, một người cha vất vả, nhọc nhằn nuôi các con khôn lớn. Câu chuyện về tác giả Màu tím hoa sim sẽ đi mãi vào lòng mỗi độc giả khi lướt qua.
Nội Dung Bài Thơ Những Đồi Hoa Sim

Thohay.vn tặng bạn 👉 Bài Thơ Làm Chị Thật Khó ❤️️

Hoàn Cảnh Ra Đời Bài Thơ Màu Tím Hoa Sim

Bài thơ “Màu Tím Hoa Sim ” hoàn toàn có thể xem là bài thơ nổi tiếng nhất trong âm nhạc, khi có rất nhiều bài hát được phổ từ bài thơ này. Nổi tiếng nhất là ca khúc Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà của nhạc sĩ Phạm Duy, Những Đồi Hoa Sim của nhạc sĩ Dzũng Chinh.

Ngoài ra nhạc sĩ Duy Khánh và Song Ngọc cũng có phổ nhạc cho bài thơ này, nhưng ít được biết đến hơn. Nhạc sĩ Hồng Vân cũng dựa vào câu truyện đồi sim của Hữu Loan để viết thành ca khúc Chuyện Người Con Gái Hái Sim. Sau năm 1975, nhạc sĩ Anh Bằng phổ thành ca khúc Chuyện Hoa Sim cũng rất được yêu quý với giọng hát Như Quỳnh.

Hoàn cảnh sáng tác của bài thơ nổi tiếng Màu Tím Hoa Sim được chính thi sĩ Hữu Loan kể lại trong một tự truyện của mình, xin được thuật lại trong bài dưới đây.

Sau khi lấy tú tài Tây, vốn rất khó thi đậu vào năm 1938, thi sĩ Hữu Loan rời quê nhà để lên thị xã Thanh Hoá dạy học ở trường Alexandre de Rhodes do nhà thời thánh Công giáo ở Thanh Hóa lập.

Tại đây, nhờ tiếng con nhà nghèo hiếu học, ông được một gia đình nhà giàu mời về dạy học cho những người con trong nhà. Đó là gia đình của ông Lê Đỗ Kỳ – chánh thanh tra Đông Dương về canh nông, và bà Đái Thị Ngọc Chất – là người giỏi Hán ngữ lẫn Pháp ngữ, đam mê thơ phú, thường được gọi là bà Tham Kỳ.

Theo thi sĩ Hữu Loan kể lại, bà Chất là người hiền lành, tốt bụng, đối xử với ông chẳng khác người nhà. Gia đình ông bà Kỳ có 3 người trai đầu và 2 người con gái sau, trong đó có cô Lê Đỗ Thị Ninh lúc đó mới 8 tuổi, người mà 9 năm sau thời gian đó đã trở thành vợ của Hữu Loan, cũng là nhân vật chính trong bài thơ Màu Tím Hoa Sim.

Nghe Tô Kiều Ngân ngâm thơ Màu Tím Hoa Sim

Hữu Loan kể lại ngày đầu gặp cô học trò nhỏ 8 tuổi như sau:
“ Bà Tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà. Nhớ ngày tiên phong tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái 8 tuổi mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí : ” Em chào thầy ạ ! ”. Chào xong, cô bé giật mình mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm lý tôi, theo tôi suốt cả cuộc sống. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết.

Đặc biệt em chăm nom tôi hằng ngày một cách kín kẽ : em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn, những buổi trưa hè, nhằm mục đích lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt … ”

Tính tình của cô Ninh ít nói, nhưng tư chất mưu trí, dạy đâu hiểu đó, mỗi lần mở miệng là như một “ bà cụ non ”. Có một lần Hữu Loan kể chuyện đó cho 2 người anh của bà Ninh nghe, vì sự vô ý đó mà cô giận khi biết được. Suốt 1 tuần liền cô Ninh nằm lì trong phòng, không chịu học tập, trở bệnh nặng, nên bà Tham Kỳ phải dẫn ông Hữu Loan vào để dỗ dành cô gái. Ông ngồi kể chuyện, đọc thơ một hồi rất lâu. Trưa hôm đó cô dậy ăn một bát to cháo gà và chịu bước ra khỏi phòng.

Ngày hôm sau đó, cô Ninh đòi Hữu Loan dẫn lên đồi thông chơi. Mặc dù cả nhà đều không chấp thuận đồng ý vì cô mới bệnh dậy vẫn còn yếu, nhưng cô nhất quyết đòi đi. Sợ cô lại dỗi tiếp nên Hữu Loan xin phép cha mẹ cô dẫn lên núi chơi.
Khi lên đến đỉnh đồi, cô Ninh ngồi xuống, nói Hữu Loan ngồi xuống bên cạnh và hỏi: “ Thầy có thích ăn sim không? ” – Rồi cô đứng lên đi xuống sườn đồi, còn ông thầy Hữu Loan thì mệt quá nên nằm thiếp đi trên bãi cỏ. Khi tỉnh dậy ông đã thấy cô học trò nhỏ ngồi bên cạnh với chiếc nón đựng đầy trái sim màu đen, chín mọng.

Hữu Loan đã kể lại cảm xúc khi đó của mình:
“Tôi sinh ra trong một mái ấm gia đình nông dân, quả sim so với tôi chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa khi nào ăn những quả sim ngọt đến thế ! Cứ thế, chúng tôi ăn hết quả này đến quả khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!”

Cuối năm đó ( năm 1939 ), Hữu Loan từ giã mái ấm gia đình ông bà Lê Đỗ Kỳ để lên đường tham gia kháng chiến, từ giã cả cô học trò nhỏ bé chỉ mới gặp gỡ trong 1 năm. Đó là một buổi chia tay mang rất nhiều xúc cảm lưu luyến so với cả người đi lẫn kẻ ở. Hữu Loan kể lại:
“ Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng, em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ bé như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi. Tôi quay đầu nhìn lại, em vẫn đứng yên đó. Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa”.

Vì tình hình chiến cuộc căng thẳng mệt mỏi vào thời gian đó, nên cuộc chia tay này phải lê dài đến tận 9 năm. Trong thời hạn đó, khi cô Ninh được 15 tuổi, ở quê nhà có nhiều chàng trai tới ngỏ lời cầu hôn những cô không chịu tiếp ai.

Một hôm có ông Nguyễn Đình Tiên là cậu họ của cô Ninh, cũng là cấp trên của Hữu Loan đã từ Thanh Hoá quay trở lại đơn vị chức năng gặp Hữu Loan, trong lúc trò chuyện, ông Tiên nói: “Tao thấy con bé Ninh đem va ly quần áo của mày ra phơi và chải đấy”.

Hữu Loan ngồi im re. Nguyễn Đình Tiên nói thêm: “Hình như chị Kỳ muốn gả nó cho mày”.
Hữu Loan gạt đi: “Nó còn nhỏ quá, tao coi nó như em gái mình, lấy làm thế nào được mà lấy”.
Nguyễn Đình Tiên nói át đi: “Mày lỗi thời lắm, Chị Kỳ dành cho mày mà mày lại không nhận là mày bạc lắm”.
Hữu Loan vẫn phân vân, Nguyễn Đình Tiên bồi thêm: “Thôi được rồi để tao sắp xếp cho”.
Sau này, khi sáng tác Màu Tím Hoa Sim, Hữu Loan đã nhắc tới “tình yêu em gái” ở đoạn đầu của bài thơ:

Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh…

Tôi người Vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái…

Đoạn này cũng nhắc tới ba người anh đi bộ đội của cô Ninh, trong đó người anh cả tên là Lê Hữu Khôi, tham gia kháng chiến và quyết tử năm 1954 chỉ vài giờ trước thắng lợi Điện Biên Phủ. Người anh thứ 2 tên Lê Đỗ Nguyên, lúc bấy giờ là Trung tướng Phạm Hồng Cư – nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Nước Ta.

Người anh thứ 3 tên Lê Đỗ An, sau này lấy bí danh là Nguyễn Tiên Phong, nguyên là bí thư TW đoàn, nay đã mất. Vì những người anh này đều tham gia hoạt động giải trí kháng chiến nên chọn cho mình những bí danh .
Những em nàng, có em chưa biết nói – Đó là người em út trong nhà, sau cô Ninh, tên là Lê Thị Như Ý, sau này là giáo viên về hưu ở TPHN.

Năm 1948, tròn 9 năm sau khi xa cách, Hữu Loan mới xin được phép để về thăm lại mái ấm gia đình cô Ninh. Họ gặp lại nhau khi cô Ninh đã là một thiếu nữ 17 tuổi xinh đẹp, bẽn lẽn thẹn thùng không nói gì, chỉ khước từ hoặc gật đầu.

Cho dù yêu nhau nhưng Hữu Loan lo ngại việc môn đăng hộ đối nên vẫn còn phân vân, ông không biết rằng việc hôn nhân gia đình đã được chính ông bà Lê Đỗ Kỳ sắp xếp. Chỉ 1 tuần sau khi về phép, Hữu Loan thành hôn với cô Lê Đỗ Thị Ninh. Ông bàn chuyện may áo cưới thì cô không chịu, bảo rằng không cần hình thức mà chỉ cần cái tâm và cái tình. Vì vậy trong bài thơ Màu Tím Hoa Sim, thi sĩ Hữu Loan đã viết:

Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới

Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo…

Hữu Loan cho biết rằng cô Ninh thường gọi đùa ông là “anh chồng độc lạ” vì ông cao ráo, học giỏi, làm thơ hay …

Cho dù gia đình ông bà Lê Đỗ Kỳ rất giàu, có hàng trăm mẫu ruộng, nhưng đám cưới người con gái diễn ra rất đơn sơ, đúng như mô tả của Hữu Loan trong thơ. Đó là ông không mặc áo cưới mà mặc đồ quân nhân với đôi giày đinh còn bết bùn đất.

Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại

Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về

thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê…

Hai tuần phép diễn ra rất nhanh, cưới nhau không bao lâu thì Hữu Loan lại lên đường ra chiến khu làm trách nhiệm, để lại người vợ nhỏ bé ở quê nhà. Hữu Loan kể:
“Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ em không còn cô bé Ninh nữa mà là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại. Nếu như 9 năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mác, thì lần này tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống” …

Nhưng không ᴄhết
người trai khói lửa
Mà ᴄhết
người gái nhỏ hậu phương…

Nhưng số phận trớ trêu, người chồng ở nơi đầu tuyến vẫn bình an, chỉ có người vợ nhỏ hậu phương thì qua đời chỉ 3 tháng sau ngày tạm biệt nhau. Đó là một ngày đầu thu, tháng 7 năm 1948, cô Ninh bị tai tạn ngoài sông, rồi nước cuốn trôi đi người vợ hiền nhỏ bé của thi sĩ Hữu Loan …

Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối

Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương

tàn lạnh vây quanh

Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần

Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim

Ngày xưa
một mình đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa…

Không thể nào kể xiết nỗi đau đớn mà thi sĩ Hữu Loan phải chịu đựng khi mất khi người vợ trẻ. Ông như mất đi tổng thể, chán đời, chán nản và bỏ cả kháng chiến để về quê làm ruộng. Trước khi rời chiến khu, trong nỗi đau đớn tận cùng, ông viết liền một mạch bài thơ Màu Tím Hoa Sim lên chiếc quạt giấy của người bạn. Người bạn đó đã chép lại thơ và truyền tay nhau suốt những năm kháng chiến, gây xúc động mạnh với những chiến sỹ trong hàng ngũ Việt Minh.

Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng…

Chi tiết ba người anh nhận được tin em gái mất trước khi biết tin em lấy chồng trọn vẹn là thực sự. Người anh thứ 2 kể lại:
“ Năm 1949 tôi được điều về làm ở phòng chính trị Cục quân huấn của Cục Chính trị Bộ quốc phòng, trong một lần đi họp có gặp anh Võ Trí Sơn, bạn thân của anh Hữu Loan, đồng thời cũng là người bạn của mái ấm gia đình chúng tôi.

Anh Sơn bảo: “Em Ninh ᴄhết rồi, em ᴄhết đuối”. Tôi choáng váng. Anh Sơn bảo tiếp: “Nó lấy Hữu Loan đấy”. Lúc bấy giờ tôi mới biết em Ninh đã lấy nhà thơ Hữu Loan”.

Bài thơ như thể một phần đời của thi sĩ Hữu Loan, phần đời đẹp và buồn nhất, nên bài thơ được ông viết rất thật, mộc mạc, không gọt giũa hay văn chương, nhưng có sức lay động lòng người tột cùng và có sức sống mãnh liệt trong hơn 70 năm qua …
Đoạn cuối của bài thơ là:

Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí

Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết

Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu

Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết

Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu

Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành…

Cùng đọc thêm những vần thơ đi vào lòng người của Xuân Diệu 👉 Thơ Tình Xuân Diệu Hay Nhất ❤️️

Cảm Nhận Bài Thơ Màu Tím Hoa Sim

Một mối tình đẹp nhưng sớm chia xa

Những dòng thơ đầu của Màu tím hoa sim Hữu Loan đã tái hiện một lát cắt đẹp về câu chuyện thành hôn của nhân vật trữ tình. Sau khi giới thiệu sơ lược hoàn cảnh gia đình “nàng”, nhà thơ đã chia sẻ về sự bắt đầu cho chuyện thành đôi. Đó là sự bắt đầu từ tình cảm chân phương mà người chiến sĩ dành cho “nàng” như tình cảm dành cho một người em gái bé nhỏ:

“Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh….
Tôi người Vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái”

Sống trong hoàn cảnh xa gia đình, lại là người chiến sĩ cách mạng dù chiến đấu ở bất kì một nơi nào cũng đau đáu hình bóng quê nhà, thế nên dễ hiểu “tôi” rất trân trọng tình cảm mà đồng bào, mọi người dành cho mình. Do đó, mỗi một nơi mà người lính đặt chân qua, những người mà họ từng tiếp xúc đều để lại trong họ những ấn tượng sâu đậm.

Người lính trong bài thơ, bằng sự cảm mến dành cho người con gái tuổi xuân thì có mái tóc “xanh xanh”, anh đã rất mừng lòng khi tình cảm ấy của anh và “nàng” lại hữu duyên gắn kết bền lâu. Thế rồi, họ đã tay trong tay đi đến ngày chung đôi, dù đơn sơ nhưng thật hạnh phúc:


“Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hàn quân
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo”

Cô dâu ngày thành đôi hiện lên với những vẻ đẹp thật đáng quý. Trong ngày cưới của một người con gái, họ có quyền xuất hiện thật lung linh như một nàng công chúa để sánh bước bên hoàng tử của cuộc đời mình và ra mắt họ hàng, bạn bè đôi bên. Thế nhưng nàng dâu mới này lại không hề đòi hỏi cho mình những điều chính đáng ấy, ngay cả chiếc áo mới cho cô dâu, nàng cũng không đòi may.

Có lẽ nàng hiểu hoàn cảnh vào thời điểm diễn ra đám cưới, mọi người cũng đang phải đối diện với những cam go, thách thức của chiến tranh nên đám cưới nếu được thì nên tổ chức tối giản nhất có thể. Lễ phục của chú rể cũng rất đặc biệt với“đồ quân nhân” và “đôi giày đinh” – “bết bùn đất hành quân”. Ấy vậy mà “nàng” vẫn không hề muộn phiền mà trái lại còn bộc lộ niềm hạnh phúc trên miệng “cười xinh xinh” khi sánh bên anh chồng “độc đáo”.

Thành hôn trong thời chiến, đôi lứa yêu nhau phải chấp nhận viễn cảnh phải hi sinh tình cảm riêng tư để vẹn tròn việc nước. Chính khoảng thời gian ngắn ngủi bên nhau cùng với hoàn cảnh không tránh khỏi sự hi sinh, mất mát trong chiến tranh đã làm dâng lên trong lòng người chiến sĩ mới lập gia đình những lo lắng về sự hợp – tan. Suy nghĩ ấy dường như lúc nào cũng thường trực trong lòng anh, nhất là những lúc ở chiến khu xa mà “nhớ về ái ngại”, lo lắng lại trào dâng khôn nguôi:

“Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê …”

Những vần thơ trên đã nói lên hết nỗi lòng của người chiến sĩ khi anh đặt mình vào vị trí của vợ. Anh rất sợ những cái “nhỡ” kia sẽ trở thành sự thật. Quả thật sinh mệnh của con người trong thời chiến binh chỉ là những gì rất mỏng manh, leo lét bởi nó có thể bị sự tàn khốc, ác liệt của cuộc chiến làm cho đứt rời rất nhanh chóng, dễ dàng.

Tuy nhiên, nhắc đến sự hi sinh, ta không thấy mảy may sự nghẹn ngào của người chiến sĩ cho chính thân phận mình mà lại quan tâm đến cảm xúc của những “người vợ chờ” – “bé bỏng chiều quê”. Tưởng tượng đến điều không may ấy, anh rất cảm thương cho số phận của họ vì đời người phụ nữ khi thành hôn có lẽ cũng chỉ mong có một mái ấm hạnh phúc, có một điểm tựa để được yêu thương, che chở.

Nhưng lấy chồng trong thời chiến, cuộc đời ấy của họ như bị đem vào đánh cược với những được – mất, may – rủi khó lòng đoán trước. Bản thân những người chồng khi ngóng về quê nhà, họ cũng hiểu rằng ở nơi đó có những người luôn chờ đợi mình trở về, nhưng tương lai về ngày đoàn viên ấy, ngay chính anh cũng không thể hứa hẹn trước điều gì.

Sự ra đi của người vợ bé bỏng

Cảm nhận Màu tím hoa sim Hữu Loan ta thấy người chiến sĩ ở phương xa luôn canh cánh một nỗi lo về sự hi sinh không lường trước được của đời lính sẽ mang lại những đau đớn khôn nguôi cho những người thân thương chốn quê nhà. Thế nhưng, đến trong mơ, anh cũng không thể tưởng tượng được, điều anh lo là “Nhỡ mình không về” thì không xảy ra mà khi anh trở về, anh không còn cơ hội gặp lại người vợ yêu thương của mình nữa:

Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối”


Cái chết của “người gái nhỏ hậu phương” được kể ra bằng giọng ức nghẹn của nhân vật trữ tình. Cái chết ấy nói lên một nghịch cảnh phi lí, ngang trái mà số mệnh đã giáng xuống hạnh phúc lứa đôi. Khói lửa nơi chiến trường chưa thể tước đoạt mạng sống của người chiến sĩ như lẽ thường trong thời chiến nhưng sự đột ngột của cuộc đời lại cướp đi sinh mệnh của người vợ bé bỏng, thân thương.

Cuộc hôn nhân chưa kịp đắp bồi cho trọn vẹn thì đôi lứa lại lìa tan. Ngày người vợ tiễn chồng ra tiền phương đâu hay lại là ngày cuối cùng gặp gỡ. Hình ảnh người mẹ “ngồi bên mộ con đầy bóng tối” mà người chiến sĩ nhìn thấy ngày trở về chốn cũ có lẽ sẽ mãi là hình ảnh ám ảnh, đau đớn nhất của cuộc đời anh. Câu thơ diễn tả khung cảnh lúc trở về bị ngắt ra thành từng nhịp nhỏ như tái hiện lại tiếng nấc đau đớn, ngỡ ngàng trong hoàn cảnh trớ trêu.

Bẽ bàng hơn nữa, đau đớn hơn nữa có lẽ được gợi ra từ hình ảnh “chiếc bình hoa ngày cưới” với sắc màu tươi thắm thể hiện niềm hi vọng cho sự thành đôi được viên mãn thì giờ đây lại trở thành “bình hương tàn lạnh vây quanh”. Tất cả còn lại trong lòng người bộ đội lúc này là sự tiếc thương về hạnh phúc được làm vợ của người con gái tuổi xuân xanh chưa tày gang chưa trọn mà phút cuối biệt ly lại cách xa vời vợi:

“Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần”

Và vóc dáng bé nhỏ, đáng yêu trong chiếc áo màu tím, niềm yêu thích dành cho loài hoa sim cùng hình bóng ân cần ngồi vá áo cho chồng chỉ còn lại trong hai tiếng “ngày xưa”:

“Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
Một mình đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa…”

Trong lòng những người thân, sự ra đi của nàng cũng để lại những tổn thương to lớn. Với ba người anh trai đang chiến đấu trên chiến trường, tin dữ “em gái mất” còn đến trước cả tin “em lấy chồng”, với đứa em gái nhỏ chưa biết nói năm nào, giờ chỉ còn có thể hình dung gương mặt chị qua tấm ảnh. Những điều ấy khiến cho nỗi đau mất mát còn nhân lên gấp bội.

Rừng sim và câu chuyện tình tôi của tác giả

Ở phần sau Màu tím hoa sim Hữu Loan, nhà thơ đã nhắc nhiều đến loài hoa sim tím, nhất là trên chặng đường hành quân có duyên gặp thấy:

“Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết”

Sắc tím trải dài cũng như nỗi nhớ da diết khôn nguôi về một bóng hình đã khuất xa. Màu tím hoa sim được gọi nhắc nhiều có lẽ là vì đó là màu mà vợ người chiến sĩ rất yêu quý bởi nó gợi tình nghĩa thủy chung và nhớ mong chờ đợi. Thế nên, sắc màu nhuộm thắm trong không gian bao nhiêu thì cũng bát ngát trong lòng người trai khói lửa bấy nhiêu. Chỉ có một điều, ngoài những ý nghĩa thể hiện tấm lòng son sắt, chân thành thì sắc tím ấy giờ đây còn là màu của sự chia phôi, biệt ly và nước mắt:

“Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu”

Cảm nhận Màu tím hoa sim Hữu Loan, ta thấy những câu thơ vang lên thật day dứt, nghẹn lòng và đặc biệt đoạn nhắc đến hình ảnh chiếc áo trong dòng viết có ý tứ của ca dao “Áo anh sứt chỉ đường tà” – “Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu” đã cho thấy đớn đau tột độ trước sự đứt gánh của duyên vợ chồng khi những niềm hạnh phúc của hôn nhân – người chiến sĩ chỉ được đón nhận trong phút chốc.

Gửi đến bạn đọc những bài thơ tâm trạng ❤️️ Thơ Lang Thang Một Mình Lối Xưa Trống Vắng ❤️️ hay nhất.

Viết một bình luận