Nội Dung Bài Ca Dao Đêm Qua Ra Đứng Bờ Ao ✅ Những Bài Phân Tích, Giáo Án Bài Ca Dao Đêm Qua Ra Đứng Bờ Ao.
NỘI DUNG CHÍNH
Nội Dung Bài Ca Dao Đêm Qua Ra Đứng Bờ Ao
Đêm qua ra đứng bờ ao,
Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ.
Buồn trông con nhện giăng tơ,
Nhện ơi nhện hỡi, nhện chờ mối ai?
Buồn trông chênh chếch sao Mai,
Sao ơi sao hỡi nhớ ai sao mờ?
Đêm đêm tưởng dải Ngân Hà,
Chuôi sao tinh Đẩu đã ba năm tròn.
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn,
Tào Khê nước chảy hãy còn trơ trơ.
Ngoài bài ca dao Hôm qua ra đứng bờ ao, Thohay sưu tầm gửi đến bạn đọc những bài ❤️️ Ca Dao Về Đêm Khuya ❤️️ Tuyển Tập Những Câu Tục Ngữ Hay Nhất.
Những Mẫu Bài Phân Tích Đêm Qua Ra Đứng Bờ Ao
Mẫu 1
Đã là người Việt Nam thì hẳn chẳng ai xa lạ gì với những câu ca dao tuy giản dị, mộc mạc mà chan chứa tình người. Đó có thể là những lời dân ca tình tứ, lắng đọng; có thể là những câu hát ru sâu nặng nghĩa tình; hoặc cũng rất có thể là những lời đối đáp trao duyên. Ca dao tựa như một viên kim cương đa diện, mà ở mõi góc cạnh của nó ta lại thấy ánh lện một mặt của tâm trạng con người, lung linh và sáng mãi. Vui có, buồn có, đợi chờ có, nhớ mong có…mọi cung bậc sắc thái tình cảm của con người đều được diễn tả 1 cách hết sức tinh tế, chân thực, sinh động qua những lời ca dao thấm đượm nỗi niềm:
Đêm qua ra đứng bờ ao,
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ.
Buồn trông con nhện giăng tơ
Nhện ơi, nhện hỡi nhện chờ mối ai?
Buồn trông chênh chếch sao Mai
Sao ơi, sao hỡi nhớ ai sao mờ?
Một bài ca dao thật hay, thật đẹp với ngôn từ mộc mạc, chân chất mà đã lột tả hết tâm trạng của nhân vật trữ tình. Nhân vật trữ tình ở đây là một cô gái, một nàng thiếu nữ với trái tim ” bồi hồi trong ngực trẻ” đang tha thiết mong nhớ ngươi yêu.
Trong đêm đen tĩnh mịch thời điểm của những cuộc hẹn hò đôi lứa cũng là lúc cô gái cảm thấy lòng mình cô đơn trống trải.Vì sao ư? Vì trong khoảng thời gian của tình yêu, của hò hẹn mà lại trống vắng 1 mình, thử hỏi sao không buồn cho được! Quá mong người yêu, cô gái đã giãi bày tấm lòng mình với cảnh vật xung quanh.Thế nhưng ” trông cá cá lặn trông sao sao mờ”. Dường như cảnh vật đã vô cùng lãnh đạm với tâm trạng người thiếu nữ. Cô chẳng biết chia sẻ cùng ai và ta cảm tưởng như cũng chẳng có ai muốn chia sẻ với nàng.Tìm cá bầu bạn thì mặt nước lặng thinh, gửi tình cảm lên vì sao thì chỉ thấy một màu đen êm dịu, rộng lớn mênh mông. Nó làm cho nỗi buồn bị cô lập và càng ” gặm nhấm” cõi lòng hiu hắt của cô gái trẻ. Cô càng thêm cô đơn quạnh vắng với nỗi mong nhớ xót xa đang dâng trào. Và lúc này đây ta lại bắt gặp một thứ thật quen thuộc, rất ” ca dao” và cũng rất ” Việt Nam”:
Buồn trông con nhện giăng tơ
…
Sao ơi, sao hỡi nhớ ai sao mờ?
Đó chính là ” buồn trông”- 1 điệp từ rất đỗi gần gũi trong ca dao. Nó là mở đầu cho những lời than thân trong ca dao xưa. Điệp từ ” buồn trông ” xuất hiện ở đây nhằm nhấn mạnh nỗi buồn cô đơn giữa cảnh vật của người con gái. Đó là bút pháp tả cảnh ngụ tình. Ngoại cảnh mà như tâm cảnh. Càng buồn thì càng trông vào cảnh vật, mong tìm chút vui nơi khung cảnh thơ mộng mà nào có được! Càng trông thì chỉ thấy lòng càng thêm trĩu nặng. Bởi:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?
Và liên tiếp sau đó là hai hình ảnh ẩn dụ cho tâm trạng của cô thiếu nữ: nhện giăng tơ và sao Mai. Từ những sự vật trong thiên nhiên, cô đã gửi tiếng lòng của mình-1 tiếng lòng thổn thức ngóng trông. “Nhện giăng tơ” là 1 hình ảnh thật đẹp và giàu sức biểu cảm cao. Tơ nhện hay chính là sợi tơ hồng duyên phận, sợi tơ tình yêu đã se duyên cho đôi trẻ để giờ đây ” trăm mối tơ vò”. Chiếc màng nhện mỏng mang phải chăng như chính người con gái: yếu đuối, mong manh. Tơ nhện có độ kết dính cao, dù có đứt cũng vẫn bền chặt-liệu có là ám chỉ tình yêu? Nhện chăng tơ xong mà vẫn 1 mình, cô đơn, chờ đợi một mối tơ lòng.
Tiếp đó cô gái nhìn “chênh chếch” lên ngôi sao Mai. Một ánh nhìn hơi chéo chứ không phài nhìn thẳng. Phải chăng cô gái không dám đối diện thẳng với lòng mình-rằng cô đang quá trống trải, đơn côi. Ngôi sao Mai mờ dần trong ánh bình minh như chính tâm trạng ngày một hiu quạnh, héo hon của cô gái. Cô lẻ loi quá! Tựa như ánh sao giữa bầu trời rộng lớn. Đó là sự trống trải một mình, một sự nhớ thương đến hiu hắt, 1 nỗi buồn trải ra theo cả không gian và thời gian. Từ ” bờ ao” tới ” bầu trời” là 1 không gian rộng lớn, nó làm cho niềm nhớ thương càng thêm mênh mang, dâng trào. Từ “đêm qua” tới ” sao Mai” là sự trải dần theo thời gian, nỗi buồn ngày một lớn lên và chỉ chực trào ra trong tâm trạng thổn thức, trằn trọc suốt cả đêm dài của cô gái.
Như vậy, với những ca từ sâu lắng, mênh mang, tâm trạng của cô gái đã được bộc lộ theo nhiều cấp bậc, nhiều góc cạnh khác nhau. Đó là vẻ đẹp buồn của ca dao-một vẻ đẹp tiềm tàng mà không dễ gì có được.
Mẫu 2
Ca dao là tiếng nói tâm tình của người bình dân, là thông điệp yêu thương của những đôi trai gái. Mỗi bài ca dao ẩn chứa nhiều tín hiệu tình cảm rất kín đáo, tế nhị. Ta có thể thấy rõ điều đó qua một tác phẩm khá tiêu biểu cho thi pháp ca dao Việt Nam là Hôm qua ra đứng bờ ao.
Hôm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ
Buồn trông con nhện giăng tơ
Nhện ơi nhện hỡi, nhện chờ mối ai ?
Buồn trông chênh chếch sao Mai
Sao ơi sao hỡi, nhớ ai sao mờ ?
Bài ca dao mở đầu bằng một mô típ quen thuộc: “Hôm qua”. Ca dao không có mô típ “Hôm nay”, bởi chủ thể phát ngôn đang ở thời hiện tại, người nghe đã biết chuyện “hôm nay” rồi, không cần kể lại làm gì. Điều mà người nghe quan tâm là những chuyện họ chưa biết của thời gian qua. Từ “hôm qua” thực chất cũng là khoảng thời gian phiếm chỉ, nói đến sự việc trong quá khứ gần, có liên hệ tới hiện tại. Trong những ngày hôm qua ấy, nhân vật nhớ nhung người yêu suốt cả ngày lẫn đêm. Ban ngày, trông cá, trông nhện, ban đêm trông sao, và thức trắng đêm đến khi sao Mai ló dạng, báo hiệu trời sáng. Qua thời gian sự kiện như vậy, ta thấy nhân vật có nỗi nhớ nhung người yêu rất tha thiết.
Không gian quen thuộc trong ca dao Việt Nam là cây đa, giếng nước, sân đình, cánh đồng, sông lạch, bờ ao… Hình ảnh bờ ao rất quen thuộc với người nông dân, hằng ngày, người ta ra đây để giặt giũ, tắm rửa, hái rau, vớt bèo, bắt cá… Và đây cũng là cái cớ cho những người đang yêu ra đây buồn tình mà không bị người khác để ý, trêu chọc, bắt bẻ. Bờ ao vắng vẻ, dễ tập trung suy nghĩ chuyện yêu đương. Ao hồ có khung cảnh đẹp để nhìn ngắm trong lúc buồn. Đó là một khung cảnh hấp dẫn bởi có nhện chăng tơ, có cá đớp bèo, có mặt nước dịu dàng mát mẻ, lãng mạn. Nước là ngọn nguồn của sự sống, là người bạn tâm tình của những đôi lứa yêu nhau. Nước khơi dậy những cảm xúc trữ tình, là nguồn thi hứng vô tận cho thơ ca và là một hình ảnh rất quen thuộc trong ca dao. Nhân vật trữ tình nhân cái hứng đó làm thơ, nên có thể nói, bài ca dao này làm theo thể hứng – một trong ba thể phổ biến của ca dao: phú, tỉ, hứng.
Ta hãy tìm hiểu điểm nhìn của nhân vật để xem thử nhân vật quan tâm tới những gì và vì sao quan tâm như vậy. Nhân vật nói tới cá, vì đây là hình ảnh quan trọng của ao hồ, là yếu tố làm nên tính sinh động của không gian sông nước. Nhưng nếu cá quanh quẩn, lượn lờ thì có thể làm vơi bớt nỗi buồn của con người. Đằng này, cá lặn mất. Đưa ra chi tiết này, nhân vật muốn nói rằng, mình đang rất cô đơn, không biết tâm sự cùng ai! Nhân vật lại nhìn nhện giăng tơ, gợi nhớ đến dây tơ hồng của ông Tơ bà Nguyệt. Nhân vật hỏi nhện chờ mối tơ duyên của ai, nhưng nhện không biết trả lời, càng buồn. Thực ra, nhân vật tự hỏi: dây tơ có chắp mối cho mình đến với người yêu không? Chủ thể trữ tình ngổn ngang trăm mối tơ vò nhưng không nói thẳng ra mà người nghe vẫn hiểu được, thế mới hay.
Nhân vật thoát ra khỏi tầm nhìn hạn hẹp của cái ao, ngước nhìn bầu trời bao la như để tìm lời giải đáp cho những điều khó hiểu về tình duyên. Biết đâu, lại muốn hóa thân thành một vì sao để có tầm nhìn bao quát, tìm kiếm hình bóng người yêu? Nhưng lại bắt gặp hình ảnh sao Mai mọc “chênh chếch” ở nơi xa xôi, lạnh lẽo. Từ “chênh chếch” gợi tả một không gian nghiêng, không vững vàng, như một nỗi nhớ không xác định phương hướng rõ ràng. Từ sao Mai, gợi nhớ đến sao Hôm, mọc ở vị trí đối lập về không gian, thời gian. Người ta thấy hai ngôi sao này không bao giờ gặp nhau nên thường lấy nó để chỉ sự xa cách. Nhân vật đã thức trắng đêm để rồi bắt gặp nỗi buồn khi trời rạng sáng. Nên có một chút bi kịch, nỗi lo lắng, một niềm yêu thương da diết, khắc khoải mong chờ, chưa biết tương lai sẽ ra sao ? Hai câu hỏi tu từ vương vấn, bám lấy người nghe, đối tượng tâm tình nào mà không mềm lòng khi nghe những lời yêu đương cảm động như vậy.
Ngôn ngữ của bài ca dao này cũng giàu hình ảnh và sử dụng nhiều biện pháp tu từ vốn phổ biến trong ca dao như: câu hỏi tu từ, nhân hóa, ẩn dụ, điệp, đối. Hai câu hỏi tu từ dùng để hỏi nhện và sao, nhân vật lấy cái cớ đó để giãi bày những khúc ẩn trong lòng. Tác giả đã nhân hóa sự vật, xem nhện và sao cũng có đời sống tình cảm như con người. Thực ra, nhện và sao cũng là hình ảnh ẩn dụ. Lấy việc nhện chăng tơ để chỉ tình duyên con người. Lấy sao Mai để chỉ thời gian rạng sáng và sự xa cách trong tình yêu. Việc sử dụng cách nói nhân hóa và ẩn dụ có tác dụng làm cho câu thơ giàu hình ảnh và hàm súc, diễn đạt được nhiều điều tế nhị mà nhân vật không tiện nói thẳng ra.
Biện pháp tu từ quan trọng nhất trong bài là phép điệp. Việc lặp bốn từ “trông” cho thấy nhân vật có khao khát được giao hòa với cảnh vật xung quanh. Điều này dễ hiểu vì những người đang cô đơn bao giờ cũng muốn chia sẻ tâm sự với người và vật. Cụm từ “buồn trông” lặp lại hai lần để khắc sâu nỗi buồn nhớ của chủ thể trữ tình. Một số hình ảnh cũng được lặp lại nhiều lần: cá (hai lần), nhện (bốn lần), sao (sáu lần). Hình ảnh sao được lặp lại nhiều nhất nên có thể xem đó là hình tượng quan trọng, ẩn chứa nhiều ý nghĩa. Tác giả lặp cú pháp hô gọi: “nhện ơi nhện hỡi”, “sao ơi sao hỡi” để nhấn mạnh nỗi nhớ nhung da diết và khát khao giao hòa với sự vật. Trong câu “Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ” không chỉ có thủ pháp điệp mà còn có sự đối xứng cú pháp của hai vế câu. Rồi trong mỗi vế lại có sự tương phản nhau giữa hai nội dung: hy vọng và thất vọng. Thủ pháp điệp, đối có tác dụng khắc sâu tâm trạng bi kịch của nhân vật trữ tình.
Cũng như nhiều ca dao khác, bài này làm theo thể lục bát, một thể thơ rất giàu tính dân tộc. Cấu trúc bài thơ gồm ba câu, chia làm sáu dòng, gồm ba dòng lục và ba dòng bát xen kẽ nhau, rất hài hòa, cân đối. Các tiếng thứ 2 – 4 – 6 tuân thủ đúng luật đòn cân B – T – B, các tiếng 6 và 8 khác dấu thanh. Bài thơ có nhịp chẵn, cũng như nhạc điệu quen thuộc của ca dao người Việt. Cũng sử dụng vần bằng, bao gồm cả vần lưng và vần chân. Vần đầu tiên của bài là vần “ao” (cuối dòng một), nó buộc tiếng thứ sáu của câu tiếp theo phải vần “ao” (hoặc cùng khuôn vần). Tác giả đã chọn từ “sao” vì nó diễn tả được thời gian ban đêm, không gian xa vắng, thích hợp với tâm trạng cô đơn buồn bã. Cứ theo cách thức như vậy, từ “mờ” ở cuối dòng hai kéo theo từ “tơ” ở cuối dòng ba và “chờ” ở giữa dòng bốn. Từ “ai” ở cuối dòng bốn liên kết móc xích với từ “mai” ở cuối dòng năm và từ “ai” ở giữa dòng sáu. Sự kết dính, hô gọi của hệ thống vần điệu thể lục bát cộng với ngôn ngữ đời thường quen thuộc đã làm cho bài ca dao dễ nhớ, dễ thuộc, có sức lan truyền mạnh mẽ.
Cách lựa chọn các từ ngữ theo trục ngang (kết hợp, ngữ đoạn) cũng rất công phu. Chẳng hạn, khi sáng tác tới từ “chờ”, tác giả đứng trước sự lựa chọn hai từ tiếp theo với điều kiện từ cuối phải là thanh bằng. Nhưng từ nào đứng vào vị trí này là thích hợp? Hàng loạt “ứng cử viên” từ ngữ xếp chồng nhau theo trục thẳng đứng (trục lựa chọn, liên tưởng). Như: mối ai, duyên ai, duyên chăng, mối chăng, duyên anh, duyên em, làm chi, ai đây… Cuối cùng, tác giả đã chọn từ “mối ai”, vì từ “mối” chỉ mối tơ duyên đang là sự qua tâm của nhân vật. Từ “ai” là một từ phiếm chỉ thường thấy trong ca dao. Vì lý do tế nhị, người ta không muốn nói thẳng tên thật hoặc các đại từ nhân xưng khác. Từ “ai” không xác định giới tính nên nam hay nữ đều có thể dùng để nói với người yêu. Bởi vậy, bài ca dao càng được nhiều người sử dụng.
Bài Hôm qua ra đứng bờ ao là một thông điệp tình cảm của những người đang yêu. Mặc dù bài ca dao chỉ nói đến nỗi buồn nhớ của chủ thể trữ tình nhưng ẩn đằng sau nó là lời ngỏ ý yêu đương, mong đối tượng hiểu được lòng mình để kết nối tơ duyên. Tác giả dân gian đã rất tài tình khi sáng tạo ra bức thông điệp kín đáo tế nhị như vậy. Nhưng những tín hiệu này có phát huy tác dụng hay không còn chờ đợi khả năng giải mã của đối tượng tâm tình. Bởi vậy, ca dao dân ca là sân chơi của những những giàu tình cảm nhưng phải am hiểu nghệ thuật ngôn từ.
Mẫu 3
Bài ca dao “Đêm qua ra đứng bờ ao” còn là một kỉ niệm đối với tôi thời thơ bé. Lớn lên, tôi vẫn khẽ đọc lúc nhớ lúc buồn. Ông nội mất đã gần mười năm rồi…; ông dã dạy chị em tôi học thuộc lòng bài ca dao ấy:
Đêm qua ra đứng bờ ao,
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ.
Buồn trông con nhện chăng tơ,
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai?
Buồn trông chênh chếch sao mai,
Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ?
Đêm đêm tưởng dải Ngân Hà,
Chuôi sao Tinh Đẩu đã ba năm tròn
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Tào Khê nước chảy hãy còn trơ trơ
Vần thơ lục bát với những thanh bằng liên tiếp, với các động từ biểu cảm: “trông”, “buồn trông”, “chờ”, “tưởng”, kết hợp với những tiếng gọi: “nhện ơi! nhện hỡi, “sao ơi, sao hỡi” đã tạo nên âm diệu thiết tha, mong nhớ, chờ trông... Điệu thơ thấm buồn man mác bâng khuâng như níu giữ lấy hồn ta. Mỗi câu ca, mỗi vần thơ là một nét tâm trạng buồn nhớ, cô đơn. Khách ly hương càng “đứng” càng “trông”, càng buồn càng nhớ, càng hỏi càng sầu. Nơi đất khách quê người, giữa tạo vật mênh mông, xa mờ, nỗi buồn nhớ cô đơn biết ngỏ cùng ai?...
Thao thức, lẻ loi, chỉ biết ra đứng bờ ao, nơi vắng vẻ ở cuối sân, sau vườn, hay cạnh ngõ. Cứ trông gần rồi trông xa, trông cá, trông sao, nhưng nào thấy, vì “cá lặn, sao mờ” tự bao giờ. Các điệp từ (trông, cá, sao) gợi lên sự chơi vơi trong lòng:
Đêm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ
Nỗi niềm ấy chỉ mới diễn ra “đêm qua” còn đầy vơi trong lòng. Chữ “qua” vần với chữ “ra”, chữ “ao” vần với chữ “sao”, cũng với 2 vế tiểu đối cân xứng: “Trông cá, cá lặn // trông sao, sao mờ” là nhạc thơ cũng là nhạc lòng xao xuyến, vương vấn, triền miên...
Hỏi trông cá, trông sao, nhưng “cá mờ” nên giữa đêm khuya trống vắng, không một người thân thương, chỉ còn biết “buồn trông” và khẽ hỏi:
Buồn trông con nhện chăng tơ,
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai?
Nhện cỏn con, bé tí. Nhện sao thấu hiểu nỗi buồn nhớ cô đơn của kẻ xa quê. Nhện mắc chăng tơ, hay nhện cũng đang “chờ mối ai”?
Đêm đã về khuya, sao mai đã “chênh chếch” nằm nghiêng nghiêng trên bầu trời. Rồi “sao mờ” sắp tàn canh. Vẫn chỉ có một mình li khách. Cô đơn và trơ trọi. Lại “buồn trông” lên bầu trời, rồi khẽ hỏi sao mai, để trang trải nỗi lòng:
Buồn trông chênh chếch sao mai,
Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ?
Nhện và sao, vật thì nhỏ bé, vật thì xa mờ, nhện thì còn “chờ mối ai” sao thì còn “nhớ ai”. Khách thể (tạo vật) được nhân hoá cũng có tâm hồn, tâm tư. Nhưng sau lời gọi tha thiết: “nhện ơi, nhện hỡi”, “sao ơi, sao hỡi” vẫn không một tiếng vọng, một lời an ủi. Nỗi buồn nhớ cô đơn của kẻ tha hương không thể nào kể xiết! Sau lời cảm thán: “nhện ơi, nhện hỡi”, “sao ơi, sao hỡi” là những tiếng khẽ thở dài cất lên, những giọt lệ rưng rưng rơi xuống.
Nỗi nhớ quê nhớ nhà, không chỉ mới “đêm qua” mà là đã diễn ra triền miên “đêm đêm”, không chỉ mới một tháng, một năm, mà là đã “ba năm tròn” một thời gian dài. Không chỉ “buồn trông” mà là “tưởng”, là nhớ, là mộng, day dứt, triền miên, khôn nguôi. Dải Ngân Hà vẫn chiếu sáng trên bầu trời. Sao Bắc Đẩu vẫn định vị trên bầu trời. Đã ba năm rồi, trong đêm đêm li khách vẫn hướng về dải Ngân Hà, về sao Bắc Đẩu mà tường nhớ cố hương. Chữ “tưởng” là một nét tâm trạng buồn nhớ, ngóng trông vô cùng da diết:
Đêm đêm tưởng dải Ngân Hà,
Chuôi sao Tinh Đẩu đã ba năm tròn
Hai câu cuối, nhà thơ dân gian dùng biện pháp nghệ thuật tương phản rất đặc sắc; tương phản giữa “đá mòn” với “dạ chẳng mòn” tương phản giữa “đá mòn” với dòng Tào Khê “nước chảy hãy còn trơ trơ”. Con sông Tào Khê ở huyện Quế Võ (tỉnh Bắc Ninh), hay con sông Tào Khê ở bên Tàu là biểu tượng cho tấm lòng son sắt thuỷ chung của người lữ khách đối với gia đình quê hương:
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn.
Tào Khê nước chảy hãy còn trơ trơ.
Lúc nào đọc bài ca dao “Đêm qua ra đứng bờ ao” tôi vẫn thấy hay, vẫn thấy nhớ và vô cùng xúc động. Các điệp ngữ, câu hỏi tu từ, câu cảm thán, biện pháp nghệ thuật nhân hoá và phép tương phản đã góp phần tạo nên những câu ca giàu nhạc điệu, đẹp mượt mà, thiết tha, in sâu vào trí nhớ và tâm hồn tôi. Bài ca dao thấm thía bao nỗi buồn thương nhớ và cô đơn, nhưng đó là nỗi buồn đẹp: tấm lòng thương nhớ và thuỷ chung đối với quê nhà.
Ca dao là tấm lòng. Khi còn sống, mỗi lần đọc bài ca dao “Đêm qua ra đứng bờ ao”. Ông tôi vẫn nhắc cha mẹ tôi, chị em tôi: “Loạn lạc kéo dài, nhà ta đã ba đời xa quê. Các con các cháu đừng có bao giờ quên nguồn cội”...
“Tào Khê nước chảy hãy còn trơ trơ” là tấm lòng của nhân dân, của những ai xa gần, của ông tôi, của cha mẹ tôi, chị em tôi... Tấm lòng son sắt thuỷ chung đối với gia đình quê hương toả sáng bài ca dao và hồn người.
Nhiều người tìm thấy nhau và gắn bó với nhau hết hành trình cuộc đời, nhưng cũng có những người điểm bắt đầu là hạnh phúc, trạm dừng chân lại xót xa. Mời bạn đón đọc 💚Ca Dao Về Tình Yêu Dang Dở ,💚 biết đâu bạn sẽ bắt gặp hình ảnh mình trong đó.
Soạn Bài Đêm Qua Ra Đứng Bờ Ao
- Đọc văn bản
- Trả lời câu hỏi
a. Bài văn viết về bài ca dao
Đêm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn trông sao sao mờ
Buồn trông con nhện giăng tơ
Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai
Đêm đêm tưởng dải ngân hà
Chuôi sao Tinh Đẩu đã ba năm tròn
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Tào khê nước chảy vẫn còn trơ trơ
b. Tác giả phát biểu cảm nghĩ của mình về bài ca dao bằng cách tưởng tượng liên tưởng suy ngẫm về các hình ảnh chi tiết của nó. Cụ thể:
- Những cảm xúc, tưởng tượng, liên tưởng do hai câu thơ đầu gợi lên:
Đêm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn trông sao sao mờ
- Những cảm xúc tưởng tượng, liên tưởng do hai câu sau gợi lên:
Buồn trông con nhện giăng tơ
Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai?
- Những cảm xúc tưởng tượng do hai câu kế tiếp gợi lên:
Đêm đêm tưởng dải ngân hà
Chuôi sao Tinh Đẩu đã ba năm tròn
- Những cảm xúc tưởng tượng liên tưởng do hai câu cuối gợi lên
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Tào khê nước chẳy vẫn còn trơ trơ.
Bạn đang có một tâm trạng không tốt, thohay.vn chia sẻ bạn những bài 💔Ca Dao Tục Ngữ Về Tâm Trạng Buồn, Cô Đơn 💔nói hộ nỗi lòng bạn nhé.