Dọn Về Làng [Nông Quốc Chấn] ❤️️ Nội Dung, Tác Giả, Tác Phẩm, Phân Tích ✅ Chia Sẻ Các Sơ Đồ Tư Duy, Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật.
NỘI DUNG CHÍNH
Nội Dung Bài Thơ Dọn Về Làng
Trong bài thơ Dọn về làng, nhà thơ Nông Quốc Chấn đã đưa người đọc trở về những năm tháng chiến tranh để cảm nhận nỗi thống khổ của nhân dân, tội ác của quân thù rồi lại lần nữa khiến người đọc vỡ òa trong niềm vui của ngày chiến thắng. Cùng Thohay.vn xem Nội Dung Bài Thơ Dọn Về Làng đầy đủ như sau:
Dọn về làng
Tác giả: Nông Quốc Chấn
Mẹ! Cao – Lạng hoàn toàn giải phóng
Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn
Vệ quốc quân chiếm lại các đồn
Người đông như kiến, súng dày như củi.
Sáng mai về làng sửa nhà phát cỏ,
Cày ruộng vườn, trồng lúa ngô khoai
Mấy năm qua quên tết tháng Giêng, quên rằm tháng bảy,
Chạy hết núi lại khe, cay đắng đủ mùi
Nhớ một hôm mù mịt mưa rơi
Cơn gió bão trên rừng cây đổ
Cơn sấm sét lán sụp xuống nát cửa
Ðường đi lại vắt bám đầy chân.
Súng nổ kia! Giặc Tây lại đến lùng.
Từng cái lán, nó đốt đi trơ trụi,
Nó vơ hết áo quần trong túi
Mẹ địu em chạy tót lên rừng
Lần đi trước, mẹ vẫy gọi con sau lưng
Tay dắt bà, vai đeo đẫy nải
Bà loà mắt không biết lối bước đi.
Làm sao bây giờ: ta phải chống!
Giặc đã bắt cha con đi, nó đánh,
Cha chửi Việt gian, cha đánh lại Tây
Súng nổ ngay đì đùng một loạt,
Cha ngã xuống nằm lăn trên mặt đất
Cha ơi: cha không biết nói rồi…
Chúng con còn thơ, ai nuôi ai dạy?
Không ai chống gậy khi bà cụ qua đời!
Mẹ ngồi khóc, con cúi đầu cũng khóc.
Sợ Tây nghe, mẹ dỗ “nín”, con im.
Lán anh em rải rác không biết nơi tìm
Không ván, không người đưa cha đi cất.
Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng,
Con cởi áo liệm thân cho bố;
Mẹ con đưa cha đi nằm một chỗ
Máu đầy tay, trên mặt nước tràn…
Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn
Băm xương thịt mày, tao mới hả.
Hôm nay Cao – Bắc – Lạng cười vang
Dọn láng, rời rừng, người xuống làng
Người nói cỏ lay trong ruộng rậm
Con cày mẹ phát, ruộng ta quang.
Ðường cái kêu vang tiếng ô tô.
Trong trường ríu rít tiếng cười con trẻ.
Mờ mờ khói bếp bay trên mái nhà lá.
Mặc gà gáy chó sủa không lo,
Ngày hai bữa rau ta có muối.
Ngày hai buổi không tìm củ pấu, củ nâu
Có bắp xay độn gạo no lâu,
Ðường ngõ từ nay không cỏ rậm,
Trong vườn chuối, hổ không dám đến đẻ con
Quả trên cành không lo tự chín tự rụng,
Ruộng sẽ không thành nơi máu chảy từng vũng.
Bộ đội đỡ phải đi thung lũng núi rừng,
Ra đường xe, hát nói ung dung
Từng đoàn người dắt lá cây tiến bước
Súng bên vai, bao gạo buộc bên vai,
Chân đi có giày không sợ nẻ
Trên đầu có mũ che nắng mưa.
Mặt trời lên sáng rõ rồi mẹ ạ!
Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà,
Giặc Pháp, giặc Mỹ còn giết người cướp của trên đất nước ta.
Ðuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ.
Cùng lưu lại ngay tác phẩm ✨Bài Thơ Bác Ơi✨ Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật
Về Nhà Thơ Nông Quốc Chấn
Cùng Thohay.vn tìm hiểu đôi nét Về Nhà Thơ Nông Quốc Chấn bên dưới.
- Trước Cách mạng, ông là một nhà hoạt động cách mạng tiêu biểu khi đã tham gia Mặt trận Việt Minh và tham gia vào lực lượng giải phóng quân
- Sau Cách mạng, ông vừa tham gia hoạt động cách mạng, vừa tham gia vào các hoạt động văn học nghệ thuật
- Ông được coi là “cây sào đẩy con thuyền văn hóa của Việt Nam vượt qua nhiều ghềnh thác”
- Thơ Nông Quốc Chấn giản dị, tự nhiên mà rất giàu hình ảnh
- Nông Quốc Chấn để lại một sự nghiệp văn học có giá trị. Tác phẩm tiêu biểu:
- Tập thơ: Tiếng ca người Việt Bắc (1959); Đèo gió (1968); Suối và biển (1984)…
- Tiểu luận: Đường ta đi (1970); Một vườn hoa nhiều hương sắc (1977)
Có thể bạn sẽ cần đến 🌿Sóng Xuân Quỳnh🌿 Nội Dung Bài Thơ, Tác Giả, Tác Phẩm
Về Tác Phẩm Dọn Về Làng
Về Tác Phẩm Dọn Về Làng, bài thơ này được sáng tác năm 1950, tả lại cảnh quê hương miền núi sau khi được quân ta giải phóng, thể hiện qua lời tâm sự của người con với mẹ.
Bài thơ được viết theo thể thơ tự do, bố cục được chia làm hai phần:
- Khổ 1, 5, 6: niềm vui Cao – Bắc – Lạng được giải phóng
- Khổ 2, 3, 4: Nỗi thống khổ của nhân dân và tội ác của giặc.
Thông qua lời người con tâm sự với “mẹ” (cụ thể và khái quát), bài thơ là nỗi đau khổ của nhân dân và là bản cáo trạng tố cáo tội ác của thực dân Pháp. Đồng thời cũng nói lên niềm vui của nhân dân được giải phóng, niềm tin vào tương lai tươi sáng của quê hương và lòng biết ơn của người dân miền núi đối với bộ đội giải phóng và nhân dân.
Có thể bạn sẽ cần đến tác phẩm 🌱 Đò Lèn🌱 Mẫu Phân Tích, Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật
Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Dọn Về Làng
Thông tin về Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Dọn Về Làng như sau:
Bài thơ Dọn về làng viết vào mùa đông 1950 về quê hương trong những năm kháng chiến chống Pháp. Nông Quốc Chấn viết Dọn về làng bằng tiếng Tày và tự dịch ra tiếng Việt.
Cuộc chiến tranh biên giới kết thúc thắng lợi, hòa cùng không khí chiến thắng của nhân dân cả nước nói chung và nhân dân miền núi nói riêng, Nông Quốc Chấn đã viết lên những vần thơ này.
Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Dọn Về Làng
Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Dọn Về Làng
Nhan đề “Dọn về làng” nói lên niềm vui khi quê hương được giải phóng. Đồng thời phần nào nêu lên những ý nghĩa của kháng chiến thắng lợi đối với đời sống cũng như con người Tây Bắc.
Nhan đề này góp phần thổ lộ những tình cảm chân thành mà thắm thiết và niềm vui, tự hào của tác giả đối với nhân dân trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp đau thương nhưng cũng không kém phần hào hùng. Đây cũng là chiến thắng mang đầy ý nghĩa đối với người dân miền núi khi đã thoát khỏi sự bóc lột, đàn áp của thực dân Pháp.
Xem thêm bài phân tích 💚 Tiếng Hát Con Tàu 💚 Nội Dung, Tác Giả, Tác Phẩm
Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật Bài Thơ Dọn Về Làng
Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật Bài Thơ Dọn Về Làng như sau:
Giá trị nội dung
- Tác giả đã miêu tả chân thực nỗi đau khổ của người dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp đồng thời từ đó tố cáo tội ác, sự tàn bạo dã man của thực dân Pháp đối với nhân dân ta.
- Bài thơ bật lên niềm vui niềm tự hào của tác giả khi quê hương đau thương mà anh dũng được giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột của thực dân Pháp.
Giá trị nghệ thuật
- Kết cấu lặp vòng đầu – cuối với tiêu đề cụ thể “Dọn về làng” để làm nổi bật niềm vui chiến thắng.
- So sánh độc đáo bằng những hình ảnh chân thực, sinh động
- Cảm xúc dồn nén, lời thơ mộc mạc, tự nhiên, đậm chất dân tộc miền núi
- Giọng thơ giàu cảm xúc.
- Sử dụng thành công, sáng tạo các biện pháp tu từ nghệ thuật.
Tham khảo nội dung về tác phẩm ✨Đất Nước✨ Những Mẫu Phân Tích Hay Nhất
Sơ Đồ Tư Duy Dọn Về Làng
Đừng bỏ qua những Sơ Đồ Tư Duy Dọn Về Làng sau đây.
Đừng vội bỏ lỡ phân tích 🌼Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm🌼 Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật
5 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Dọn Về Làng Hay Nhất
Nhất định đừng bỏ qua 5 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Dọn Về Làng Hay Nhất sau đây.
Phân Tích Bài Thơ Dọn Về Làng Hay Nhất – Mẫu 1
Nông Quốc Chấn là nhà thơ, nhà hoạt động văn hóa, người dân tộc Tày ở Bắc Cạn. Từ một ông giáo hiền lành, sớm được giác ngộ cách mạng, được rèn luyện trong khói lửa chiến tranh, ông trở thành một cán bộ trung kiên, một nhà hoạt động văn hóa, một nhà thơ xuất sắc của Đảng và dân tộc.
Bài thơ “Dọn về làng” được sáng tác trong chiến dịch Biên giới thu – đông 1950, là tác phẩm tiêu biểu nhất của Nông Quốc Chấn. Nguyên tác bằng tiếng Tày, sau đó được tác giả dịch ra tiếng phổ thông theo thể thơ tự do. Năm 1951, tại Đại hội liên hoan học sinh sinh viên thế giới tại Béc-lin, bài thơ đã được tặng giải Nhì, đã được dịch sang tiếng Pháp, giới thiệu trên Tạp chí Châu Âu.
Nhà thơ đã sử dụng biện pháp tương phản giữa quá khứ đau thương với niềm vui chiến thắng và giải phóng để ca ngợi sự hồi sinh, sự vươn dậy của quê hương và của đồng bào các dân tộc Cao-Bắc-Lạng.
Mở đầu bài thơ “Dọn về làng” là tiếng gọi mẹ cất lên; gọi mẹ để báo tin vui, tin mừng chiến thắng:
“Mẹ! Cao – Lạng hoàn toàn giải phóng
Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn
Vệ quốc quân chiếm lại các đồn
Người đông như kiến, súng đầy như củi”
Đoạn thơ làm sống lại cảnh tượng chiến trường Biên giới năm 1950. Gọng kìm đường số Bốn của giặc bị chặt đứt, bị phá tung. Quân ta đánh chiếm đồn Đông Khê, tiêu diệt hai binh đoàn Sác-tông và Lơ-pa, hàng ngàn giặc Tây “bị chết bị bắt sống”. Hai so sánh “Người đông như kiến, súng đầy như củi” đã nói lên thật hay sức mạnh và khí thế chiến đấu, chiến thắng của quân và dân ta thuở ấy.
Từ niềm vui chiến thắng, đứa con đau đớn nhớ lại những năm dài gian khổ, đau thương dưới ách kìm kẹp, chiếm đóng của lũ giặc Pháp hung tàn.
Trên bước đường trở về làng cũ để “sửa nhà phát cỏ”, để “Cày ruộng vườn trồng lúa ngô khoai”, đứa con bồi hồi nhớ lại:
“Mấy tháng năm qua quên tết tháng giêng, quên rằm tháng bảy
Chạy hết núi khe. Cay đắng đủ mùi”.
Những lễ tết lâu đời phải “quên” đi! Những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc phải “quên” đi. Bàn thờ tổ tiên nguội lạnh hương khói. Trải bao cay đắng vì phải chạy giặc triền miên: “Chạy hết núi lại khe,cay đắng đủ mùi”.
Quên sao được những kỉ niệm thương đau một thời gian khổ với bao thiên tai, địch. Mưa rừng mù mịt, gió bão, sấm sét, lán sụp, cửa nát, vắt bám đầy chân. Giặc lùng sục, đốt lán, cướp bóc, gây ra bao thảm cảnh:
“Súng nổ kia! Giặc Tây lại đến lùng
Từng cái lán nó đốt đi trơ trụi
Nó vơ hết áo quần trong túi…”
Đoạn thơ như một đoạn phim ghi lại cảnh chạy loạn giữa rừng sâu của đồng bào các dân tộc vùng biên giới phía Bắc đất nước ta trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Biện pháp liệt kê và tự sự mở ra một không gian nghệ thuật với bao chi tiết hiện thực rất sống động và cảm động.
Cảnh chôn cất người chồng, người cha thân yêu đầy nước mắt:
“Lán anh em rải rác không biết nơi tìm
Không ván, không người đưa cha đi chôn cất
Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng,
Con cởi áo liệm thân cho bố,
Mẹ con ẵm cha đi nằm chân rừng
Máu đầy tay, nước tràn đầy mặt…”
Tất cả những cảnh đau đớn và thương tâm ấy được nhà thơ tái hiện lại một cách chân thực với nhiều máu và nước mắt. Sau tiếng khóc nghẹn ngào là tiếng thét căm thù uất hận vang lên:
“Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn
Băm xương thịt mày, tao mới hả”
Qua đó, ta càng thấy rõ: máu không thể nào dìm được chân lí; súng đạn của quân giặc cướp nước không thể nào khuất phục được nhân dân ta.
Phần thứ hai của bài thơ nói lên niềm vui giải phóng, quê hương được hồi sinh, sức sống của dân tộc nổi dậy vô cùng mạnh mẽ.
Có bao âm thanh giữa không gian rộng lớn Cao – Bắc – Lạng. Có tiếng “cười vang”, tiếng “người nói”, tiếng cười con trẻ “ríu rít” cắp sách đến trường. Có tiếng ô tô “kêu vang”; có tiếng gà gáy, tiếng chó sủa. Có bao hình ảnh náo nức đáng yêu:
Phân Tích Bài Thơ Dọn Về Làng Tiêu Biểu – Mẫu 2
Bài thơ được viết sau chiến thắng giải phóng biên giới, một chiến thắng có ý nghĩa đối với cuộc kháng chiến chống Pháp: mở thông chiến khu với các nước xã hội chủ nghĩa. Song bài thơ không đi vào ý nghĩa chính trị ấy. Ở đây, bài thơ nói về ý nghĩa giải phóng đối với cuộc đời của bà con người dân tộc. Ý nghĩa toát ra từ bài thơ qua bút pháp kể chuyện, miêu tả. Tác giả không dùng bút pháp chính luận.
Nét đặc sắc đầu tiên là giọng kể: chất phác, sinh động, cụ thể. Mở đầu là một Hình ảnh tiêu biểu của chiến thắng được đặc tả chân thật và độc đáo:
Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn
Vệ quốc quân chiếm lại các đồn
Người đông như kiến, súng đầy như củi.
Suốt bài vẫn giữ nguyên được cách kể và cách nghĩ ấy. Các chi tiết đời sông vị hồn nhiên, tự nhiên và rất đậm dấu ấn cách tư duy cụ thể của bà con dân tộc ít người. Ngày chiến thắng như ngày hội nên “người đông như kiến” Cách ví ấy là phổ cập. Nhưng “súng đầy như củi” cách ví này là đặc thù của con dân tộc miền núi, ở kề với rừng, nơi củi rất quen thuộc trong đời sống. Người quen dùng bếp ga chắc không có cách ví von này.
Bố cục bài thơ sát với kiểu tư duy của người dân thường. Sau tiếng reo là sự ai những cay cực khi giặc chiếm đóng và cuối cùng là quang cảnh sinh hoạt của bây giờ, của giải phóng. Người đọc, ngay cả người ít học miền rừng, ách bố cục này tiếp nhận bài thơ sẽ rất dễ dàng.
Đặc điểm nổi bật của bài thơ này là cách diễn tả các chi tiết. Cảnh chạy giặc: quên tết tháng giêng, quên rằm tháng bảy, rồi đường đi lại vắt bám, rồi gió bão sấm sét, cây đổ, cay đắng đủ mùi… Rồi cảnh giặc càn: nó đốt, nó vét, mẹ địu em, bà bị loà mắt… Diễn biến tình cảm của người con trước cái chết bi thương và anh dũng của người cha.Tác giả mượn lời người con kể chuyện cũng là giãi bày nổi lòng (tự sự kết với trữ tình):
Mẹ ngồi khóc con cúi đầu cũng khóc
Sợ Tây nghe, mẹ dỗ “nín ”, con im
Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng
Con cởi áo liệm thân cho bố
Người chết thảm, người sống cũng thảm, cảnh sống cùng cực đau đớn đã lên cao trào dâng sôi sục. Giải phóng đã thành một yêu cầu bức xúc của mỗi người dân. Đánh giặc là đòi hỏi tất yếu của cuộc sống cực khổ ấy. Bài thơ có nhiều chi tiết và hay nhất là những chi tiết ở đoạn cuối – quang cảnh dọn về làng và cảnh sinh hoạt ở bản làng sau ngày giải phóng:
Người nói cỏ lay trong rừng rậm
Cuốc đất dọn cỏ mẹ khuyên con
Đường cái kêu vang tiếng ô tô
Trong trường ríu rít tiếng cười con trẻ
Mờ mờ khói bếp bay trên mái nhà lá.
Khung cảnh lam làm no ấm… Từng nét từng nét hiện dần lên. Tác giả vẫn không bình luận hay ca ngợi lộ liễu. Ông cứ tả. Tả thoáng mà đủ. Mỗi mặt cuộc sống chỉ nói bằng một nét, rất gợi: Người nói cỏ lay là cảnh ruộng rẫy, khói bếp bay trên mái nhà lá là cảnh thanh bình no ấm. Tiếng ô tô, tiếng cười con trẻ cho thấy cái đông vui ríu rít của bản làng… Có những chi tiết rất sắc sảo gợi được thần thái núi rừng và nếp sống đồng bào, hơn thế còn có ý vị thiết tha
Hổ không dám đến đẻ con trong vườn chuối
Quả trong vườn không lo tự chín, tự rụng.
Giải phóng đã đồng nghĩa với sự trở về tất yếu của quy luật đời sống : vật nào vào chỗ ấy, quả chín do tay người.
Kể chuyện mà vẫn bộc lộ được cảm xúc cá thể. Chi tiết nhiều mà không rậm, trái lại mỗi chi tiết như một nét khắc: cụ thể nhưng khái quát. Đây không chỉ là kết quả một quan sát công phu, mà là kết quả của sự từng trải. Tác giả sống với các chi tiết đó, thấm thía về nó. Chất thơ ở đây là chất của đời sống. Bài thơ, do vậy cho thây một nét đặc sắc của thơ kháng chiến chống Pháp: miêu tả hiện thực rộng lớn và nỗi riêng tư của tác giả hoà đồng vào hiện thực đó.
Phân Tích Bài Thơ Dọn Về Làng Chọn Lọc – Mẫu 3
Nhân dân Việt Nam đã phải chịu rất nhiều những cực khổ đắng cay do thực dân Pháp gây nên để hiểu và cảm thông cho những nỗi đau mà thực dân Pháp gây nên cho dân tộc Nông Quốc Chấn đã sáng tác nên bài thơ Dọn về làng để tố cáo tội ác của kẻ thù và những nỗi đau mà nhân dân ta phải chịu đựng.
Những đắng cay đau đớn và những nỗi khổ mà nhân dân chịu đựng trước sự áp bức của Thực dân Pháp gây lên, những tội ác đó đã được đúc kết và kết tinh thành những ngôn ngữ nhầm tố cáo sâu sắc tội ác của kẻ thù, những nỗi đau đớn và những khổ cực mà nhân dân chịu đựng đã để lại cho nhân dân ta những nỗi đau và những lòng yêu nước thầm kín và vô cùng sâu sắc, thông qua những nỗi đau đó mà nhân dân ta đã ý thức lòng yêu nước nồng nàn và những điều đó mang lại nhiều ý nghĩa sâu sắc cho mỗi con người.
Những hình ảnh con người bị bóc lột đã được tác giả thể hiện vô cùng sâu sắc, để chống lại kẻ thù nhân dân Việt Nam đã quen hết những phong tục tập quán của dân tộc để tập trung chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược, những rằm, tết đều không nhớ, những hình ảnh đó thể hiện một cách sâu sắc nhân dân ta đã phải đối mặt với thực dân Pháp một cách rất kiên trì và gian khổ…
Những hình ảnh đó đã mang một ý nghĩa nhầm tố cáo tộ ác của kẻ thù một cách sâu sắc, mấy năm nay quên tết quên rằm, chạy hết núi khe cay đắng… những hình ảnh những người mẹ địu con, sự áp bức đó rất ác liệt đã làm cho nhân dân phải chạy trốn khỏi kẻ thù xâm lược và hàng loạt những hình ảnh đã thể hiện điều đó mẹ địu con chạy sau lưng tay dắt và, vai đầy tay ải… những hình ảnh đó đã thể hiện được những đợt tản cư của người dân để chống lại kẻ thù xâm lược.
Tội ác của kẻ thù được tố cáo ngày càng mạnh mẽ qua các chi tiết thể hiện một cách sâu sắc trong bài và điều đó nói lên những nỗi lòng của người dân về một cuộc sống ấm no, tự do và hoà bình được lập lại, trước những hình ảnh của một làng đi tản cư chạy trốn sự áp bức của kẻ thì, những cuốc sống bấp bênh nay chạy mai trốn đó đã thể hiện mạnh mẽ được tư tưởng chủ đề của tác phẩm được thể hiện mạnh mẽ trong bài.
Những hình ảnh này mang lại nhiều suy nghĩ đối với những người đã và đang đọc tác phẩm của Nông Quốc Chấn, thể hiện được những nỗi lòng của người đọc đối với dân tộc Việt Nam, hình ảnh trên thể hiện được những nỗi nhớ mong và những hình ảnh tượng trưng sâu sắc, dân tộc Việt Nam luôn mong muốn sống một cuộc sống hoà bình và hạnh phúc ấm no.
Những tội ác đó đã được nhân dân ta nuôi dưỡng và mong ngày chờ chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược, những miếng cơm manh áo của dân tộc cũng bị chúng cướp đi, đây là những tội ác mà dân tộc ta không thể tha thứ được chúng phải bị đánh đuổi và ra khỏi lãnh thổ của chúng ta, những hình ảnh mang đậm những giá trị tố cáo và nhiều hình ảnh mang giá trị cũng được đúc kết và thể hiện mạnh mẽ trong tác phẩm này.
Những hình ảnh về sự giải phóng của dân tộc đã được nhà thơ thể hiện trong bài thơ và đã mang lại nhiều những giá trị sây sắc những tên giặc Tây bị bắt và đoàn vệ quốc của chúng ta đã giành được chiến thắng những điều đó đã để cho mỗi chúng ta cảm thấy tự hào về một dân tộc có truyền thống đấu tranh và bảo vệ cuộc sống ấm no và hạnh phúc của nhân dân:
Mẹ! Cao Lạng hoàn toàn được giải phóng
Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn
Vệ quốc quân chiếm lại các đồn
Người đông như kiến súng dày như củi.
Những hình ảnh về sự giải phóng đã được thể hiện mạnh mẽ trong tác phẩm của Nông Quốc Chấn hàng loạt những hình ảnh đó đã đem lại cho dân tộc ta những nỗi niềm tự hào lớn lao và điều đó không chỉ ảnh hưởng và đem lại nhiều giá trị to lớn đối với mỗi một con người.
Hình ảnh về ngày mai tươi sáng đã được thể hiện sâu sắc trong tác phẩm này, những đóng tro tàn và tàn dư của chiến tranh để lại đã được dọn sạch và nhân dân ta lại trở về làng với những niềm vui mới, cuộc sống mới sẽ được mở ra và ngày càng mạnh mẽ và vô cùng sâu sắc, những luống cỏ, những ruộng khoai vẫn được trồng xới lên và những năm quên rằm tháng giêng và tết nay đã được trả về và lại hoàn thành những phong tục của dân tộc mình.
Nhưng rồi chiến tranh đi qua nhưng tác giả đã thể hiện nó mạnh mẽ qua những hình ảnh người chết mà không có người chôn cấy, hình ảnh mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng, máu đầy tay, trên mặt nước tràn… những hình ảnh này đã làm tăng lên sự căm thù giặc sâu sắc…
Mày sẽ chết thằng giặc Pháp hung tàn. Đây là những hình ảnh thể hiện sự căm thù trước những tội ác của kẻ thù, hình ảnh đó đã mang lại nhiều những giá trị lớn và vô cùng có giá trị những nỗi nhớ mong và hình ảnh băm xương thịt mày tao mới hả đã là những lời lẽ về sự căm thù và nhất định sẽ trả thù tên giặc Tây tàn ác…
Những hình ảnh đau thương và sự thực khi chiến tranh để lại đã làm cho dân tộc ta chịu nhiều đau đớn và những tàn khốc do chiến tranh để lại đã làm nỗi đau của dân tộc ngày càng tăng lên và đó là những nỗi lòng mà dân tộc muốn khắc hoạ.
Niềm vui của dân tộc khi quên hương được giải phóng đã được tác giả thể hiện qua những tiếng cười vang, hân hoan và với lời thơ mộng mạc chúng ta thấy sự hạnh phúc của mỗi người đối với dân tộc của mình. Với những hình ảnh trên nhân dân ta không chỉ đem lại cho dân tộc được những nỗi nhớ nhung mà còn thể hiện được những hạnh phúc và những nỗi niềm khi dân tộc được giải phóng…
Dọn về làng là bài thơ đã khắc hoạ được những nỗi niềm hạnh phúc khi nhân dân ta được giải phóng và những hình ảnh đó đã khắc hoạ thành công qua những trang văn thơ của dân tộc mình, hình ảnh về một đất nước đã chịu nhiều đau thương và nỗi lòng đó đã được thể hiện một cách thầm kín và vô cùng sâu sắc.
Phân Tích Bài Thơ Dọn Về Làng Nổi Bật – Mẫu 4
Nông Quốc Chấn (18 tháng 11 năm 1923 – 4 tháng 2 năm 2002) là một nhà văn người dân tộc Tày, ông là một trong những gương mặt văn hóa tiêu biểu, đại diện cho tầng lớp trí thức dân tộc thiểu số trưởng thành trong kháng chiến.
Đóng góp chủ yếu của Nông Quốc Chấn cho nền văn học Việt Nam đó là thơ, với những cảm xúc chân thành mộc mạc, lời thơ toát lên hơi thở riêng biệt trong lối tư duy và diễn đạt của dân tộc miền núi, hình ảnh thơ giản dị, tự nhiên và mang đậm chất núi rừng Tây Bắc. Năm 1950, chiến dịch biên giới thu đông kết thúc thắng lợi có ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Hòa vào niềm vui chung của của bà con nhân dân miền núi và nhân dân cả nước nhà thơ Nông Quốc Chấn đã chắp bút cho tác phẩm “Dọn về làng” viết về quê hương của tác giả trong những năm tháng chiến đấu đau thương mà anh dũng, đồng thời nêu lên những ý nghĩa của kháng chiến thắng lợi đối với đời sống cũng như con người Tây Bắc.
Bài thơ đã mang đến một luồng sinh khí mới, một cuộc sống tươi đẹp cho đồng bào giữa lúc chiến tranh ác liệt. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp tương phản giữa quá khứ đau thương với niềm vui chiến thắng và giải phóng để ca ngợi sự hồi sinh, sự vươn dậy của quê hương và của đồng bào các dân tộc Cao – Bắc- – Lạng.
Ngay từ những câu mở đầu của bài thơ, tác giả đã cho người đọc hình dung chiến thắng huy hoàng của quân ta và sự thất bại ê chề của quân giặc:
“Mẹ! Cao – Lạng hoàn toàn giải phóng
Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn
Vệ quốc quân chiếm lại các đồn
Người đông như kiến, súng đầy như củi”.
Trong chiến dịch Biên giới quân ta đã dành được những thắng lợi hết sức vẻ vang. Gọng kím đường số Bốn của giặc bị chặt đứt, bị phá tung. Quân ta đánh chiếm đồn Đông Khê, tiêu diệt hai binh đoàn Sác-tông và Lơ-pa, hàng ngàn giặc Tây “bị chết bị bắt sống”. Hai so sánh “Người đông như kiến, súng đầy như củi” đã nói lên thật hay sức mạng và khí thế chiến đấu, chiến thắng của quân và dân ta thuở ấy.
Trong niềm vui hân hoan chiến thắng, đứa con đau đớn nhớ lại những năm dài gian khổ, đau thương dưới ách kìm kẹp, chiếm đóng của lũ giặc Pháp hung tàn. Trên bước đường trở về làng cũ để “sủa nhà phát cỏ”, để “Cày ruộng vườn trồng lúa ngô khoai”, đứa con bồi hồi nhớ lại:
“Mấy tháng năm qua quên tết tháng giêng, quên rằm tháng bảy,
Chạy hết núi lại khe, cay đắng đủ mùi”.
Trong những ngày loạn lạc, phải tản cư ra vùng không có giặc, người con ấy đã phải quên đi những lễ tết lâu đời. Những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc phải “quên” đi. Bàn thờ tổ tiên nguội lạnh hương khói. Trải qua bao cay đắng vì phải chạy giặc triền miên: “Chạy hết núi lại khe, cay đắng đủ mùi”.
Khi đã đánh tan quân giặc, người dân sẽ không phải chứng kiến những cảnh đau thương đó nưa, nhung quên sao được những kỉ niêm thương đau một thời gian khổ với bao thiên tai, địch họa. Mưa rừng mù mịt, gió bão, sấm sét, lán sụp, cửa nát, vắt bám đầy chân. Giặc lùng sục, đốt lán, cướp bóc, gây ra bao thảm cảnh:
“Súng nổ kìa! Giặc Tây lại đến lùng,
Từng cái lán, nó đốt đi trơ trụi
Nớ vơ hết áo quần trong túi…”
Qua những ngòi bút miêu tả của tác giả cảnh chạy loạn giữa rừng sâu của đồng bào dân tộc vùng biên giới phía Bắc đất nước ta trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp được tái hiện lại. Biện pháp liệt kê và tự sự mở ra một không gian nghệ thuật với bao chi tiết hiện thực rất sống và cảm động.
Cảnh người mẹ chạy giặc, vừa địu con, vẫy em, vừa “Tay dắt bà, vai đeo đầy tay nảy – Bà lòa mắt không biết lối bước đi”. Cảnh người cha bị giặc bắt, “Cha chửi Việt Gian, cha đánh lại Tây” rồi bị giặc giết một cách dã man:
“Súng liền nổ ngay cùng một loạt,
Cha ngã xuống nằm trên mặt đất”.
Trong chiến tranh ác liệt, những cái chết diễn ra thường xuyên và dù họ quyết tử cho tổ quốc, cho nhân dân, nhưng những người ở lại vẫn rất đau lòng. Tất cả những cảnh đau đớn và thương tâm ấy được nhà thơ tái hiện lại một cách chân thực với nhiều máu và nước mắt. Sau tiếng khóc nghẹn ngào là tiếng thét căm thù uất hận vang lên:
“Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn.
Băm xương thịt mày, tao mới hả”.
Đoạn thơ thể hiện được ý chí đánh giặc kiên cường của dân tộc, quân giặc dù có hung tàn đến đâu nhưng không thể khuất phục được nhân dân, không làm nhụt chí khí sôi sục của dân tộc.
Những tháng ngày đau khổ đã qua đi, thay vào đó là niềm vui giải phóng, quê hương được hồi sinh, sức sống của dân tộc trỗi dậy vô cùng mạnh mẽ. Có bao âm thanh giữa không gian rộng lớn Cao – Bắc – Lạng. Có tiếng “cười vang”, tiếng “người nói”, tiếng cười con trẻ “ríu rít” cắp sách đến trường. Có tiếng ô tô “kêu vang”, có tiếng gà gáy, tiếng chó sủa. Có bao hình ảnh náo nức đáng yêu:
“Hôm nay, Cao – Bắc – Lạng cười vang,
Dọn lán, rời rừng, người xuống làng.
Người nói cỏ lay trong rừng rậm
Cuốc đất, dọn cỏ mẹ khuyên con”.
Nếu ở phần đầu bài thơ, tác giả nhắc lại sáu lần chữ “không” (Không biết lối đi, cha không biết nói rồi, không ai chống gậy khi bà cụ qua đời, không biết nơi tìm, không ván không người đưa cha đi chôn cất) để phản ánh bao nỗi đau đè nặng lòng người, thì ở hai đoạn, điệp ngữ “không” bốn lần xuất hiện để làm nổi bật hiện thực kháng chiến, đó là sự hồi sinh và sự vươn mình đứng thẳng dậy của dân tộc ta, của đồng bào các dân tộc Cao – Bắc – Lạng.
Đó là sự hồi sinh sự sống sau những tháng ngày tăm tối. Cuộc sống tươi đẹp, ấm lo thực sự đã trở lại với người dân nơi đây:
” – Từ nay không ngập cỏ lối đi
– Hổ không dám đến để con trong vườn chuối.
– Quả trong vườn không lo tự chín, tự rụng
– Ruộng sẽ không thành nơi máu chảy từng vũng”.
Những câu thơ cuối bài thơ là lời chào mẹ của người con trước khi lên đường đi đánh giặc. Lời chào đó đã gắn với lời hứa quyết tâm chiến thắng quân giặc đem lại sự bình yên cho dân tộc và trở về phụng dưỡng người mẹ già của mình.
“Mặt trời lên! Sáng rõ rồi mẹ ạ!
Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà,
Giặc Pháp, Mĩ còn giết người, cướp của trên đất ta
Đuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ”.
Bài thơ đã để lại cho chúng ta nhiều cảm xúc, làm tái hiện lại khí thế hào hùng của dân tộc trong ngày chiến thắng, những mất mát đau thương mà dân tộc đã trải qua và sự quyết tâm chiến đấu đến cùng để bảo vệ quê hương đất nước của nhân dân. Bài thơ sẽ sống mãi trong lòng người đọc, như một liều thuốc tiếp thêm sức mạnh cho lòng yêu nước của dân tộc.
Phân Tích Bài Thơ Dọn Về Làng Đặc Sắc – Mẫu 5
Nông Quốc Chấn là một trong những gương mặt văn hóa tiêu biểu, đại diện cho tầng lớp trí thức các dân tộc thiểu số trưởng thành trong đấu tranh cách mạng và chiến tranh vệ quốc. Đóng góp nổi trội của ông trong lĩnh vực sáng tác là thơ.
Thơ Nông Quốc Chấn mang cảm xúc chân thành, chất phác, lời thơ toát lên nét riêng biệt trong suy tư và diễn đạt của người miền núi: giản dị, tự nhiên và giàu hình ảnh. Với những đóng góp to lớn vào nền văn học nước nhà, năm 2000, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Dọn về làng là một trong sáng tác tiêu biểu của Nông Quốc Chấn viết về quê hương mình trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp nhiều đau thương mà anh dũng.
Bài thơ thấm đượm cảm xúc và tình yêu thiết tha nồng nàn của tác giả đối với dân bản, với đất nước. Ông trân trọng và đồng cảm cho những khó khăn, vất vả, những nỗi đau thương mất mát mà nhân dân phải gánh chịu, đồng thời ông cũng bày tỏ lòng căm hờn trước tội ác tày trời của quân giặc hung hãn. Và rồi, sau tất cả, chiến thắng lại về tay nhân dân, mọi người sơ tán nay được trở về làng bắt đầu lại cuộc sống yên bình như thuở xưa.
Mẹ ! Cao – Lạng hoàn toàn giải phóng
Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn
Vệ quốc quân chiếm lại các đồn
Người đông như kiến, súng đầy như củi
Sáng mai về làng, sửa nhà phát cỏ
Cày ruộng vườn trồng lúa ngô khoai
Không gì đau thương bằng chiến tranh, và cũng không gì sung sướng hơn khi cuộc chiến tranh giành thắng lợi. Vượt bao gian nan vất vả, bao hi sinh xương máu, nhân dân hai miền Cao – Lạng đã hoàn toàn giải phóng. Hình ảnh đầu tiên tác giả cất lên trong thơ là “Mẹ !”.
Sau dấu chấm than đầy xúc cảm ấy là niềm vui khôn tả khi những ngày chiến đấu đã chấm dứt. Tây bị bắt, các đồn đã chiếm lại được. Nhân dân nơi đây đã lập được một chiến công lớn, mang lại niềm hạnh phúc cho chính mình, giải phóng mình khỏi ách áp bức nô lệ suốt bấy lâu:
Giặc đến phá tan cuộc sống yên bình của dân làng, thôn xóm. Những dịp tết rằm tháng riêng, rằm tháng bảy lẽ ra sẽ tổ chức náo nức, nhộn nhịp nhưng giặc đến, chúng càn quét từ cái quần trong túi, chúng đốt hết lán còn lại trơ trụi bãi đất không, chúng đã ra tay sát hại dân lành. Không còn gì có thể diễn tả được hết tội ác mà thực dân Pháp đã gây ra.
Hình ảnh người mẹ địu con chạy tót lên rừng đã lấy đi nước mắt của bao bạn đọc. Trẻ thơ chúng có tội tình chi mà phải vướng vào cuộc trốn chạy đầy hiểm nguy, gian khổ. Nông Quốc Chấn không nhắc tới trường hợp có những đứa trẻ khát sữa chết giữa rừng, hay những người mẹ rơi xuống vực thẳm bỏ lại đứa con thơ bé bỏng bơ vơ tội nghiệp. Có những người bà mù lòa cũng phải lần đường bỏ chạy. Bởi bọn giặc hung hãn không tha bất kỳ một ai.
Chúng sẽ bắt hết và hành hạ tất cả mọi người. Dân bản xôn xao, náo loạn như bầy chim vỡ tổ, không biết chạy đi đâu về đâu. Làm sao bây giờ ? Ta phải chống. Đúng vậy, bằng mọi giá ta phải chống lại kẻ thù. Chúng đã gây nên bao tội ác cho dân lành. Chúng bắt cha con đi, nó đánh. Cha chửi Việt gian, cha đánh lại Tây, súng liền nổ ngay cùng một loạt, cha ngã xuống nằm trên mặt đất…
Ôi ! Có nỗi đau nào hơn thế nữa. Một đàn con thơ dại ai nuôi dạy bây giờ? Không ai chống gậy khi bà cụ qua đời ! Cha là trụ cột vững mạnh nhất trong nhà nhưng nay cha đã ngã xuống rồi. Mẹ ngồi khóc con cúi đầu cũng khóc. Đau đớn và chỉ có nước mắt tiễn đưa cha đi. Cha vì bảo vệ công lý cho dân làng, cho đàn con mà chúng nỡ lòng bắt giết không tiếc thương. Cảnh khó nghèo, cuối đời cha cũng chẳng được đủ đầy, trọn vẹn.
Không ván, không người đưa cha đi chôn cất
Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng
Con cởi áo liệm thân cho bố
Mẹ con ẵm cha đi nằm ở chân rừng
Máu đầy tay, nước tràn đầy mặt…
Chiếc khăn ngày nào cha tặng mẹ làm kỷ vật của tình yêu, nay chính chiếc khăn ấy mẹ dùng che mặt cha trong phút chia xa vĩnh viễn. Từ nay mẹ phải một mình lắng lo cho đàn con thơ dại và người mẹ già yếu ớt. Cha đi rồi, chúng con mất chỗ dựa vững vàng, mẹ phải đứng lên thay cha gánh vác tất cả. Nén nỗi đau, mẹ ôm cha tới tận chân rừng, gửi lại cha cho thần rừng thần núi, hẹn kiếp sau gia đình lại sum vầy đông đủ.
Ôi ! Có biết bao nhiêu người cha đã ngã xuống trong tiếng súng hung tàn của quân giặc. Bao nhiêu người vợ phải đớn đau nhìn chồng mình nằm đó, bất động? Bao nhiêu ánh mắt trẻ thơ vô hồn gào khóc gọi tên cha? Chúng giết cha, giết chết tình mẫu tử. Nỗi căm hờn này, tao phải băm xương thịt mày, tao mới hả !
Và đúng như tinh thần quyết liệt ấy, nhân dân Cao – Lạng đã dành được chiến thắng vẻ vang.
Sau chiến tranh, gia đình không còn nguyên vẹn nhưng từ nay cũng sẽ mất thêm người nào nữa. Niềm vui khôn tả. Ai nấy cũng hào hứng bắt tay vào việc dựng xây lại một cuộc sống mới sau bao ngày quên rằm tháng riêng, quên rằm tháng bảy. Người lớn hăng say làm việc, trẻ nhỏ ríu rít tiếng cười làm rộn vang cả một vùng núi rừng thân yêu và hùng vĩ.
Sau chiến tranh, các con cũng cứng cáp hơn, trưởng thành hơn, quyết tâm đi theo tiếng gọi của Tổ quốc lên đường:
Mặt trời lên ! Sáng rõ rồi mẹ ạ !
Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà
Giặc Pháp, Mĩ còn giết người, cướp của trên đất ta
Đuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ.
Đứa con bé bỏng ngày nào nay nguyện thay cha cầm súng đánh giặc, trả lại yên bình cho gia đình, cho dân bản. Hình ảnh mặt trời dường như đã làm sáng tỏ cả bài thơ sau những từ ngữ, những hình ảnh đau thương do quân thù để lại. Ở chân núi kia, cha sẽ mỉm cười hạnh phúc vì con đã trưởng thành, đã đi theo tiếng gọi của Cách mạng, con quyết lấy lại công bằng cho cha, cho những người đã ngã xuống ngày hôm qua.
Xuyên suốt bài thơ, Nông Quốc Chấn đã thể hiện tình yêu quê hương, yêu đất nước sâu nặng qua những hình ảnh chân thực và đậm chất dân tộc, giọng thơ hào hứng, sôi nổi, vui tươi khi hòa bình lập lại. Đồng thời ông cũng vạch rõ tội ác của bọn thực dân Pháp hung hãn đã giết chết bao người khiến gia đình li tán đau thương.
Bài thơ là một trong những minh chứng cho lịch sử của nước nhà nói chung và Cao – Bắc – Lạng nói riêng, là lời ngợi ca cho tinh thần chiến đấu của nhân dân trong hoàn cảnh vất vả, thiếu thốn, khó khăn. Thế hệ trẻ hôm nay hãy quyết tâm học thật tốt, rèn luyện đạo đức thật tốt để trở thành người chiến sĩ giỏi trong thời bình, dựng xây đất nước ngày một giàu đẹp hơn.