Bài Thơ Ngày Xưa Hoàng Thị ❤️️ Nội Dung, Ý Nghĩa, Cảm Nhận ✅ Thohay.vn Chia Sẽ Bạn Đọc Những Bài Văn Cảm Nhận, Phân Tích Tác Phẩm Hay.
NỘI DUNG CHÍNH
Nội Dung Bài Thơ Ngày Xưa Hoàng Thị
Bài thơ: Ngày xưa Hoàng Thị
Tác giả: Phạm Thiên Thư
Em tan trường về
Đường mưa nho nhỏ
Chim non giấu mỏ
Dưới cội hoa vàng
Bước em thênh thang
Áo tà nguyệt bạch
Ôm nghiêng cặp sách
Vai nhỏ tóc dài
Anh đi theo hoài
Gót giầy thầm lặng
Đường chiều úa nắng
Mưa nhẹ bâng khuâng
Em tan trường về
Cuối đường mây đỏ
Anh tìm theo Ngọ
Dáng lau lách buồn
Tay nụ hoa thuôn
Vương bờ tóc suối
Tìm lời mở nói
Lòng sao ngập ngừng
Lòng sao rưng rưng
Như trời mây ngợp
Hôm sau vào lớp
Nhìn em ngại ngần
Em tan trường về
Đường mưa nho nhỏ
Trao vội chùm hoa
Ép vào cuối vở
Thương ơi vạn thuở
Biết nói chi nguôi
Em mỉm môi cười
Anh mang nỗi nhớ
Hè sang phượng nở
Rồi chẳng gặp nhau
Ôi mối tình đầu
Như đi trên cát
Bước nhẹ mà sâu
Mà cũng nhoà mau
Tưởng đã phai màu
Đường chiều hoa cỏ
Mười năm rồi Ngọ
Tình cờ qua đây
Cây xưa vẫn gầy
Phơi nghiêng ráng đỏ
Áo em ngày nọ
Phai nhạt mấy màu?
Chân tìm theo nhau
Còn là vang vọng
Đời như biển động
Xoá dấu ngày qua
Tay ngắt chùm hoa
Mà thương mà nhớ
Phố ơi muôn thuở
Giữ vết chân tình
Tìm xưa quẩn quanh
Ai mang bụi đỏ
Dáng em nho nhỏ
Trong cõi xa vời
Tình ơi tình ơi!
Thohay.vn Tặng Bạn ❤️️Những Câu Thơ Tình Yêu Dễ Thương ❤️️ Ngọt Ngào Nhất
Ý Nghĩa Bài Thơ Ngày Xưa Hoàng Thị
Bài thơ Ngày Xưa Hoàng Thị nói về 1 kỷ niệm, một mối tình thoảng nhẹ vu vơ thời trai trẻ của tác giả.
Đôi Nét Về Tác Giả Phạm Thiên Thư
Đôi Nét Về Tác Giả Phạm Thiên Thư
– Phạm Thiên Thư tên khai sinh là Phạm Kim Long (1/1/1940) là một nhà thơ Việt Nam.
– Năm 14 tuổi, ông theo mẹ di cư vào miền Nam, ngụ tại khu Tân Định. Sau khi học xong tú tài, khác với nhiều người Phạm Thiên Thư chọn cửa Phật là chốn dừng chân.
– Ông theo học Trường Phật học Vạn Hạnh, gửi hồn trong lời kinh tiếng kệ, vì vậy nên ông có kiến thức khá thâm thúy về đạo Phật.
– Năm 1943-1951, ông sống ở trang trại Đá Trắng, Chi Ngãi, Hải Dương.
– Năm 1954 cho đến nay, ông cư ngụ ở Sài Gòn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh).
– Sau 1975, Phạm Thiên Thư lui về ở ẩn. Từ năm 1976 đến 1981, để mưu sinh, Phạm thi sĩ mở quán hớt tóc ở Lăng Cha Cả.
– Giai đoạn 1981 – 1983, ông bán tạp hoá, rượu thuốc, trà đá ở đường Lý Chính Thắng.
– Sau 1983, Phạm Thiên Thư nghiên cứu, sáng lập và truyền bá môn dưỡng sinh Phathata (Pháp – Thân – Tâm).
Những Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Ngày Xưa Hoàng Thị Hay Nhất
Những Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Ngày Xưa Hoàng Thị Hay Nhất.
Mẫu Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Ngày Xưa Hoàng Thị Đặc Sắc
Tình cờ quay về chốn cũ, bùi ngùi ghi lại nỗi lòng khi nhớ đến người xưa. Phạm Thiên Thư bắt đầu bài thơ bằng kỷ niệm của mười năm quá khứ, khiến lòng người đọc bị chùng xuống, tuy “nhẹ” mà “sâu”, khi bị kéo dần về hiện tại. Quả tài tình khi sắp xếp ý tứ như vậy, làm bài thơ tuy buồn nhưng lại rất êm, rất đẹp, rất duyên.
Bốn chữ “Tình ơi! Tình ơi!” ở câu cuối tạo nên cảm giác lâng lâng, giúp ta quên hết mọi vết hằn cát bụi của cuộc đời, để chỉ còn nhớ đến một hình ảnh nên thơ, dù đã chìm sâu trong vùng ký ức.
Nhớ đến Ngày Xưa Hoàng Thị, là nhớ đến hình ảnh vụng trộm theo vết chân nhau của tuổi học trò; những vết chân nhẹ êm bẻn lẻn, nhưng vĩnh hằng in dấu trong tim.
Những tưởng Phạm Thiên Thư đã chân tình tỏ bày tâm sự, nhưng hình như ta vẫn thấy đâu đó một chút gập ghềnh trong ý tứ. Phải chăng Phạm Thiên Thư vẫn còn cất giấu những nỗi niềm riêng?
Đúng vậy!
Có thể nói rằng, Phạm Duy là người đầu tiên đã giải mã được những ẩn ngữ, để từ đó mở toang cánh cửa hồn thơ, thấy được tình ý mà Phạm Thiên Thư gởi gắm trong đó.
Vậy đâu là những ẩn ngữ chất chứa ẩn ý của Ngày Xưa Hoàng Thị?
“Em tan trường về”, “Đường mưa nho nhỏ”, “anh đi theo hoài”, là ba câu trong 16 câu thơ đầu tiên, cho ta thấy được bối cảnh của một trời kỷ niệm.
“Chim non giấu mỏ”, “áo tà nguyệt bạch”, “anh tìm theo Ngọ”, “dấu lau lách buồn”, chính là bốn câu thơ chứa các từ khóa mà chúng ta phải giải mã.
“Áo tà nguyệt bạch” tuy là câu thơ thứ hai trong thứ tự các câu thơ chứa ẩn ngữ, nhưng lại là câu cốt lõi của vấn đề, câu đầu tiên cần phải giải mã.
Khi độ sắt bén của lưỡi dao gần như không còn nữa, người Huế gọi là “dao tà”. Lúc hoàng hôn, khi ánh nắng chiều gần như biến mất, gọi là “ánh chiều tà”, hay “ánh tà dương”. Vì vậy, “áo tà” ở đây không thể hiểu là tà của chiếc áo dài, mà phải hiểu là sự gần như biến mất của chiếc áo dài.
Các cô nữ sinh áo trắng Đồng Khánh Huế chắc hiểu điều này hơn ai hết. Với các cô, mưa là ác mộng và ướt áo là tai họa. Khi bị ướt, chiếc áo dài trắng kín đáo thường ngày bỗng chốc hóa mỏng hơn, trong ra và bám sát vào da thịt, để lộ ra tất cả sắc màu và những đường cong tuyệt mỹ của tạo hóa. Sự “áo tà” tinh quái này đã biến người nữ sinh “tà áo” trắng thành tuyệt tác của thơ mộng ngất ngây.
Ôi đường nét! Ôi làn da!
Đó chính là cái tình ý dí dỏm đáng yêu của Phạm Thiên Thư.
Có khiêm cưỡng khi diễn nghĩa như thế hay không? Xin thưa: Không. Bởi “nguyệt bạch” minh chứng cho điều đó. “Bạch” ở đây không phải là màu trắng, mà là sự trống rỗng, tỏ, rõ. Có phải chăng “áo tà nguyệt bạch”, khi áo quần gần như biến mất, cơ thể nàng Nguyệt Nga đã bị sự trống rỗng phơi bày, tỏ hơn, rõ ra!
Không thể nói Phạm Thiên Thư đã vô tình khi dùng hai từ “tà” và “bạch” trong cùng một câu như thế này. Rõ ràng là một sự cố tình diễn tả hình ảnh khiêu gợi của thân thể người con gái.
Sẽ không khó khăn lắm để hiểu ý “áo tà nguyệt bạch”, nếu người đọc không bị hình ảnh thiền sư của Phạm Thiên Thư đánh lừa. Tuy nhiên, chiếc áo lam không đủ độ dày để che mắt Phạm Duy. Ông đã thấy ngay hình ảnh khêu gợi đó, nên khi phổ nhạc, ông đã không đưa “áo tà nguyệt bạch” vào bản nhạc; cho dù, đây là điểm đắc ý nhất của bài thơ. Thay vào đó, Phạm Duy đã dùng câu “tóc dài tà áo”, để vẽ thân hình người con gái, từ trên xuống dưới một cách kín đáo hơn.
Có khiêm cưỡng khi đưa ra nhận định như thế hay không? Xin thưa: Không. Nếu đã biết “em tan trường về” khi “đường mưa nho nhỏ”, người tinh ý sẽ thấy ngay hình ảnh “em” sẽ như thế nào, cần gì phải nói ra. “Áo tà”, “nguyệt bạch” là từ khóa, nhưng cũng là chìa khóa để mở tung tất cả những ẩn ngữ khác trong bài thơ. Phạm Duy không đưa chiếc chìa khóa “áo tà nguyệt bạch” vào nhạc phẩm Ngày Xưa Hoàng Thị là vì vậy.
Ngược lại, vì rung động với “áo tà nguyệt bạch”, Phạm Duy đã khai thác ý “Ngọ” và “dấu lau lách buồn” một cách tinh quái hơn ở đoạn sau.
“… Chim non giấu mỏ
Dưới cội hoa vàng…”
Tại sao chú chim non không bay nhảy trên cành, lại sà xuống dưới cội hoa vàng? Tại sao không cất tiếng hót líu lo, lại phải chúi đầu xuống đất để giấu mỏ? Cái mỏ của chú làm chi nên tội để phải giấu nó đi?
Áo tà nguyệt bạch – Anh còn ngẫn ngơ, ngẫn ngơ
“Chim non giấu mỏ” làm ta liên tưởng đến hình ảnh của một chú bé đang quỳ gối, chắp tay xưng tội. Tội tình chi nhỉ?
Thử hỏi: Có phải chăng thi phú tự ngàn xưa vẫn ví von người con gái như một khu vườn kỳ diệu đầy hoa thơm, trái ngọt?
Ồ! Thế mới hiểu tại sao chú học trò mới lớn Phạm Thiên Thư buộc chú “chim non” phải “giấu mỏ” trước tuyệt tác “áo tà nguyệt bạch”. Thèm thuồng lắm, khát khao lắm, nên phải “giấu mỏ” vì sợ không thể kềm hãm lửa tình rạo rực mà đâm ra… mổ bậy, cắn càn.
Phạm Duy đã làm hình ảnh chim non giấu mỏ này dí dỏm, thú vị hơn. Không như Phạm Thiên Thư để chú chim non tự biết tội, tự giấu mỏ dưới cội hoa vàng, Phạm Duy lại ra lệnh: “Nằm im – Giấu mỏ!” bên lề đường. Ấy mới thêm vạn phần tội nghiệp!
Áo tà nguyệt bạch – Mười năm rồi Ngọ!
“Dấu lau lách buồn” có thực sự nói về tâm trạng của Phạm Thiên Thư không? Buồn khi len lén đi theo người con gái mình thương lúc tan trường về là một trạng thái tâm lý bất hợp lý. Càng bất hợp lý hơn khi câu trên là “mưa nhẹ bâng khuâng”. Phạm Thiên Thư có thể ngại ngùng, ngập ngừng, hồi hộp, rung động, xao xuyến, lâng lâng,… nhưng không thể buồn. Nếu ngày mai em lên xe hoa về nhà chồng, Phạm Thiên Thư thất tình mà than buồn là điều thông cảm. Nhưng nào phải thế, hà cớ gì lại than buồn? Lại than cho một nỗi buồn “lau lách”!
Tại sao “lau lách”? Tại sao lại có một trạng thái tâm lý, vừa như mặc cảm, vừa như tinh nghịch, buộc người đọc liên tưởng đến đám “cỏ gà” của Hồ Xuân Hương?
“Dấu lau lách buồn” là cả một một trời thú vị. Để hiểu được điều này, ta phải giải mã Ngọ.
Giai thoại văn chương trước nay có tên Hoàng thị Ngọ, là người con gái tóc thề áo trắng “em tan trường về, anh theo Ngọ về” của Phạm Thiên Thư. Thậm chí, nhiều người tự nhận mình là Hoàng Thị Ngọ, hay biết Hoàng Thị Ngọ là ai.
Thật vậy sao?
“Em tan trường về, anh theo Ngọ về” là Ngày Xưa Hoàng Thị của Phạm Duy, chứ không phải Ngày Xưa Hoàng Thị của Phạm Thiên Thư. Phạm Thiên Thư chỉ hai lần nói đến Ngọ. “Mười năm rồi Ngọ” không hẳn nói với người con gái tên Ngọ. Cũng như, Nguyễn Ánh 9 không hẳn đã có một người bạn tên Buồn bằng xương bằng thịt, khi ông nói: Buồn ơi! Ta xin chào mi!
Một lần khác Phạm Thiên Thư nói đến Ngọ trong câu “Anh tìm theo Ngọ”, vẫn không đủ để nói người con gái đó tên Ngọ.
Nếu người con gái đó tên Ngọ, sẽ là một điều vô cùng phi lý. Phi lý vì, tại sao Phạm Thiên Thư đang lẽo đẽo đi theo cô Ngọ, lại thốt lên “Anh tìm theo Ngọ”? Trước mặt đó, sao còn phải tìm? Khi đang đi theo thì không thể nói là “tìm theo” được. “Tìm theo” ở đây là tìm theo một cái gì đó khác hẳn hình bóng người con gái mà Phạm Thiên Thư đang đi theo, và hằng ngày “theo hoài”.
Anh tìm theo Ngọ
Dấu lau lách buồn.
Như hai câu trên, nếu người con gái đó đúng tên là Ngọ, sẽ có hai điều đáng bàn. Thứ nhất, Phạm Thiên Thư dốt chữ. Thứ hai, chắc hẳn cô Ngọ phải tệ lắm.
Chính Phạm Duy là người đã giải mã, đã hiểu được tình ý tinh nghịch của Phạm Thiên Thư trong hai câu thơ này, nên khi phổ nhạc, ông đã khai diễn để tăng phần thú vị.
Sau đây là Ngày Xưa Hoàng Thị của Phạm Duy:
Anh theo Ngọ về
Chân anh nặng nề
Lòng anh nức nở
Mai vào lớp học
Anh còn ngẩn ngơ, ngẩn ngơ.
Theo sát sau Ngọ là “dấu lau lách buồn” của Phạm Thiên Thư, được thay thế, cũng theo sát sau Ngọ là “chân anh nặng nề, lòng anh nức nở” của Phạm Duy.
Hình ảnh người con trai âm thầm lẻo đẻo đi theo người con gái mình thương lúc tan trường về là hình ảnh rất dễ thương, đầy thơ mộng của mối tình học trò, tại sao lại đớn đau như vậy?
Ngọ là gì để ngay sau Ngọ là cả một trời thống khổ của buồn lau lách, chân nặng nề, lòng nức nở?
Vậy Ngọ là gì?
Nói đến Ngọ, các chàng thư sinh Quốc Học kề bên trường nữ sinh Đồng Khánh Huế không thể không biết. Trong cái tuổi thanh xuân đầy tràn sức sống đó, có anh nào mà không biết Ngọ cơ chứ.
Tuổi mới lớn sung sức cương cường này thường hay rơi vào trạng thái căng thẳng vô cớ, lắm lúc hiên ngang dỡ khóc dỡ cười. Tinh thần cảnh giác trời xanh cao độ đến nỗi nhiều đêm bắn máy bay lung tung. Bắn không cần mục tiêu, còi báo động hay lệnh cấp trên mới khốn khổ, khốn nạn.
Tình trạng căng thẳng đó thường được gọi là gì nhỉ? Có phải “đồng hồ chỉ 12 giờ” không? 12 giờ có phải là giờ Ngọ không?
Hóa ra, Ngọ là bóng gió chữ nghĩa của Phạm Thiên Thư.
Và, Ngọ ở đây không ai khác ngoài… Phạm Thiên Thư!
“Anh theo Ngọ về” trong Ngày Xưa Hoàng Thị của Phạm Duy, ta phải hiểu “Anh theo / Ngọ về” mới thấy hết cái tình ý tinh nghịch thú vị nhưng nhẹ nhàng thi vị của cả Phạm Duy và Phạm Thiên Thư. Ý rằng: Anh theo chân người em gái áo trắng, tóc thề trong một ngày mưa. Ôi đẹp biết bao! Trước cảnh ngất ngây “áo tà nguyệt bạch” đó, dục tình dâng trào, Ngọ vụt hiện về…
Và…
Thú vị hơn khi ta thấy ngay sau Ngọ là “dấu lau lách buồn”. Điều gì đã để lại dấu vết một cách “lau lách” làm Phạm Thiên Thư phải “buồn”? Có phải chăng Phạm Thiên Thư là vị tướng chưa xuất chinh đã “khóc ngoài quan ải”?
Phạm Duy không đưa câu “áo tà nguyệt bạch” vào nhạc phẩm Ngày Xưa Hoàng Thị để người nghe không thể hiểu được ý ban đầu mà giải mã các ý sau. Ngược lại, Phạm Duy đã thích thú lập lại ý Ngọ đến bốn lần. Đồng thời, Phạm Duy đã làm rõ nghĩa “dấu lau lách buồn” bằng “chân anh nặng nề, lòng anh nức nở” một cách táo tợn hơn. Ta càng thấy thích thú hơn khi Phạm Thiên Thư, hôm sau vào lớp, chỉ dám “nhìn em ngại ngần” của một cậu con trai mới lớn chưa biết cái chi chi; trong khi Phạm Duy sành đời í a “ngẫn ngơ, ngẫn ngơ” với “dấu lau lách buồn” tinh quái đó!
Các bà, các cô tự nhận mình là Hoàng Thị Ngọ đang cầm chắc trong tay một bé cái lầm. Hoàng Thị Ngọ Ấy-Em hay Hoàng Thị Ngọ Bi-Em cũng thế mà thôi! Giai thoại văn chương làm chi cho thêm khổ! Càng nhìn mình là Ngọ, càng tội tình cho chú bé Phạm Thiên Thư!
Có hồ đồ lắm không khi diễn giải Ngọ như thế này, khi chính Phạm Thiên Thư công nhận người con gái đó thật tên Hoàng Thị Ngọ; một bà tên Hoàng Dược Thảo tự nhận mình chính là người thơ tên Ngọ, và một người khác nữa tên Đỗ Thị Mai Trinh?
Xin thưa: Không.
Không, vì ở đây chúng ta chỉ tìm hiểu Ngọ của Ngày Xưa Hoàng Thị chứ không phải của Phạm Thiên Thư. Người thơ của Phạm Thiên Thư tên Hoàng Thị Ngọ, Hoàng Dược Thảo, Đỗ Thị Mai Trinh, hay bất cứ tên gì đi chăng nữa cũng không phải là điều quan trọng. Tác giả là tác giả, tác phẩm là tác phẩm, và chúng ta chỉ phân tích tác phẩm mà thôi.
Ngôn từ trong thi phẩm Ngày Xưa Hoàng Thị cho thấy, Ngọ không phải là người thơ, mà là một trạng thái tâm sinh lý của tác giả Phạm Thiên Thư.
Có thể Phạm Thiên Thư không chủ đích tả cảnh đáng yêu “áo tà nguyệt bạch” trên thân thể người nữ sinh áo trắng trong một ngày mưa.
Có thể Phạm Thiên Thư không chủ đích nói đến khát khao dục vọng, đến nỗi phải tự kìm hãm mình bằng “chim non giấu mỏ”.
Có thể Phạm Thiên Thư không chủ đích nói lên sự rạo rực dục tình của mình qua hình ảnh “Ngọ… dấu lau lách buồn”.
Có thể!
Nhưng nào nghĩa lý gì!
Ngôn từ trong Ngày Xưa Hoàng Thị cho thấy rằng, dù không nói ra bằng ý thức, Phạm Thiên Thư cũng đã nói ra qua vùng hạ ý thức của mình.
Chính hạ ý thức kích hoạt rung động, hứng khởi cho mọi sáng tạo nghệ thuật. Muốn tác phẩm có hồn, người nghệ sĩ phải xuất hồn khi sáng tạo, và chính hạ ý thức đã làm nên điều kỳ diệu đó.
“Anh tìm theo Ngọ” là tiếng hổn hển cùa vùng rung động hạ ý thức này.
Phù thủy Phạm Duy đã sớm bắt mạch được giây phút rung động hạ ý thức mà Phạm Thiên Thư đã tài tình gài kín, để từ đó giải mã, vỗ đùi cười òa:
_ Chú mày qua mặt được ai chứ đừng hòng qua mặt được ta! Chú mày gớm thật!
Phạm Duy mở khóa, nhập vào hồn thơ Phạm Thiên Thư, cùng chiêm ngưỡng sắc hương “áo tà nguyệt bạch”, cùng thở hổn hển “anh tìm theo Ngọ, dấu lau lách buồn”, cùng khốn khổ “giấu mỏ” trong rạo rực thèm khát,… Rồi từ đó, Phạm Duy xuất hồn phù thủy, biến cô bé lọ lem của Phạm Thiên Thư thành một cô công chúa tuyệt vời.
Ngâm Ngày Xưa Hoàng Thị của Phạm Thiên Thư, nghe Ngày Xưa Hoàng Thị của Phạm Duy mới thấy rằng, trong mỗi chúng ta, ai cũng có một Ngày Xưa Hoàng Thị.
Mẫu Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Ngày Xưa Hoàng Thị Trong Bài Hay Của Phạm Duy Hay
“Ngày xưa Hoàng Thị” là tên một bài thơ được thi sĩ Phạm Thiên Thư sáng tác và nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc năm 1971.
Với ca từ trong sáng và tinh khôi, đã được khán giả yêu nhạc đón nhận nồng nhiệt. Thời đó ai cũng yêu và thuộc lời bài hát này, đặc biệt là giới học sinh trung học, vì hình như là ai cũng có một nàng Hoàng Thị của riêng mình:
Em tan trường về, đường mưa nho nhỏ
Em tan trường về, đường mưa nho nhỏ
Ôm nghiêng tập vở, tóc dài tà áo vờn bay…
Em đi dịu dàng, bờ vai em nhỏ
Chim non lề đường nằm im giấu mỏ
Anh theo Ngọ về, gót giầy lặng lẽ đường quê…
Hình ảnh cô nữ sinh đi học về ôm nghiêng tập vở tóc dài tà áo cùng vờn bay theo làn gió, đã làm xao xuyến bao trái tim của những chàng trai “đứng ngẩn trông vời áo tiểu thư” ngày xưa. Bờ vai nhỏ dịu dàng, gót giày lặng lẽ của người em học trò trong từng buổi chiều tan trường làm ngơ ngẩn kẻ si tình trên bước đường đi theo.
Gót giày kia lặng lẽ cũng giống như mối tình thơ không dám ngỏ, chỉ có bầy chim non giấu mỏ và hàng cây bên đường mấy mùa thay lá mới biết và cảm thương cho tâm tình của chàng trai, đã bao nhiêu ngày anh âm thầm gõ dấu giày của mình trên con đường tình học trò trong suốt thời trẻ dại với cuộc tình thinh lặng và ngây ngô.
Có thể nói rằng, vào những năm của thập kỷ 1970, bài thơ “Ngày Xưa Hoàng Thị..” là một tuyệt tác. Sau khi Phạm Duy phổ nhạc, tác phẩm đã trở thành một hiện tượng tại miền Nam:
Em tan trường về, anh theo Ngọ về
Chân anh nặng nề, lòng anh nức nở
Mai vào lớp học, anh còn ngẩn ngơ, ngẩn ngơ…
Em tan trường về, mưa bay mờ mờ
Anh trao vội vàng, chùm hoa mới nở
Ép vào cuối vở muôn thuở còn thương, còn thương
Chiều nay, cũng ở trên con đường quen thuộc, cũng với bước chân ngần ngại theo người, sao chân anh bỗng nghe “nặng nề”, lòng anh nghe “nức nở”. Ca từ cũng là lời thơ biến đổi sự khác biệt của cảnh vật với lòng người khiến tâm trạng, cảm xúc của người nghe nhạc dâng cao, cảm nhận được tấm lòng sâu nặng và chân tình của chàng trai từ từng bước nặng nề và tiếng lòng nức nở. Chỉ là tình đơn phương thôi mà dạt dào thiết tha đến như vậy, đây mới chính là tình yêu chân thành dành hết cho “Ngọ” mỗi buổi tan trường, để mai vào lớp học anh còn ngẩn ngơ
Em tan trường về, trên bước đường có mưa bay mờ mờ làm cho khung cảnh càng thêm thi vị, dễ khắc sâu vào hoài niệm dấu yêu cái thuở ban đầu. Và khúc hát “Anh trao vội vàng chùm hoa mới nở. Ép vào cuối vở muôn thuở còn thương” là điệp khúc thân quen của những mối tình thời áo trắng nhiều ngượng ngập, e dè nhưng tha thiết dài lâu. Chùm hoa mới nở như cuộc tình mới nở trao cho người muôn thuở còn thương, hoa đã ép vào giấy vở học trò rồi như tình yêu trong trắng ép mãi vào lòng biết thuở nào mới quên.
Em tan trường về, anh theo Ngọ về
Em tan trường về, anh theo Ngọ về
Môi em mỉm cười mang mang sầu đời tình ơi
Bao nhiêu là ngày theo nhau đường dài
Trưa trưa chiều chiều, Thu Ðông chẳng nhiều
Xuân qua rồi thì chia tay phượng nở sang Hè.
Em tan trường về, anh theo Ngọ về. Có đôi khi thấy môi em mỉm cười bâng quơ một mình mà anh lại nghe được nỗi “mang mang sầu đời”. Nghe như dự cảm về một một tình sầu mang mang thiên cổ từ môi người tươi thắm, đem đến cho chàng trai si tình một “nỗi buồn thơm lâu” vương vấn dư hương mãi mãi về sau này..
“Bao nhiêu là ngày theo em đường dài”. Con đường em tan trường về, anh theo nàng về ngày vẫn theo ngày, con đường tình học trò anh đã theo em hết trọn cả bốn mùa xuân hạ thu đông. Rồi cũng đến mùa chia tay, phượng nở màu tan vỡ theo những cuộc tình e ấp thơ ngây của thuở ban đầu.
Rồi ngày qua đi,
qua đi…
qua đi…
Như phai nhạt mờ đường xanh nho nhỏ
Như phai nhạt mờ đường xanh nho nhỏ
Hôm nay tình cờ đi lại đuờng xưa, đường xưa
Cây xưa còn gầy nằm phơi dáng đỏ
Áo em ngày nọ phai nhạt mấy mầu
Âm vang thuở nào bước nhỏ tìm nhau, tìm nhau.
Chia tay kể từ mùa hè cuối cùng, rồi ngày tháng qua đi, tình cờ anh về lại đường xưa “như phai nhạt màu đường xanh nho nhỏ”. Hình ảnh “cây xưa nằm phơi dáng đỏ” thật buồn, từ cảnh vật còn đó mà người xưa nay ở đâu, được phớt nhẹ nét vẽ nhẹ nhàng “còn gầy nằm phơi dáng đỏ” sao nghe sâu lắng cả nỗi niềm hoài nhớ.
Đường xanh nho nhỏ, và bước nhỏ tìm nhau nghe u hoài về nỗi tình xa vắng âm vang một thuở tìm nhau. Thời gian phũ phàng đi qua và chàng trai trở về lại đường xưa lối cũ, nhìn hàng cây xưa còn gầy nằm ghi dấu từng kỷ niệm bên đường, tự hỏi: “áo em ngày nọ phai nhạt mấy màu”.
Áo ngày xưa chỉ một màu trắng đơn sơ nguyên mộng trắng trong, còn áo em bây giờ chắc đã phai mấy màu qua dập vùi dâu bể nổi trôi theo bóng sắc mù bụi cuộc đời.
Xưa tan trường về anh theo Ngọ về
Nay trên đường này đời như sóng nổi
Xóa bỏ vết người chân người tìm nhau, tìm nhau
Ôi con đường về,
ôi con đường về
Bông hoa còn đẹp lòng sao thấm mệt
Ngắt vội hoa này nhớ người thuở xưa, thuở xưa
Xưa tan trường về anh theo Ngọ về bình yên và thơ mộng bao nhiêu, thì nay cũng trên con đường này đời như sóng nổi bấy nhiêu. Sóng nổi ở ngoài đời và sóng cũng nổi trong lòng, khi dấu chân người tìm nhau ngày nào bây giờ đã mất hút.
“Bông hoa còn đẹp lòng sao thấm mệt”, nghe như trên bước bôn ba cuộc đời, chàng trai nhận ra tuổi hoa niên của mình đã đánh mất, thời hoa mộng chỉ còn trong tưởng tiếc. Dòng đời đổi thay, duy chỉ bông hoa đầu đời kia mãi còn đẹp như chuyện tình Ngày xưa Hoàng thị.
Xưa tan trường về anh theo Ngọ về
Xưa tan trường về anh theo Ngọ về
Ðôi chân mịt mù theo nhau bụi đỏ đường mơ.
Xưa theo Ngọ về mái tóc Ngọ dài
Hôm nay đường này cây cao hàng gầy
Ði quanh tìm hoài, ai mang bụi đỏ đi rồi?
Ai mang bụi đỏ đi rồi?
“Xưa tan tường về anh theo Ngọ về”, còn bây giờ một mình anh về lại cây cao hàng gầy xưa để mà nhớ để mà thương hình bóng cũ. Ngỡ như “đôi chân mịt mù theo nhau bụi đỏ đường mơ”. Con đường xưa vẫn còn đó, người xưa đã xa vắng rồi, nhưng “đường mơ” vẫn mãi còn trong ký ức dẫu năm tháng phai nhòa đi một thời theo nhau, tìm nhau.
“Đi quanh tìm hoài, ai mang bụi đỏ đi rồi” – giai điệu tưởng nhớ thương tiếc chùng xuống, chậm buông nỗi “mang mang sầu đời” về hình bóng của người con gái ôm nghiêng tập vở ngày xưa đã mang những dấu chân kỷ niệm đi vào huyền thoại.
Và đúng như vậy, ca khúc Ngày Xưa Hoàng Thị đã trở thành huyền thoại trong lòng của những trái tim của các chàng trai từ ngày xưa cho đến bây giờ, cứ lẩm nhẩm hoài khúc ca “Em tan trường về anh theo Ngọ về” như khúc nhạc lòng của mình âm vang qua bao ngày tháng, vẫn mãi xanh dấu ngày xưa.
Bài hát của nhạc sĩ Phạm Duy phổ thơ Phạm Thiên Thư này bắt đầu được phổ biến vào đầu thập niên 1970, được giới học sinh rất yêu thích và thường chép tặng nhau trong những cuốn sổ học trò. Khi đó trên báo chí Sài Gòn, người ta thường nghi vấn và đặt dấu hỏi nhân vật chính trong “Ngày xưa Hoàng Thị” là ai. Có một vài người tự nhận là mình, gây ra những cuộc bàn tán xôn xao, sau đó thi sĩ Phạm Thiên Thư chính thức lên tiếng về tung tích người đẹp trong ca khúc, đó là cô gái mang tên Hoàng Thị Ngọ.
Theo ông, Hoàng Thị Ngọ trong bài thơ “Ngày Xưa Hoàng Thị” chỉ là kỷ niệm, một mối tình thoảng nhẹ vu vơ thời trai trẻ. Trong những năm Tú tài, ông đã để ý một cô bạn học cùng lớp tên là Hoàng Thị Ngọ, cô gái đó quê gốc Hải Dương và ở gần nhà ông. Sau này, Phạm Thiên Thư tìm lại cố nhân nhưng người hàng xóm cho biết, bà Ngọ đã bán nhà và dọn sang Hoa Kỳ từ lâu
Ngày ấy, mỗi khi xếp hàng vào lớp, cô gái đứng ở đầu hàng bên nữ, nổi bật, mái tóc dài xoã trên bờ vai mảnh dẻ. Ông chỉ im lặng ngắm nhìn. Khi tan trường, cô gái một mình trên đường về nhà, ông lại là kẻ lẽo đẽo theo sau: “Cô ấy ôm cặp đi trước, tôi đi theo nhưng không dám lên tiếng. Trong bóng chiều tà, ánh nắng hắt qua hàng cây, cô ấy lặng lẽ bước, gây cho tôi những cảm xúc bâng khuâng khó tả. Cứ thế, tôi chỉ biết lặng lẽ đi theo sau cô ấy hàng ngày, giấu kín những cảm xúc của mình không cho bất cứ ai biết”. Và một lần đắm chìm trong cảm xúc ấy, ông đã cầm bút viết lên bài thơ “Ngày xưa Hoàng Thị”.
Thohay.vn Chia Sẽ ❤️️155+ Ảnh Thơ Buồn Tâm Trạng ❤️️ Thơ Tình Yêu Buồn, Thất Tình