Rừng Xà Nu ❤️️ Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị Nghệ Thuật ✅ Mời Bạn Đọc Tham Khảo Tuyển Tập Sơ Đồ Tư Duy, Các Bài Phân Tích Hay.
NỘI DUNG CHÍNH
Nội Dung Tác Phẩm Rừng Xà Nu
Nguyễn Trung Thành là nhà văn của Tây Nguyên, ông viết rất hay, sâu sắc và chân thực về con người và mảnh đất Tây Nguyên hung vĩ. Truyện ngắn “Rừng xà nu” là tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn TRung Thành khi ca ngợi về Tây Nguyên đậm chất sử thi. Cùng Thohay.vn xem đầy đủ Nội Dung Tác Phẩm Rừng Xà Nu bên dưới.
Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc. Chúng nó bắn, đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy. Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quện thành từng cục máu lớn.
Trong rừng ít có cây sinh sôi nảy nở khỏe như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Cũng ít có loại cây ham ánh sáng mặt trời như thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng. Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loáng, vết thương không lành được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết. Nhưng cũng có những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá xum xuê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, nhưng vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã… Cứ thế hai ba năm nay, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng…
Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời.
Ba năm đi lực lượng bữa nay Tnú mới có dịp ghé về thăm làng. Thằng bé Heng gặp ở con nước lớn dẫn anh về. Ngày anh ra đi nó mới đứng ngang bụng anh, chưa biết mang củi, chỉ mới đeo cái xà-lét nhỏ xíu theo người lớn ra rẫy. Bây giờ nó mang một khẩu súng trường mát, dẫn anh đi. Vẫn là con đường cũ, qua cái nà bắp đã trồng sắn và cây pomchu, vắt lên hai cái dốc đứng sững đã được cắt ra từng bực, chui qua một rừng lách rậm ngày mưa thì vô số vắt lá, rồi đến cái làng nhỏ của anh. Nhưng nếu không có người dẫn, chắc chắn Tnú không dám đi một mình. Đường cũ nay chằng chịt hầm chông, hố chông, cứ mười phút lại gặp một giàn thò chuẩn bị sẵn, cần thò căng như dây ná, đánh một phát chắc gãy đôi ống quyển, lưỡi thò từng đôi, từng đôi gác lên giàn, sắc lạnh. Thằng bé Heng lớn lên cũng ít nói như những người dân làng Xô Man này. Nó đội một cái mũ sụp xin được của anh giải phóng quân nào đó, mặc một chiếc áo bà ba dài phết đít, vẫn đóng khố, súng đeo chéo ngang lưng ra vẻ một người lính thực sự. Thỉnh thoảng, tới chỗ các chiến điểm, nó quay lại nhìn Tnú, cười một cái rất liếng, như bảo:
– Coi được chớ, anh Tnú?
Mắt nó lóe lên một tia sáng nhỏ, lộ ý khoe khoang rõ rệt. Tnú cũng cười, gật đầu. Hiểu ý nhau, hai người lại cặm cụi đi. Tới con suối nhỏ có một khúc nứa dẫn nước từ trong lòng đá ra, thằng Heng dừng lại bảo:
– Rửa chân đi. Nhưng đừng uống nước lạnh, về chị Dít phê bình đó.
Tnú cười:
– Chị Dít là vệ sinh viên à?
Heng cãi lại:
– Không, chị Dít là bí thư chi bộ chớ. Một người làm hai việc, làm luôn cả chính trị viên xã đội nữa.
À ra vậy! Dít đã thành bí thư chi bộ xã. Thực tình, anh không hình dung được Dít bây giờ ra thế nào? Dít là em gái Mai. Ngày Mai mất và Tnú ra đi, nó còn là một cô bé không có áo mặc, đêm lạnh không ngủ, đốt lửa ngồi cho đến gà gáy rồi đi giã gạo thay chị. Tnú cầm mấy cây xà nu soi cho Dít gằn gạo. Nó gằn đủ ba mươi lon gạo trắng, đổ ruột nghé cho Tnú mang đi. Nó lầm lì, không nói gì cả, mắt ráo hoảnh trong khi mọi người, cả cụ già Mết đều khóc vì cái chết của Mai…
Heng giục:
– Tắm nước lâu lạnh, cảm sốt đó. Đi chớ, sắp tối rồi!
Tnú không lau khô đầu tóc. Anh cầm mũ đi theo Heng.
Đến chỗ sắp bước vào rừng lách, có một cây lớn ngã ngang đường phải leo qua. Cạnh đó, du kích đã đào một cái công sự dài. Hồi Tnú ra đi, cây này chưa ngã. Tnú dừng lại. Chính ở đây, anh đã gặp Mai lần đầu. Tất nhiên không phải là lần đầu hẳn, cả hai đều là người làng, họ biết nhau từ ngày mẹ còn địu trên lưng. Nhưng chính ở đây, lần đầu tiên sau khi ở tù về, Tnú gặp lại Mai, thấy Mai đã lớn hơn anh không ngờ, và Mai thì cầm hai bàn tay anh lúc ấy còn lành lặn, ứa nước mắt khóc, không phải như một đứa trẻ mà như một người con gái đã lớn, vừa xấu hổ vừa thương yêu. Kỷ niệm đó cắt vào lòng anh một nhát dao nứa. Anh trợn mắt lên, như những lúc bị tra tấn đau quá trước đây. Thằng bé Heng không biết câu chuyện đó. Leo lên thân cây rồi nó quay lại nhìn Tnú, hất hàm ra hiệu:
– Đi chớ, anh Tnú! Lâu ngày về, chân không leo nổi cái dốc này nữa?
Tnú trèo qua thân cây. Con đường đổ xuống dốc lỗ chỗ hố chông.
Mặt Tnú đanh lại. Anh lẳng lặng đi cho đến khi anh nhận ra tiếng chày dồn dập của làng anh. Bây giờ anh chợt hiểu ra rằng hình như cái mà anh nhớ nhất ở làng, nỗi nhớ day dứt lòng anh suốt ba năm nay chính là tiếng chày đó, tiếng chày chuyên cần, rộn rã của những người đàn bà và những cô gái Strá, của mẹ anh ngày xa xưa, của Mai, của Dít, từ ngày lọt lòng anh đã nghe thấy tiếng chày ấy rồi. Tnú cố giữ bình tĩnh nhưng ngực anh vẫn đập liên hồi, chân cứ vấp mãi mấy cái rễ cây ở chỗ ngã quẹo vào làng. Anh vượt đi lên trước Heng, Heng chạy theo anh, vừa gọi:
– Chông đấy, có chông đấy, không phải như trước đâu, đi theo tui chớ…
Đến làng mặt trời chưa tắt. Thằng bé Heng tháo cây súng chống xuống đất gọi to:
– Người già ơi, có khách đấy!
Ở mỗi cửa nhà ló ra bốn, năm cái đầu ngơ ngác. Những cặp mắt tròn xoe, rồi những tiếng ré lên và những tiếng reo:
– Giàng ơi… Anh Tnú, thằng Tnú. Nó về rồi… Mày về rồi đó, hả Tnú!
Có những người không kịp bước xuống thang, nhảy phóc một cái từ trên sàn xuống đất. Những bà già – Trời ơi, bà cụ Leng còn sống kia à! – lụm khụm bò xuống thang, từng bậc từng bậc, vừa chửi:
– Con cháu! Ma bắt mày, thằng quỷ!… Mày không chờ tau chết rồi hãy về một thể có được không!
Ở các nhà vẫn còn có những cái đầu lấp ló. Các cô không chạy ra, chỉ ngồi trong nhà, cười rúc rích. Cả làng đã vây chặt quanh Tnú. Anh nhận ra tất cả. Ông già Tâng này, vẫn chòm râu quai nón đó, chỉ thêm cái ống điếu dài, gò bằng sắt máy bay trực thăng; anh Pre này, trông già hẳn đi; chị Plom này, tóc đã lốm đốm bạc; bà già Prôi này, đã rụng hết cả hai hàm răng rồi… một lũ trẻ lau nhau, đứa nào đứa ấy mặt mày lem luốc khói xà nu. Còn ông già Mết đâu rồi? Tnú định hỏi:
– Cụ Mết đâu?
Một bàn tay nặng trịch nắm chặt lấy vai anh như một cái kìm sắt. Anh quay lại: cụ Mết! Ông cụ vẫn quắc thước như xưa, râu bây giờ đã dài tới ngực và vẫn đen bóng, mắt vẫn sáng và xếch ngược, vết sẹo ở má bên phải vẫn láng bóng. Ông ở trần, ngực căng như một cây xà nu lớn. Ông cụ đẩy Tnú ra một bước, nhìn anh từ đầu đến chân, rồi phá lên cười:
– Hà hà!… Đeo cả tôm-xông về à!… Anh lực lượng… Được!
Tnú hiểu ý ông cụ. Ông không bao giờ khen “Tốt! Giỏi!” Những khi vừa ý nhất, ông chỉ nói “Được”.
Lúc ông cụ Mết nói, mọi người đều im bặt. Ông nói như ra lệnh, sáu mươi tuổi rồi mà tiếng nói vẫn ồ, ồ, dội vang trong lồng ngực.
– Cấp chỉ huy cho về mấy đêm?… Một đêm à, được! Cho một đêm, về một đêm, cho hai đêm, về hai đêm, phải chấp hành cho đúng. Đêm nay mày ở nhà tau.
Không ai phản đối. Ông cụ lại nói:
– Thôi ai về nhà nấy, trời hết sáng rồi, làm lửa nấu cơm được rồi đó. Lũ con nít đi tắm nước cho sạch, rửa hết khói xà nu đi, đừng có vẽ mặt như văn công đóng kịch nữa, đứa nào không sạch thì phê bình nghe chưa?… Thằng Tnú cũng đi rửa chân đi. Mày có nhớ cái máng nước ở chỗ nào không?… Nhờ à, được. Tưởng quên rồi thì tau đuổi ra rừng, không cho ở làng nữa đâu.
Nói vậy, nhưng ông cụ vẫn bảo Tnú đưa ba lô và tôm-xông cho ông, rồi thân hành dẫn anh ra tới máng nước đầu làng. Lũ trẻ con ùa theo rối rít. Có mấy cô gái Tnú nhớ mặt, nhưng không kịp nhớ ra tên, đang lấy nước vào những ống bương dài, vác ống đứng tránh ra một bên, nhường vòi nước cho anh. Vừa rửa sạch ở suối nhỏ rồi, nhưng Tnú vẫn rửa lại. Anh cởi áo ra để cho vòi nước lạnh ngắt của làng mình giội lên đầu, lên lưng, lên ngực như những ngày xưa, cũng chính chỗ vòi nước đây, trên tấm đá bằng vẹt hằn một bên vì ông cụ Mết vẫn mài dao ở đấy.
Ông cụ Mết đứng lặng nhìn tấm lưng rộng của Tnú. Những vết thương xưa vẫn còn ngang dọc trên tấm lưng ấy, đã thành sẹo tím. Từ đôi mắt ông cụ lăn ra hai giọt nước mắt lớn, ông lén trở tay chùi một cách vội vã. Tnú không kịp thấy. Còn lũ trẻ thì ngơ ngác, sửng sốt…
Từ các nhà đã quyện lên những sợi khói tím thẫm.
Bữa cơm tối ở nhà cụ Mết, ngoài món canh tầu môn bạc hà nấu lạt trong ống nứa, còn thêm mấy con cá chua. Đó là món đặc biệt cụ Mết đãi người đi xa về. Tnú mở ống lương khô, xúc cho ông cụ một muỗng muối. Ông cụ bảo:
– Tau cũng còn nửa lon muối của huyện thưởng con Dít; kỳ nó đi đại hội chiến sĩ thi đua, nó về chia đều cho mỗi bếp một phần. Nhưng cái đó để dành cho người đau. Còn cái mày cho thì tau ăn.
Ông cụ không nêm muối vào canh. Ông chia cho mỗi người mấy hạt, họ ăn sống từng hạt, ngậm rất lâu trong miệng để nghe chất mặn đậm đà tan dần. Cơm gạo trắng ghế rất nhiều củ pomchu. Ông cụ bưng chén cơm nói như thanh minh:
– Năm nay làng mình không đói. Gạo đủ ăn tới mùa suốt. Nhưng phải để dành, dự trữ mỗi bếp cho được ba năm. Mày đi cách mạng, người chỉ huy cũng dạy mày rồi, đánh thằng Mỹ phải đánh dài.
Rồi đột ngột, ông cụ hỏi:
– Mười ngón tay mày vẫn cụt thế à? Không mọc ra được nữa à?… ừ…
Ông cụ đặt chén cơm xuống, giận dữ:
– Nhưng lành hết rồi chớ? Được. Ngón tay còn hai đốt cũng bắn súng được. Mày có đi qua chỗ rừng xà nu gần con nước lớn không? Nó vẫn sống đấy. Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên. Đố nó giết hết rừng xà nu này!… Kìa, ăn đi chớ. Gạo người Strá mình làm ra ngon nhất rừng núi này đấy, con ạ…
Cơm nước xong, từ phía nhà ưng có ai đấy đánh lên một hồi mõ dài ba tiếng. Dân làng lũ lượt kéo tới nhà cụ Mết. Các cô gái dụi tắt đuốc ở cầu thang trước khi bước vào nhà. Cũng có người, các bà cụ, cầm cả cây đuốc còn cháy rực đi thẳng vào, soi lên mặt Tnú, nhìn đi nhìn lại thật kỹ, rồi ném bó đuốc vào bếp, lửa bốc lên, cháy giần giật. Các ông cụ thì chưa bước lên cầu thang đã nói oang oang:
– Thằng Tnú đâu rồi? Cho nó ăn no rồi chớ, ông Mết?
Có tiếng một bà già:
– Bọn đàn ông này, xê ra một chút cho con Dít nó ngồi với chớ. Dít ơi, ngồi đây con!
Tnú ngẩng nhìn lên. Dít đã ngồi sụp xuống trước mặt anh, hai chân xếp về một bên, đưa tay kéo tấm váy che kín cả gót chân, Tnú bất chợt nghe một luồng lạnh rân rân ở mặt và ở ngực. Mai! Trước mắt anh là Mai đấy. Anh không ngờ Dít lớn lên lại giống Mai đến thế. Cái mũi hơi tròn của Dít ngày trước nay đã thẳng và nhỏ lại, hai hàng lông mày đậm đến che tối cả đôi mắt mở to, bình thản, trong suốt. Dít nhìn Tnú bằng đôi mắt ấy rất lâu, trong khi bốn, năm đứa bé, đứa nào cũng tranh chỗ ngồi gần chị Dít. Rồi chị hỏi Tnú, giọng hơi lạnh lùng:
– Đồng chí về có giấy không?
Tnú không hiểu:
– Giấy gì?
– Giấy cấp trên cho nghỉ phép đó. Không có giấy trên cho về thì không được. Ủy ban phải bắt thôi.
Tnú cười ồ. Anh định đùa, bảo nhớ làng quá trốn về thăm làng một bữa, nhưng đôi mắt nghiêm khắc của Dít và nghe cái im lặng chờ đợi chung quanh, anh mở túi áo, lấy ra một mảnh giấy nhỏ đưa cho chị.
– Báo cáo đồng chí chính trị viên xã đội…
Dít cầm tờ giấy, soi lên ánh lửa. Hàng chục cái đầu chụm lại, mấy đứa bé lắp bắp đánh vần. Dít đọc rất lâu, đọc đi đọc lại đến ba lần. Cụ Mết hỏi:
– Đúng chớ? Nó có phép chớ?
Dít đưa trả lại cho Tnú. Bây giờ chị mới cười:
– Đúng rồi, có chữ ký người chỉ huy. Sao anh về có một đêm thôi?
Rồi chị trả lời:
– Thôi cũng được. Về một đêm cho làng thấy mặt là được rồi. Bọn em miệng đứa nào cũng nhắc anh mãi.
Tiếng cười nói im đi một lúc, bây giờ lại rộn lên chật cả căn nhà nhỏ.
– Có chữ ký của người chỉ huy đó nghe!
– Tốt lắm rồi!
– Một đêm thôi, mai lại đi rồi, ít quá, tiếc quá!
Tiếng ông cụ Mết ồ ồ át tất cả:
– Hà hà… được!
Ông cụ đẩy hai, ba đứa bé ra, bước tới ngồi xuống trước bếp lửa, cạnh Tnú. Ông cụ gõ ống điếu lên đầu ông táo, bẻ một que nứa nhỏ ở sạp, cẩn thận soi cho hết tàn thuốc trong ống điếu, rồi ngẩng lên, nhìn quanh một lượt. Mọi người đã ngồi đâu vào đấy và lắng chờ. Ông cụ bắt đầu nói. Bên ngoài lấm tấm một trận mưa đêm, rì rào như gió nhẹ. Ông cụ không cất cao giọng, tiếng nói rất trầm:
– Ông già bà già thì biết rồi. Thanh niên có đứa biết, có đứa chưa biết rõ. Còn lũ con nít thì chưa biết – Ông cụ trừng mắt nhìn lũ trẻ, chúng nó cảm thấy cái nghiêm trang trong lời ông già, đứa nào đứa nấy ngồi im lặng thin thít, dán mắt vào miệng ông cụ Mết – Anh Tnú của chúng mày về rồi đó. – Ông cụ đặt bàn tay chắc nịch lên vai Tnú – anh Tnú mà tau đã kể cho chúng mày nghe bao nhiêu lần rồi đó. Đấy, nó đấy, nó đi giải phóng quân đánh giặc, nay nó về thăm làng một đêm, cấp trên cho nó về một đêm, có chữ ký người chỉ huy, chị bí thư coi giấy rồi. Nó đấy! Nó là người Strá mình. Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta. Đêm nay tau kể chuyện nó cho cả làng nghe, để mừng nó về thăm làng. Người Strá ai có cái tai, ai có cái bụng thương núi, thương nước, hãy lắng mà nghe, mà nhớ. Sau này tau chết rồi, chúng mày phải kể lại cho con cháu nghe…
Tất cả đều im lặng. Chỉ có tiếng vòi nước đầu làng lạnh tanh trộn lẫn tiếng mưa đêm gõ đều lên vòm lá cây. Tnú cũng im lặng. Anh nhìn cụ Mết. ánh lửa chập chờn, soi hình ông cụ, làm cho thân hình vạm vỡ ấy trông kỳ ảo như một người anh hùng trong các bài hát dài hát suốt đêm Tnú đã nghe từ bé. Rồi anh nhìn Dít. Dít đã lớn bằng Mai, ngày anh ở tù về, gặp lại chỗ gốc cây lớn đầu rừng lách nay đã đổ xuống ngang đường và du kích đã lợi dụng làm một ác chiến điểm. Dít cũng im lặng lắng nghe, đôi mắt mở to, bình thản suy nghĩ.
– Người già chưa quên, người chết quên rồi thì để cái nhớ lại cho người sống. Hồi đó thằng Mỹ – Diệm ở khắp núi rừng này. Nó đi trong rừng như con beo. Lính của nó cầm lưỡi lê dính máu, cũng đỏ như màu mũ đỏ của nó… Thằng Tnú còn nhỏ, mới đứng tới ngang bụng tau đây. Nó lanh như con sóc…
Ừ, người già chưa quên. Người nhỏ cũng chưa quên, Tnú cũng không quên. Anh thấy rõ rằng một đứa bé đứng tới ngang bụng cụ Mết. Nó đeo một cái xà-lét nhỏ xíu của mẹ nó để lại, trong xà-lét trên bó rau dưới dấu hai lon gạo trắng, nó luồn như một con sóc qua các hốc đá cheo leo, nó chạy lon ton trong rừng đi tìm nuôi anh cán bộ. Một đứa con gái nhỏ hơn nó hối hả chạy theo nó. Đứa con gái vén chiếc váy của mẹ mới dệt, nhảy từ mỏm đá này qua mỏm đá khác như một con chim sáo, vừa nhảy vừa gọi lanh lảnh:
– Tnú, Tnú, Tnú, chờ với chớ, chờ với chớ.
Tnú thì quay lại trợn mắt:
– Bí mật chớ, Mai. Sao đi đâu cũng tác như con mang thế!
Mai muốn cười, nhưng sợ Tnú, không dám cười…
Ừ, tất cả vẫn chưa xóa nhòa. Chưa cái gì có thể xóa nhòa. Vẫn rõ mồn một, Tnú này, cụ Mết này, anh cán bộ này.
Như vừa hôm qua đây vậy.
Anh cán bộ ở trong rừng lúc bấy giờ là anh Quyết. Từ ngày thằng Mỹ – Diệm tới núi rừng này, không bữa nào nó không đi lùng, không đêm nào chó của nó và súng của nó không sủa vang cả rừng. Nhưng dân làng Xô Man vẫn tự hào. Năm năm chưa hề có một cán bộ bị giặc giết hay bắt trong rừng làng này. Lúc đầu thanh niên đi nuôi và gác cho cán bộ, thằng Mỹ – Diệm biết được, nó bắt thanh niên. Nó treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng.
– Ai nuôi cộng sản thì coi đó!
Rồi nó cấm thanh niên đi rừng. Bà già ông già thay thanh niên đi nuôi cán bộ. Nó lại biết được. Nó giết bà già Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu súng.
Sau cùng đến lũ trẻ thay ông già, bà già. Trong đám đó, hăng nhất có Tnú và Mai. Hễ Tnú đi rẫy thì Mai đi với cán bộ. Hễ Mai ở nhà giữ con Dít cho mẹ thì Tnú đi. Cũng có bữa cả hai đứa cùng đi. Chúng ở lại luôn ngoài rừng ban đêm. Để cán bộ ngủ một mình ngoài rừng ban đêm, bụng dạ không yên được. Lỡ giặc lùng, ai dẫn cán bộ chạy? Anh Quyết hỏi:
– Các em không sợ giặc bắt à? Nó giết như anh Xút, như bà Nhan đó.
– Cụ Mết nói: Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn.
Trong rừng, anh Quyết dạy Tnú và Mai học chữ. Anh chẻ nứa, đập dập, ghép lại thành mấy tấm bảng to bằng ba bàn tay. Ba anh em đốt khói xà nu xông bảng nứa đen kịt rồi lấy nhựa cây luông-tờ-ngheo phết lên một lớp dày, rửa nước cũng không phai được. Tnú đi ba ngày đường tới núi Ngọc Linh mang về một xà-lét đầy đá trắng làm phấn. Mai học giỏi hơn Tnú, ba tháng đọc được chữ, viết được cái ý trong bụng mình muốn, sáu tháng làm được toán hai con số. Tnú học chậm hơn, mà lại hay nổi nóng. Học tới chữ i dài, nó quên mất chữ o thêm cái móc thì đọc được là chữ a. Có lần thua Mai, nó đập bể cả cái bảng nứa trước mặt Mai và anh Quyết, bỏ ra suối ngồi một mình suốt ngày. Anh Quyết ra dỗ, nó không nói. Mai ra dỗ, nó đòi đánh Mai. Mai cũng ngồi lì đó với nó.
– Tnú không về, tui cũng không về. Về đi, anh Tnú. Mai làm cái bảng khác cho anh rồi.
Nó cầm một hòn đá, tự đập vào đầu, chảy máu ròng ròng. Anh Quyết phải băng lại cho nó. Đêm đó, anh ôm nó trong hốc đá. Anh rủ rỉ:
– Sau này, nếu Mỹ – Diệm giết anh, Tnú phải làm cán bộ thay anh. Không học chữ sao làm được cán bộ giỏi?
Tnú giả ngủ không nghe. Nó lén chùi nước mắt giàn giụa. Sáng hôm sau, nó gọi Mai ra sau hốc đá:
– Mai nói cho tôi chữ o có móc là chữ chi đi. Còn chữ chi đứng sau đó nữa, chữ chi có cái bụng to đó.
Mai quay mặt đi, không dám cười. Nó viết một chữ có cái bụng to lên tấm bảng nó mới làm cho Tnú. Nó cố nói nhỏ nhưng giọng vẫn lanh lảnh:
– Anh nhớ giỏi lắm, chữ bê đó.
– Ừ, bê… bê… đầu tui ngu quá!
Tnú hay quên chữ, nhưng đi đường núi, thì đầu nó sáng lạ lùng. Nó liên lạc cho anh Quyết từ xã lên huyện. Không bao giờ nó đi đường mòn, nó leo lên một cây cao nhìn quanh, nhìn một lượt rồi xé rừng mà đi, lọt tất cả các vòng vây. Qua sông nó không thích lội chỗ nước êm, cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt lên trên mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình. Nó nói:
– Qua chỗ nước êm thằng Mỹ – Diệm hay phục, chỗ nước mạnh nó không ngờ.
Nhưng lần đó, Tnú tới một thác sông Đắc – năng, vừa cuốn cái thư của anh Quyết gửi về huyện trong một ngọn lá dong ngậm vào miệng, định vượt thác thì họng súng của giặc phục kích chĩa vào tai lạnh ngắt. Tnú chỉ kịp nuốt luôn cái thư.
Ba ngày sau, người Xô Man thấy bọn giặc trói chặt Tnú dẫn về làng.
– Đứa nào làm cộng sản, chỉ thì sống!
Dân làng đứng vây quanh Tnú. Ông cụ Mết đứng bên cạnh Tnú, Tnú chỉ đứng tới bụng ông cụ. Ông cụ nói tiếng Strá, giọng trầm vang dội:
– Tnú đừng làm xấu hổ làng Xô Man.
Tnú chỉ trả lời ông cụ bằng một cái nhìn.
Ông cụ nói:
– Được!
Lưng Tnú ngang dọc những vết dao chém.
– Cộng sản đâu chỉ ra?
Tnú nói nhỏ:
– Cởi trói đã, tay mới chỉ được.
Chúng chỉ cởi một tay. Tnú để bàn tay ấp lên bụng mình:
– Ở đây này:
Lưng Tnú thêm một vết chém nữa. Trên tấm lưng chưa rộng bằng bề ngang cái xà-lét mẹ để lại đó, ứa một giọt máu đậm, từ sáng đến chiều thì đặc quyện lại, tím bầm như nhựa xà nu.
Khi chúng nó lại dẫn Tnú đi, Mai ôm nó khóc nức nở. Nó nói như giận dữ:
– Khóc chi! Đừng! Mai học phải cho giỏi. Tui chết, Mai phải làm cán bộ…
Ba năm sau, Tnú thoát ngục Công-tum trở về, lưng anh đã lành hết vết thương. Đến gốc cây to đầu rừng lách gặp Mai. Mai cầm tay anh, giàn giụa nước mắt. Còn anh thì ngạc nhiên thấy Mai đã lớn anh không ngờ. Mai dẫn anh về làng. Đêm đó dân làng cũng tụ tập ở nhà cụ Mết như đêm nay đây. Cũng như đêm nay đây…
Tiếng cụ Mết vang vọng như dội lại từ cái đêm xa xôi ấy.
Cũng như đêm nay đây. Cũng trong nhà này đây, quanh cái bếp này đây. Trời cũng mưa nhỏ lấm tấm như thế này. Tui ngồi chỗ này, đúng chỗ này. Thằng Tnú ngồi chỗ này. Còn con Mai thì ngồi đây, chỗ con Dít ngồi bây giờ… phải không Tnú?
Phải rồi! Tất cả cũng in hệt như thế này. Cũng mưa lấm tấm đều đều trên lá vả, cũng lửa xà nu cháy giần giật, cũng máng nước đầu làng lách tách trong đêm khuya. Dân làng tụ tập tất cả đây để mừng Tnú thoát khỏi tù Công – tum trở về. Mai cũng ngồi trước mặt Tnú như vậy đấy, cũng đôi mắt có hai hàng lông mày đậm đến che tối cả tròng đen long lanh, ừ có lẽ đôi mắt đó ít trang nghiêm hơn, chất chứa nhiều thương yêu hơn, nhưng cũng bình thản như vậy, cứng rắn như vậy đó. Và lúc đó cụ Mết không kể chuyện như bây giờ. Cụ chỉ nói:
– Mai, đưa cái giấy của anh Quyết đây, Tnú đọc lên cho cả làng nghe.
Sau khi Tnú bị bắt ít lâu, anh Quyết chuyển sang huyện Bảy rồi hy sinh ở đó. Anh bị thương nặng trong một trận phục kích, đưa về trong rừng thì chết. Trước khi chết, anh gửi cho làng Xô Man thư này. Tnú cầm mảnh giấy, soi lên ánh lửa xà nu:
“Em Tnú, em Mai và đồng bào Xô Man, tui chết. Người còn sống phải chuẩn bị giáo, mác, vụ, rựa, tên, ná. Giấu kỹ trong rừng, đừng cho giặc lấy. Sẽ có ngày dùng tới.
Còn Tnú phải học cho giỏi, thay tui làm cán bộ…”
Ừ, cũng đông đủ như thế này đây. Cụ Tâng, anh Pre, chị Plom, bà Prôi, cụ Leng. Chỉ khác là còn có Mai. Tnú đọc giấy anh Quyết rồi cả làng đốt đuốc xà nu, theo cụ Mết, đi dưới mưa đêm càng khuya càng nặng hạt, vào rừng lấy giáo, mác, vụ rựa, đã giấu kỹ từ ngày được thư anh Quyết. Tnú đi ba ngày lên núi Ngọc Linh nhưng không mang về một xà-lét đá trắng làm phấn như ba năm trước. Anh mang về một gùi nặng đá mài. Núi Ngọc Linh, trên ngọn của nó, có một mỏ đá mài đủ dùng cho một trăm cuộc khởi nghĩa.
Đêm đêm làng Xô Man thức, mài vũ khí. Ban ngày thì theo cụ Mết đi phát hết các rẫy cũ, trồng phomchu và sắn, xanh mượt cả núi rừng…
Tin làng Xô Man mài giáo đến tai bọn giặc ở đồn Đắc Hà. Giữa mùa suốt lúa, chúng kéo về một tiểu đội, vừa đúng lúc đứa con trai của Mai và Tnú ra đời. Cũng thằng chỉ huy năm trước, thằng Dục. Nó đội mũ đỏ màu máu. Nó gầm lên:
– Lại thằng Tnú chứ không ai hết. Con cọp đó mà không giết sớm, nay nó làm loạn rừng núi này rồi.
Cụ Mết và Tnú dẫn thanh niên lánh vào rừng. Họ không đi đâu xa, chỉ luẩn quẩn ở các gốc cây, hốc đa quanh làng, bám theo giặc. Chúng nó đóng lại trong làng bốn đêm, ngọn roi của nó không từ một ai. Tiếng kêu khóc dậy cả dân làng. Thằng Dục lăm lăm khẩu súng lục:
– Đứa nào ra khỏi làng bắt được bắn chết ngay tại chỗ.
Không ai lọt ra được. Chỉ có con Dít nhỏ, lanh lẹn, cứ sẩm tối lại bò theo máng nước đem gạo ra rừng cho cụ Mết, Tnú và thanh niên. Tảng sáng ngày thứ tư thì chúng bắt được con bé, khi nó ở ngoài rừng về. Chúng để con bé đứng giữa sân, lên đạn tôm-xông rồi từ từ bắn từng viên một, không bắn trúng, đạn chỉ sượt qua tai, xém tóc, cày đất quanh hai chân nhỏ của Dít. Váy nó rách tượt từng mảng. Nó khóc thét lên, nhưng rồi đến viên thứ mười nó chùi nước mắt, từ đó im bặt. Nó đứng lặng giữa bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh dẻ của nó lại quật lên một cái, nhưng đôi mắt nó thì vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng, bình thản như đôi mắt của chị bí thư bây giờ vậy.
Không làm gì được con bé, thằng Dục dùng đến ngón đòn cuối cùng. Nó bắt Mai.
– Bắt được con cọp cái và cọp con, tất sẽ dụ được cọp đực trở về.
Tnú nghe rõ câu nói đó của thằng Dục. Anh nấp ngay gốc cây cạnh máng nước đầu làng. Từ chỗ anh, nhìn thấy sân làng rõ mồn một. Hai bàn tay anh bíu chặt lấy gốc cây khi bọn lính, mười thằng, dẫn Mai ra giữa sân. Mai địu con trên lưng, thằng bé chưa đầy một tháng. Ai cũng bảo nó giống Tnú lạ lùng. Không đi Công-tum mua vải được, Tnú phải xé đôi tấm dồ của mình ra làm tấm choàng cho Mai địu con. Thằng bé nằm ở trong tấm choàng ấy ngủ say trên lưng mẹ.
Thằng Dục hỏi:
– Chồng mày ở đâu, con mọi cộng sản kia?
Mai xốc lại đứa con trên lưng, ngẩng đôi mắt rất lớn nhìn thằng Dục.
– Mày câm à? Con chó cái! – Nó quát bọn lính – Đứng ỳ ra đó à?
Một thằng lính to béo nhất liếc mắt nhìn thằng Dục, cầm một cây sắt dài bước tới cạnh Mai. Nó lè lưỡi liếm quanh môi một lượt, rồi chậm rãi giơ cây sắt lên. Mai thét lên một tiếng. Chị vội tháo tấn địu, vừa kịp lật đứa con ra phía bụng lúc cây sắt giáng xuống trên lưng.
– Thằng Tnú ở đâu, hả?
Cây sắt thứ hai đập vào trước ngực Mai, chị lật đứa bé ra sau lưng. Nó lại đánh sau lưng, chị lật đứa bé ra trước ngực. Trận mưa cây sắt mỗi lúc một dồn dập, không nghe thấy tiếng thét của Mai nữa. Chỉ nghe đứa bé khóc ré lên một tiếng rồi im bặt. Chỉ còn tiếng cây sắt nện xuống hừ hự.
Tnú bỏ gốc cây của anh. Đó là một cây vả. Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay. Anh chồm dậy. Một bàn tay níu anh lại. Tiếng cụ Mết nặng trịch:
– Không được. Tnú! Để tau!
Tnú gạt tay ông cụ ra. Ông cụ nhắc lại:
– Tnú!
Tnú quay lại. Ông cụ không nhìn ra Tnú nữa. Ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn. Ông cụ buông vai Tnú ra.
Một tiếng thét dữ dội. Chỉ thấy thằng lính giặc to béo nằm ngửa ra giữa sân, thằng Dục tháo chạy vào nhà ưng. Tiếng lên đạn lách cách quanh anh. Rồi Mai ôm đứa con chúi vào ngực anh. Hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai.
– Đồ ăn thịt người, tau đây. Tnú đây…
Tnú không cứu sống được Mai…
– Ừ. Tnú không cứu sống được mẹ con Mai…
Tiếng ông cụ Mết vẫn trầm và nặng. Ông cụ vụng về trở tay lau một giọt nước mắt. Bỗng nhiên ông cụ nói to lên:
– Tnú không cứu được vợ được con. Tối đó Mai chết. Còn đứa con thì đã chết rồi. Thằng lính to béo đánh một cây sắt vào ngang bụng nó, lúc mẹ nó ngã xuống, không kịp che cho nó. Nhớ không Tnú, mày cũng không cứu sống được vợ mày. Còn mày thì chúng nó bắt mày, trong tay mày chỉ có hai bàn tay trắng, chúng nó trói mày lại. Còn tau thì lúc đó đứng đằng sau gốc cây vả. Tau thấy chúng nó trói mày bằng dây rừng. Tau không nhảy ra cứu mày. Tau cũng chỉ có hai bàn tay không. Tau không ra, tau quay đi vào rừng, đi tìm giáo mác. Nghe rõ chưa, các con rõ chưa. Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay còn sống phải nói cho con cháu. Chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo!…
Chúng nó trói chặt Tnú bằng dây rừng, khiêng ném vào góc nhà rồi kéo đi ăn thịt con heo của anh Prôi.
Tnú nằm trong góc nhà. Bóng tối dày đặc. Anh suy nghĩ, ngạc nhiên tự thấy mình rất bình thản:
“Đứa con chết rồi, Mai chắc cũng chết rồi. Tnú cũng sắp chết. Ai sẽ làm cán bộ? Đến khi có lệnh Đảng cho đánh, ai sẽ làm cán bộ lãnh đạo dân làng Xô Man đánh giặc. Cụ Mết đã già. Được, còn có bọn thanh niên. Rồi con Dít sẽ lớn lên. Con bé ấy vững hơn cả chị nó. Không sao… Chỉ tiếc cho Tnú không sống được tới ngày cầm vũ khí đứng dậy với dân làng…”
Thằng Dục không giết Tnú ngay. Nó đốt một đống lửa lớn ở nhà ưng, lùa tất cả dân làng tới, cởi trói cho Tnú, rồi nói với mọi người:
– Nghe nói chúng mày đã mài rựa, mài giáo cả rồi phải không? Được, đứa nào muốn cầm rựa, cầm giáo thì coi bàn tay thằng Tnú đây.
Nó hất hàm ra hiệu cho thằng lính to béo nhất. Chúng nó đã chuẩn bị sẵn cả. Thằng lính mở tút-se, lấy ra một chùm giẻ. Giẻ đã tẩm dầu xà-nu. Nó quấn lên mười đầu ngón tay Tnú. Rồi nó cầm lấy một cây nứa. Nhưng thằng Dục bảo:
– Để nó cho tau!
Nó giật lấy cây nứa.
Tnú không kêu lên một tiếng nào. Anh trợn mắt nhìn thằng Dục. Nó cười sằng sặc. Nó dí cây lửa lại sát mặt anh:
– Coi kỹ cái mặt thằng cộng sản muốn cầm vũ khí này xem sao nào. Số kiếp chúng mày không phải số kiếp giáo mác. Bỏ cái mộng cầm giáo mác đi, nghe không?
Một ngón tay Tnú bốc cháy. Hai ngón, ba ngón. Không có gì đượm bằng nhựa xà nu. Lửa bắt rất nhanh. Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc.
Tnú nhắm mắt lại, rồi mở mắt ra, trừng trừng.
Trời ơi! Cha mẹ ơi! Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy ở trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi. Anh không kêu rên. Anh Quyết nói: “Người cộng sản không thèm kêu van…” Tnú không thèm, không thèm kêu van. Nhưng trời ơi! Cháy, cháy cả ruột đây rồi! Anh Quyết ơi! Không, Tnú sẽ không kêu! Không!
Tiếng cười giần giật của thằng Dục. Các cụ già chồm dậy, bọn lính gạt ra. Tiếng kêu ré của đồng bào. Tiếng chân ai rầm rập quanh nhà ưng. Ai thế?
Tnú thét lên một tiếng. Chỉ một tiếng thôi. Nhưng tiếng thét của anh bỗng vang dội thành nhiều tiếng thét dữ dội hơn. Tiếng “giết”! Tiếng chân người đạp lên trên sàn nhà ưng ào ào. Tiếng bọn lính kêu thất thanh. Tiếng cụ Mết ồ ồ: “Chém! Chém hết!” Cụ Mết, đúng rồi, cụ Mết, đã đứng đấy, lưỡi mác dài trong tay. Thằng Dục nằm dưới lưỡi mác của cụ Mết. Và thanh niên, tất cả thanh niên trong làng, mỗi người một cây rựa sáng loáng, những cây rựa mài bằng đá Tnú mang từ đỉnh núi Ngọc Linh về…
Tiếng anh Prôi nói, trầm tĩnh:
– Tnú! Tnú! Tỉnh dậy chưa? Đây này, chúng tôi giết hết rồi. Cả mười đứa, đây này! Bằng giáo, bằng mác. Đây này!
Lửa đã tắt trên mười đầu ngón tay Tnú. Nhưng đống lửa xà nu lớn giữa nhà vẫn đỏ, xác mười tên lính giặc ngổn ngang quanh đống lửa đỏ.
Cụ Mết chống giáo xuống sàn nhà, tiếng nói vang vang:
– Thế là bắt đầu rồi! Đốt lửa lên! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây vụ, một cây rựa. Ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông! Đốt lửa lên!
Tiếng chuông nổi lên…
Đứng trên đồi xà nu gần con nước lớn, suốt đêm nghe cả rừng Xô Man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng…
Không ai nhận thấy đêm đã khuya. Mưa mỗi lúc thêm nặng hạt.
Cụ Mết ngẩng nhìn mọi người. Chòm râu trên ngực ông cụ rung rung.
– Đó, tau kể đã hết. Làng Xô Man cầm giáo từ đêm đó. Tnú cũng ra đi từ đó. Lành mười ngón tay rồi nó ra đi. Lành thật, ngón nào cũng cụt một đốt, nhưng còn hai đốt cũng cầm giáo, bắn súng được. Thằng Tnú đi tìm cách mạng. Nghe nói bên kia núi Ngọc Linh cũng có thằng Dục, người bên đó nổi dậy rồi. Làng phái nó đi tìm. Nó đi từ đó đến giờ… Cha mẹ mày, đi lâu thế! Để cho lũ con gái chúng nó lớn lên chẳng còn thằng thanh niên nào cho nó bắt chồng!… Thôi, tau kể hết rồi đó. Bây giờ đến mày. Ba năm mày đi, mày đã làm xấu hổ cái làng Xô Man này những gì, kể cho bà con đây nghe nào. Mày đã làm những gì, con? Giết được mấy thằng Diệm, mấy thằng Mỹ rồi?
Tnú đứng dậy. Anh bước tới trước bếp lửa, đứng lặng hồi lâu. Biết kể gì đây. Lòng anh tràn ngập thương yêu. Anh nói:
– Cụ Mết! Đồng bào! Tôi…ừ, tôi đã gặp thằng Dục rồi…
– Thằng Dục à? Nó ở đâu?
– Nó ở đồn.
– Mày giết nó chưa?
– Giết rồi.
– Ừ, mày cho nó ăn cái đạn này chớ?
– Không.
– Sao thế?
Tnú cởi khẩu súng ở vai ra, để xuống một bên.
– Thế này. Bữa đó đánh đồn. Lính nó mình giết hết.
– Sạch à?
– Sạch. Chỉ còn thằng chỉ huy dưới hầm. Kêu nó không lên. Bỏ lựu đạn, nó có ngách. Người chỉ huy mình hỏi: Ai xuống. Tối lắm. Tôi mò thấy nó. Nó bắn. Tôi giật được súng nó. Nó vật tôi. Nhưng tôi mạnh hơn. Tôi tống đầu gối lên ngực nó. Tôi bóp đèn pin lên mặt nó:
– Dục mày có nhớ tao không?
Nó lắc đầu. Được, đây này, hai bàn tay tau đây này, nhớ chứ? Tau vẫn cầm được súng đây, tau có cả dao găm đây. Nhưng tau không giết mày bằng súng, tau không đâm mày bằng dao nghe chưa? Dục! Tau giết mày bằng mười đầu ngón tay cụt này thôi, tau bóp cổ mày bằng mười ngón tay cụt này thôi, tau bóp cổ mày thôi!
Dít hỏi bình thản:
– Chết chớ?
– Chết rồi.
– Nhưng có đúng thằng Dục không?
– Đúng chớ… Chúng nó đứa nào cũng là thằng Dục.
Cụ Mết cũng đứng dậy, cụ lại đặt bàn tay nặng như sắt lên vai Tnú:
– Được! Hà hà…
Theo tiếng cười của ông cụ, tiếng cười nói xôn xao lại rộn cả căn nhà nhỏ.
Đại bác từ đồn giặc bắn vào rừng xà nu ngoài con nước lớn, nhưng chẳng ai nghe thấy, tiếng nói át cả tiếng súng.
Tnú lại ra đi. Cụ Mết và Dít đưa anh ra đến rừng xà nu gần con nước lớn. Trận đại bác đêm qua đã đánh ngã bốn năm cây xà nu to. Nhựa ứa ra ở những vết thương đang đọng lại, lóng lánh nắng hè. Quanh đó vô số những cây con đang mọc lên. Có những cây mới nhú khỏi mặt đất, nhọn hoắt như những mũi lê.
Ba người đứng ở đấy nhìn ra xa. Đến hút tầm mắt cũng không thấy gì ngoài những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời.
Mời bạn đọc xem thêm tác phẩm 🌿Vợ Nhặt🌿 Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị Nghệ Thuật
Tóm Tắt Rừng Xà Nu
Sau đây là Tóm Tắt Rừng Xà Nu ngắn gọn dành cho bạn đọc.
Tác phẩm viết về làng Xô Man và núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Sau ba năm xa làng đi bộ đội giải phóng, Tnú trở về thăm quê, làng Xô Man bất khuất kiên cường nằm giữa rừng xà nu bạt ngàn của Tây Nguyên.
Trong một buổi tối sum họp của làng, cụ Mết đã kể lại cho dân làng nghe về một trang sử bi thương mà hùng tráng của làng nó gắn với cuộc đời Tnú. Làng Xô Man trong những năm đen tối của Cách Mạng, là một căn cứ bí mật vững chắc nuôi giấu cán bộ. Lúc ấy, Tnú và Mai còn nhỏ nhưng đã góp phần tích cực vào việc chở che nuôi dấu cán bộ. Lớn lên, hai người thành vợ chồng.
Tnú trở thành người lãnh đạo dân làng đánh giặc. Tin làng Xô Man “mài giáo mác chuẩn bị khởi nghĩa bay đến tai quân giặc”, chúng cho quân đến vây quét. Cụ Mết và Tnú, cùng thanh niên rút ra ngoài rừng. Giặc dùng mọi cách khủng bố uy hiếp tinh thần dân chúng. Để hòng dụ dỗ Tnú đầu hàng, chúng bắt vợ và con anh hành hạ.
Cùng lưu lại ngay tác phẩm 💚 Vợ Chồng A Phủ 💚 Sơ đồ tư duy, phân tích hay nhất
Về Tác Giả Nguyễn Trung Thành
Mời bạn đọc cùng tìm hiểu thêm Về Tác Giả Nguyễn Trung Thành.
- Nguyễn Trung Thành tên thật là Nguyễn Văn Báu, ông sinh ngày 5 tháng 9 năm 1932 tại Quảng Nam. Ông có bút danh là Nguyên Ngọc.
- Ông là nhà văn trưởng thành trong cả kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
- Ông gia nhập quân đội năm 1950, hoạt động chủ yếu và gắn bó mật thiết với chiến trường Tây Nguyên.
- Sau Hiệp định Genever ông làm phóng viên và tập kết ra Bắc
- Năm 1962, ông tình nguyện trở về chiến trường miền Nam, hoạt động ở Quảng Nam và Tây Nguyên.
- Sau chiến tranh ông làm Phó Tổng thư ký Hội nhà văn Việt Nam và Tổng Biên tập báo văn nghệ.
- Hiện nay ông vẫn tham gia hoạt động trong lĩnh vực văn hóa – giáo dục và đã dịch một số tác phẩm lý luận văn học.
- Một số tác phẩm nổi bật:
- Đất nước đứng lên (tiểu thuyết đầu tay được tặng giải Nhất – Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 -1955)
- Rẻo cao (tập truyện, 1961)
- Trên quê hương những anh hùng hiện ngọc (tập truyện và kí, 1969)
- Đất Quảng (tiểu thuyết, 1971 – 1974)
Chia sẻ cho bạn đọc🌱 Những Ngày Đầu Của Nước Việt Nam Mới🌱 Nội Dung, Nghệ Thuật
Về Tác Phẩm Rừng Xà Nu
Về Tác Phẩm Rừng Xà Nu, Nguyễn Trung Thành đã thông qua câu chuyện về những con người ở một bản làng hẻo lánh để đặt ra một vấn đề lớn lao của dân tộc. Để cho sự sống của đất nước và nhân dân mãi trường tồn, không có cách nào khác là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí chống lại kẻ thù.
Rừng xà nu là truyện ngắn đặc sắc mang đậm màu sắc sử thi, gồm 3 phần:
- Phần 1. Từ đầu đến “Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời.”: Hình ảnh rừng xà nu – biểu tượng của dân làng Xô Man.
- Phần 2. Tiếp theo đến “Hà hà… được!”: Tnú sau ba năm đi lực lượng trở về thăm làng.
- Phần 3. Còn lại: Cụ Mết kể lại cuộc đời bi tráng của Tnú và cuộc đấu tranh của dân làng Xô Man.
Thông qua việc miêu tả về tinh thần chiến đấu và những phẩm chất tốt đẹp của người dân làng Xô Man, nhà văn đã mang đến cái nhìn trọn vẹn nhất về tinh thần chiến đấu cùng những phẩm chất anh hùng của cả cộng đồng Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Làm nên màu sắc sử thi và ý nghĩa tư tưởng sâu sắc của truyện ngắn không thể không kể đến nhan đề “Rừng xà nu”.
Hoàn Cảnh Sáng Tác Rừng Xà Nu
Truyện ngắn Rừng xà nu đăng lần đầu tiên ở tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng Trung Trung Bộ (Số 2, năm 1965), rồi được tuyển in trong tập truyện và kí Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc. Hoàn Cảnh Sáng Tác Rừng Xà Nu như sau:
Vào năm 1965, Mĩ kéo quân ồ ạt vào miền Nam với chiến dịch càn quét và diệt tận gốc Việt cộng. Tháng 3/1965, chúng đổ quân vào bãi biển Chu Lai bắt đầu cuộc chiến tranh Cục bộ.
Trong tình thế căng thẳng, “ngàn cân treo sợi tóc” ấy, nhà văn Nguyên Ngọc đã sáng tác truyện ngắn Rừng xà nu như một hình thức cổ vũ, động viên tinh thần nhân dân đứng lên chống giặc ngoại xâm, bảo vệ vững chắc nền độc lập, tự do cho dân tộc đầy hữu hiệu. Đây cũng là tác phẩm khẳng định tinh thần dũng cảm, bất khuất, kiên cường của đồng bào Tây Nguyên anh hùng nói riêng và toàn thể dân tộc Việt Nam nói chung trong hoàn cảnh lúc bấy giờ.
Xem thêm phân tích 🍀Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông🍀 Sơ Đồ Tư Duy, Các Mẫu Phân Tích Hay
Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm Rừng Xà Nu
Cùng tìm hiểu Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm Rừng Xà Nu bên dưới.
Rừng xà nu là nhan đề ngắn gọn nhưng giàu ý nghĩa biểu đạt. Cây xà nu là loài cây đặc trưng của vùng đất Tây Nguyên đại ngàn. Cây xà nu cũng là hình ảnh xuất hiện xuyên suốt trong tác phẩm, gắn liền với cuộc sống sinh hoạt và chiến đấu của người dân làng Xô Man.
Do đó, trước hết nhan đề “Rừng xà nu” mang ý nghĩa tả thực, đó là cả rừng xà nu rộng lớn với nhiều cây lớn nhỏ bị tấn công bởi đạn pháo của kẻ thù. Trong khu rừng ấy, những cây mới nhú lên khỏi mặt đất, nhọn hoắt như những mũi lê.
Không chỉ mang ý nghĩa tả thực mà “rừng xà nu” còn mang ý nghĩa biểu tương. Rừng xà nu gắn liền với những trải nghiệm thực tế của nhà văn Nguyễn Trung Thành trong quá trình chiến đấu và viết văn tại chiến trường tây nguyên.
Hình ảnh rừng xà nu hùng vĩ cùng sức sống mãnh liệt, khả năng sinh sôi nảy nở không ngừng đã gợi liên tưởng đến sức sống mãnh liệt và sự kế thừa truyền thống của người con Tây nguyên anh hùng.
Như vậy, nhan đề Rừng xà nu đã đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện tư tưởng chủ đề cũng như cảm hứng sử thi của truyện ngắn.
Có thể bạn quan tâm❤️️ Người Lái Đò Sông Đà ❤️️ Nội Dung Tác Phẩm, Nghệ Thuật
Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật Của Rừng Xà Nu
Sau đây là những Giá Trị Nghệ Thuật Rừng Xà Nu.
Giá trị nội dung
- Câu chuyện thứ nhất là câu chuyện về sự giác ngộ lí tưởng cách mạng và cuộc nổi dậy từ tự phát đến tự giác của dân làng Xô Man, với triết lí cách mạng được cụ Mết – trưởng bản, đúc kết “Chúng nó đã cầm súng thì mình phải cầm giáo”
- Câu chuyện thứ hai là câu chuyện về cuộc đời của Tnú – một người con của núi rừng Tây Nguyên, của bản làng Xô Man. Tnú lớn lên trong không khí cả làng làm cách mạng nên con người ấy nhanh chóng bén duyên. Cuộc đời của Tnú là cuộc đời của biết bao nhiêu con người, cũng là hình ảnh biểu trưng cho cả đất nước Việt Nam đau thương mà quật cường đứng dậy trong cuộc đọ sức cam go với đế quốc Mĩ.
Giá trị nghệ thuật
- Câu chuyện được kể theo hình thức truyện lồng truyện, truyện của một đời người của Tnú lại được kể trong một đêm qua lời kể của cụ Mết
- Xây dựng được không khí sử thi hào hùng, tráng lệ qua lối kể khan của cụ Mết ở nhà ưng tạo nên sự gắn kết giữa quá khứ, hiện tại và truyền thuyết.
- Xây dựng được những hình tượng đặc sắc mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc, đó là hình tượng của cây xà nu; hình tượng những thế hệ xà nu – những thế hệ của bản làng Xô Man, của mảnh đất Tây Nguyên; hình tượng người anh hùng Tnú
- Kết cấu vòng tròn: mở đầu, kết thúc là hình ảnh rừng xà nu cùng với sự trở về của Tnú sau ba năm xa cách
- Ngôn ngữ đặc sắc, mang đậm chất Tây Nguyên
Xem thêm tác phẩm🌈Đàn Ghi Ta Của Lorca🌈 Những Mẫu Phân Tích Hay Nhất
Giá Trị Nhân Đạo Của Rừng Xà Nu
Cùng xem thêm Giá Trị Nhân Đạo Của Rừng Xà Nu nhé.
Cây xà nu tượng trưng cho số phận đau thương và phẩm chất anh hùng của dân làng Xô man nói riêng và nhân dân Tây Nguyên nói chung trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
Cây xà nu ham ánh sáng và khí trời luôn hướng đến sự sống: “nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng” gợi lên hình ảnh người dân Xô Man nói riêng và nhân dân Tây Nguyên nói chun với khát vọng tự do, phóng khoáng dù chịu nhiều đau thương mất mát nhưng vẫn một lòng hướng về Đảng, về Cách mạng với niềm tin tuyết đối: “Đảng còn thì núi nước này còn”.
Giá Trị Hiện Thực Của Rừng Xà Nu
Tham khảo ngay Giá Trị Hiện Thực Của Rừng Xà Nu.
Hình tượng rừng xà nu vừa có ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa biểu tượng cho số phận và phẩm chất của con người Tây Nguyên. Rừng bị bom Mỹ tàn phá nặng nề là biểu tượng cho những đau thương mà nhân dân Tây Nguyên phải gánh chịu.
Hình ảnh cây xà nu, rừng xà nu giúp ta liên tưởng đến sự kiên cường bất khuất của nhân dân Xô Man. Thế hệ này tiếp bước thế hệ khác cùng đoàn kết bên nhau đứng lên kháng chiến chống kẻ thù tàn bạo. Anh Quyết hy sinh đã có Tnú và Mai. Mai ngã xuống thì Dit lớn lên tiếp bước, bé Heng cũng sẵn sàng tiếp bước thế hệ đàn anh..)
Cùng tìm hiểu nội dung🌷Dọn Về Làng 🌷 thông tin phân tích đầy đủ nhất
Giá Trị Giáo Dục Của Rừng Xà Nu
Có thể bạn sẽ cần đến Giá Trị Giáo Dục Của Rừng Xà Nu.
- Đề tài có ý nghĩa lịch sử: sự vùng dậy của dân làng Xô Man chống lại Mĩ Diệm.
- Bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, hoành tráng. Rừng xà nu làm nền cho bức tranh về cuộc đấu tranh chống giặc.
Sơ Đồ Tư Duy Rừng Xà Nu
Lưu lại ngay các Sơ Đồ Tư Duy Rừng Xà Nu sau đây nhé.
Mời bạn xem thêm nội dung ✨Bài Thơ Bác Ơi✨ Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật
5 Mẫu Phân Tích Rừng Xà Nu Hay Nhất
Tổng hợp và chia sẻ cho bạn đọc 5 Mẫu Phân Tích Rừng Xà Nu Hay Nhất.
Phân Tích Rừng Xà Nu Hay Nhất – Mẫu 1
Truyện ngắn “Rừng xà nu” được tác giả Nguyễn Trung Thành sáng tác vào năm 1965 khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra ác liệt, đặc biệt là ở chiến trường Tây Nguyên Mỹ đang đổ quân vào để khủng bố và giết chóc. Ra đời trong hoàn cảnh đó, tác phẩm mang ý nghĩa quan trọng như nguồn cổ vũ và động viên lớn lao dành cho con người Việt Nam, là động lực để quân và dân ta kiên cường trong chiến tranh gian khổ.
Trong truyện ngắn “Rừng xà nu” tác giả đã xây dựng hai hình ảnh lớn mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc đó là hình ảnh cây xà nu và hình ảnh những con người anh hùng đại diện cho sức mạnh và vẻ đẹp của người dân làng Xô Man. Hình ảnh cây xà nu được xuất hiện xuyên suốt tác phẩm.
Cây xà nu là một loài cây đặc trưng của vùng đất Tây Nguyên, gắn bó với cuộc sống sinh hoạt của người dân làng Xô Man: lửa xà nu trong mỗi bếp, trong đống lửa nhà ưng,… cây xà nu còn chứng kiến quá trình đấu tranh của dân làng Xô Man “đuốc xà nu được thắp lên trong những đêm người dân mài vũ khí” ….
Dưới tầm bắn của đại bác rừng xà nu đã ưỡn tấm thân lớn của mình ra che chở cho làng, gánh chịu đau thương để rồi “cả rừng hàng vạn cây không có cây nào không bị thương”.
Cây xà nu còn là nhân chứng trong cuộc nổi dậy của dân làng trong đêm Tnú bị tra tấn, cây xà nu đã kề vai sát cánh cùng con người chiến đấu. Cây xà nu còn mang những vẻ đẹp biểu tượng cho phẩm chất, tâm hồn và ý chí của người dân Tây Nguyên nói chung và dân làng Xô Man nói riêng.
Loài cây này có sức sinh sôi nảy nở rất khoẻ, lớn rất nhanh để thay thế những cây đã ngã, vẻ đẹp ấy tượng trưng cho sức sống bất diệt của người dân làng Xô Man, bên cạnh đó xà nu lại rất ham ánh sáng mặt trời nên thường vươn cao, thẳng tắp giống như tinh thần yêu cách mạng, quý tự do của người dân làng Xô Man, từ người già đến trẻ nhỏ đều một lòng tin vào lời dạy của cụ Mết: “Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn”.
Cây xà nu thường mọc thành rừng biểu tượng cho tinh thần đoàn kết của dân làng Xô Man, trong mọi hoàn cảnh gian khổ, đau thương và mất mát các thế hệ người dân làng Xô Man luôn kề vai sát cánh bên nhau, trên dưới đồng lòng và tuyệt đối trung thành với lời của cụ Mết.
Dưới tán rừng xà nu ấy là nơi có những con người anh hùng với những phẩm chất tốt đẹp, đại diện cho vẻ đẹp những con người dân làng Xô Man nói riêng và người dân Tây Nguyên nói chung. Nổi bật nhất là hình tượng nhân vật Tnú, đời thường Tnú là một chàng trai chung thuỷ và có tình yêu sâu sắc với Mai, bên cạnh đó anh cũng yêu quê hương tha thiết, trước khi là một người anh hùng, Tnú là một người con ưu tú của làng Xô Man.
Tnú nổi bật với tinh thần bất khuất gan góc, dũng cảm và trung thành với cách mạng. Khi còn nhỏ Tnú đã bộc lộ bản lĩnh cách mạng kiên cường, có đóng góp lớn cho sự nghiệp chung như tham gia phong trào nuôi giấu cán bộ trong rừng, quyết tâm học chữ để làm cán bộ giỏi, rồi làm liên lạc cho anh Quyết để đưa thư.
Khi lớn lên Tnú cùng dân làng nung nấu ý chí đánh giặc bằng cách mài vũ khí giấu ở trong rừng, khi giặc khủng bố giết chóc Tnú tận mắt nhìn thấy vợ và con bị giết nhưng vẫn phải nén nỗi đau riêng, quyết không phản bội lại cách mạnh. Ngay cả khi bị giặc tra tấn “một ngón tay… răng anh đã cắn nát môi anh rồi”, bản lĩnh cách mạng giúp Tnú có sức chịu đựng phi thường.
Tnú chính là thế hệ tiếp bước con đường của cha anh, người anh hùng tiêu biểu cho truyền thống của làng Xô Man. Bên cạnh nhân vật Tnú, cụ Mết là người có vai trò quan trọng đối với dân làng Xô Man, là người già làng cụ luôn có tinh thần giáo dục truyền thống, dẫn dắt dân làng đi lên, cụ dạy dân làng “chúng nó có súng mình phải cầm giáo mác”, rồi cụ định hướng cho dân làng “đánh thằng Mỹ phải đánh dài”, cũng chính cụ thường xuyên kể chuyện về Tnú cho dân làng và các thế hệ con cháu nghe.
Như vậy cụ Mết là người có vai trò quan trọng trong cuộc nổi dậy của người dân làng Xô Man, cụ đã giáo dục, định hướng và dẫn dắt để dân làng đi lên, cụ Mết là biểu tượng cho sức chiến đấu kiên cường, bất khuất. Dít là người con gái đầy bản lĩnh, ngay từ nhỏ đã bộc lộ bản chất gan góc và tinh thần trung thành với cách mạng: lẻn vào rừng tiếp tế lương thực cho du kích, khi bị giặc bắt và khủng bố tinh thần Dít nhìn bọn giặc bằng ánh mắt bình thản, lạnh lùng.
Khi lớn lên đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng Dít làm việc rất nghiêm túc, biết kìm nén tình cảm riêng và đặt nhiệm vụ chung lên trên hết. Dít và bé Heng giống như thế hệ cây xanh mới mọc và lớn rất nhanh, bé Heng trông nhỏ con nhưng thuộc hết những vị trí hầm chông, hố châm, biết tham gia và công cuộc chung của dân làng, tỏ ra mình là một người lính thực sự.
Nhà văn đã xây dựng hệ thống nhân vật với ba thế hệ, tầng lớp cha anh (cụ Mết), tầng lớp thanh niên (Tnú), tầng lớp măng non (Dít và bé Heng), tất cả họ đều mang những phẩm chất đại diện cho phẩm chất của cộng đồng, là những con người mang tầm vóc lịch sử.
Truyện ngắn “Rừng xà nu” với sự kết hợp giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn đã mang đến cho người đọc những cảm nhận sâu sắc về hình tượng cây xà nu và những con người “anh hùng dân tộc” của làng Xô Man trong thời chiến tranh chống Mỹ. Tô đậm truyền thống yêu nước, kiên cường bất khuất của dân tộc ta đồng thời cổ vũ và ca ngợi thế hệ con em noi gương cha anh tiếp bước gìn giữ non sông.
Phân Tích Rừng Xà Nu Chọn Lọc – Mẫu 2
Truyện “Rừng xà nu” viết về những anh hùng ở làng Xô Man trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Là tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam giai đoạn 1954-1975. Cảm hứng của nhà văn về nhân vật anh hùng gắn liền với cảm hứng về đất nước hùng vĩ mà cụ thể là hình tượng cây xà nu của Tây Nguyên.
Nhà văn đã chọn một loại cây họ thông, gỗ và nhựa đều rất quý, có sức sống mãnh liệt và dẻo dai rất gần gũi với đời sống người dân Tây Nguyên để tượng trưng cho phẩm chất và sức mạnh tinh thần bất khuất của dân làng Xô Man và các dân tộc Tây Nguyên.
Truyện được mở đầu và kết thúc bằng hình ảnh rừng xà nu. Suốt trong quá trình kể chuyện, hình ảnh rừng xà nu được nhắc đi nhắc lại như một điệp khúc, gần hai mươi lần nhà văn nói đến rừng xà nu, cây xà nu, nhựa xà nu, ngọn xà nu, đồi xà nu, khói xà nu, lửa xà nu, dầu xà nu.
Hình tượng cây xà nu mang ý nghĩa tượng trưng, nó nói lên sức sống bền vững, quật khởi của dân làng Xô Man, của Tây Nguyên bất khuất. Chất sử thi của thiên truyện sẽ không trở thành giọng điệu chính của tác phẩm nếu thiếu đi hình tượng cây xà nu được khai thác từ nhiều góc độ, được lặp đi lặp lại nhiều lần như vậy, nhất là các hình ảnh “đồi xà nu” (bốn lần), “rừng xà nu” (năm lần), với “hàng vạn cây” “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”.
“Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc… Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa úa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện lại thành từng cục máu lớn”.
Hình ảnh cây xà nu mở đầu truyện đã cho thấy cuộc đấu tranh quyết liệt của dân làng. Bằng nghệ thuật nhân hoá, tác giả nói lên được nỗi đau thương mất mát của dân làng Xô Man và tố cáo tội ác của kẻ thù. Mỗi cây xà nu ngã xuống, ta thấy thương tâm như một người dân làng Xô Man ngã xuống.
Nhưng hình tượng cây xà nu cũng tượng trưng cho sức sống dẻo dai, mãnh liệt của dân làng Xô Man, của con người Tây Nguyên. “Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Cũng có ít loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế. Chúng phóng lên rất nhanh để đón lấy ánh sáng…”
“Có những cây mới nhú khỏi mặt đất, nhọn hoắt như những mũi lê”. Rừng xà nu mang ý nghĩa biểu tượng cho con người. “Đặt trong hệ thống chủ đề, trong mạch truyện, những cây xà nu này mang tính biểu tượng cho những Tnú, Mai, Dít, bé Heng… thế hệ trẻ của làng Xô Man bất khuất, gắn bó với cách mạng”.
Chỉ đơn giản một chi tiết này, thấy cây xà nu giống người biết mấy! Nhưng cũng có những cây vượt lên đựơc đầu người, cành lá sum sê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng”.
Hình ảnh đó giống Tnú biết bao, Tnú bị bọn giặc chém nhiều nhát sau lưng, trên tấm lưng chưa rộng bằng bề ngang cái xà lét mẹ để lại đó ứa một vệt máu đậm, từ sáng đến chiều thì đặc quện, tím thẫm như “nhựa xà nu”. Nhưng sau khi ở tù vượt ngục trở về, những vết thương đã lành lặn, Tnú khoẻ mạnh, cường tráng, rồi trở thành một chiến sĩ kiên cường.
Cái chết của những cây xà nu giống cái chết của mẹ con Mai . “Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng; vết thương không lành được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết”.
Và đây, Dít giống một cây xà nu non lao thẳng lên trời bất khuất. Dít nhỏ như lanh lẹ, cứ sẩm tối lại bò theo máng nước đem gạo ra từng cho cụ Mết và thanh niên. Chúng bắt đựơc con bé. Chúng để con bé đứng ở giữa sân, lên đạn tôm-xông rồi từ từ bắn từng viên một.
Không bắn trúng, đạn chỉ sượt qua tai, sém tóc, váy nó rách tượt từng mảng. Nó khóc thét lên, nhưng rồi đến viên thứ mười, nó chùi nước mắt, từ đó nó im bặt. Nó đứng lặng giữa bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh dẻ của nó lại quật lên một cái nhưng đôi mắt nó thì vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng.
Hình ảnh những cây xà nu vững chắc, không chịu ngã trước giông bão, bom đạn của kẻ thù “ưỡn tấm ngực lớn của mình che chở cho làng” gợi cho ta nghĩ đến hình ảnh cụ Mết, con người tiêu biểu cho sức sống quật khởi của làng Xô Man, người nuôi giữ ngọn lửa khát vọng tự do, gắn bó với Đảng.
Chính cụ Mết cũng đã nói với Tnú: “Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta…” Cụ còn nói với dân làng: “Nghe rõ chưa các con, rõ chưa Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay còn sống phải nói lại với con cháu: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!”.
Và khi cuộc khởi nghĩa bùng nổ, nguyên nhân trực tiếp chính là do ngọn lửa xà nu cháy trên mười đầu ngón tay Tnú. Cả làng Xô Man bị kích động, những ngọn đuốc xà nu bùng cháy khắp rừng “Đứng trên đồi xà nu gần con nước lớn. Suốt đêm nghe cả rừng Xô Man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng…”
Viết về Tây Nguyên, Nguyễn Trung Thành muốn gắn chặt đất nước với con người. Viết về anh hùng Đinh Núp, tác giả gọi tên tiểu thuyết của mình là “Đất nước đứng lên”. Viết về cuộc khởi nghĩa của dân làng Xô Man trong cuộc kháng chiến chống Mĩ lại lấy tên là “Rừng xà nu”…
Hình tượng cây xà nu là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Trung Thành. Với bút pháp tượng trưng, tư tưởng chủ đề của truyện “Rừng xà nu” thêm sâu sắc. Chính nhờ hình tượng cây xà nu mà những nhân vật anh hùng thêm bất tử.
Phân Tích Rừng Xà Nu Ấn Tượng – Mẫu 3
Rừng xà nu được Nguyễn Trung Thành chấp bút vào năm 1965 khi đế quốc Mĩ xâm lược miền Nam nước ta. Tác phẩm là câu chuyện về mảnh đất anh hùng, con người Tây Nguyên anh hùng. Vả nổi bật nhất trong tập thể anh hùng đó ta không thể không nhắc đến nhân vật Tnú.
Tnú là nhân vật hội tụ đầy đủ nhất những vẻ đẹp phẩm chất và tính cách của con người Tây Nguyên. Ở nhân vật này vừa có những nét chung nhưng đồng thời lại có những đường nét hết sức khu biệt, tạo nên một chân dung anh hùng hoàn hảo. Nhân vật Tnú được Nguyễn Trung Thành khắc họa bằng những nét độc đáo, giàu tình chất sử thi.
Tính sử thi đó được biểu hiện rõ nhất trong cuộc đời anh. Cuộc đời anh nhìn qua tưởng đó là cuộc đời riêng nhưng kì thực lại là đại diện cho số phận của cộng đồng. Cuộc đời Tnú gắn với những sự kiện lớn của cộng đời, từ đó là biểu tượng đẹp đẽ nhất cho phẩm chất và số phận nhân dân Tây Nguyên nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung.
Vẻ đẹp đầu tiên có thể nhận thấy ở nhân vật này chính là sự kiên cường, gan góc, dũng cảm. Điều này là bản chất, ăn sâu trong cốt cách của Tnú. Ngay từ tấm bé bản chất này của anh đã dần dần được bộc lộ. Tuy còn nhỏ tuổi nhưng Tnú đã dũng cảm nuôi giấu bộ đội trong rừng. Hàng ngày chuyển thư liên lạc. Trong quá trình đi liên lạc, Tnú thường “xé rừng mà đi, lựa thác mạnh mà vượt” bởi những con đường đó mới an toàn, tin tức mới không bị kẻ thù bắt được.
Tnú và Mai cùng học với nhau, nhưng Tnú học chữ chậm, cảm thấy vô cùng tức giận với bản thân, đã lấy đá đập vào đầu đến nỗi chảy mà ròng ròng. Ngay cả khi bị giặc bắt, giặc tra tấn, sự kiên cường đó vẫn không hề thuyên giảm, anh quyết không khai, mà chỉ vào bụng mình mà nói “cộng sản ở đây”. Tuy còn nhỏ tuổi nhưng khí chất kiên trung, dũng cảm của con người ấy đã được bộc lộ từ khi còn rất nhỏ.
Những biến cố trong cuộc sống, dần dà lớn lớn, sự dũng cảm trong Tnú cũng ngày càng được biểu lộ rõ hơn. Khi vợ con bị tra tấn, hành hạ, lòng Tnú đau như cắt, và đến giây phút cuối cùng không thể nhẫn nhịn được nữa, Tnú đã đi ra để cứu hai mẹ con. Tay của Tnú bị đốt cháy bùng bùng, nhưng anh không hề cảm thấy đau đớn, không hề kêu than. Ấy chính là sự gan dạ, dũng cảm và kiên cường của Tnú.
Không chỉ vậy, anh cũng là người hết sức kỉ luật. Thời gian nghỉ phép ít ỏi, chỉ có một ngày, nhưng anh vẫn hết sức thu xếp công việc trở về thăm bản làng, thăm mọi người. Và sáng sớm ngày hôm sau Tnú từ biệt mọi người lên đường. Anh là người tôn trọng kỉ luật của đơn vị, chấp hành kỷ luật của buôn làng. Ý chí kiên cường, hết lòng hi sinh vì sự nghiệp lớn đã giúp anh chiến thắng sự mềm yếu trong lòng, để hướng đến một sự nghiệp lớn hơn.
Ngoài ra, Tnú còn là người biết vượt lên những đau khổ, bi kịch của cá nhân để sống một cuộc đời tốt đẹp, có ý nghĩa hơn. Trong cuộc đời Tnú đau đớn nhất không phải là giây phút không học được chữ, đập đầu vào đá, cũng không phải là giây phút bị giặc bắt và truy hỏi. Mà đau đớn nhất là khi thấy vợ con mình bị hành hạ mà bất lực không thể làm gì khác.
Nhìn cảnh Mai vì che chắn cho đứa con mà không biết bao lần phải chịu đòn roi của kẻ thù, có lẽ long Tnú đau thắt lại và nhất là khi đứa con bé bỏng, vô tội của anh bị đánh, chết ngất đi. Đến lúc này nỗi đau đớn, sự căm thù đã dồn nén bấy lâu bùng phát dữ dội.
Không chỉ vợ con, mà chính anh cũng là nạn nhân của những đòn tra tấn dã man đó. Chúng quấn dẻ và nhựa vào mười đầu ngón tay anh, đốt cháy như một ngọn đuốc. Nhưng dù bị đốt cháy, dù gia đình li tán nhưng Tnú vẫn kiên cường vượt qua mọi mất mát, thương tổn.
Dùng khả năng của bản thân đi bộ đội, để giết giặc trả thù cho bản thân, cho gia đình, lớn hơn là cho những người bỏ mạng dưới sự độc ác của kẻ thù. Nếu không phải là người có nghị lực, bản lĩnh thì có lẽ đã suy sụp mà không sống nổi.
Ngoài ra anh còn là một con người giàu tình nghĩa. Những ngày còn nhỏ, anh hết lòng với cách mạng, gắn bó và nghe lời anh Quyết. Anh chăm chỉ học hành cũng chỉ bởi một câu anh Quyết nói “không học chữ làm sao làm được cán bộ giỏi”. Chỉ với câu nói đó thôi nhưng đã truyền bao sức mạnh cho anh.
Khi nhìn vợ con bị ành hạ, dù không cứu được nhưng Tnú vẫn anh dũng xông ra, để đánh giặc, đây chính là biểu hiện của tình yêu thương sâu sắc. Không chỉ vậy, anh là một đứa trẻ mồ côi, được dân làng nuôi lớn, bởi vậy ngày nghỉ phép tuy ngắn ngủi nhưng Tnú vẫn tranh thủ về thăm buôn làng, thăm mọi người.
Tnú là kết tinh nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Trung Thành. Nhân vật được xây dựng trên khung nền sử thi kì vĩ. Bởi vậy nhân vật cũng chính là đại diện cho số phận của cộng đồng. Tuy mang nhưng bản thân Tnú vẫn có những nét khu biệt, chính điều đó đã đem lại sự mới mẻ cho hình tượng và sự thành công cho tác phẩm.
Phân Tích Rừng Xà Nu Đặc Sắc – Mẫu 4
Tác phẩm “Rừng xà nu” được tác giả Nguyễn Trung Thành viết năm 1965 và được in trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. Ngay ở nhan đề của truyện ngắn, ta có thể hình dung về những cảnh rừng xà nu xanh bạt ngàn và có sức sống mãnh liệt như những người dân của buôn làng Xô Man.
Hình ảnh rừng xà nu ở ngay phần đầu tác phẩm. Xà nu là loại cây họ thông, mọc nhiều ở khu vực Tây Nguyên. Trong tác phẩm của Nguyễn Trung Thành, “rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời”. Cây mọc thành khu rừng rộng lớn và trở thành loài cây đặc trưng của mảnh đất Tây Nguyên anh dũng.
Ngay từ những câu mở đầu tác phẩm, rừng xà nu được tác giả miêu tả là bao quanh và che chở cho buôn làng Xô Man tránh khỏi những trận đại bác của quân địch. Nhưng vì sự khốc liệt của chiến tranh, cả cánh rừng hàng vạn cây xà nu đều bị thương, thậm chí “có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão”.
Người dân nơi đây yêu rừng xà nu vì đây là loài cây gắn bó với dân làng, là người bạn đồng hành từ khi họ sinh ra, lớn lên, già đi và đến khi về với đất mẹ. Dưới tán cây xà nu là những nét đẹp văn hóa của những buổi sinh hoạt cộng đồng của đồng bào Tây Nguyên và còn là nơi hò hẹn của trai gái trong buôn làng.
Và hơn thế, xà nu còn là đồng đội của dân làng, khi ngọn đuốc xà nu sáng rực trong đêm cùng dân làng nổi dậy chống kẻ thù. Khói xà nu thì xông bảng nứa đen kịt để anh Quyết dùng làm công cụ dạy Tnú và Mai học bài. Rồi lửa xà nu còn soi sáng “xác mười tên lính giặc ngổn ngang” chứng minh cho sự kiên cường, anh dũng của buôn làng Xô Man.
Bên cạnh ý nghĩa tả thực, cây xà nu còn là biểu tượng cho số phận và phẩm chất cao đẹp của những người con Tây Nguyên. Hình ảnh rừng xà nu chịu bao trận đại bác của địch gợi những đau thương mà nhân dân phải gánh chịu.
Nhưng khâm phục thay, bom đạn của kẻ thù không thể ngăn được sự sinh sôi, sự lớn mạnh của cây xà nu. “Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Và dù có chịu nhiều tổn thương, những lứa cây mới sẽ nhanh chóng mọc lên và “đạn đại bác không giết nổi chúng”.
Bởi vậy, trong suốt cuộc chiến, “rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”. Hình ảnh “anh hùng” ấy của rừng xà nu là biểu tượng cho sức mạnh quật cường, bất diệt cho những thế người con Tây Nguyên. Là thế hệ trước ngã xuống sẽ có thế hệ sau tiếp nối. Xà nu còn là loài cây ham ánh mặt trời, như Tnú và dân làng Xô Man luôn hướng mình theo ánh sáng của cách mạng.
Qua việc phân tích rừng xà nu, đặc biệt là hình ảnh rừng xà nu có thể thấy, đây là một sáng tạo độc đáo của nhà văn Nguyễn Trung Thành. Rừng xà nu có khi được nhìn từ xa, có khi được miêu tả rất gần. Xà nu không chỉ là một hình ảnh thực mà còn mang ý nghĩa biểu tượng, tượng trưng cho khí chất, cho dáng dấp của những con người anh hùng Tây Nguyên.
Mặc dù rừng xà nu là hình ảnh đầu tiên được nhắc đến và cũng là hình ảnh biểu tượng được tác giả dùng để đặt nhan đề tác phẩm, nhưng thực chất con người Tây Nguyên là những nhân vật mà Nguyễn Trung Thành muốn khắc họa hơn cả. Và tiêu biểu cho những con người ấy là Tnú, người chiến sĩ trẻ kiên cường, bất khuất.
Ngay từ khi còn nhỏ, Tnú đã vào rừng nuôi cán bộ. Khi Tnú học chữ thua Mai, Tnú lấy đá tự đập vào đầu. Nhưng được anh Quyết khuyên “Tnú phải làm cán bộ thay anh”, Tnú đã quyết tâm học chữ. Khi đi liên lạc, Tnú “xé rừng mà đi”, “lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt lên trên mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình”. Tnú cũng là người nhanh trí, khi bị giặc bắt thì liền nuốt thư vào bụng.
Khi Tnú lớn lên, anh cùng dân làng mài vũ khí để chiến đấu. Khi thằng Dục biết được tin này, nó tìm cách bắt Tnú. Anh bị tra tấn bằng cách quấn giẻ đã tẩm dầu xà nu lên hai bàn tay rồi đốt. Tnú không thể cứu được mẹ con Mai và còn chứng kiến mẹ con chết trước mắt mình. Nỗi đau mất vợ và đứa con chưa còn chưa chào đời cùng nỗi đau bị tra tấn đã biến thành nỗi căm hờn, uất hận trong Tnú.
Lúc này, dù đau đớn Tnú không kêu lên một tiếng, mà chỉ trợn mắt nhìn thằng Dục. Sự căm thù, tinh thần kiên cường khiến anh “không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa”, mà anh nghe lửa như đang cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. “Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi”. Phân tích rừng xà nu có thể thấy, Tnú không chỉ là người mang phẩm chất anh hùng mà còn là người sâu nặng nghĩa tình. Tnú cũng là người chồng, người cha yêu thương vợ con.
Bên cạnh nhân vật Tnú, truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành còn khắc họa thành công các nhân vật khác như cụ Mết, anh Quyết, Mai, Dít, Heng… Qua các nhân vật này, tác giả đã làm nổi bật những thế hệ anh hùng nối tiếp nhau một lòng yêu nước, một lòng đi theo lý tưởng của Đảng.
Anh Quyết là cán bộ cách mạng, người dạy chữ cho Mai và Tnú. Và anh cũng là người có vai trò nhen “lửa yêu nước” “lửa đấu tranh” cho người dân Tây Nguyên. Anh như người khai sáng, người giáo dục tinh thần cách mạng cho những người trẻ. Bằng tấm lòng, bằng tình yêu nước anh đã khơi gợi ở Tnú tinh thần chiến đấu vì lí tưởng cách mạng, tin theo Đảng và bác Hồ.
Và bài phân tích rừng xà nu sẽ không trọn vẹn nếu ta không nhắc đến cụ Mết. Cụ là già làng, là người anh hùng thuộc thế hệ trước, là người lãnh đạo buôn làng nổi dậy chiến đấu.
Cụ cũng là người kể chuyện cho các thế hệ thanh niên trong lòng về cuộc đời người anh hùng Tnú. Cụ cũng được trao cho sứ mệnh truyền đạt và khẳng định con đường cách mạng mà nhân dân ta phải đi, đó là” “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Nghĩa là chúng ta không thể chịu áp bức mãi được, chúng ta phải đứng dậy, phải cầm giáo đấu tranh cho chính nghĩa.
Những thế hệ sau của cụ Mết, của Tnú là Dít và Heng, chúng sẽ là người nối tiếp con được của thế hệ đi trước. Sau này Dít lớn lên và trở thành chính trị viên xã đội, bí thư chi bộ. Nhưng ngay từ khi còn nhỏ, Dít đã thật gan dạ nhờ vào sự giáo dục về lí tưởng cách mạng của thế hệ đi trước. Dù chỉ là một cô bé, Dít đã rất bản lĩnh mà không run sợ trước súng đạn của quân địch.
Còn cậu bé Heng, ngày mà Tnú ra đi, “nó mới chỉ đứng đến ngang bụng anh, chưa biết mang củi, chỉ mới đeo cái xà lét nhỏ xíu theo người lớn ra rẫy”, nhưng khi Tnú về thăm làng, Heng đã trở thành một người lính kiên cường.
Heng có thể dẫn Tnú đi qua những con đường “chằng chịt hầm chông, hố chông, cứ mười phút lại gặp một giàn thò chuẩn bị sẵn, cần thò căng như dây ná, đánh một phát chắc chắn gãy đôi ống quyển, lưỡi thò từng đôi, từng đôi gác lên giàn, sắc lạnh”. Và dù vẫn còn là một đứa trẻ, cậu bé đã thật dũng cảm, là mảnh ghép không thể thiếu của một tập thể anh hùng trong cuộc chiến chống đế quốc Mỹ.
Qua phân tích tác phẩm Rừng xà nu có thể thấy, tác phẩm thấm đẫm chất sử thi hùng tráng. Điều này thể hiện ngay từ chủ đề tác phẩm, đến nhân vật, giọng điệu. Thông qua tác phẩm “Rừng xà nu”, tác giả đã tái hiện một không khí hào hùng một thời chống Mỹ của buôn làng Xô Man nói riêng và cả dân tộc ta nói chung.
Như đã phân tích xuyên suốt tác phẩm, ta có thể thấy điểm nổi bật của “Rừng xà nu” không chỉ là hình ảnh rừng xà nu ở phần đầu mà còn ở tuyến nhân vật là những người anh hùng, kiên cường, bất khuất giữa Tây Nguyên đại ngàn.
Đọc và chiêm nghiệm Rừng xà nu, ta như đang hát một khúc ca chiến đầu hào sảng, được hòa mình vào khí thế đấu tranh của những người dân buôn làng Xô Man chân chất và anh dũng. Đồng thời, kết cấu của tác phẩm được xây dựng theo hình thức truyền lồng trong truyện thực đã mang lại sự hấp dẫn cho tác phẩm của Nguyễn Trung Thành.
Phân Tích Rừng Xà Nu Tiêu Biểu – Mẫu 5
Nguyễn Trung Thành còn có bút danh khác là nhà văn Nguyên Ngọc ông viết truyện ngắn “Rừng xà nu” sau những ngày đi tìm kiếm thực tế sáng tác tại núi rừng Tây Nguyên hoang sơ. Truyện ngắn “Rừng xà nu” nhằm ca ngợi những người dân Tây Nguyên kiên cường, trung thành, bất khuất trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược.
“Rừng xà nu” là một truyện ngắn chứa đựng nhiều ý nghĩa nhân văn, tình cảm và lòng yêu nước vô cùng to lớn của những người dân vùng núi đại ngàn. Tác phẩm chính là một bản hùng ca bi tráng mang đậm tính sử thi viết về những người dân Tây Nguyên gan dạ, mưu trí, yêu nước hơn yêu cả mạng sống của mình. Nhờ có tinh thần bất khuất kiên cường đó mà toàn dân ta mới chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống lại hai kẻ thù xâm lược vô cùng lớn mạnh.
Xuyên suốt toàn bộ tác phẩm chính là hình ảnh những cánh rừng xà nu. Một rừng xà nu bạt ngàn xanh tươi, trải dài tới hút tầm mắt. Một rừng xà nu mà không cây nào không bị thương, bởi mỗi khi kẻ thù muốn đánh người dân nơi đây chúng đều thả rất nhiều bom đạn trút xuống cánh rừng xà nu. Nên việc xà nu bị thương là điều vô cùng dễ hiểu.
Nhưng dù bị thương hay vết thương có khiến cho nhựa cây chảy ra thật nhiều thì những cây xà nu kia cũng không bao giờ chết. Chỗ vết thương theo thời gian sẽ tạo thành một vết sẹo mà thôi. Không có một loài cây nào ham sống như cây xà nu, nếu một cây to bị gục xuống thì ngay dưới chân nó lại có vài cây con mọc lên. Những cánh rừng xà nu cứ vì thế mà xanh tươi mãi mãi.
Hình ảnh những cây xà nu kia chính là biểu tượng của người dân Tây Nguyên, những con người luôn trung thành với Đảng với cách mạng và Bác Hồ. Những con người Tây Nguyên từ người già như cụ Mết, cho tới Tnú, Mai, Dít và bé Heng đều có tinh thần yêu nước. Những người dân của làng Strá dù ít dù nhiều dù lớn dù bé cũng luôn một lòng hướng về quê hương của mình, có lòng căm thù giặc sâu sắc.
Nhân vật chính trung tâm song song với hình tượng cây xà nu chính là anh Tnú một người anh hùng. Một chiến sĩ cách mạng kiên trung dù trải qua nhiều đau khổ khó khăn trong tình cảm riêng tư nhưng Tnú càng thêm kiên cường và căm thù giặc sâu sắc. Tnú vốn là một cậu bé chịu nhiều bất hạnh trong cuộc sống ba mẹ anh qua đời trong một trận càn quét của giặc. Tnú được cụ Mết và người dân trong làng Xô Man nuôi dưỡng nên người.
Ngay từ nhỏ Tnú đã tỏ rõ tinh thần anh dũng, kiên cường của mình, Tnú làm liên lạc việc đưa thư cho các chiến sĩ cách mạng, để tránh sự truy đuổi của kẻ thù Tnú thường đi đường mới không đi những con đường mòn dễ đi. Rất nhiều nhiệm vụ khó đã được Tnú hoàn thành. Có lần Tnú bị giặc bắt được chúng tra tấn Tnú nhưng anh vẫn kiên cường không khai mà âm thầm nuốt lá thư vào bụng của mình để bảo đảm an toàn của bức thư.
Ngày còn nhỏ Tnú và Mai là bạn thanh mai trúc mã, cả hai được cán bộ Quyết dạy chữ. Mai thông minh học đâu nhớ đó, còn Tnú thì cứ quên hoài nên anh đã lấy viên đá đập vào tay của mình để nhắc nhở mình phải ghi nhớ. Khi lớn lên Mai và Tnú kết hôn họ đã có thêm em bé là kết quả tình yêu của hai người. Nhưng Mai bị bọn tay sai bắt đi tra tấn dã man khiến cho Mai và em bé trong bụng tử vong.
Tnú đau đớn ôm xác vợ con. Anh bị bọn chúng tra tấn dã man và đốt cháy mười ngón tay, nhưng Tnú không hề cảm thấy đau đớn nỗi đau trong lòng anh còn lớn hơn nỗi đau thể xác. Tnú như một cây xà nu trưởng thành bị giặc bắn phá bị thương, nhưng vẫn luôn kiên cường vươn lên và không bao giờ gục ngã.
Truyện ngắn “Rừng xà nu” của nhà văn Nguyễn Trung Thành là một truyện ngắn vô cùng thành công của nhà văn viết về đề tài những người dân Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Hình ảnh những cây xà nu anh dũng hiên ngang tựa như những người dân làng Xô Man bất khuất trung hậu, quả cảm.