Ai Mua Trăng Tôi Bán Trăng Cho [Trăng Vàng Trăng Ngọc]

Ai Mua Trăng Tôi Bán Trăng Cho ❤️️ Trăng Vàng Trăng Ngọc ✅ Tìm Hiểu Về Hoàn Cảnh Sáng Tác Và Ý Nghĩa Tác Phẩm.

Nội Dung Bài Thơ Trăng Vàng Trăng Ngọc

Là một thi sĩ tài hoa nhưng Hàn Mặc Tử lại có một số phận đầy hẩm hiu. Với bài thơ Trăng vàng trăng ngọc, ta cảm nhận được tài năng của Hàn Mặc Tử nhưng nó cũng dấy lên những khao khát, những đau thương của ông về cuộc sống này. Dưới đây là nội dung bài thơ:

Trăng vàng trăng ngọc
Tác giả: Hàn Mặc Tử

Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng Trăng!
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Không bán đoàn viên, ước hẹn hò…
Bao giờ đậu trạng vinh quy đã
Anh lại đây tôi thối chữ thơ.

Không, Không, Không! Tôi chẳng bán hồn Trăng.
Tôi giả đò chơi, anh tưởng rằng
Tôi nói thiệt, là anh dại quá:
Trăng Vàng Trăng Ngọc bán sao đang.

Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng!
Trăng sáng trăng sáng khắp mọi nơi
Tôi đang cầu nguyện cho trăng tôi
Tôi lần cho trăng một tràng chuỗi
Trăng mới là Trăng của Rạng Ngời
Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng!

Cập nhật thông tin chi tiết về 🌿Thơ Hàn Mặc Tử 🌿 Tiểu Sử Tác Giả, Tác Phẩm

Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Trăng Vàng Trăng Ngọc

Bài thơ Trăng vàng trăng ngọc được xếp trong phần Hương thơm của tập Thơ điên được nhiều người biết đến. Bài thơ được sáng tác vào khoảng năm 1938, được in cùng thời với những bài thơ nổi tiếng khác của ông như Đây thôn Vĩ Dạ, Mùa xuân chín,…Sau này, nhạc sĩ Trần Thiện Thanh có sáng tác bài hát Hàn Mặc Tử cũng có những câu hát dạo đầu lấy ý tứ từ bài thơ này.

Hàn Mặc Tử Bán Trăng Cho Ai

Hàn Mặc Tử bán trăng cho ai? Thực tế câu thơ “Ai mua trăng tôi bán trăng cho” không phải một lời rao bán chính thức, vì vậy không nhằm đến một đối tượng cụ thể nào. Trăng và hồn thơ của Hàn Mặc Tử hoà quyện với nhau, cùng nhau, vì nhau mà tồn tại. Trăng là nơi chia sẻ tâm tình, đón nhận những đau thương từ thẳm sâu tâm hồn ông, vì vậy ông rất trân quý trăng.

Đón đọc chùm 🍃Thơ Hàn Mặc Tử Về Trăng 🍃Những Bài Thơ Hay, Nổi Tiếng Nhất

Ý Nghĩa Câu Thơ Ai Mua Trăng Tôi Bán Trăng Cho

Ý nghĩa câu thơ Ai mua trăng tôi bán trăng cho là gì? Xem ngay giải mã của Thohay.vn sau đây để biết chi tiết nhé!

Ai mua trăng tôi bán trăng cho là một câu thơ hay nằm trong bài thơ Trăng vàng trăng ngọc của Hàn Mặc Tử. Có thể nói đa số các nhà thơ xưa đều ca ngợi và tôn thờ trăng, nâng niu nó như là một người bạn tâm tình của người thi sĩ, tuy nhiên trong câu thơ này của Hàn Mặc Tử trăng lại là một thứ được rao bán. Với ông trăng mang một dáng vẻ rất đời thường và được nhà thơ rao bán.

Tuy nhiên ta có thể lý giải rằng trăng ở đây là của chung mà cũng là của riêng mỗi người. Qua đó có thể hiểu câu thơ rao bán trăng ấy cũng là cách để thể hiện tiếng lòng thủy chung của nhà thơ.

2 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Trăng Vàng Trăng Ngọc Hay Nhất

Chia sẻ cho bạn đọc 2 mẫu phân tích bài thơ Trăng vàng trăng ngọc hay nhất dưới đây. Tham khảo ngay nhé!

Mẫu Phân Tích Bài Thơ Trăng Vàng Trăng Ngọc Hay – Mẫu 1

Có thể nói trăng là một người bạn của thi nhân và cũng đã có không ít nhà thơ viết về trăng. Và Hàn Mặc Tử cũng không phải là một ngoại lệ. Tuy nhiên ở đây ta có thể cảm nhận một khía cạnh rất khác trong cách miêu tả trăng của ông thông qua bài Trăng vàng trăng ngọc.

Mở đầu bài thơ chính là một lời rao bán trăng. Có thể nói các thi nhân xưa đều quen ca ngợi và tôn thờ trăng, nâng niu nó như là một người bạn tâm tình của người thi sĩ thì với Hàn Mặc Tử trăng lại là một thứ được rao bán. Và cũng chính là cái hay đặc sắc của thơ ông bởi chẳng ai rao bán một thứ như vậy cả. Với ông trăng mang một dáng vẻ rất đời thường và có thể được rao bán.

Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng Trăng!
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Không bán đoàn viên, ước hẹn hò…
Bao giờ đậu trạng vinh quy đã
Anh lại đây tôi thối chữ thơ.

Tuy nhiên cũng có thể lý giải rằng trăng ở đây là của chung mà cũng là của riêng mỗi người. Qua đó có thể hiểu hành động rao bán trăng ấy là một cách để nói lên tiếng lòng thủy chung của nhà thơ.

Từ khổ đầu ta có thể thấy được sự rao bán trăng của nhà thơ. Tuy nhiên từ khổ sau ông lại phủ định ngay tức khắc. Bởi trăng vàng trăng ngọc bán sao cho đành. Bởi trăng không chỉ là của riêng mỗi người mà nó còn là nguồn sáng và cũng chính là cái đẹp mà con người ta cần phải nâng niu và cất giữ. Trăng tỏa sáng mang lại ánh sáng cho màn đêm và cũng chính là khát vọng để vươn tới những điều tốt đẹp. Chính vì vậy làm sao bán trăng được.

Không, Không, Không! Tôi chẳng bán hồn Trăng.
Tôi giả đò chơi, anh tưởng rằng
Tôi nói thiệt, là anh dại quá:
Trăng Vàng Trăng Ngọc bán sao đang.

Trăng hướng lòng người đó cũng chính là hồn thơ Hàn Mặc Tử hướng vào người đọc, vào cái thiện và đẹp vô cùng. Đó cũng chính là lý do cả đoạn thơ về sau ta cảm nhận được cái đẹp của thơ, cũng như sự sâu nặng nghĩa tình đối với trăng. Đó cũng chính là sự nâng niu, tôn thờ và cầu nguyện cho trăng.

Mở đầu bài thơ với hình ảnh Ai mua trăng tôi bán trăng cho là thế tuy nhiên kết thúc bài thơ Hàn Mặc Tử đã gợi cho người đọc một niềm xót thương sâu sắc. Đó cũng chính là sự ám ảnh về trăng được gợi lên trong lời nói day dứt và đau đáu. Nó có vẻ rất xa nhưng thực ra cũng rất gần.

Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng!
Trăng sáng trăng sáng khắp mọi nơi
Tôi đang cầu nguyện cho trăng tôi
Tôi lần cho trăng một tràng chuỗi
Trăng mới là Trăng của Rạng Ngời
Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng!

Đó là lời gọi trăng về vì sợ mất đi trăng. Như cũng sợ không giữ được trăng bên mình và cũng làm trăng tan đi mất. Chỉ một câu kết thúc ấy thôi cũng đã làm thổi cả hồn thơ của Hàn Mặc Tử vào đây. Một nỗi niềm giằng xé và đầy trăn trở. Và đoạn cuối này chỉ là đoạn độc thoại. Với các câu thơ chứa đầy sự từ sự, trần thuật như là một lời tâm tình, thủ thỉ của nhà thơ. Đó cũng chính là cách mà tác giả chia sẻ hồn thơ với hồn trăng để hai yếu tố này hòa quyện vào nhau.

Trăng và hồn thơ thi sĩ hoà quyện với nhau, cùng nhau vì nhau mà tồn tại. Trăng là nơi chia sẻ, cảm nhận, đón nhận những đau thương từ thẳm sâu tâm hồn thi sĩ. Trăng như đối tượng để nhà thơ hướng đến, cầm, nắm, bắt rồi tóm gọn nó làm theo ý mình, có khi xa quá, cao quá, rộng quá nó lại là không gian.

Trăng như một tố chất không thể thiếu được trong cuộc sống của ông, lúc gần, lúc xa, lúc lơi lả gợi tình, lúc dịu dàng đáng yêu, hơn hết lôi cuốn thi sĩ đến một thế giới huyền diệu đầy quyến rũ.

Ai mua trăng tôi bán trăng cho như là một lời rao bán trăng. Đây cũng chính là một chủ đề không mấy xa lạ trong thơ ca. Nó được thi nhân ca ngợi và nâng niu. Tuy nhiên trăng trong thơ Hàn Mặc Tử lại mang một nét bình thường, thậm chí nó còn bị rao bán. Đó cũng chính là cái hay trong thơ Hàn Mặc Tử như là một cách để gợi tiếng nói thủy chung ân tình. Và cũng không ít độc giả đã bị ám ảnh về trăng bằng một lời xót thương tận cõi lòng.

Mẫu Phân Tích Bài Thơ Trăng Vàng Trăng Ngọc Đặc Sắc – Mẫu 2

Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng Trăng!
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Không bán đoàn viên, ước hẹn hò…
Bao giờ đậu trạng vinh quy đã
Anh lại đây tôi thối chữ thơ.

Mở đầu bài thơ là lời thoại rao bán “trăng”. Trăng là một chủ đề quen thuộc trong thơ truyền thống. Trăng được thi nhân thời xưa ca ngợi, nâng niu, trân trọng, tôn thờ. Bởi trăng ở trên trời cao lồng lộng, toả sáng muôn nơi. Ai cũng có trăng mà chẳng ai có trăng cả. Chẳng ai bán một thứ như vậy.

Thế nhưng, trăng lại đi vào thơ Hàn Mặc Tử với vóc dáng rất đời thường: trăng được nhà thơ rao bán. Câu thơ mở đầu bài có đến 6/7 từ là từ trăng, như một điệp khúc, như một điểm nhấn day đi day lại, có vẻ dàn trải.

Rao bán trăng. Thật bất ngờ song không vô lí vì trăng là của chung mà cũng là của riêng mỗi người. Rao bán trăng để ngân nga lên tiếng lòng thủy chung với cái tình cái nghĩa:

“Ai mua trăng tôi bán trăng cho;
Không bán đoàn viên, ước hẹn hò”.

Sang khổ thơ thứ hai, người đọc càng bất ngờ hơn vì ý thơ đã chuyển ngoắt 180 độ:

“Không, không, không! Tôi chẳng bán hòn Trăng!”

Vừa rao bán rất nhiệt tình xong, đã có ngay sự phủ định quá đột ngột. Lý do rất đơn giản! Vì “Trăng Vàng Trăng Ngọc bán sao đang”. Trăng không chỉ là trăng của mọi người mà trăng là nguồn ánh sáng, là cái đẹp, đáng được để nâng niu, để gìn giữ, đâu có thể bán được. Nếu bán làm sao đành lòng đây? Hẹn ước thủy chung chẳng ai muốn bán. Trăng tỏa dịu ánh sáng thiên nhiên đem lại cho màn đêm ánh sáng, là nguồn sáng, là sức sống, là hy vọng và khát vọng để vươn tới những điều tốt đẹp, thiêng liêng làm sao bán được?

Trăng hướng lòng người, hướng tâm hồn và cả hồn thơ Hàn Mặc Tử tới cái thiện, tới cái đẹp khôn cùng. Cả bài thơ là ân sâu, là nghĩa nặng với Trăng, là sự nâng niu tôn thờ, cầu nguyện cho trăng. Sẽ là bình thường nếu bài thơ kết thúc bằng câu “Tôi lần cho trăng một tràng chuỗi; Trăng mới là trăng của Rạng Ngời.”

Cái hay là ở chỗ bài thơ kết thúc bằng một ám  ảnh về trăng, bằng một lời gọi được thốt lên mải miết trong niềm day dứt đau đáu, như rất xa mà cũng như quá gần: “Trăng, Trăng, Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng!”. Kết thúc bằng câu ấy. Và cũng mở đầu bằng câu ấy.

Câu mở đầu thì như là lời rao, như là lời kể chuyện, như là lời gọi mời, như là lời “khoe” về trăng. Câu kết thúc như là lời gọi trăng về để giữ trăng vì sợ mất trăng, như sợ không còn níu giữ được trăng, như vọng lên một cách tự nhiên sự “khát trăng”, yêu trăng, giữ trăng ở bên mình, gọi trăng, kêu trăng, nhắc đến trăng để tan trong trăng, hoà vào trăng, để biết và chắc chắn Trăng Vàng Trăng Ngọc ấy vẫn đang hiện hữu bên mình, nhập trong mình và bất tử vĩnh viễn.

Cách kết thúc bằng khổ thơ chỉ có 1 câu đã phá vỡ cái cấu trúc “chính thống” của 3 khổ 7 chữ phía trên, phá vỡ sự chỉn chu đáng lẽ ra sẽ tròn trịa là thể thơ 7 chữ với mô hình có nhiều khổ, mỗi khổ có 4 câu của cả bài thơ.

Chỉ 1 câu kết thúc ấy thôi cũng đủ để làm nên một sự đột phá, sự vùng vẫy thoát ra khỏi cái tưởng như cố hữu hoặc “có quán tính” của một bài 7 chữ đang có xu hướng đều đặn, cân đối với cấu trúc có nhiều khổ 4 câu/ khổ.

Bài thơ được cách tân chính là nhờ cách kết thúc bằng một câu duy nhất ấy. Trăng ấp ủ trong Hàn Mặc Tử, trăng giằng xé trong thơ ông, thổi vào thơ ông cả hồn trăng thao thức, trăn trở: Trăng, Trăng, Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng!

Bài này còn hay ở chỗ là thơ nhưng chất chứa nhiều ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ tự sự, trần thuật. Cả bài thơ là sự đan xen, pha trộn đủ các cuộc thoại, thoại với người đời, thoại với chính mình (chính nhà thơ).

Bài thơ bắt đầu bằng lời “rao” rộn ràng: “Trăng, Trăng, Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng!”. Rồi đến lời hỏi rao: “Ai mua trăng tôi bán trăng cho”. Sau đó là lời “ra điều kiện”, khẳng định cách suy nghĩ, cách làm của nhà thơ bằng cấu trúc phủ định: “Không bán đoàn viên, ước hẹn hò”. Có sự hẹn gặp về mặt thời gian: “Bao giờ đậu trạng vinh quy đã”, rồi yêu cầu ngay lập tức: “Anh lại đây tôi thối chữ thơ”.

Ai nghĩ rằng một khổ thơ lại là một đoạn đối thoại với đủ các cung bậc tình cảm, với đủ các cấp độ tâm trạng, với không ít các hành động trực tiếp như thế: rao trăng, mời mua trăng (có thêm cả hành động “bán” trăng kèm theo), hỏi, phủ định, hẹn thời gian gặp, yêu cầu người khác thực hiện hành động chuyển động lại phía mình. Dù khổ thơ linh hoạt và “động” như thế nhưng nhịp thơ vẫn uyển chuyển, mềm mại mà dứt khoát, dẻo dai bền bỉ chứ không thô ráp, khô cứng!

Khổ thứ hai bắt đầu bằng câu phủ định: “Không, không, không! Tôi chẳng bán hòn Trăng!”. Nhất quyết làm theo ý mình, không thay đổi quyết định! Đó là quyết định nhất quyết không bán trăng. Phủ định xong rồi mỉm cười xoa dịu “khách mua trăng” bằng lời giải thích: “Tôi giả đò chơi, anh tưởng rằng”.

Để rồi nhận xét ngay về khách mua trăng qua lời bày tỏ sự tình, bày tỏ nỗi lòng và lời khuyên của nhà thơ “Tôi nói thiệt, là anh dại quá: Trăng Vàng Trăng Ngọc bán sao đang”. “Trăng Vàng Trăng Ngọc bán sao đang” là một câu hỏi, hỏi để mà khẳng định: không đành lòng bán trăng được, không thể, không bao giờ bán trăng!

Khổ 2 như một cuộc “mặc cả” nhanh chóng về chuyện “mua- bán” trăng, đôi co về việc bán hay không bán, thực ra là lời giải thích “không bán trăng”. Vì nhà thơ đã “lỡ lời đùa vui” rao bán trăng nên “mặc cả” với “khách mua trăng” là thôi không bán trăng nữa. Khung cảnh đối thoại được tạo dựng có đầy đủ cả người nói và người nghe.

Nhưng sang khổ thứ 3, người đọc thấy như chìm vào không gian của sự hân hoan, dành trọn tấm lòng cho trăng:

“Trăng, Trăng, Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng!
Trăng sáng trắng sáng khắp mọi nơi,
Tôi đang cầu nguyện cho trăng tôi.
Tôi lần cho trăng một tràng chuỗi,
Trăng mới là trăng của Rạng Ngời.”

Không còn là đối thoại nữa mà chỉ có lời độc thoại. Khổ thơ thứ 3 bắt đầu với lời reo vui, sự phấn chấn tắm mình trong trăng, nhập hồn vào trăng của nhà thơ, đồng thời đó cũng là lời kể chuyện, miêu tả:

“Trăng, Trăng, Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng!
Trăng sáng trăng sáng khắp mọi nơi”

Rồi nhà thơ lại thủ thỉ, như an ủi, như vỗ về. Các câu thơ còn lại trong khổ thứ 3 giàu chất tự sự, trần thuật, như lời tâm tình, chia sẻ của nhà thơ với trăng, mà cũng chính là chia sẻ hồn thơ với hồn trăng: “Tôi đang cầu nguyện cho trăng tôi. Tôi lần cho trăng một tràng chuỗi, Trăng mới là trăng của Rạng Ngời”.

Thực ra đâu có khách mua trăng! Khổ 1 và khổ 2 là lời đối thoại thật nhưng là đối thoại trong tưởng tượng, đối thoại với “khách mua” thực chất là đối thoại với chính mình. Còn khổ thứ 3 như lời giãi bày tâm sự, độc thoại trong nội tâm.

Cấu trúc từng câu thơ, từng khổ thơ và cấu trúc cả bài thơ theo hướng “tự do hoá” trong “Trăng Vàng trăng Ngọc” rõ ràng là một “khẩu đại bác” bắn những luồng đạn “đột phá” vào thơ cũ, như thác nước cuốn trôi đi những “khuôn vàng thước ngọc” được bảo tồn trong thơ cũ.

Ở một mặt nào đó thì bài thơ vẫn vương vấn chút gì đó của thơ xưa: bài thơ được làm theo thể 7 chữ. Chủ đề trăng là chủ đề cổ điển. Nhưng việc mở rộng chủ đề thành “bán-mua trăng”, “lần tràng chuỗi cầu nguyện cho trăng” thì quá mới, quá hiện đại. Ngôn ngữ thơ giàu chất khẩu ngữ tự nhiên, đượm chất tự sự, trần thuật nhưng thơ vẫn giàu tính nhạc, giàu chất thơ.

Như vậy, có thể nói, chỉ xét riêng về cấu trúc cũng thấy thơ Hàn Mặc Tử đầy sự sáng tạo. Điều đó thể hiện tố chất sáng tạo tài hoa và trí tuệ, thể hiện cả sự “liều lĩnh” dám vượt lên cái cũ, thăng hoa đến với mảnh đất mới mẻ, để thổi vào thơ ca luồng sinh khí tràn đầy nhiệt huyết và nhựa sống sục sôi, khát khao được sống, khát khao làm hồn thơ Mới sống và trụ vững qua thời gian.

Đó cũng là bản lĩnh phong cách riêng của nhà thơ, đến mức mà vào thời kỳ 1932-1945, thời kỳ mà phong trào thơ Mới làm sôi cả thi ca đất Việt, chấp nhận và thúc đẩy cho những cái Mới nảy nở và nhân giống trong thơ ca. Phải chăng, những quả bộc phá về cấu trúc trong thơ ông cùng với nguồn thi hứng và chủ đề thơ mới mẻ đã hun đúc nên một phong cách thơ Hàn Mặc Tử như thế? Chắc không thể khác thế được!

Đừng bỏ lỡ tập ❤️️Thơ Tình Hàn Mặc Tử ❤️️ Chùm Thơ Hay Nhất

Viết một bình luận