Bắt Sấu Rừng U Minh Hạ ❤️️ Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích ✅ Sưu Tầm Những Sơ Đồ Tư Duy, 5 Mẫu Phân Tích Hay Nhất.
NỘI DUNG CHÍNH
Nội Dung Tác Phẩm Bắt Sấu Rừng U Minh Hạ
“Bắt sấu rừng U Minh Hạ” thuộc tập truyện ngắn “Hương rừng Cà Mau” của nhà văn Sơn Nam. Cùng Thohay.vn đọc Nội Dung Tác Phẩm Bắt Sấu Rừng U Minh Hạ đầy đủ bên dưới.
Cái ao sấu ở ngọn rạch Cái Tàu đã bị phát giác. Tin ấy đồn đại lần lần, thấu đến tai ông Năm Hên, người thợ già chuyên bắt sấu ở Kiên Giang đạo, tức là vùng Rạch Giá ngày nay. Ông bơi chiếc xuồng ba lá nhỏ đến địa phận làng Khánh Lâm, ngọn rạch Cái Tàu. Trong xuồng, có vỏn vẹn một lọn nhang trần và một hũ rượu.
Từ sớm tới chiều, ông bơi xuồng tới lui theo rạch mà hát:
Hồn ở đâu đây?
Hồn ơi! Hồn hỡi!
Xa cây xa cối,
Xa cội xa nhành,
Đầu bãi cuối gành,
Hùm tha, sấu bắt,
Bởi vì thắt ngặt,
Manh áo chén cơm,
U Minh đỏ ngòm
Rừng tràm xanh biếc!
Ta thương ta tiếc,
Lập đàn giải oan…
Giọng nghe ảo não, rùng rợn. Dân làng thấy chuyện kỳ lạ, xuống đứng dưới bến để nhìn kỹ. Đoán chừng ông lão nọ là người có kì tài, họ mời ông lên nhà, làm thịt gà, mua rượu thết đãi.
Sau khi tự xưng danh tánh, ông bảo:
– Nghe đồn có ao sấu, tôi chẳng nệ đường xa để tới xứ Khánh Lâm này…
– Té ra ông là thợ câu sấu!
Ông Năm Hên lắc đầu:
– Thợ bắt sấu chớ không phải thợ câu. Hai nghề đó khác nhau. Câu thì dùng lưỡi sắt, móc mồi bằng con vịt sống. Đó là ở dưới nước. Đằng này tôi chuyên bắt sấu trên khô, không cần lưỡi.
– Vậy chớ ông bắt bằng gì?
– Tôi bắt bằng… hai tay không.
Ai nấy ngạc nhiên. Ông Năm Hên cười giòn:
– Bà con cô bác không tin sao?
Ai nấy nửa tin nửa nghi. Họ cố nhớ lại cách bắt sấu của mấy người thợ nào đến giờ. Bắt sấu bằng hai tay không quả là phi phàm, thế gian hi hữu. Không lẽ ông Năm Hên này lại nói láo để lường gạt, ổng nào đã mở miệng xin tiền bạc cơm gạo gì của xóm này? Ai nấy nôn nao, thiếu điều muốn năn nỉ ông đi bắt sấu tức thì để coi thử cách thức.
– Thưa ông, chừng nào ông ra nghề để cho dân làng chúng tôi được mừng? Nếu cần tiếp giúp chuyện chi, chúng tôi sẵn sàng. Ở xóm này, thiếu gì trai lực lưỡng đã từng gài bẫy cọp, săn heo rừng.
Ông Năm Hên đáp:
– Sáng mai sớm, đi cũng không muộn. Tôi cần một người dẫn đường đến ao cá sấu đó. Có vậy thôi! Chừng một giờ đồng hồ sau là xong chuyện! Sấu ở ao giữa rừng, tôi bắt nhiều lần rồi. Bà con cứ tin tôi. Xưa nay, bị sấu bắt là người đi ghe xuồng hoặc ngồi rửa chén dưới bến, có bao giờ sấu rượt người ta giữa rừng mà ăn thịt? Tôi đây không tài giỏi gì hết, chẳng qua là biết mưu mẹo chút ít, theo như người khác thì họ nói đó là bùa phép để kiếm tiền. Nghề bắt sấu có thể làm giàu được, ngặt tôi không mang thứ phú quới đó. Nói thiệt với bà con: cha mẹ tôi sanh ra chỉ có hai anh em tụi tôi. Anh tôi xuống miệt Gò Quao phá rừng lập rẫy hồi mười hai năm về trước. Sau được tin cho hay: ảnh bị sấu ở ngã ba Đình bắt mất. Tôi thề quyết trả thù cho anh. Cực lòng biết bao nhiêu khi nghe ở miệt Rạch Giá, Cà Mau này có nhiều con rạch, ngã ba, mang tên Đầu Sấu, Lưng Sấu, Bàu Sấu, sau này hỏi lại tôi mới biết đó là nơi ghê gớm, hồi xưa lúc đất còn hoang. Rạch Cà Bơ He, đó là chỗ sấu lội nhiều, người Miên sợ sấu không dám đi qua nên đặt tên như vậy, cũng như phá Tam Giang, truông Nhà Hồ của mình ngoài Huế.
Sáng hôm sau, ông Năm Hên đi lên ao sấu, có Tư Hoạch – một tay ăn ong rất rành địa thế vùng Cái Tàu dẫn đường. Nhiều người nài nỉ xin đi theo. Ông Năm Hên cản lại:
– Đi nhiều chộn rộn lắm. Tôi không giấu nghề với bà con đâu. Có Tư Hoạch đi theo coi mà.
Đã quá giờ ngọ.
Ngóng về phía ao sấu U Minh Hạ, ai nấy đều thấy một làn khói đen bốc lên. Ban đầu ngỡ là cháy rừng, chập sau, khói lụn xuống. Trong lúc đó bà con xóm Cái Tàu lo nấu cơm, mua rượu đợi chiều làm tiệc ăn mừng. Nhưng ngạc nhiên làm sao, trời vừa xế, lúc ai nấy đang nghỉ trên nhà, bỗng nghe tiếng kêu réo từng hồi:
– Bà con ơi! Ra coi sấu… Bốn mươi lăm con còn sống nhăn.
Rõ ràng là giọng Tư Hoạch.
– Diệu kế! Diệu kế! Tôi là Tư Hoạch đi bắt sấu về đây. Bà con coi sấu lội có hàng dưới sông mình nè! Một đời người mới có một lần.
Dưới sông, Tư Hoạch ngồi trên xuồng, bơi nhè nhẹ như đi dạo mát.
Tiếp theo lái xuồng là một bầy sấu, con này buộc nối đuôi con kia, đen ngòm như khúc cây khô dài. Mỗi con sấu, hai chân sau thúc ké trên lưng, hai chân trước tự do, quạt nước cầm chừng như tiếp sức với Tư Hoạch để đẩy chiếc bè quái dị kia đi nhẹ nhàng. Thực tế hay là chiêm bao? Người thì đứng há miệng sửng sốt rồi toan chạy vào nhà trốn. Người khác khấn vái lâm râm, e nay mai xóm này bị sự trừng phạt của quỷ thần. Vài người dạn hơn, bơi xuồng ra giữa sông, nhìn bầy sấu nọ cho tỏ rõ rồi rước Tư Hoạch vào bờ hỏi han rối rít.
Đại khái, Tư Hoạch trình bày:
– Tới ao sấu, ông Năm Hên đi vòng quanh dòm địa thế rồi ngồi xuống uống một chung rượu. Kế đó ổng với tôi lấy xuổng đào một đường nhỏ, ngày một cạn, từ bờ ao lên rừng chừng mười thước. Xong xuôi, ổng biểu tôi bứt cho ổng một nắm dây cóc kèn. Phần ổng thì lo đốn một đống cây mốp tươi, chặt ra khúc chừng ba tấc.
Lửa châm vô sậy đế, cóc kèn xung quanh, bắt cháy xuống đám sậy đế trong ao. Chập sau, bị khói bay cay mắt, ngộp thở, phần thì nước sôi nóng, sấu bò lên rừng theo con đường đào sẵn hồi nãy. Tức thời, ông Năm Hên chạy lại. Sấu há miệng hung hăng đòi táp ổng. Ổng đút vô miệng sấu một khúc mốp. Sấu táp lại, dính chặt hai hàm răng: như mình ngậm một cục mạch nha quá lớn, muốn há miệng cho rộng để nhả ra cũng không được. Sấu bị khúc mốp khoá miệng, còn cái đuôi đập qua đập lại. Ông Năm xách cây mác, nhắm ngay sau lưng sấu mà xắn nhè nhẹ để cắt gân đuôi. Đuôi sấu bị liệt. Thế là mình yên trí, lấy dây cóc kèn trói thúc ké hai chân sau của nó lại; chừa hai chân trước để nó bơi tiếp với mình.
– Thực là bực thánh của xứ này rồi! Mưu kế như vậy thực quá cao cường. Ổng đâu rồi? Sao không thấy ổng về? Xóm mình nhất định đền ơn ổng một số tiền, nuôi ổng cho tới già, ở xóm này. Bà con tính sao?
Tư Hoạch nói:
– Mà quên! Ông biểu tôi về trước cho bà con coi thử. Phần ổng mắc ở lại cúng “đất đai vương trạch” rồi đi bộ về sau.
Chưa dứt lời, bên sông nghe tiếng hát của ông Năm Hên, ngày một rõ:
Hồn ở đâu đây?
Hồn ơi! Hồn hỡi!
Xa cây xa cối,
Xa cột xa nhành,
Đầu bãi cuối gành,
Hùm tha, sấu bắt,
Bởi vì thắt ngặt,
Manh áo chén cơm,
U Minh đỏ ngòm,
Rừng tràm xanh biếc!
Ta thương ta tiếc,
Lập đàn giải oan…
Tiếng như khóc lóc, nài nỉ. Tiếng như phẫn nộ, bi ai. Ghê rợn nhất là khi thấy ông đi ra khỏi mé rừng, áo rách vai, tóc rối nùi, mắt đỏ ngầu, bó nhang cháy đỏ quơ qua quơ lại trên tay.
– Coi tướng của ổng ghê như tướng thầy pháp! – Một người thốt lên như vậy.
Nhưng có tiếng khóc sụt sùi đâu đây. Đó là vài cụ già, bà lão chạnh nhớ đến tổ tiên, đến bạn bè của mình, biết đâu trên bước đường sanh nhai giữa chốn nước đỏ rừng xanh, có thân nhân của họ đã bỏ thân vì đàn sấu này. Bó nhang đang cháy kia có giải oan được cái chết của họ không chớ?
Có thể bạn quan tâm 🌻Rừng Xà Nu🌻 Sơ Đồ Tư Duy, Các Bài Phân Tích Hay
Tóm Tắt Truyện Bắt Sấu Rừng U Minh Hạ
Cùng tham khảo ngay Tóm Tắt Truyện Bắt Sấu Rừng U Minh Hạ bên dưới.
Nghe tin có ao cá sấu khủng khiếp ở ngọn rạch Cái Tàu, ông Năm Hên – người thợ già chuyên bắt cá sấu, liền tìm đến giúp dân làng. Tới nơi, ông bơi xuồng theo rạch mà hát bài ca giải oan cho những linh hồn bỏ mạng nơi rừng xanh nước đỏ vì miếng cơm manh áo.
Chiếc xuồng ba lá của ông chỉ vỏn vẹn lọn nhang trầm và một hũ rượu. Ông bắt cá sấu không phải vì tiền bạc, phú quý mà để giúp dân và trả thù cho người anh trai bị cá sấu bắt ngày trước. Dân làng biết ông là bậc kỳ tài nên đón tiếp thân mật và trịnh trọng.
Buổi sáng Tư Hoạch – một người dân địa phương dẫn ông lên ao cá sấu và buổi chiều mang tin vui về cho dân làng cùng 45 con cá sấu nối đuôi nhau theo thuyền. Tư Hoạch kể lại cách bắt sấu phi phàm của ông Năm Hên, ai nấy đều kính phục và tôn Năm Hên là “bậc thánh xứ này”.
Có thể bạn sẽ cần 🌿Vợ Nhặt🌿 Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị Nghệ Thuật
Về Nhà Văn Sơn Nam
Sau đây là những thông tin chính Về Nhà Văn Sơn Nam.
- Sơn Nam tên thật là Phạm Minh Tài, ông sinh năm 1926 tại Kiên Giang và mất năm 2008 tại thành phố Hồ Chí Minh.
- Thuở nhỏ ông học tại quê nhà rồi học trung học tại Cần Thơ.
- Năm 1945 ông gia nhập Thanh niên Tiền Phong, hội Văn hóa Cứu Quốc, rồi Phòng Chính trị Quân khu và Phòng văn nghệ ban tuyên huấn xứ ủy Nam Bộ.
- Năm 1955 ông lên Sài Gòn công tác với nhiều trang báo lớn.
- Năm 1960 – 1961 ông bị Việt Nam Cộng Hòa bắt giam.
- Ra tù ông tiếp tục làm báo, viết văn và khảo cứu về Nam Bộ.
- Năm 1975 ông tiếp tục hoạt động lĩnh vực văn hóa văn nghệ và tham gia Hội nhà văn Việt Nam.
- Ông là nhà văn, nhà khảo cứu tài hoa về miền đất Nam cực nước ta. Ông được mệnh danh là: “ông già Nam Bộ”, “nhà Nam Bộ học”.
- Sơn Nam sáng tác trên nhiều thể loại khác nhau và để lại nhiều tác phẩm độc đáo, tiêu biểu như: Chuyện xưa tích cũ; Hương rừng Cà Mau; Nói về Miền Nam; Người Sài Gòn; Hồi ký Sơn Nam,…
Mời bạn đọc xem thêm tác phẩm 💚 Vợ Chồng A Phủ 💚 Sơ đồ tư duy, phân tích hay nhất
Về Tác Phẩm Bắt Sấu Rừng U Minh Hạ
Về Tác Phẩm Bắt Sấu Rừng U Minh Hạ, thể loại của văn bản này là truyện ngắn. Nghệ thuật dựng truyện li kì, cách kể chuyện tự nhiên, giản dị, sống động. Ngôn ngữ đậm màu sắc Nam Bộ, nhiều phương ngữ sử dụng hợp lí, thích đáng.
Tác phẩm gồm 2 phần:
- Phần 1. Từ đầu đến “của mình ngoài Huế”: Ông Năm Hên chèo thuyền xuống đến làng Khánh Lâm bắt sấu
- Phần 2. Còn lại. Câu chuyện bắt sấu của ông Năm Hên qua lời kể của Tư Hoạch.
Hoàn Cảnh Sáng Tác Truyện Bắt Sấu Rừng U Minh Hạ
Tiếp theo cùng tìm hiểu Hoàn Cảnh Sáng Tác Truyện Bắt Sấu Rừng U Minh Hạ nhé.
Nhà văn Sơn Nam nhờ có những năm tháng kháng chiến chiến chống Pháp sống và gắn bó với mảnh đất Nam Bộ mà có sự thấu hiểu về thiên nhiên, lịch sử và con người nơi đất mũi Cà Mau, mang những cảm nhận của mình đến với mọi người ông đã viết nên truyện ngắn “Bắt sấu rừng U Minh Hạ” được in trong tập truyện “Hương rừng Cà Mau”.
Truyện viết về thiên nhiên và con người rừng U Minh Hạ, ca ngợi những con người lao động cần cù, tình nghĩa, ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên nơi vùng đất địa đầu cực Nam của Tổ quốc.
Cùng lưu lại ngay tác phẩm 🌱 Những Ngày Đầu Của Nước Việt Nam Mới🌱 Nội Dung, Nghệ Thuật
Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm Bắt Sấu Rừng U Minh Hạ
Sau đây là Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm Bắt Sấu Rừng U Minh Hạ.
Nhan đề “Bắt sấu rừng U Minh Hạ” không chỉ đem đến cho người đọc những cảm giác khám phá đầy say mê, lí thú khi mở ra những điều bí ẩn, độc đáo của thiên nhiên, con người vùng cực Nam Tổ quốc.
Nhan đề truyện như vậy gợi cho người đọc những tò mò và muốn đọc ngay tác phẩm để hiểu hơn về vùng đất và con người nơi đó.
Giá Trị Nội Dung Bắt Sấu Rừng U Minh Hạ
Bên dưới là những Giá Trị Nội Dung Bắt Sấu Rừng U Minh Hạ.
- Thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ và kì bí. Đồng thời ẩn chứa nhiều bất trắc, hiểm nguy thử thách con người.
- Con người phóng khoáng, mộc mạc, giản dị và giàu tình cảm. Đồng thời cũng là những con người hết sức thông minh, tài hoa, bản lĩnh và gan dạ.
Chia sẻ cho bạn đọc 🍀Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông🍀 Sơ Đồ Tư Duy, Các Mẫu Phân Tích Hay
Sơ Đồ Tư Duy Bắt Sấu Rừng U Minh Hạ
Cùng lưu lại ngay các Sơ Đồ Tư Duy Bắt Sấu Rừng U Minh Hạ sau đây.
Xem thêm phân tích ❤️️ Người Lái Đò Sông Đà ❤️️ Nội Dung Tác Phẩm, Nghệ Thuật
5 Mẫu Phân Tích Bắt Sấu Rừng U Minh Hạ Hay Nhất
Cuối cùng là 5 Mẫu Phân Tích Bắt Sấu Rừng U Minh Hạ Hay Nhất không thể bỏ lỡ.
Phân Tích Bắt Sấu Rừng U Minh Hạ Hay Nhất – Mẫu 1
Sơn Nam là nhà văn Nam Bộ giàu bản sắc, có một phong cách nghệ thuật độc đáo, dung dị, hồn nhiên. Đọc truyện của ông, ta tưởng như đang ngồi nghe một lão nông miệt vườn, một tay ăn ong rừng kể chuyện. Có nhà phê bình đã nói, đọc truyện “Hương rừng Cà Mau” như được đi “thăm thú vùng đất Mũi kỳ thú mênh mông”.
Ta như được vui vầy sống giữa một thiên thiên hoang dã. Rừng tràm bát ngát, nhiều ong mật, cá sấu, rắn rùa, đủ các loài chim quý. Kênh rạch chằng chịt, lắm nước bạc, nhiều phù sa, đầy tôm cá. Một vùng đất giàu có với những con người dũng cảm, trọng nghĩa khinh tài, ngang tàng, bộc trực,… rất đáng yêu.
Tất cả được Sơn Nam tạo nên một không gian nghệ thuật với bao câu chuyện kì thú hấp dẫn, đậm đà màu sắc Nam Bộ, cuốn hút chúng ta. Thấm đượm những trang văn của Sơn Nam là một tấm lòng yêu nước thiết tha, một tình yêu thương chan hòa với thiên nhiên và con người của đất rừng phương Nam Tổ quốc giàu đẹp.
Truyện “Bắt sấu rừng U Minh Hạ” là một trong số 18 truyện rút trong tác phẩm “Hương rừng Cà Mau” xuất bản năm 1967. Tác giả kể lại chuyện ông Năm Hên bắt sấu ở ngọn rạch Cái Tàu tại địa phận làng Khánh Lâm, qua đó ca ngợi những phẩm chất như chất phác, dũng cảm, tài tử và trọng nghĩa khinh tài… của người nông dân Nam Bộ…
Phần đầu truyện, Sơn Nam nói về loài sấu. Nó là giống “hung hăng nhất” ở nơi sông rạch. Giống sấu chỉ thích nơi yên tĩnh, chật hẹp của ngọn cùng, không thích chốn sông sâu, nước chảy, có sóng gió. Sấu thường đi ngược sông Ông Đốc, rạch Cái Tàu, vào giữa rừng tràm vùng u Minh Hạ. Sấu thích ăn thịt người, nhưng tôm cá là “món ăn chính” của nó. Mùa nắng hạn rừng khô, sấu tìm đến các ao, các thung lũng giữa rừng tràm mà lập “căn cứ” rồi “sanh con đẻ cháu”.
Câu chuyện càng trở nên hấp dẫn qua tình tiết khi có người lên rừng ăn ong chạy về loan báo: “Sấu ở giữa rừng nhiều như trái mù u chín rụng!”. Chất hoang dã của rừng tràm, của rạch Cái Tàu, vẻ rùng rợn của câu chuyện được gợi ra bằng một câu loan báo nhiều ngạc nhiên và hoảng sợ vì sấu rất hung dữ lại “thích ăn thịt người!”.
Sơn Nam miêu tả sấu, đàn sấu bằng những chi tiết rất gợi, những hình ảnh đầy màu sắc. Giữa một cái ao lớn ước một công đất toàn lau sậy, dây cóc kèn là đàn sấu nổi lên “những vệt đen chi chít” giữa “bức tranh màu xanh” của rừng tràm, của cây lá. Đàn sấu được đặc tả bằng những so sánh gợi lên cảm giác rùng rợn như khi ta phải đối diện với loài vật hoang dã rất hung dữ và thích ăn thịt người. Có những con sấu to lớn “nằm dài như chiếc xuồng lường” (thuyền độc mộc).
Lại có những con sấu rất cảnh giác, hung hăng “dùng hai chân trước mà vạch sậy, ngỏng mỏ xéo lên trời như họng súng thần công đại bác”. Con sấu già, sấu chúa “trợn mắt” nhìn lũ người, phản ứng tinh khôn “bò thối lui vào giữa lòng ao, để thủ thế”. Sấu chúa có đốm đỏ ngay giữa tam tinh, sống lâu đời, khôn lắm, nó đã nhiều phen “kịch chiến” với loài người, nó toan dụ địch thủ vào hang của nó nơi nước sâu.
Có thể nói bức tranh sấu được Sơn Nam vẽ bằng một gam màu đen nổi bật trên màu xanh của rừng với ba nét vẽ về ba con sấu: sấu nằm, sấu bò, sấu trợn mắt. So sánh nào cũng độc đáo, giàu tưởng tượng. Một thiên nhiên hoang dã, rùng rợn, kỳ thú. Sơn Nam đã mở rộng tầm nhìn, đem đến cho ta những hiểu biết kỳ lạ, thú vị về thiên nhiên vùng đất mũi bao la chứa đựng bao bí mật.
Ông Năm Hên là nhân vật trung tâm của truyện “Bắt sấu rừng U Minh Hạ”. Nhân vật xuất hiện bất ngờ, đúng là con người “có kì tài”. Ông là thợ già chuyên bắt sấu ở Kiên Giang đạo. Ông đến vùng Khánh Lâm, ngọn rạch Cái Tàu bằng một chiếc xuồng ba lá nhỏ, trong xuồng “vẻn vẹn một lọn nhang trần và một hũ rượu”. Năm Hên xuất hiện bằng một bài hát nghe “ảo não, rùng rợn” như một bài cầu hồn.
Tiếng hát của ông lão vang lên trên con rạch theo nhịp bơi xuồng tới lui từ sớm tới chiều: “Hồn ở đâu đây? Hồn ơi? Hồn hỡi? – Xa cây xa cối – Xa cội xa nhành – Đầu bãi cuối gành – Hùm tha, sấu bắt…”. Bài hát gợi lên màu sắc bi tráng của thiên truyện, góp phần gợi tả tính chất kì bí của nhân vật Năm Hên.
Năm Hên xuất hiện với bao mong đợi của bà con vùng Khánh Lâm. Chẳng có vũ khí, chẳng có đồ nghề… Một đoạn đối thoại rất hay để giới thiệu Năm Hên là thợ bắt sấu chứ không phải tay câu sấu. Và ông ta chỉ “bắt sấu trên khô”, bắt sấu “bằng… hai tay không”.
Tuy bà con vùng Khánh Lâm “nửa tin nửa nghi” nhưng ai nấy đều khâm phục người “bắt sấu bằng tay không quả là phi phàm, thế gian hi hữu”. Ông Năm Hên chẳng phải là một kẻ khoác lác mà là con người đi bắt sấu vì việc nghĩa, chưa hề “nói láo để lường gạt” hoặc “mở miệng xin tiền bạc cơm gạo gì” của xóm Khánh Lâm này, của bất cứ ai.
Đó là hình ảnh một con người trọng nghĩa khinh tài sống giữa cộng đồng bà con nông dân Nam Bộ xưa và nay. Ông nói: “Nghề bắt sấu có thể làm giàu được, ngặt tôi không mang thứ đó”. Tiếng nói ông Năm Hên, cách ứng xử của ông trong nghề bắt sấu khác nào tâm thế ông Ngư trong “Truyện Lục Vân Tiên” của cụ Đồ Chiểu ở thế kỉ XIX:
Ngư rằng: “Lòng lão chẳng mơ
Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn.
Nước trong rửa ruột sạch trơn
Một câu danh lợi chi sờn lòng đây”.
Con người của Nam Hên được hé lộ dần. Ông mang một nỗi đau, một mối thù đối với loài sấu hung dữ. Mười hai năm về trước, người anh trai của ông đi phá rừng làm rẫy tại Gò Quao, đã bị sấu ở Ngã Ba Đình bắt mất. Ông đi bắt sấu là để thực hiện một lời thề với vong linh người anh, như ông nói: “Tôi thề quyết trả thù cho anh”, ở đâu có sấu là ông đi tới.
Ông “cực lòng” khi nghe tên những con rạch, ngã ba mang tên Đầu Sấu, Lưng Sấu, Bàu Sấu…, đó là những “nơi ghê gớm”, hồi xưa đất còn hoang “sấu lội nhiều”… Vùng đất dữ đó, nhiều người mới chỉ nghe nói đến đã ghê sợ, rụng rời cả chân tay.
Ông Năm Hên đi bắt sấu ở ngọn Cái Tàu chỉ có một mình, có thêm Tư Hoạch dẫn đường vào ao sấu. Quá ngọ thấy một làn khói đen bốc lên ở phía ao sấu u Minh Hạ, ban đầu ngỡ cháy rừng, chập sau khói lụn xuống. Trời vừa xế, Tư Hoạch đã bắt 45 con sấu “còn sống nhăn” trở về. Tư Hoạch reo lên: “Diệu kế! Diệu kế!… Một đời người mới có một lần”.
Nhìn đàn sấu “con này buộc nối đuôi con kia đen ngòm như khúc cây khô, dài… hai chân thúc ké trên lưng…” quạt nước bơi theo con thuyền Tư Hoạch, bà con cô bác Khánh Lâm vô cùng ngạc nhiên. Người thì “há miệng sửng sốt rồi toan chạy vào nhà trốn”, người thì “khấn vái lâm râm…”, có người lại bơi xuồng ra giữa sông hỏi han Tư Hoạch “rối rít”.
Nhà văn Sơn Nam đã khéo léo “hãm chuyện”, cho bà con xứ Khánh Lâm nhìn thấy đàn sấu bị bắt đem về, rồi mới nghe Tư Hoạch kể lại chuyện ông Năm Hên bắt sấu, để làm cho câu chuyện trở nên hồi hộp, thú vị. Đến ao sấu ông Năm Hên đi vòng quanh dòm địa thế, rồi ngồi xuống uống rượu thật ung dung.
Ông chỉ nhờ Tư Hoạch bứt cho một nắm dây cóc kèn để trói sấu. Còn bao nhiêu công việc như đào một đường nhỏ từ ao sâu lên rừng đến chuyện chặt mốp thành từng khúc, từ chuyện đốt sậy để xua dàn sấu đến chuyện đút khúc mốp vào miệng sấu, lấy mác cắt gân đuôi và trói sấu… một mình ông làm tất. Cả bầy sấu 45 con đều bị ông Năm Hên bắt hết không sót một con nào! Đúng như ông nói: “Tôi đây… chẳng qua là biết mưu mẹo một ít…”.
Bà con xứ Khánh Lâm thì trầm trồ, khâm phục: “Thực là bậc thánh của xứ này rồi? Mưu kế như vậy thực quá cao cường!…”. Cả xóm muốn “đền ơn ổng một số tiền, nuôi ổng cho tới già”… Ông Năm Hên không chỉ mưu trí dùng hỏa công để lùa sấu theo kế “điệu hổ ly sơn”, dẫn sấu vào tử lộ, dùng xốp để khóa miệng sấu, mà ông còn rất dũng cảm khi đối diện với đàn sấu hung hăng đòi táp. Ông đã bình tĩnh đút từng khúc mốp vào miệng lũ sấu dữ hung hăng.
Nhà văn để ông Năm Hên “cúng đất đai vương trạch” rồi đi bộ về phía sau là một tình tiết đặc sắc tung và hứng rất chặt chẽ. Lần thứ hai, tiếng hát cầu hồn của ông Năm Hên lại cất lên nghe ảo não, rùng rợn:
Hồn ở đâu đây?
Hồn ơi! Hồn hỡi!…
Cùng với tiếng hát cầu hồn, giải oan, là hình ảnh ông Năm Hên “áo vai, tóc rối nùi, mắt đỏ ngầu, bó nhang cháy đỏ quơ qua quơ lại trên tay “… gợi lên không khí thiêng liêng, dân dã, kì bí, cổ kính. Người đọc cảm thấy những oan hồn bị “hùm tha, sấu bắt” đang kéo về bến sông nhìn đàn sấu bị ông Năm Hên bắt và khóc sụt sùi. Hình như có biết bao oan hồn đang chập chờn trên sông nước, đang chạy theo chiếc xuồng ba lá của ông Năm Hên.
Phân Tích Bắt Sấu Rừng U Minh Hạ Chọn Lọc – Mẫu 2
Sơn Nam tên khai sinh là Phạm Minh Tài (bút danh khác: Phạm Anh Tài), quê ở Rạch Giá (Kiên Giang), tham gia cách mạng từ năm 1945, hoạt động văn nghệ trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp, tiếp đó làm văn, viết báo ở Sài Gòn.
Sơn Nam sinh ra ở miền cực nam của Tổ quốc và cũng là nhà văn đích thực của vùng đất này. Vùng đất đó là đề tài sáng tác và cũng là đối tượng khảo cứu của nhiều công trình khoa học có giá trị của ông.
Bắt sấu rừng U Minh Hạ là tác phẩm, rút từ tập truyện ngắn rất tiêu biểu cho tư tưởng và nghệ thuật của Sơn Nam: Hương rừng Cà Mau. Tập truyện đưa ta vào một thế giới bao la và kì thú của vùng đất U Minh với những kênh rạch, những rừng tràm, bãi sú, đồng nước mênh mông, quê hương của các loài tôm cá, chim quý, thú rừng, cá sấu, rắn, rùa, ong mật,…
Đây quả là nơi rừng vàng biển bạc. Nhưng để có thể khai thác được một thiên nhiên như thế, con người đã phải trả giá rất đắt bằng mồ hôi, nước mắt và máu để đương đầu với thú dữ, rắn rết, muỗi vắt, chướng khí và giặc cướp, chưa kể sự áp bức của thực dân, địa chủ,…
Nổi bật lên trên bối cảnh thiên nhiên giàu có, hùng vĩ và dữ dội ấy là những người dân lao động sức vóc, gân guốc, sống mãnh liệt, đầy tài ba, trí dũng – những con người rất đặc trưng cho tính cách Nam Bộ: hào phóng, bộc trực, trọng nghĩa khinh tài, hồn nhiên, cởi mở, tuy có phần cả tin, sùng đạo, mê tín dị đoan nữa…
Tác phẩm được viết với một tấm lòng yêu nước thiết tha, một tâm hồn nhân hậu và một thứ ngôn ngữ đậm đà màu sắc địa phương Nam Bộ, ẩn giấu bên trong một nụ cười thông minh, hóm hỉnh mà rất đỗi dịu hiền.
Sức hấp dẫn của Bắt sấu rừng U Minh Hạ trước hết là ở lối trần thuật đưa người đọc, cùng với nhân vật truyện, đi từ bất ngờ này đến- bất ngờ khác, hết chuyện lạ nọ đến chuyện lạ kia.
Điều kì lạ đầu tiên là, cứ tưởng sấu chỉ ở dưới sông, hoá ra “sấu ở giữa rừng nhiều như trái mù u chín rụng!” – có người lên rừng ăn ong chạy về loan báo như thế. Dân làng Khánh Lâm kéo nhau lên xem: “Cái ao lớn ước một công đất, bên bờ, dưới nước, toàn là lau sậy, dây cóc kèn. Sấu nổi lên chen vào bức tranh màu xanh ấy những vệt đen chi chít: con thì nằm dài như chiếc xuồng lường, con thì dùng hai chân trước mà vạch sậy, ngóng mỏ xéo lên trời như họng súng thần công đại bác”,…
Điều kỳ lạ thứ hai là nhân vật Năm Hên xuất hiện, vừa bơi xuồng vừa hát – tiếng hát thật là ảo não, rùng rợn:
Hồn ở đâu đây?
Hồn ơi! Hồn hỡi!
Xa cây xa cối,
Xa cội, xa nhành
Đầu bãi cuối gành
Hùm tha sấu bắt…
Ông ta là thợ câu sấu? Không, ông là “thợ bắt sấu”, “bắt bằng… hai tay không”, quả là một nhân vật “phi phàm, thế gian hi hữu”.
Điều kỳ lạ thứ ba là, ngày hôm sau, chỉ quá giờ Ngọ, Tư Hoạch, theo ông Năm Hên đi bắt sấu, đã trở về:
Bà con ơi! Ra coi sấu… Bốn mươi lăm con còn sống nhăn”.
Dưới sông, Tư Hoạch ngồi trên xuồng bơi nhè nhẹ như đi dạo mát, kéo theo sau một bầy sấu, con này buộc nối đuôi con kia “đen ngòm như khúc cây khô dài”, như một “chiếc bè quái dị”. “Thực tế hay là chiêm bao? Người thì đứng há miệng sửng sốt rồi toan chạy vào nhà trốn. Người khác khấn vái lâm râm, e nay mai xóm này bị sự trừng phạt của quỷ thần”.
Điều kỳ lạ thứ tư là, theo lời kể của Tư Hoạch, ông Năm Hên có một mẹo bắt sấu rất nhẹ nhàng và tài tình: “Thực là bực thánh của xứ này rồi! Mưu kế như vậy thực quá cao cường”,…
Sức hấp dẫn thứ hai của tác phẩm là ở nhân vật ông Năm Hên. Một nhân vật được xem là “kỳ tài” mà rất giản dị, khiêm tốn. Con người của hành động, ít nói, không ba hoa khoác lác. Ông tự giới thiệu: “Tôi đây không tài giỏi gì hết, chẳng qua là biết mưu mẹo chút ít”.
Nhưng con người ấy, bộ dạng ông có một vẻ gì rất bí ẩn: “áo rách vai, tóc rối nùi, mắt đỏ ngầu, bó nhang cháy đỏ quơ qua quơ lại trên tay”, trông “ghê như tướng thầy pháp”. Té ra con người làm thì nhiều, nói thì ít này cũng có nhiều nỗi niềm sâu kín: một vết thương lòng đau đớn và một mối hận thù không lúc nào nguôi đối với loài thuỷ quái: “cha mẹ tôi sanh ra chỉ có hai anh em tụi tôi. Anh tôi xuống miệt Gò Quao phá rừng làm rẫy hồi mười hai năm về trước. Sau được tin cho hay: ánh bị sấu ở ngã ba Đình bắt mất. Tôi thề quyết trả thù cho anh”.
Như thế là con người này rất giàu tình nghĩa. Mà không phải chỉ giới hạn trong tình cảm anh em ruột thịt. Tấm lòng của ông còn mở rộng ra tới tất cả những người dân lao động, chỉ vì lặn lội kiếm ăn mà bị “hùm tha, sấu bắt”.
Bài hát của ông đã nói rõ lòng ông như vậy:
Hồn ở đâu đây?
Hồn ơi! Hồn hỡi!
Xa cây xa cối,
Xa cội xa nhành,
Đầu bãi cuối gành,
Hùm tha, sấu bắt,
Bởi vì thắt ngặt,
Manh áo chén cơm,
U Minh đỏ ngòm,
Rừng tràm xanh biếc!
Ta thương ta tiếc,
Lập đàn giải oan…
Đó chính là lý do ông tìm đến vùng đất Rạch Giá, Cà Mau này. Nghe tin đây là nơi tập trung nhiều sấu với những địa danh ghê gớm: Đầu Sấu, Lưng Sấu, Bàu Sấu, ông “Cực lòng biết bao nhiêu”, và “chẳng nệ đường xa để tới xứ Khánh Lâm này”.
Đày là con người “trọng nghĩa khinh tài”, mang truyền thống “Kiến nghĩa bất vi vô dũng dã – Lâm nguy bất cứu mạc anh hùng” của người dân Nam Bộ. Ông “nào đã mở miệng xin tiền bạc cơm gạo gì của xóm này”. Lòng ông là thế: không bày đặt ra “bùa phép để kiếm tiền.
Nghề bát sấu có thể làm giàu được, ngạt tôi không màng thứ phú quý đó”. Một ý thức giúp đời, cứu đời hết sức vô tư như muôn học theo nghĩa khí của Lục Vân Tiên, Hớn Minh, Vương Tử Trực ngày xưa…
Bắt sấu rừng U Minh Hạ còn tạo được sức hấp dẫn nhờ những chi tiết rất gợi không khí. Có chi tiết gợi cảm giác ghê sợ. Chẳng hạn, hình ảnh con sấu già trong ao sấu. Nó là con “sấu chúa” sống lâu đời, “có đốm đỏ ngay giữa tam tinh”. Nó trợn mắt nhìn lũ người rồi bò thối lui vào giữa lòng ao, “toan dụ địch thú vào hang của nó nơi nước sâu”.
Hình ảnh bầy sấu, bốn mươi lăm con, “đen ngòm như khúc cây khô dài” bơi theo xuồng Tư Hoạch cũng là một hình ảnh ghê sợ. Có người “toàn chạy vào nhà trốn”, có người lâm râm khấn vái tưởng như có quỷ thán hiện lên trừng phạt,… đều là những chi tiết gợi không khí kinh hoàng trước một hiện tượng ghê gớm “một đời người mới có một lần”.
Phân Tích Bắt Sấu Rừng U Minh Hạ Tiêu Biểu – Mẫu 3
Người nông dân Việt Nam luôn phải đối mặt với cuộc sống “một nắng hai sương”, “bán mặt cho đất bán lưng cho trời”. Họ phải đối diện với thiên nhiên khắc nghiệt. Thiên nhiên với sức mạnh không tưởng của mình đã trở thành rào cản ngăn cấm con người trong công cuộc lao động mưu sinh. Ngòi bút nhà văn Sơn Nam cũng đã khắc họa mối hiểm họa thiên nhiên mang tên những cá sấu với người dân miền Tây qua truyện ngắn Bắt sấu rừng U Minh Hạ.
Sơn Nam là nhà văn Nam Bộ tham gia hoạt động cách mạng từ sớm. Ông có nhiều đóng góp cho văn học kháng chiến nói riêng, văn học Việt Nam nói chung. Ông sáng tác văn xuyên suốt các thời kỳ lịch sử của dân tộc. Là cây bút tài năng với tài dựng truyện li kì, xây dựng nhiều chi tiết gợi cảm, ngôn ngữ đậm màu sắc Nam Bộ, nhân vật giàu chất sống.
Truyện ngắn Bắt sấu rừng U Minh Hạ là một trong mười tám truyện ngắn trong tập Hương rừng Cà Mau. Là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách Sơn Nam với cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, ấn tượng.
Thiên nhiên và con người U Minh Hạ để lại ấn tượng sâu sắc trong bạn đọc khi lật mở những trang viết đầu tiên về rừng U Minh Hạ gắn liền với những con cá sấu ăn thịt người. Khu rừng nguyên sơ với vô số loài thực vật khác nhau. Ở đó có rừng tràm xanh biếc, những cây cỏ hoang dại như lau, sậy, mốp, cóc kèn….
Và điều lạ lùng là ở ngọn rạch Cái Tàu có nhiều ao cá sấu gây ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân. Đối mặt với hiểm nguy từ lũ cá sấu là thái độ ngoan cường của những con người sống trên vùng đất hoang vu đó. Họ thương tiếc trước những hi sinh mất mát của người dân nơi đây: bị hùm tha sấu bắt.
Và khi đã gần như bất lực trước những tội ác của những “quái thú” dưới nước thì ông Năm Hên đến với U Minh Hạ như một tia ngờ vực đối với tất cả mọi người. Nhưng họ vẫn một lòng dốc sức giúp đỡ Năm Hên: câu sấu bằng lưỡi sắt, móc mồi bằng con vịt sống, Năm Hên bắt cá sấu bằng tay không, lại có người như Tư Hoạch một tay ăn ong rất rành địa thế vùng Cái Tàu, rồi những người trai lực lưỡng đã từng gài bẫy cọp, săn heo rừng…
Nhân vật Năm Hên là nhân vật trung tâm của truyện được Sơn Nam khắc họa bằng những nét đơn sơ nhưng lại làm hiện rõ bức chân dung con người miền Tây chân chất.
Ông là một người giản dị, khiêm tốn, trọng nghĩa khinh tài. Là người thợ già có khả năng và bản lĩnh, ông chuyên bắt sấu. Khi nghe tin về sự độc ác của lũ cá sấu trong rừng U Minh Hạ, ông đã tự bơi xuồng đến rạch Cái Tàu với duy nhất hai thứ mang theo là một lọn nhang trần và một hũ rượu. Đó không phải dụng cụ bắt cá sấu mà là ông dùng để tưởng niệm những người bị cá sấu hại chết.
Sự mưu trí, can trường của Năm Hên khi đối diện với bầy cá sấu càng chứng minh cho sự tài ba của ông. Ông chuyên bắt sấu trên khô, không cần lưỡi câu. Ông đào sẵn đường thoát, đốt cháy sậy đế, cóc kèn, sấu bị nung nóng, cay mắt, ngộp thở bò lên, bị ông đút vô miệng một khúc mốp dính chặt hai hàm răng. Ông dùng mác xắn lưng sấu, cắt gần đuôi, trói hai chân sau, bắt sấu về.
Ông Năm Hên là người nghĩa tình. Công việc ông làm hiểm nguy nhưng với tấm lòng nhiệt thành của một trái tim giàu nhân ái, ông đã vượt trên những khó khăn để cống hiến cho cộng đồng. Bắt sấu để giúp dân làng Khánh Lâm an tâm lao động sản xuất là mục đích cao đẹp trước mắt của Năm Hên.
Và ông cũng không quên tưởng niệm những người đã bị cá sấu ăn thịt. Bài hát của ông tưởng nhớ hương hồn những người đã bị cá sấu bắt, bị chết một cách oan ức, trong đó có cả người anh ruột của ông. Lời hát gợi lên bao cảm nghĩ về cuộc sống khắc nghiệt ở vùng đất U Minh, nơi nhiều người phải bỏ thân nơi đầu bãi cuối gành vì manh áo chén cơm, đồng thời cũng cho thấy tấm lòng sâu nặng nghĩa tình đồng loại, đồng bào của Năm Hên.
Ông há để tỏ lòng thương tiếc những người xấu số và bằng hành động mưu trí bắt đàn sấu dữ, rồi đã “lập đàn giải oan” cho người xưa:
Hồn ở đâu đây?
Hồn ơi! Hồn ơi!
Xa cây xa cối,
Xa cội xa nhành,
Đầu bãi cuối gành.
Hùm tha, sấu bắt,
Bởi vì thắt ngặt,
Manh áo chén cơm,
U Minh đỏ ngòm,
Rừng tràm xanh biếc!
Ta thương ta tiếc,
Lập đàn giải oan…
Bài hát tạo không khí bí hiểm và có phần rùng rợn, tràn đầy cảm xúc, tựa như lời gọi hồn hay bài kinh cầu siêu, giải oan cho những linh hồn bị hùm tha, sấu bắt…
Truyện ngắn dưới ngòi bút Sơn Nam đã cho người đọc cái nhìn sâu sắc về cuộc sống người dân nơi đây. Cách kể chuyện li kì, tình tiết hấp dẫn cùng với tình huống truyện độc đáo đã khiến hình ảnh Năm Hên trong phân cảnh diệt trừ những loài cá sấu càng trở nên sâu sắc hơn trong lòng người đọc.
Phân Tích Bắt Sấu Rừng U Minh Hạ Ấn Tượng – Mẫu 4
Miền Nam không chỉ xuất hiện trong truyện những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước mà còn xuất hiện lại một lần nữa trong truyện bắt sấu rừng U Minh hạ của Sơn Nam.
Nhà văn Sơn Nam cũng đã một lần nữ ca ngợi vẻ đẹp của con người Nam Bộ khi phải đối diện với những khó khăn của thiên nhiên nơi đây. Thiên nhiên càng hoang sơ, nguy hiểm biết bao nhiêu thì con người hiện lên càng đẹp biết bao nhiêu. Vẻ đẹp ấy được thể hiện rất rõ qua nhân vật ông Năm Hên.
Bắt sấu rừng U Minh Hạ là một truyện ngắn in trong tập truyện Hương rừng Cà Mau (Nhà xuất bản Phù Sa, Sài Gòn, 1962). Toàn tập gồm 18 truyện, thể hiện sinh động cảnh quan, đời sống, truyền thống lịch sử và phẩm chất tính cách con người ở mảnh đất cực nam của chúng ta.
Tác giả giúp người đọc hiểu và yêu Hòn Cổ Tron, sông Gành Hào, đàn ong mật, những đêm hát bội giữa rừng, cuộc đua ghe ngo,… nổi bật trên bức tranh dân dã quê hương đó là những người nông dân đôn hậu, chất phác, chân thật, dũng cảm ; những người đổ mồ hôi và đổ máu để khai phá và giữ gìn từng tấc đất cho gia đình và cho Tổ Quốc.
Câu chuyện nổi bật lên hình ảnh thiên nhiên cực nam vô cùng nguy hiểm. Câu chuyện như tái hiện lại toàn cảnh thiên nhiên vùng U Minh hạ cũng như cảnh sinh hoạt, mưu sinh của người dân nơi đây. Thiên nhiên hiểm trở đó chính là thiên nhiên rừng xanh nước độc ấy – rừng U Minh, đặc biệt trong chốn rừng thiêng ấy còn có cả đàn sấu.
Những con cá sấu nguy hiểm đã giết hại biết bao nhiêu người dân nơi đây. Họ phải vào rừng để kiếm ăn kiếm kế sinh nhai nhưng ở đó cũng có thể địa ngục của họ nếu như họ gặp đàn sấu ấy. Chúng to khỏe và nguy hiểm khiến ai là dân trong vùng ấy đều sợ, họ chỉ biết khóc lóc thương tiếc những người thân xấu số của mình chứ chưa ai dám động đến chúng “nhưng có tiếng khóc sụt sùi đâu đây.
Ðó là vài cụ già, bà lão chạnh nhớ đến tổ tiên, đến bạn bè của mình, biết đâu trên bước đường sanh nhai giữa chốn nước đỏ rừng xanh, có thân nhân của họ đã bỏ thân vì đàn sấu này. Bó nhang đang cháy kia có giải oan được cái chết của họ không chớ? ”. đã vậy ở dòng sông ấy, rừng U Minh ấy còn có rất nhiều loại động thực vật phong phú và đa dạng.
Nói đến đàn cá sấu chúng không thích những nơi sóng gió mà chúng lại leo lên hẳn ngọn nguồn để sinh sống đặc biệt ở những đoạn hẹp của sông U Minh, những nơi ấy thường là chỗ mưu sinh của người dân Nam Bộ.
Thế mà giờ thành nơi sinh sống và địa bàn của chúng chẳng khác nào mang thức ăn đến cho chúng nhưng biết làm sao khi người dân nơi đây sống nhờ rừng U Minh ấy, đã vậy họ nổi tiếng là những người sống trên nước “nơi sông rạch, cá sấu là giống hung hăng nhất.
Có điều đáng chú ý là chúng không thích những chốn sông nước chảy, có sóng gió. Chúng lên tận ngọn cùng, tìm nơi yên tĩnh, chật hẹp. Vùng U Minh hạ, sấu thường đi ngược sông Ông Ðốc, rạch Cái Tàu vào giữa rừng tràm…”.
Về số lượng của đàn cá sấu tác giả miêu tả thật rõ nét, thật chính xác qua câu “– Sấu ở giữa rừng nhiều như trái mù u chín rụng!”. đây là một phép so sánh vô cùng hay. Tác giả không dùng biện pháp phóng đại nói quá mà như trong tác phẩm thì người dân ở đây khi đứng lên trên cao nhìn xuống ngoài cái ao lớn ước một công đất, bên bờ, dưới nước, toàn là lau sậy, dây cóc kèn ra thì toàn là những lưng con cá sấu hiện lên thành những vệt đen chi chít.
Chúng còn ở đó thì người dân miền nam không thể yên ổn làm ăn được. Có thể nói chúng là mối nguy hiểm lớn nhất của người dân nơi đây.
Đàn cá sấu ấy không chỉ đông đảo về số lượng mà chúng còn rất khôn lanh “…con thì nằm dài như chiếc xuồng lường, con thì dùng hai chân trước mà vạch sậy, ngóng mỏ xéo lên trời như họng súng thần công đại bác. Biết có loài người đến quan sát, chúng vẫn điềm nhiên sưởi nắng, bắt cá.
Duy có con sấu già trợn mắt hướng về lũ người rồi bò thối lui. Nghi ngờ gì nữa! Con sấu nọ có đốm đỏ ngay giữa tam tinh. Nó là “sấu chúa” sống lâu đời, nhiều phen kịch chiến với loài người. Khi ở trên cạn, sấu khôn nguy hiểm bằng một con rắn hổ.
Sấu chúa khôn lắm, nó toàn dụ địch thủ vào hang của nó ù nơi nước sâu. ” Tác giả miêu tả thật sống động những hoạt động của đàn cá sấu khôn lanh và đồng thời qua đó chúng ta thấy nếu không xử lý được chúng thì còn nhiều người dân nữa biến thành thức ăn của chúng.
Trước những khó khăn ấy nhưng con người nơi đây vẫn đến đây để lập nghiệp và họ cứ đinh ninh rằng đàn cá sấu kia đã giảm bớt lượng đi phần nào. Có mười thì chắc chắn là bảy phần chết còn ba phần. thế nhưng chúng vẫn đông đảo lắm. tuy vậy họ không lùi bước họ tìm cách để đánh bại con vật ghê gớm kia.
“Trong số những người khi nãy, có kẻ cẩn thận mang theo mác thông, lao, ná lẫy, nhưng họ dư hiểu rằng mớ khí giới ấy chỉ có hiệu lực đối với cọp, heo rừng, đằng này, sấu lại là loài ở nước, ở bùn lầy. Chống xuồng vào thì quá cạn còn đi bộ xuống thì lún ngập gối. ” thế rồi giữa những khó khăn ấy xuất hiện ông Năm Hên một người gan dạ và có một chiến thuật để đánh bại đàn cá sấu ấy.
Và đặc biệt chính kế hoạch và tài trí của ông đã tiêu diệt lũ cá sấu ấy trả lại một U Minh hiền lành cho mọi người dân đến đây lập nghiệp. Sự khôn khéo cũng như sức khỏe kiên cường của ông biểu tượng cho người dân sông nước Miền Nam.
Phân Tích Bắt Sấu Rừng U Minh Hạ Đặc Sắc – Mẫu 5
Nhắc đến Sơn Nam, người đọc hầu như ai cũng nghĩ đến một nhà khảo cứu sâu sắc, một nhà văn dầy tâm huyết về miền đất cực nam của Tổ quốc ta. Hầu như tất cả các tác phẩm của ông đều tập trung vào đề tài này.
Riêng về sáng tác văn học, tác phẩm đặc sắc nhất và tiêu biểu nhất của Sơn Nam chính là tập truyện ngắn Hương rừng Cà Mau, trong đó, Bắt sấu rừng u Minh Hạ. là một trong các truyện ngắn nổi bật hơn cả của ông. Trên từng trang viết, Năm Hên, ông già bắt sấu, nhân vật chính của truyện đã hiện lên khá sinh động và lôi cuốn người đọc.
Rừng U Minh Hạ là một khu vực thiên nhiên còn hoang dại: “Muỗi vắt nhiều hơn co. Chướng khí mù như sương” (thay lời tựa Hương rừng Cà Mau), nơi mà .những người dân miền cực nam Tố quốc đang khai khẩn và sinh sống. Từng ngày, từng giờ họ sẵn sàng đấu tranh với thiên nhiên và thú dữ để bảo tồn sự sống của mình.
Những con người “trên phá Sơn Lâm, dưới đâm Hà Bá” này đã có công làm cho mảnh đất nơi đây phì nhiêu, màu mỡ bằng cách bón vào lòng đất mới mồ hôi và xương máu của chính mình. Trong cuộc đấu tranh khắc nghiệt đầy sinh tử ấy đã xuất hiện không ít những con người đôn hậu, thật thà nhưng đầy mưu lược và dũng cảm Năm Hên. Ong già bắt sâ’u trong truyện này đúng là một con người như thế.
Mang đậm nét tính cách của người nông dân Nam bộ trong buổi đầu đi tìm đất mới để sinh cơ lập nghiệp, ông Năm Hên, trước hết là một con người thật thà đôn hậu. Tuy là cung cách xuất hiện của ông rất lạ: “Trong xuồng, vẻn vẹn một lọn nhang trần và một hũ rượu. Từ sớm đến chiều, ông hơi xuồng tới lui theo rạch mà hát”.
Lại nữa, bài hát của ông nghe sao mà “ảo não rùng rạn” như thể là đang ru dỗ cho một linh hồn oan khuất nào đó. Nhưng khi thấy bà con có vẻ nghi ngờ, thiếu tin tưởng về cách bắt sấu bằng tay không của mình, ông Năm Hên đã thật thà bộc bạch: “Tòi đây không tài giỏi gì hết, chẳng qua là biết mưu mẹo chút ít, theo như người khác thì họ nói là bùa phép để kiếm tiền…”
Là một con người thật thà, đôn hậu, ông Năm Hên hành động vì nghĩa, không màng lợi lộc riêng tư cho mình. Ông tâm sự: “Nghề bắt sấu có thể làm giàu được, ngặt tôi không màng thứ phú quý đó…”.
Người đọc hiểu ra, khi mới đến đây xưng tên tuổi, quê quán, nghề nghiệp, ông đã cải chính cách gọi về sự hành nghề của mình là bắt sấu chớ không phải câu sấu, là thể hiện sự ẩn giấu một niềm tự hào thầm kín về công việc của mình, một công việc hoàn toàn vì nghĩa.
Thấy việc cần làm là làm, thấy người hoạn nạn là không ngại hiểm nguy ra sức giúp đỡ chẳng chút tính toán thiệt hơn. “Không màng thứ phú quí đó”, đúng như lời nói ông già bắt sấu.
o bộc bạch hết sức chân thành về gia cảnh và động cơ nghề nghiệp của mình, ông Năm Hên đã tạo được niềm tin bước đầu của dân làng. Câu nói của ông lúc đầu: “Tôi dây không tài giỏi gì hết, chẳng qua là biết mưu mẹo chút ít” là câu nói khiêm tôn, thực tế cho thấy ông là người đầy mưu trí.
Cách bắt sấu của ông được Tư Hoạch kế lại quả thật tài tình: Lửa châm vô sậy đế, cóc kèn xung quanh, bắt cháy xuống dám sậy đế trong ao. Chập sau, bị khói bay cay mắt, ngập thở, phần thì nước sôi nóng, sấu bò lên rừng theo con dường đào sẵn hồi nãy… Ồng đút vô miệng sấu một khúc mốp. sấu táp lại, dính chặt hai hàm răng: như mình ngậm một cục mạch nha quá lớn, muốn há miệng cho rộng dể nhả ra cũng không được… Ông Năm xách cây mác, nhắm ngay sau lưng sấu mà xắn nhè nhẹ để cắt gân đuôi. Đuôi sấu bị liệt. Thể là mình yên trí, lấy dây cóc ken trói thúc ké hai chân sau của nó lại; chừa hai chân trước để nó bơi tiếp với mình.
Nghe chuyện này có người đã nhận xét: “Thực là bậc thánh của xứ này rồi! Mưu kể như vậy thực quá cao cường”.
Cũng qua lời tường thuật chuyện bắt sấu một cách khá cặn kẽ của Tư Hoạch, ai cũng thấy rõ ông Nám Hỗn là người râd dũng cảm. Phải dũng cảm mới giữ vững được thái độ bình tĩnh trước loài sấu dữ mà chẳng chút nao lòng sợ sấu há miệng hung hăng đòi láp (ông). (Ông) đút vô miệng sấu một khúc mốp.
Chính nhờ lùng dũng cảm, bình tĩnh, nên ông Năm Hên đã đánh gục được đàn sấu ãn thịt người. Bốn mươi lăm con cá sấu bị ông thòng cổ cho người xuôi sông chở về. Loài “thủy quái ấy” ngoan ngoãn phục tùng cứ như là đã được thuần dưỡng rồi vậy. Với lòng dũng cảm, ông đã thực sự là chủ nhân của vùng đất rừng hoang dại này.
Chính môi trường sống khắc nghiệt đã khiến con người phải mài sắc mưu mẹo và tài trí của mình để sinh tồn.
Trở lại tính cách của hình tượng ông già “bắt sấu rừng u Minh Hạ” này, ta thấy ông còn là một con người mang tâm sự u uất. Hãy nghe ông bày tỏ gia cảnh: “Cha mẹ tôi sanh ra chỉ có hai anh em tụi tôi… Ánh bị sấu ở Ngã ba Đình bắt mất”. Đây là một tổn thất lớn lao đôi với ông. Bởi vậy ông thề quyết trả thù cho anh mình.
Mười hai năm trôi qua kể từ ngày đó mốì thù ấy vẫn không nguôi. Cảnh sấu xuất hiện ở rừng nhiều như trái mù u chín rụng lúc này đã gợi lên trong lòng ông một nỗi đau nhức nhối tâm can, một nỗi cực lòng như chính ông đã chân thành bộc bạch với dân làng.
Nhà văn đã miêu tả giọng hát của ông thật ảo não, rùng rợn, “Tiếng như khóc lóc nài nỉ. Tiếng như phẫn nộ bi ai”. Lại nữa nội dung bài hát buồn thảm. Đó không chỉ là lời tiếc thương của ông đối với người anh xấu số của mình mà đó còn là tiếng chiêu hồn tưởng nhớ đến, gọi về biết bao mảnh hồn người xa xứ vì “thắt ngặt manh áo chén cơm”.
Giữa cảnh “U Minh Hạ đỏ ngòm, rừng tràm xanh biếc” đã phải thiệt mạng do “hùm tha, sấu bắt”… Người đọc càng thêm thông cảm ông, một con người cuộc sống tinh thần phong phú, sâu sắc nên không bận lòng đến cuộc sống vật chất. Vì thế mà hành trang trên đường đi bắt sấu dữ cứu giúp dân lành của ông thật đơn sơ: Trong xuồng có vỏn vẹn một lọn nhang trần và một hữ rượu.
Đặc biệt, tâm sự u uất của người thợ già chuyên bắt sấu này thể hiện rõ nét qua hình ảnh thảm thương đầy bí ẩn của ông ở đoạn cuổì truyện, sau khi bắt được đàn sấu: áo rách vai, tóc rối nùi, mắt đỏ ngầu, bó nhang cháy đỏ quơ qua quơ lại trên tay. Cứ tưởng như ông đang nhập đồng.
Phải chăng ông thay mặt cho dân làng ở đây hát lên lời “cầu siêu” cho biết bao oan hồn uổng tử đã vất vưởng lang thang nơi “đầu bãi, cuối bãi” buổi nào đã từng bỏ mạng vì cá sấu trong cuộc đấu tranh vì sự sinh tồn bao đời nay cho cu dân ở đây.
Như thế, thông qua lời nói. hành động, thể hiện nội tâm nhân vật, đặc biệt là chĩ bằng vài chi tiết đơn sơ, nhà văn Sơn Nam đã thể hiện được tính cách nhân vật chính, ông Năm Hên, người thợ già chuyên bắt sâu ớ rừng u Minh hạ này một cách sinh động với sắc thái Nam bộ rõ nét là thật thà, đôn hậu đầy mưu trí và đặc biệt trọng nghĩa khinh tài.
Chúng ta đã từng đọc nhiều tác phẩm văn học từ sau Cách mạng tháng Tám, khắc họa khá chân thực, cụ thể và sinh động hình tượng người nông dân Nam bộ. Đó là những con người ít nhiều có dáng dấp tinh thần vị nghĩa của Lục Vân Tiên: thật thà, đôn hậu và rất. mực trung thành với chính nghĩa, với lí tưởng, với cách mạng, dùng cảm bất khuất trước kẻ thù.
Với nhân vật ông Năm Hên nói riêng, và truyện ngắn Bắt sấu rừng u Minh Hạ nói chung của nhà văn Sơn Nam, chúng ta dược hiểu thêm một vẻ đẹp của người nông dân Nam Bộ trong buổi dầu di tìm dất mới, khai phá dất rừng hoang dại đô mưu cầu sự sống còn. Dù mưu trí và dũng cảm đến đâu, họ cũng không tránh khỏi biết bao gian lao nguy hiểm, nhiều lúc phải gặp cả những mất mát đau xót…
Ngày nay được sống trên mảnh đất yêu thương này, đâu lẽ chúng ta quên lãng công đức của bao lớp tiền nhân…