Nội Dung Truyện Ngắn Cố Hương của Lỗ Tấn, Giá Trị Tác Phẩm, Phân Tích. Chia Sẽ Các Sơ Đồ Tư Duy, Gợi Ý Soạn Bài, Giáo Án Xuất Xứ Và Hoàn Cảnh Chi Tiết Nhất.
NỘI DUNG CHÍNH
Giới Thiệu Tác Phẩm Cố Hương
“Cố Hương” là một truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn Trung Quốc Lỗ Tấn. Tác phẩm này nằm trong tập truyện “Gào Thét” xuất bản năm 1923.
Nội dung chính
- “Cố Hương” kể về chuyến về quê lần cuối cùng của nhân vật “tôi” sau hơn 20 năm xa cách. Trong chuyến đi này, nhân vật “tôi” chứng kiến sự thay đổi đáng buồn của quê hương: làng quê xơ xác, tiêu điều; con người già đi, trở nên đần độn hoặc chua ngoa. Qua đó, tác giả phản ánh thực trạng xã hội phong kiến Trung Quốc vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Giá trị nghệ thuật
- Bố cục chặt chẽ: Truyện được chia thành ba phần rõ ràng, mỗi phần thể hiện một giai đoạn trong chuyến về quê của nhân vật “tôi”.
- Miêu tả tâm lý nhân vật: Lỗ Tấn sử dụng nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật độc đáo, góp phần khắc họa tính cách và chủ đề của tác phẩm.
- Kết hợp các phương thức biểu đạt: Tác phẩm kết hợp tự sự, miêu tả, biểu cảm và nghị luận một cách hài hòa.
Ý nghĩa nhan đề: Nhan đề “Cố Hương” mang ý nghĩa quê cũ, gợi lên những kỷ niệm và tình cảm sâu sắc của nhân vật “tôi” với quê hương
Nội Dung Truyện Ngắn Cố Hương
Tôi không quản trời lạnh giá, về thăm làng cũ, xa những hai ngàn dặm mà tôi đã từ biệt hơn hai mươi năm nay.
Đang độ giữa đông. Gần về đến làng, trời lại càng u ám. Gió lạnh lùa vào khoang thuyền, vi vu. Nhìn qua các khe hở mui thuyền, thấy xa gần thấp thoáng mấy thôn xóm tiêu điều, hoang vắng, nằm im lìm dưới vòm trời màu vàng úa. Không nén được, lòng tôi se lại.
A, đây có thật là làng cũ mà hai mươi năm trời nay tôi hằng ghi lấy hình ảnh trong kí ức không?
Hình ảnh làng cũ trong kí ức tôi không giống hẳn như thế này. Làng cũ tôi đẹp hơn kia! Nhưng nếu phải nhớ rõ đẹp như thế nào, nói rõ đẹp ở chỗ nào thì thật không có hình ảnh ngôn ngữ nào diễn tả ra cho được. Phảng phất thì cũng có hơi giống đấy. Tôi nghĩ bụng: Hẳn làng cũ mình vốn cũng chỉ như thế kia thôi, tuy chưa tiến bộ hơn xưa, nhưng cũng vị tất đến nỗi thê lương như mình tưởng. Chẳng qua là tâm tình mình đã đổi khác, bởi vì về thăm chuyến này, lòng mình vốn đã không vui.
Về thăm quê chuyến này, ý định là để từ giã nó lần cuối cùng. Ngôi nhà cũ nơi cả đại gia đình chúng tôi đời đời ở chung với nhau, mà chúng tôi đã phải đồng tình bán cho người ta rồi, nội năm nay phải giao cho họ. Vì thế tôi cần phải về trước Tết, vĩnh biệt ngôi nhà yêu dấu và từ giã làng cũ thân yêu, đem gia đình đến nơi đất khách tôi đang làm ăn, sinh sống.
Tinh mơ sáng hôm sau, tôi về tới cổng nhà. Trên mái ngói, mấy cọng tranh khô phất phơ trước gió, đủ rõ nhà không đổi chủ không được. Những gia đình khác có lẽ đã dọn đi rồi, cho nên cảnh tượng càng hiu quạnh.
Tôi vừa bước vào gian nhà chúng tôi ở thì mẹ tôi đã chạy ra đón. Hoàng, đứa cháu vừa mới lên tám tuổi, cũng chạy theo.
Mẹ tôi rất mừng rỡ, nhưng nét mặt vẫn ẩn một nỗi buồn thầm kín. Mẹ tôi bảo tôi ngồi xuống, nghỉ ngơi, uống trà, không đả động gì đến chuyện dọn nhà cả. Cháu Hoàng chưa gặp tôi bao giờ chỉ dám đứng đằng xa nhìn tôi chòng chọc.
Nhưng rồi chúng tôi cũng bàn đến chuyện dọn nhà. Tôi nói nhà trên kia đã thuê xong, cũng đã sắm được ít đồ đạc, giờ hãy đem các thứ đồ gỗ ở nhà này bán đi hết lấy tiền mua thêm sau. Mẹ tôi cho cũng phải và bảo hành lí đã thu xếp gọn gàng đâu vào đấy cả rồi, đồ gỗ không tiện chuyên chở cũng bán được một ít rồi, nhưng tiền chưa thu vén được đủ.
Mẹ tôi nói:
– Con hãy nghỉ ngơi vài hôm, đi thăm các nhà bà con một chút rồi mẹ con mình lên đường.
– Vâng.
– Có anh Nhuận Thổ lần nào đến chơi cũng nhắc đến con và rất mong có ngày được gặp con. Mẹ đã nhắn tin cho anh ấy biết chừng ngày nào con về. Có lẽ anh ấy cũng sắp đến thôi.
Lúc bấy giờ, trong kí ức tôi bỗng hiện ra một cảnh tượng thần tiên, kỳ dị: Một vầng trăng tròn vàng thắm treo lửng lơ trên nền trời xanh đậm, dưới là một bãi cát bên bờ biển, trồng toàn dưa hấu, bát ngát một màu xanh rờn. Giữa ruộng dưa, một đứa bé trạc mười một, mười hai tuổi, cổ đeo vòng bạc, tay lăm lăm cầm chiếc đinh ba, đang cố sức đâm theo một con tra. Con vật bỗng quay lại, luồn qua háng đứa bé, chạy mất.
Đứa bé ấy chính là Nhuận Thổ. Khi tôi quen Nhuận Thổ cách đây khoảng chừng hai mươi năm, Nhuận Thổ chỉ độ lên mười. Lúc đó thầy tôi hãy còn, cảnh nhà sung túc, tôi đàng hoàng là một cậu ấm. Năm ấy là năm đến lượt nhà tôi lo giỗ tổ. Nghe nói thì cứ hơn ba mươi năm mới đến lượt lo giỗ này một lần, cho nên rất linh đình. Giỗ vào tháng giêng, lễ vật rất nhiều, các đồ tế rất sang, người đến lễ cũng rất đông, vì thế phải đề phòng mất cắp. Nhà tôi chỉ nuôi một người ở tháng (địa phương tôi, người đi làm thuê chia làm ba hạng, ở năm gọi là “trường niên”, làm thuê từng ngày gọi là “đoản công”, nhà mình cũng có cày, chỉ giỗ tết, hay vụ thu tô, đến làm mướn cho người ta thì gọi là “ở tháng”). Người ở bận quá, làm không hết việc, liền xin thầy tôi cho gọi thằng con là Nhuận Thổ đến để nó trông coi các thứ đồ tế cho.
Thầy tôi bằng lòng. Tôi cũng rất thích vì đã có nghe nói đến Nhuận Thổ, lại biết Nhuận Thổ với tôi cũng suýt soát bằng nhau. Hắn sinh tháng nhuận, ngũ hành khuyết thổ nên bố hắn đặt tên là Nhuận Thổ. Hắn bẫy chim sẻ thì tài lắm.
Thế là ngày nào tôi cũng mong cho mau đến năm mới. Năm mới đến thì Nhuận Thổ cũng đến mà! Chờ mãi mới hết năm. Một hôm, mẹ tôi bảo: “Thằng Nhuận Thổ đến rồi đấy!”. Tôi liền chạy ra xem. Hắn đang đứng trong bếp, khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bé tẹo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng. Đủ biết bố hắn quý hắn như thế nào: Sợ hắn khó nuôi, bố hắn đã nguyện trước thần phật làm vòng xích, xích lại. Hắn thấy ai là bẽn lẽn, chỉ không bẽn lẽn với một mình tôi thôi. Khi vắng người, hắn mới nói chuyện với tôi. Thế là chưa đầy nửa ngày, chúng tôi đã thân nhau. Không biết bấy giờ chúng tôi nói với nhau những gì, chỉ nhớ rằng Nhuận Thổ thích chí lắm. Hắn bảo lên tỉnh hắn mới được trông thấy những điều hắn chưa bao giờ trông thấy cả.
Hôm sau, tôi rủ hắn bẫy chim. Hắn nói:
– Không được đâu! Phải chờ tuyết xuống cho nhiều đã. Làng em toàn đất cát, hễ tuyết xuống là em quyết lấy một khoảng đất trống, dùng một cái que ngắn chống một cái nong lớn, rắc ít lúa lép, thấy chim tước xuống ăn, đứng đằng xa giật mạnh sợi dây buộc vào cái que, thế là chim bị chụp vào nong hết. Thứ nào cũng có: sẻ đồng, chào mào, “bột cô”, sẻ xanh lưng.
Thế là tôi lại càng chờ ngày tuyết xuống.
Nhuận Thổ lại nói:
– Bây giờ trời đang rét lắm. Đến mùa hè, anh xuống nhà em chơi. Ban ngày, chúng mình ra biển nhặt vỏ sò, màu đỏ có, màu xanh có, đủ cả. Có cả sò “mặt quỷ”, sò “tay phật”. Tối đến, em và thầy em đi canh dưa thì anh cũng đi…
– Canh trộm à?
– Không phải. Ở làng em, người đi qua đường khát nước hái một quả dưa ăn, không kể là lấy trộm. Canh là canh lợn rừng, nhím, tra. Này nhé! Sáng trăng. Có tiếng sột soạt. Tra đang ngốn dưa đấy! Thế là cầm đinh ba khe khẽ tiến lên…
Hồi đó và cho cả đến bây giờ nữa, tôi vẫn chưa biết con tra là con gì. Chẳng căn cứ vào đâu, tôi cứ tưởng tượng hình thù nó như con chó con nhưng dữ tợn hơn.
– Nó không cắn à?
– Đã có đinh ba rồi. Tiến lên gần, thấy tra là đâm ngay. Giống ấy tinh khôn lắm. Nó quay lại, đâm thẳng về phía mình rồi luồn qua háng mình biến mất. Lông, da nó trơn như mỡ.
Tôi chưa hề biết trên đời này lại có những chuyện mới lạ như vậy: bên bờ biển có những vỏ sò đủ màu sắc như thế kia, và có được quả dưa hấu ăn cũng phải trải qua bao nhiêu là nguy hiểm. Trước đây tôi chỉ biết quả dưa hấu bán ở hàng hoa quả mà thôi!
– Ở đất cát chúng em, lúc thuỷ triều dâng lên, có nhiều những con “cá nhảy”, cứ nhảy lung tung, hai chân như chân nhái.
Trời! Nhuận Thổ hẳn biết nhiều chuyện lạ lùng lắm, kể không xiết! Những chuyện đó, bạn bè tôi từ trước đến nay, không ai biết cả. Chúng nó không biết là vì trong khi Nhuận Thổ sống bên bờ biển thì chúng nó, cũng như tôi, chỉ nhìn một mảnh trời vuông trên bốn bức tường cao bao bọc lấy cái sân mà thôi!
Nhưng tiếc thay, đã hết tháng giêng. Nhuận Thổ phải về quê hắn. Lòng tôi xốn xang, tôi khóc to lên. Hắn lẩn trong bếp, cũng khóc mà không chịu về. Nhưng rồi bố hắn cũng lôi hắn đi. Sau đó, hắn có nhờ bố hắn mang lên cho tôi một bọc vỏ sò và mấy thứ lông chim rất đẹp. Tôi cũng có vài lần gửi cho hắn ít quà. Nhưng từ đấy chúng tôi không hề gặp mặt nhau nữa.
Bây giờ mẹ tôi nhắc đến Nhuận Thổ, ký ức tôi bỗng như bừng sáng lên trong chốc lát. Tôi cảm thấy tựa hồ tôi đã tìm ra được quê hương tôi đẹp ở chỗ nào rồi. Tôi trả lời mẹ tôi:
– Thế thì hay quá! Anh ta… ra sao?
– Anh ta ấy à? Tình cảnh cũng chẳng ra gì. – Mẹ tôi vừa nói vừa nhìn ra phía ngoài. – Mấy người kia lại đến! Nói mua đồ gỗ nhưng cứ tiện tay mang bừa đi, mẹ phải ra xem sao.
Mẹ tôi đứng dậy, đi ra. Ngoài cửa có tiếng đàn bà đang hỏi chuyện. Tôi gọi cháu Hoàng đến gần, hỏi vớ vẩn: hỏi nó đã biết viết chưa, có thích đi xa không.
– Chúng ta có đi tàu hoả không bác?
– Có, chúng ta đi tàu hoả.
– Thế có đi thuyền không bác?
– Có, đi thuyền trước…
Bỗng có tiếng ai lạ, the thé nói to lên:
– Thế này rồi kia à! Râu mọc dài thế này rồi kia à?
Tôi giật mình, vội ngẩng đầu lên thì trông thấy một người đàn bà, trên dưới năm mươi tuổi, lưỡng quyền nhô ra, môi mỏng dính, hai tay chống nạnh, không buộc thắt lưng, chân đứng dạng ra, giống hệt cái com-pa trong bộ đồ vẽ, có hai chân bé tí.
Tôi rất lấy làm ngạc nhiên.
– Không nhận ra à! Ngày bé tôi vẫn bế anh đấy!
Tôi lại càng ngạc nhiên hơn. May mà lúc đó mẹ tôi bước vào, đỡ lời cho:
– Cháu nó đi xa lâu ngày thành ra quên hết cả. Con nhớ nhá!
Rồi ngoảnh về phía tôi nói:
– Đây là thím Hai Dương ở xế cửa nhà ta đây mà! Thím mở hàng bán đậu phụ.
A! Nhớ ra rồi. Hồi tôi còn bé, quả có một chị Hai Dương vẫn ngồi trong quán bán đậu phụ xế cửa nhà tôi, người ta gọi chị là “nàng Tây Thi đậu phụ”. Nhưng hồi đó, chị xoa phấn, lưỡng quyền không cao như thế này, môi cũng không mỏng như bây giờ. Và chị cứ ngồi suốt buổi nên tôi cũng chưa hề được nhìn thấy cái dáng điệu “com-pa” của chị.
Hồi đó người ta nói, sở dĩ hàng đậu phụ bán chạy là vì có chị ta. Song có lẽ vì tôi không cùng lứa tuổi với chị, cũng chưa bao giờ bị chị làm cho đắm đuối, nên mới quên bẵng đi. Nhưng cái “com-pa” kia lấy làm bất bình lắm, tỏ vẻ khinh bỉ, cười kháy tôi như cười kháy một người Pháp không biết đến Nã Phá Luân, một người Mỹ không biết đến Hoa Thịnh Đốn vậy! Rồi nói:
– Quên à! Phải, bây giờ cao sang rồi thì để ý đâu đến bọn chúng tôi nữa!
Tôi hoảng hốt, đứng dậy nói:
– Đâu có phải thế! Tôi…
– Thế thì tôi nói anh nghe nhé! Anh Tấn này! Anh bây giờ sang trọng rồi, còn cần quái gì các thứ đồ gỗ hư hỏng này nữa. Chuyên chở lại lịch kịch lắm. Cho chúng tôi khuân đi thôi. Chúng tôi nhà nghèo dùng được tất.
– Có gì đâu mà sang trọng! Chúng tôi cần phải bán các thứ này đi để…
– Ái chà! Anh bây giờ làm quan rồi mà bảo là không sang trọng? Những ba nàng hầu. Mỗi lần đi đâu là ngồi kiệu lớn tám người khiêng, còn bảo là không sang trọng? Hừ! Chẳng cái gì giấu nổi chúng tôi đâu!
Tôi biết không thể nói làm sao được đành ngậm miệng, đứng trầm ngâm.
– Ôi dào! Thật là càng giàu có càng không dám rời một đồng xu! Càng không dám rời đồng xu lại càng giàu có!
Mụ “com-pa” tức giận, miệng lẩm bẩm, quay gót thong thả đi ra, tiện tay giật luôn đôi bít tất tay của mẹ tôi giắt vào lưng quần, cút thẳng.
Sau đó, lại có mấy người bà con hàng xóm và mấy người thân thuộc đến thăm. Tôi vừa tiếp khách vừa tìm chút thì giờ rảnh sửa soạn hành lý. Như thế mất ba bốn ngày.
Một hôm, trời rét lắm. Quá trưa, tôi vừa ăn cơm xong, đang ngồi uống trà, bỗng nghe như có tiếng ai ở ngoài đi vào. Ngoảnh ra xem tôi ngạc nhiên vô cùng vội vàng đứng dậy ra đón.
Người đi vào là Nhuận Thổ. Tuy tôi nhận ra ngay là Nhuận Thổ, nhưng lại không phải là Nhuận Thổ trong kí ức của tôi. Anh cao gấp hai trước, khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật trước kia nay đổi thành vàng sạm, lại có thêm những nếp răn sâu hoắm. Cặp mắt giống hệt cặp mắt bố anh ngày trước, mi mắt viền đỏ húp mọng lên. Tôi không lấy làm lạ, ở miền biển, gió thổi suốt ngày, đại để ai cũng thế cả. Anh đội một cái mũ lông chiên rách tươm, mặc một chiếc áo bông mỏng dính, người co ro cúm rúm, tay cầm một bọc giấy và một tẩu thuốc lá dài.
Bàn tay này không phải là bàn tay tôi còn nhớ, hồng hào, lanh lẹn, mập mạp, cứng rắn, mà vừa thô kệch vừa nặng nề, nứt nẻ như vỏ cây thông.
Lúc bấy giờ tôi mừng rỡ vô cùng, nhưng chưa biết nói thế nào cho phải, đành chỉ hỏi:
– À anh Nhuận Thổ, anh đã đến đấy à!
Tôi còn có rất nhiều chuyện để nói tiếp, tưởng chừng có thể tuôn ra như nước chảy “nào là chim chào mào, nào là cá nhảy, vỏ sò, tra…” nhưng không biết hình như có cái gì chẹn lại, chỉ loanh quanh trong đầu óc, không thốt ra thành lời được.
Nhuận Thổ đứng dừng lại, nét mặt vừa hớn hở vừa thê lương, môi mấp máy, nhưng cũng nói không ra tiếng. Rồi bỗng anh lấy một dáng điệu cung kính, chào rất rành mạch:
– Bẩm ông!
Tôi như điếng người đi. Thôi đúng rồi! Giữa chúng tôi có một bức tường khá dày ngăn cách. Thật là bi đát. Tôi cũng nói không nên lời.
Anh ta ngoảnh đầu lại gọi:
– Thuỷ Sinh. Con không lạy ông đi kìa!
Anh liền kéo đứa bé nấp sau lưng anh ra. Trông nó giống hệt anh hai mươi năm về trước, chỉ có điều vàng vọt, gầy còm hơn một tí, và cổ không đeo vòng bạc mà thôi.
– Thưa, đây là cháu thứ năm đấy ạ! Chưa đi đâu bao giờ, cứ thấy ai là lẩn tránh…
Mẹ tôi và cháu Hoàng chừng đã nghe thấy tiếng từ trên gác đi xuống.
Anh Nhuận Thổ nói:
– Lạy cụ ạ! Thư cụ con đã nhận được, biết ông có về chơi, thật mừng quá!
Mẹ tôi vui vẻ nói:
– Ấy, sao lại khách tình thế! Chẳng phải là trước kia, vẫn gọi nhau bằng anh em cơ mà? Cứ gọi anh Tấn như trước kia thôi!
– Ái chà! Cụ thật là… Như thế thì còn ra thể thống nào nữa. Hồi đó, còn nhỏ dại, chưa hiểu…
Anh Nhuận Thổ vừa nói vừa gọi Thuỷ Sinh lại chào, nhưng thằng bé bẽn lẽn, bám sát vào lưng bố.
Mẹ tôi nói:
– Cháu Thuỷ Sinh đấy à? Cháu thứ năm phải không nhỉ? Toàn là người lạ, chả trách rụt rè là phải. Hoàng đâu, dẫn em ra chơi đi!
Hoàng nghe nói liền gọi Thuỷ Sinh. Thuỷ Sinh nhẹ nhàng khoan khoái cùng Hoàng đi ra. Mẹ tôi bảo Nhuận Thổ ngồi. Anh ngập ngừng một lát rồi cũng ngồi xuống, để cái tẩu thuốc dựa vào mé bàn, đưa cái giấy ra nói:
– Ngày đông tháng giá, chẳng có gì. Đây chỉ là ít đậu xanh của nhà phơi khô, xin ông…
Tôi hỏi thăm gia đình anh. Anh chỉ lắc đầu:
– Bẩm, vất vả lắm! Cháu thứ sáu cũng đã giúp được việc, nhưng nhà vẫn không đủ ăn, lại có được sống yên ổn đâu!… Chỗ nào cũng hỏi tiền, chẳng có luật lệ gì cả. Mùa lại mất. Trồng được gì là gánh đi bán tất. Chỉ đóng góp vài lần là cụt vốn rồi. Không đem bán thì lại thối mục hết.
Anh cứ lắc đầu. Những nếp răn khắc sâu trên mặt anh tuyệt nhiên không động đậy. Trông anh phảng phất như một pho tượng đá. Có lẽ anh chỉ cảm thấy khổ nhưng không nói ra được hết, ngồi trầm ngâm một lúc, rồi cầm lấy dọc tẩu, lặng lẽ hút thuốc.
Mẹ tôi hỏi chuyện anh, biết nhà anh bận lắm việc, ngày mai phải về, lại chưa ăn cơm trưa, liền bảo anh xuống bếp rang cơm ăn.
Anh đi ra. Mẹ tôi và tôi đều than thở, buồn cho cảnh nhà anh: con đông, mùa mất, thuế nặng, lính tráng, trộm cướp, quan lại, thân hào đày đọa thân anh khiến anh trở thành đần độn, mụ mẫm đi! Mẹ tôi bàn với tôi:
– Cái gì không cần chở đi thì cho anh ta hết. Cứ để cho tuỳ ý chọn, cái nào lấy thì lấy.
Đến chiều anh chọn xong mấy thứ: một đôi bàn dài, bốn chiếc ghế dựa, một bộ tam sự và một cái cân. Anh lại xin tất cả các đống tro (ở quê tôi, người ta nấu bằng rơm, rạ, tro có thể dùng bón ruộng), chờ khi nào chúng tôi lên đường là đem thuyền đến chở.
Đêm đến, chúng tôi có nói vài ba câu chuyện phiếm, toàn là những chuyện chẳng quan trọng gì. Sáng hôm sau, Thuỷ Sinh về. Chín ngày sau, chúng tôi lên đường. Sáng sớm, Nhuận Thổ đã đến rồi. Thuỷ Sinh không đi theo. Anh chỉ đem theo một đứa cháu gái năm tuổi để trông thuyền. Chúng tôi bận rộn suốt ngày, không có thì giờ trò chuyện. Khách khứa cũng nhiều. Kẻ đến đưa chân, người đến lấy đồ đạc. Có kẻ vừa đưa chân vừa lấy đồ đạc. Gần tối, chúng tôi xuống thuyền thì tất cả đồ đạc trong ngôi nhà cũ, hư hỏng, to nhỏ, xấu tốt đều mang đi sạch trơn như quét.
Thuyền chúng tôi thẳng tiến. Trong hoàng hôn, những dãy núi xanh hai bên bờ sông đen sẫm lại, nối tiếp nhau chạy lùi về phía sau lái.
Tôi và cháu Hoàng ngồi tựa cửa thuyền, cũng nhìn phong cảnh mờ ảo bên ngoài. Bỗng cháu Hoàng hỏi:
– Bác này! Lúc nào chúng ta lại trở về nhỉ?
– Trở về? Sao cháu chưa đi đã nghĩ đến chuyện trở về?
– Nhưng mà thằng Thuỷ Sinh nó hẹn cháu đến nhà nó chơi cơ mà!
Hoàng giương to đôi mắt đen nháy nhìn tôi, ngây người suy nghĩ.
Tôi và mẹ tôi cũng đều có ý buồn, thế là lại nhắc đến Nhuận Thổ. Mẹ tôi nói:
– Cái chị Hai Dương, nàng “Tây Thi đậu phụ” ấy mà! Từ khi nhà ta bắt đầu sửa soạn hành lý, chẳng ngày nào là chị ta không đến. Hôm trước, chị ta đứng cạnh đống tro, moi ra hơn mười chiếc, cả bát lẫn đĩa, bàn tán một hồi rồi nói quyết rằng Nhuận Thổ vùi vào đấy để khi nào xúc tro là mang đi luôn. Chị ta khám phá ra việc đó, tự cho mình là có công, liền lấy ngay cái “cẩu khí sát” (một dụng cụ ở quê tôi người ta dùng nuôi gà làm bằng một tấm ván, trên có song song, trong đựng thức ăn, gà chỉ việc thò cổ vào mổ còn chó thì đứng nhìn, chịu chết), rồi chạy biến. Tuy chị ta lùn và chân bé tí tẹo thế mà cũng nhanh đáo để!
Ngôi nhà cũ xa dần, phong cảnh làng cũ cũng mờ dần, nhưng lòng tôi không chút lưu luyến. Tôi chỉ cảm thấy chung quanh tôi là bốn bức tường vô hình, nhưng rất cao, làm cho tôi vô cùng lẻ loi, ngột ngạt. Hình ảnh đứa trẻ oai hùng, cổ đeo vòng bạc, đứng giữa ruộng dưa hấu, tôi vốn nhớ rõ lắm, nhưng bây giờ bỗng nhiên cũng mờ nhạt đi, khiến tôi lại càng thêm ảo não.
Mẹ tôi và cháu Hoàng đã ngủ rồi.
Tôi nằm xuống, nghe nước róc rách vỗ vào mạn thuyền, biết là tôi đang đi theo con đường của tôi. Tôi nghĩ bụng: tôi và Nhuận Thổ, tuy cách bức đến như thế này, nhưng con cháu chúng tôi vẫn còn thân thiết với nhau. Chẳng phải là cháu Hoàng đang mơ tưởng nhớ đến Thuỷ Sinh đó ư? Tôi mong ước chúng nó sẽ không giống chúng tôi, không bao giờ phải cách bức nhau cả… Nhưng tôi cũng không muốn chúng nó vì thân thiết với nhau mà phải vất vả, chạy vạy như tôi, cũng không muốn chúng nó phải khốn khổ mà đần độn như Nhuận Thổ; cũng không muốn chúng nó phải khốn khổ mà tàn nhẫn như bao nhiêu người khác. Chúng nó cần phải sống một cuộc đời mới, một cuộc đời mà chúng tôi chưa từng được sống.
Tôi nghĩ đến những niềm hy vọng, bỗng nhiên hoảng sợ. Khi Nhuận Thổ xin chiếc lư hương và đôi đèn nến, tôi cười thầm, cho rằng anh ta lúc nào cũng không quên sùng bái tượng gỗ.
Nhưng bây giờ, điều tôi đang gọi là hy vọng đây, biết đâu không phải là một thứ tượng gỗ tự tay tôi chế tạo ra? Có khác chăng là những điều anh ta mong ước thì gần gũi, còn những điều tôi mong ước thì xa vời đó thôi. Tôi đang mơ màng thì trước mặt tôi hiện ra cảnh tượng một cánh đồng cát, màu xanh biếc, cạnh bờ biển, trên vòm trời xanh đậm, treo lơ lửng một vừng trăng tròn vàng thắm. Tôi nghĩ bụng: Đã gọi là hy vọng thì không thể nói đâu là thực, đâu là hư. Cũng giống như những con đường trên mặt đất; kì thực trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi.
Xem thêm bài viết đầy đủ 💌 Chiếc Lược Ngà 💌 Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích
Tóm Tắt Cố Hương
Chia sẻ bạn đọc bản tóm tắt Cố hương ngắn gọn.
Với chuyến về quê cuối cùng để dọn nhà đi nơi khác làm ăn sinh sống, nhân vật tôi đau xót nhận ra những thay đổi ghê gớm của làng quê. Từ đó, nhân vật tôi đã lật xới lên những vấn đề bức xúc của xã hội Trung Hoa bấy giờ. Ông chỉ cho mọi người thấy xã hội phân chia giai cấp là do con người tạo ra.
Để không còn thảm cảnh ấy nữa nhất thiết phải xây dựng một xã hội mới, trong đó con người với con người là bình đẳng. Khi cùng gia đình tạm biệt làng quê cũ, nhân vật tôi hi vọng mọi người sẽ có một tương lai tươi sáng hơn.
Về Nhà Văn Lỗ Tấn
Sau đây là một vài thông tin về nhà văn Lỗ Tấn.
- Lỗ Tấn (1881 – 1936) là nhà văn nổi tiếng của Trung Quốc, lúc nhỏ tên là Chu Trương Thọ, tên chữ là Dự Tài, sau đổi tên là Chu Thụ Nhân.
- Quê ở phủ Thiệu Hưng, tỉnh Triết Giang (Trung Quốc).
- Ông sinh trưởng trong một gia đình quan lại sa sút, mẹ xuất thân nông dân nên từ nhỏ ông đã có nhiều cơ hội tiếp xúc với đời sống nông thôn.
- Lúc đầu, ông nghĩ rằng sức mạnh của khoa học, kĩ thuật có thể cứu được đất nước nên ông lần lượt theo học ngành hàng hải, địa chất rồi y học.
- Nhưng rồi nhận ra khoa học không thể làm thay đổi được xã hội một cách triệt để, ông quyết định từ bỏ ngành y, chuyển sang hoạt động văn học vì nghĩ rằng văn học là vũ khí lợi hại để “biến đổi tinh thần” dân chúng đang ở tình trạng “ngu muội” và “hèn nhát”.
- Các tác phẩm của ông gồm có: 17 tập tạp văn và hai tập truyện ngắn “Gào thét” (1923) và “Bàng hoàng” (1926).
Xem thêm về phân tích ⚡ Lặng Lẽ Sa Pa ⚡ Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích
Xuất Xứ Và Hoàn Cảnh Sáng Tác Cố Hương
Tiết lộ cho bạn đọc xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác Cố hương.
- Cố hương là một trong những truyện ngắn tiêu biểu của tập Gào thét.
- Đây là một truyện ngắn có tính chất hồi ký.
Cập nhật thêm cho bạn đọc 💚 Làng [Kim Lân] 💚 Sơ đồ tư duy, phân tích hay nhất
Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm Cố Hương
Ý nghĩa nhan đề tác phẩm Cố hương như sau.
Cố hương nghĩa là quê cũ. Thế nhưng người dịch không để nhan đề là quê cũ mà vẫn giữ nguyên cố hương một cái tên nghe khá “cổ” – để nhấn mạnh vào cái cũ, gợi về xã hội nông thôn cũ trước kia, đồng thời đây là cái tên mang đậm màu sắc trữ tình, thể hiện tình cảm của “tôi” với cố hương.
Bố Cục Tác Phẩm Cố Hương
Bố cục tác phẩm Cố hương bao gồm 3 phần:
- Phần 1. Từ đầu đến “đem gia đình đến nơi đất khách tôi đang làm ăn, sinh sống”. Nhân vật tôi trên đường về thăm quê.
- Phần 2. Tiếp theo đến “tất cả đồ đạc trong ngôi nhà cũ, hư hỏng, to nhỏ, xấu tốt đều mang đi sạch trơn như quét”. Nhân vật tôi trong những ngày ở quê.
- Phần 3. Còn lại. Nhân vật tôi khi rời xa quê.
Khám phá thêm tác phẩm 🍀 Tôi Có Một Giấc Mơ 🍀 Sơ Đồ Tư Duy, Các Mẫu Phân Tích
Đọc Hiểu Tác Phẩm Cố Hương
Cập nhật thêm về nội dung đọc hiểu tác phẩm Cố hương.
1. Nhân vật tôi trên đường về thăm quê
– Hoàn cảnh: Thời tiết mùa đông lạnh giá, tôi trở về quê sau hơn 20 năm xa cách – cũng là lần cuối cùng về thăm quê.
– Mục đích: Tù giã quê hương lần cuối, đưa gia đình đến nơi mình đang làm ăn, sinh sống.
– Không gian trên đường trở về quê: trời u ám, gió lạnh lùa vào khoang thuyền, thôn xóm tiêu điều và hoang vắng.
– Cảm xúc của tôi khi nhìn thấy hình ảnh làng quê từ xa: đau lòng, xót xa trước sự thay đổi của làng quê.
2. Nhân vật tôi trong những ngày ở quê
– Khung cảnh làng quê ở cảm nhận của “Tôi”:
- Sáng sớm tinh mơ, trên mái ngói, mấy cọng tranh khô phất phơ trước gió.
- Các gia đình khác đã dọn đi dần hết, bỏ lại làng quê tiêu điều.
– Con người trong khung cảnh thiên nhiên:
- Người mẹ của tôi: mừng rỡ ra đón, nhưng nét mặt vẫn ẩn một nỗi buồn thầm kín – nỗi buồn của một người sắp từ giã nơi mình sinh ra, lớn lên và gắn bó.
- Cháu Hoàng: chưa gặp “tôi” bao giờ, chỉ dám đứng từ đằng xa, nhìn nhân vật “tôi” chòng chọc.
- Chị Hai Dương: – “nàng Tây Thi đậu phụ” là một người phụ nữ duyên dáng, trước đây được mọi người yêu quý, sau nhiều năm trở thành một người phụ nữ xấu cả ngoại hình lẫn tính cách.
- Nhuận Thổ: Không còn là một cậu bé khỏe mạnh, lanh lợi tháo vát, hiểu biết nhiều điều thú vị nữa. Mà trở thành một anh nông dân nghèo khổ, đần độn, mụ mẫm và cam chịu số phận.
- Thủy Sinh: là một cậu bé giống hệt bố mình, nhút nhát chỉ biết núp sau lưng bố, so với Nhuận Thổ hai mươi năm về trước “gầy còm, vàng vọt, cổ không đeo vòng bạc”.
=> Nguyên nhân của sự thay đổi: Sự thay đổi này là do cách sống lạc hậu của người nông dân trước hiện thực đen tối của xã hội phong kiến đang dần suy tàn.
3. Nhân vật tôi khi rời xa quê
– Hoàn cảnh: chiều hoàng hôn, những dãy núi xanh hai bên bờ sông đen sẫm lại, nối tiếp nhau chạy lùi về phía sau lái.
– Hành động của nhân vật “tôi”: cùng với cháu Hoàng ngồi tựa của thuyền, cùng nhìn phong cảnh mờ ảo bên ngoài.
– Tâm trạng của nhân vật tôi: buồn bã, cảm thấy lẻ loi và ngột ngạt.
– Suy nghĩ của nhân vật “tôi”:
- Nghĩ về tình bạn của cháu Hoàng và Thủy Sinh.
- Mong ước chúng không phải sống một cuộc sống khốn khổ mà tàn nhẫn như bao nhiêu người khác.
=> Hình ảnh con đường:
- Theo nghĩa đen: con đường mà cả “tôi” và gia đình đang đi
- Theo nghĩa bóng: Con đường cho cả dân tộc Trung Hoa – con đường để xây dựng, đổi mới đất nước.
Giá Trị Truyện Ngắn Cố Hương
Đừng bỏ lỡ những giá trị truyện ngắn Cố hương sau đây.
Giá trị nội dung
- Truyện ngắn phản ánh tình cảnh sa sút về mọi mặt của XH TQ đầu TK XX đồng thời phê phán và hi vọng của tác giả trên cơ sở tình yêu quê hương và nhân dân là cơ sở tư tưởng của tác phẩm.
- Đồng thời đặt ra vấn đề đường đi của người nông dân, của toàn xã hội để mọi người suy ngẫm.
Giá trị nghệ thuật
- Bố cục chặt chẽ, cách sử dụng sinh động những thủ pháp nghệ thuật : hồi ức, hiện tại, đối chiếu, đầu cuối tương ứng.
- Nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật độc đáo góp phần khắc hoạ tính cách nhân vật và chủ đề tác phẩm.
- Kết hợp tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận.
- Sáng tạo hình ảnh biểu tượng giàu ý nghĩa triết lý
Chia sẻ cho bạn đọc 🌷 Chị Em Thúy Kiều 🌷 phân tích đầy đủ nhất
Soạn Bài Cố Hương
Tham khảo gợi ý soạn bài Cố hương sau đây nhé.
👉Câu 1 (trang 218 SGK Ngữ văn 9 Tập 1)
Tìm bố cục của truyện
Lời giải chi tiết:
Bố cục của truyện gồm 3 phần:
– Phần 1 (Từ đầu đến “đang làm ăn sinh sống”): “Tôi” trên đường về quê.
– Phần 2 (“Tinh mơ sáng hôm sau….sạch trơn như quét”): “Tôi” ở quê.
– Phần 3 (còn lại): “Tôi” trên đường xa quê.
👉Câu 2 (trang 218 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
– Các nhân vật : Người mẹ, nhân vật tôi, cháu Hoàng, Nhuận Thổ, thím Hai Dương, Thủy Sinh.
– Nhân vật chính : Nhân vật tôi và Nhuận Thổ.
– Nhân vật trung tâm : nhân vật Nhuận Thổ, bởi vì thông qua nhân vật này nhà văn thể hiện mọi sự thay đổi của làng quê.
👉Câu 3 (trang 218 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
– Nghệ thuật làm nổi bật sự thay đổi của nhân vật Nhuận Thổ : So sánh tương phản quá khứ và hiện tại : cậu bé nhanh nhẹn, thông minh, tiểu anh hùng – cố nông già nua, nghèo khó, đông con.
– Ngoài sự thay đổi của Nhuận Thổ tác giả còn nói đến sự sa sút về kinh tế, tình cảnh đói nghèo của nhân dân do nạn tham nhũng nặng nề, sự thay đổi về diện mạo tinh thần thể hiện qua tính cách của thím Hai Dương, Nhuận Thổ.
– Tác giả thể hiện thái độ thất vọng buồn bã trước sự thay đổi của con người và cảnh vật. Nỗi băn khoăn, day dứt về một sự thay đổi, khát khao tới xã hội tốt đẹp.
👉Câu 4 (trang 218 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
– Đoạn a : Chủ yếu tự sự kết hợp biểu cảm làm nổi bật quan hệ gắn bó giữa hai người bạn thời thơ ấu.
– Đoạn b : Chủ yếu miêu tả kết hợp với hồi ức và đối chiếu làm nổi bật sự thay đổi về mặt ngoại hình của Nhuận Thổ qua đó thấy được tình cảnh sống điêu đứng của Nhuận Thổ và nông dân miền biển nói chung.
– Đoạn c : Chủ yếu lập luận, tác giả thể hiện những suy nghĩ của mình về cuộc sống.
Nhất định đừng bỏ lỡ tác phẩm ✨ Truyện Kiều [Nguyễn Du] ✨ Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật
Giáo Án Cố Hương
Ngay sau đây là nội dung giáo án Cố hương.
I. Mục tiêu bài học
– Thông qua bài học giúp học sinh hiểu đuợc:
1. Kiến thức
– Những đóng góp của Lỗ Tấn vào nền văn hóa Trung Quốc và văn hóa nhân loại.
– Tinh thần phê phán sâu sắc xh cũ và niềm tin vào sự xuất hiện tất yếu của cuộc sống mới, con người mới.
– Màu sắc trữ tình đậm đà trong tác phẩm.
– Những sáng tạo về nghệ thuật của nhà văn Lỗ Tấn trong truyện Cố hương
2. Kĩ năng
– Rèn cho học sinh kĩ năng đọc -hiểu vb truyện hiện đại nước ngoài.
– Vận dụng kiến thức về thể loại và sự kết hợp các phương thức biểu đạt trong tác phẩm tự sự để cảm nhận 1 vb truyện hiện đại.
– Kể và tóm tắt được truyện.
3. Thái độ
– Có t/cảm trong sáng, có tinh thần phê phán sâu sắc, tình yêu quê hương.
II. Chuẩn bị tài liệu
1. Giáo viên
+ Soạn bài đọc tài liệu nghiên cứu bài, đọc chuẩn kiến thức kĩ năng.
2. Học sinh
+ Đọc trước bài, chuẩn bị bài: đọc, tóm tắt,trả lời các câu hỏi đọc hiểu.
III. Tiến trình tổ chức dạy học
1. Ổn định tổ chức
* Kiểm diện: Sĩ số
2. Kiểm tra
– GV kiểm tra việc chuẩn bị bài của học sinh.
– Tóm tắt ngắn gọn truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng
Qua tất cả những cử chỉ, lời nói của bé Thu trong những ngày ông Sáu ở nhà và ngày ông Sáu ra đi, trong cảm nhận của em Thu là một em bé như thế nào?
3. Bài mới
– Sau nhiều năm đi xa, khi nhân vật tôi trong truyện Cố hương của nhà văn Lỗ Tấn trở lại quê nhà, tuy không đến nỗi bẽ bàng như nhà thơ họ Hạ nhưng cũng bùi ngùi 1 nỗi buồn tê tái vì cảnh quê, người quê. Và tâm trạng người về thăm quê lần cuối cùng không chỉ có thế. Để hiểu được nội dung và tâm trạng của nhà thơ chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu bài học hôm nay để làm rõ hơn điều đó
Hoạt động của GV và HS | Kiến thức cần đạt |
---|---|
HĐ1. HDHS đọc và tìm hiểu chú thích: – Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc bài. Giọng châm, buồn, bùi ngùi, giọng ấp úng của nhân vật Nhuận Thổ, giọng chao chát của thím Hai Dương H: Hãy tóm tắt ngắn gọn nội dung văn bản. | I. Đọc và tìm hiểu chú thích 1. Đọc – Tóm tắt: Sau hai mươi năm xa quê, nhân vật “tôi ” trở về thăm làng cũ. So với những ngày trước cảnh vật và con người thật tàn tạ, nghèo hèn.Mang nỗi buồn thương, nhân vật “tôi “rời cố hương ra đi với ước vọng cuộc sống làng quê mình sẽ được đổi thay. |
H: Giới thiệu ảnh Lỗ Tấn và Tuyển tập truyện ngắn Lỗ Tấn. H: Dựa vào phần giới thiệu ở SGK, em hãy giới thiệu về tgiả Lỗ Tấn? | 2. Tìm hiểu chú thích. a) Tác giả: – Lỗ Tấn (1881-1936) là nhà văn nổi tiếng của Trung Quốc, lúc nhỏ tên là Chu Chương Thọ, tên chữ là Dự Tài, sau đổi tên là Chu Thụ Nhân quê ở phủ Thiệu Hưng Tỉnh Chiết Giang – Sinh trưởng trong 1 gđình quan lại sa sút, từ lúc còn trẻ ông quyết tâm đi tìm con đường lập thân mới – Theo học nhiều ngành cuối cùng ông chuyển sang hoạt động văn học – Sự nghiệp sáng tác văn học đồ sộ và khá đa dạng: 17 tập tạp văn và 2 tập truyện ngắn xuất sắc nhất là “Gào thét”(1923) và “Bàng hoàng” (1926)- Ông là nhà tư tưởng, nhà văn hoá lớn có nhiều công trình nghiên cứu – Năm 1981 toàn TG đã kỉ niệm 100 năm ngày sinh Lỗ Tấn như 1 danh nhân văn hoá |
H: Em hãy giới thiệu nét cơ bản về tác phẩm Cố hương? – Giải thích từ khó SGK | b) Tác phẩm- Cố hương là 1 trong những truyện ngắn tiêu biểu của tập “Gào thét”(1923)c) Từ khó (SGK) |
HĐ2. HDHS đọc- hiểu văn bản: H: Truyện được kể ở ngôi thứ mấy?tác dụng của ngôi kể đó đối với văn bản? H: Trong vb tự sự này có sự kết hợp của các ptbđ nào? (TS + MT + BC + Lập luận) H: Trong đó ptbđ nào làm nổi bật tính trữ tình của vb này?( BC và lập luận) | II. Đọc- hiểu văn bản 1. Thể loại: truyện ngắn – Phương thức: Tự sự , miêu tả , biểu cảm và nghị luận. – Chọn ngôi kể thứ nhất làm tăng đậm chất trữ tình của truyện.(nhưng không đồng nhất “tôi” với tác giả ) |
H: Văn bản có bố cục mấy phần? Nêu ý mỗi phần. | 2. Bố cục: 3 đoạn – Đ1: từ đầu đến “tôi đang làm ăn sinh sống. Tình cảm và tâm trạng của “tôi” trên đường trở về quê cũ. – Đ2: đến”sạch trơn như quét”. Tình cảm và tâm trạng của “tôi “trong những ngày ở quê. – Đ3: còn lại :Tâm trạng và ý nghĩ của ” tôi “trên đường rời quê. |
H: Em hãy nhận xét về bố cục của văn bản? | ⇒ Bố cục đầu cuối tương ứng: Một con người đang suy tư trong 1 chiếc thuyền dưới bầu trời u ám về cố hương và cũng con người ấy đang suy tư trong 1 chiếc thuyền rời cố hương. – Cách kể theo trình tự thời gian, với sự thay đổi không gian, đan xen quá khứ với hiện tại =>kết cấu như vậy cũng góp phần làm nổi rõ chất trữ tình, biểu cảm, và triết lí trong dòng tự sự của truyện. |
H: Truyện gồm những nhân vật nào? nhân vật nào là nhân vật chính?? Nhân vật nào là nhân vật trung tâm? vì sao? | * Tuyến nhân vật – Truyện có 2 nhân vật chính là: Nhuận Thổ, và “tôi” – Hình tượng Nhuận Thổ có địa vị rất quan trọng , gần như mọi thay đổi của quê hương đều tập trung vào nhân vật này và tác động mạnh đến tư tưởng tình cảm của “tôi” – Nhân vật “tôi ” là nhân vật trung tâm vì Nhuận Thổ không phải là đầu mối của toàn bộ câu chuyện có qhệ với toàn bộ hệ thống nhân vật |
1. Theo dõi phần đầu văn bản, cho biết: H: Cảnh làng quê trong con mắt người trở về sau hai mươi năm xa cách đã hiện ra như thế nào? Đó là cảnh gì? H: Cảnh đó dự báo một cuộc sống như thế nào đang diễn ra nơi cố hương ? H: Trước cảnh ấy, tiếng nói nào vang lên trong nội tâm người trở về? H: Em đọc được cảm giác nào của nhân vật từ tiếng nói vọng nội tâm này? H: Từ đó, tình cảm nào của người trở về đối với cố hương được bộc lộ? (HS thảo luận các câu hỏi) H: Chuyến về quê lần này của nhân vật “tôi” có gì đặc biệt? H: Điều đó gợi liên tưởng đến hiện thực cuộc sống như thế nào ở cố hương? H: Từ đó, hình ảnh cố hương đă hiện lên như thế nào trong con mắt và tấm lòng người về thăm quê. | 3. Phân tích: a. Tình cảm tâm trạng nhân vật “tôi” trên đường trở về thăm quê cũ – Đang độ giữa đông; xa gần thấy thấp thoáng mấy thôn xóm tiêu điều , hoang vắng , nằm im lìm dưới vòm trời màu vàng úa-> Cảnh vật thê lương=> Cuộc sống tàn tạ, nghèo khổ. – A, đây thật có phải là làng cũ mà hai mươi năm trời nay tôi hằng ghi lấy hình ảnh trong kí ức không?->cảnh làng quê trong hồi ức đẹp hơn nhưng mờ nhạt không hình dung rõ nét =>Ngạc nhiên , không nén được,lòng se lại, chua xót⇒ Yêu quê đến độ xót xa cho sự nghèo khổ của làng quê mình. – Sau hơn hai mươi năm xa quê : ý định là để từ giã nó lần cuối cùng ; vĩnh biệt ngôi nhà yêu dấu và từ giã làng cũ thân yêu , đem gia đình đến nơi đất khách tôi đang làm ăn sinh sống . ⇒ Cuộc sống nơi quê ngày một nghèo khó khiến nhiều gia đình buộc phải rời làng đi nơi khác để tìm cách sinh sống⇒ Làng xóm tiêu điều, xơ xác. |
4. Củng cố – luyện tập
– Tình huống truyện ? Tâm trạng tôi trên đường về quê?
5. Hướng dẫn học sinh về nhà:
– Ôn tập lại các bài đã học.
– Chuẩn bị bài: “Cố hương” tiếp: Đọc ,tóm tắt văn bản và trả lời hệ thống câu hỏi đọc hiểu , nêu tình huống truyện .
Sơ Đồ Tư Duy Cố Hương
Chia sẻ cho bạn đọc các sơ đồ tư duy Cố hương.
Cập nhật cho bạn đọc 💚 Hoàng Lê Nhất Thống Chí 💚 Những Mẫu Phân Tích Hay Nhất
5 Mẫu Phân Tích Cố Hương Hay Nhất
Đừng vội bỏ lỡ 5 mẫu phân tích Cố hương hay nhất.
Phân Tích Cố Hương Ấn Tượng – Mẫu 1
Ai đã từng đọc Cố hương của Lỗ Tấn, chắc hẳn sẽ bị cuốn hút vào dòng cảm xúc của nhân vật tôi với bao kỉ niệm sống dậy mãnh liệt trong lần thăm quê cuối cùng. Quá khứ đẹp đẽ ấy đã đối mặt với thực tại đầy biến đổi đến bàng hoàng của quê hương tạo nên những khoảnh khắc diễn biến phức tạp thấm đượm nỗi xót xa của tôi trong tác phẩm.
Một câu chuyện cảm động có nhiều chi tiết từ chính cuộc đời của nhà văn nhưng điều chủ yếu nằm trong ý nghĩa tư tưởng lớn lao của tác phẩm: từ hiện tại buồn thương vẫn không tắt nguồn hi vọng vào tương lai, cùng niềm mong ước tốt đẹp về con đường cho những người dân thoát cảnh bần cùng đen tối.
Bối cảnh làng quê trong ngày trở lại của tôi thật buồn, với những chi tiết tô đậm cảm giác lạnh lẽo của khung cảnh mùa đông: “Gần về đến làng, trời lại càng u ám, Gió lạnh lùa vào khoang thuyền, vi vu. Nhìn qua các khe hở mui thuyền, thấy xa gần thấp thoáng mấy thôn xóm tiêu điều, hoang vắng, nằm im lìm dưới bầu trời màu vàng úa. Không nén được, lòng tôi se lại”.
Không gian ấy dường như dự báo cho một viễn cảnh ảm đạm về cuộc sống thực tại ở quê hương. Thực tế khác hẳn hình dung của một người hai mươi năm mới trở về làng cũ. Kỉ niệm bao giờ cũng lưu lại những hình ảnh đẹp trong tâm trí nhưng đôi khi thực tại lại gieo vào lòng người cảm giác choáng váng, gần như một nỗi thất vọng.
Tâm trạng buồn lại càng đậm nét hơn khi cuộc trở về này chỉ nhằm mục đích nói lời giã biệt. Còn gì buồn hơn khi phải rứt bỏ những hình ảnh đã từ lâu in hằn trong tâm trí ? Trở về làng cũ mà ngỡ như lạc lõng trước cảnh vật đổi khác.
Không gian u ám, hơi lạnh giữa đông như phụ trợ cho niềm cảm khái của con người. Có ai diễn tả nỗi niềm ấy thấm thía như Lỗ Tấn trong đoạn văn này: Làng cũ tôi đẹp hơn kia ! Nhưng phải nhớ rõ đẹp như thế nào, nói rõ đẹp ở chỗ nào thì thật không có hình ảnh ngôn ngữ nào diễn tả ra cho được.
Nói vậy có nghĩa là dù đã cách xa hai mươi năm, kí ức vẫn vẹn nguyên những vẻ đẹp của làng. Nỗi niềm li khách hiện lên ngay trong khoảnh khắc trở về. Trở về không chỉ thăm lại mà là biệt li, một đi không trở lại.
Tâm trạng của ngày trở về thật nặng nề ám ảnh khiến câu văn hạ xuống thật buồn: Vì thế, tôi cần phải về trước Tết, vĩnh biệt ngôi nhà yêu dấu và từ giã làng cũ thân yêu, đem gia đình đến nơi đất khách tôi đang làm ăn, sinh sống. Nhưng nỗi buồn ấy có thể gặp ở bất cứ người nào cùng cảnh ngộ, và nếu chỉ dừng lại ở đó thì câu chuyện chẳng có gì đáng nói.
Nỗi buồn phảng phất như càng lúc càng nặng nề hơn khi bước chân lữ khách đã trở về làng cũ, để được sống những ngày cuối cùng với ngôi nhà thân yêu trước khi phải giao bán cho người khác. Ngôi nhà ấy đã lưu dấu bao kỉ niệm tuổi thơ mà mỗi khi nhớ lại, tôi vẫn thấy như “hiện ra một cảnh tượng thần tiên kì dị”.
Trước khi phải chia tay những gì mình yêu mến nhất, có lẽ ai cũng phải trải qua khoảnh khắc tâm trạng này. Kí ức của tôi hiện về những hình ảnh như trong một cuốn phim quay chậm, với câu chuyện gắn cùng kỉ niệm về người bạn thân thương Nhuận Thổ.
Đây, cảnh tượng êm đềm: “Giữa ruộng dưa, một đứa bé mười một, mười hai tuổi, cổ đeo vòng bạc, tay lăm lăm cầm chiếc đinh ba, đang cố sức đâm theo một con tra. Con vật bỗng quay lại, luồn qua háng đứa bé, chạy mất”. Hình ảnh ấy là tưởng tượng từ thời cậu bé Tấn còn vui đùa bên Nhuận Thổ. Một tình bạn thật đẹp giữa cậu chủ và đứa con của người ở, vượt qua những ranh giới.
Tuổi thơ hạnh phúc trong tình bạn sẽ là dấu ấn theo suốt cuộc đời. Tình bạn ấy đẹp đẽ biết bao vì chưa bị ngăn cách bởi những ý thức thành kiến giai cấp. Đó là nỗi khát khao được gặp người cùng trang lứa để rồi lúc được gặp thì “chưa đầy nửa ngày chúng tôi đã thân nhau”.
Người đọc chắc hẳn cũng được chia sẻ niềm vui có bạn của cậu bé Tấn ngày ấy. Bởi Nhuận Thổ chính là người mở cánh cửa thế giới sống động cho cậu bé Tấn, vốn chỉ biết thế giới qua “một mảnh trời vuông trên bốn bức tường cao bao bọc lấy cái sân mà thôi”.
So với Tấn, Nhuận Thổ hạnh phúc làm sao: bẫy chim sẻ, canh dưa, nhặt vỏ sò hòa mình với thiên nhiên. Hạnh phúc thay khi một đứa trẻ được tắm trong bầu không gian thiên nhiên trong lành, thả hồn cùng bao giấc mộng dưới trời xanh, vui đùa tung tăng trên những cánh đồng, hít đẫm hương vị của sự sống thiên nhiên mãnh liệt. Nỗi nhớ về Nhuận Thổ là sự cắt nghĩa thật đơn giản mà chính xác: “Tôi cảm thấy tựa hồ tôi đã tìm ra được quê hương tôi đẹp ở chỗ nào rồi”.
Nhưng kỉ niệm càng đẹp bao nhiêu thì thực tại càng đau xót bấy nhiêu. Cuộc gặp gỡ với thím Hai Dương dường như đã phá tan kí ức của cậu bé Tấn hai mươi năm trước, kéo anh trở về thực tại của một “ông chủ” đang chuẩn bị bán nhà.
Nàng Tây Thi đậu phụ lẳng lơ bây giờ đã thành một mụ nạ dòng lắm điều. Một đoạn đối thoại với đầy những lời lẽ dung tục tính toán khôn vặt đã cho thấy thái độ xa lạ hằn học của những kẻ ganh ghét gia đình tôi.
Cái hố ngăn cách đầy thành kiến như đang được khoét rộng ra cùng những lời chì chiết của mụ đàn bà lắm lời tham lam bần tiện. Ngạc nhiên không kịp phản ứng là phải, bởi tôi giờ đây dưới mắt người đàn bà ấy chỉ là hiện thân của bọn nhà giàu lắm của. Đáng buồn là sau thái độ rỉa rói bới móc ấy lại là thái độ cầu cạnh, lợi dụng bòn của. Người đàn bà ấy như làm tăng mối ác cảm và xót xa cho chốn làng quê nghèo cực khiến con người như trở nên bần tiện hơn.
Nhưng cuộc gặp gỡ với Nhuận Thổ mới thực sự là nỗi thất vọng lớn nhất. Nhuận Thổ cũng như tôi , đều rất trân trọng tình bạn tuổi thơ. Cuộc gặp gỡ ấy đã đem đến sự tan vỡ của một giấc mộng đẹp.
Còn đâu chú bé “khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bé tí tẹo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng” thuở nào, chỉ còn một người đàn ông với khuôn mặt vàng đội một cái mũ lông chiên rách tươm, mặc một chiếc áo bông mỏng dính, người co ro cúm rúm, và bàn tay vừa thô kệch vừa nặng nề, nứt nẻ như một vỏ cây thông.
Nhưng sự thất vọng lớn nhất là thái độ Nhuận Thổ “lấy lại dáng điệu cung kính”cùng với lời nói như xát muối vào lòng: “Bẩm ông”. Bức tường dày ngăn cách hai tầng lớp xã hội đã được dựng lên giữa hai người đàn ông trưởng thành. Hai người bạn cũ trong hiện tại không còn gì chung hết, ngoại trừ tình bạn đẹp được xây nên từ khi mới lên mười.
Tấm lòng Nhuận Thổ vẫn như xưa, cũng giống như tôi nhưng mặc cảm cũng như thành kiến xã hội đã làm cho hai người thành xa lạ. Còn gì buồn hơn, nỗi buồn khiến tôi điếng người ! Điều gì đã khiến cho người bạn năm xưa trở nên mặc cảm đến vậy ?
Câu chuyện ngỡ như rôm rả cùng bao kỉ niệm tuổi thơ đã tan biến cùng tâm trạng bi đát dâng lên trong lòng tôi khi nghe gia cảnh Nhuận Thổ từ chính miệng người bạn: “Chỗ nào cũng hỏi tiền, chẳng có luật lệ gì cả. Mùa lại mất. Trồng được gì là gánh đi bán tất. Chỉ đóng góp vài lần là cụt vốn rồi. Không đem bán thì lại thối mục hết”.
Nhuận Thổ đã khác xa so với hình dung của anh Tấn, nhưng vẫn còn đó chút dư âm của tình bạn ấm áp thuở nào, trong món quà quê thơm thảo: “Ngày đông tháng giá, chẳng có gì. Đây chỉ là ít đậu xanh của nhà phơi khô, xin ông…”. Lời nói tắc nghẹn giữa chừng khiến người đọc hiểu thêm: tình bạn đẹp ngày xưa đã không vượt qua nổi mặc cảm trong hiện tại.
Trước tình cảnh Nhuận Thổ, tấm lòng của mẹ con anh Tấn không khỏi ái ngại, xót thương, than thở, buồn cho cảnh nhà anh: con đông, mùa mất ,thuế nặng, lính tráng, trộm cướp, quan lại, thân hào đày đọa thân anh khiến anh trở thành đần độn, mụ mẫm đi”.
Qua tâm trạng ấy, có thể nhận ra hình ảnh một cố hương không còn yên bình êm ả như xưa. Gia đình trung lưu thì phải tha hương, người dân quê càng xơ xác. Hoàn cảnh làm thay đổi tâm tính con người. Sự đổi thay trong tình làng nghĩa xóm, tình bạn tình người cũng nhạt nhẽo hơn đem lại nỗi buồn vô hạn cho đến tận ngày đi. Đó cũng là thời khắc anh Tấn cùng người thân phải giã biệt ngôi nhà thân yêu.
Cảnh biệt li được cảm nhận bằng câu văn lạnh lùng không chút luyến lưu: “Kẻ đến đưa chân, người đến lấy đồ đạc. Có kẻ vừa đưa chân vừa lấy đồ đạc”. Và phút rời chân đi thì “tất cả đồ đạc trong ngôi nhà cũ, hư hỏng, to nhỏ, xấu tốt đều mang đi sạch trơn như quét”. Không còn gì lưu dấu, như chính lòng người cũng trở nên trống rỗng.
Hành trình giã biệt quê hương in đậm nỗi buồn của buổi hoàng hôn, trên chiếc thuyền lẻ loi, in bóng đen sẫm như một vệt tối ám ảnh lòng người. Rời quê trong tâm trạng nặng nề như vậy, cứ ngỡ tình cảnh bi đát của đời sống vật chất và tinh thần dân quê sẽ gieo vào lòng tôi cảm giác thất vọng, bi quan. Nhưng nhà văn đã gửi gắm ao ước lạc quan vào trong hình tượng Thủy Sinh con Nhuận Thổ và tình bạn vừa nhen lên với Hoàng – đứa cháu của nhân vật tôi.
Có thể nói từ những chi tiết ngoại hình cho đến tính chất tình bạn giữa hai đứa trẻ chẳng khác gì một bản sao của tình bạn Nhuận Thổ – Tấn thuở xưa. Thủy Sinh cũng khuôn mặt tròn trĩnh, dáng vẻ bẽn lẽn như Nhuận Thổ ngày nào, dẫu thiếu chiếc vòng bạc trên cổ nhưng vẫn hồn nhiên trong sáng và gần gũi thân thiết biết bao với thằng bé Hoàng.
Chưa bao giờ, cái ranh giới giả tạo phân biệt giai cấp lại hiện hình rõ như thế qua sự lặp lại vô tình này. Niềm tin của tôi thật mãnh liệt dù cho không tránh khỏi thoáng chút mơ hồ, nhưng ở đó là niềm tin vào phẩm chất tốt đẹp của người dân quê. Chẳng qua, những biến đổi thời cuộc tác động đến gia cảnh đã làm thay đổi tính cách tốt đẹp của họ mà thôi.
Những hi vọng được nhen nhóm từ suy ngẫm về người bạn cũ – sùng bái tượng gỗ một cách mê muội kì thực cũng là một cách nuôi hi vọng. Bản thân nhân vật tôi cũng đang hi vọng một tương lai sáng sủa hơn. Họ đã gặp nhau trong hi vọng đổi đời, nhưng lại rất khác nhau về con đường của mỗi người.
Hình tượng con đường ở phần cuối tác phẩm chứa đựng những suy ngẫm về thực trạng xã hội Trung Hoa lúc bấy giờ. Con đường mà tác giả cảm nhận được về thực tại là sự phân rẽ của các tầng lớp xã hội, một điều đáng buồn và ray rứt tâm tư của nhà văn.
Nhiệt tình cải tạo xã hội đã thành câu kết đầy triết lí thể hiện sâu sắc tư tưởng nhà văn: kì thực trên mặt đất làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi. Đó là sự khẳng định cho quyết tâm vượt qua những định kiến xã hội lạc hậu.
Con đường mà nhà văn muốn nói chính là con đường chung – thay đổi số phận, thay đổi nếp nghĩ để kết lại tình bạn như thuở nào tốt đẹp vô tư, để người sống với người hoà đồng thân ái. Muốn vậy, mỗi người phải tự vạch con đường cho mình, không giẫm lên những vết mòn vẹt của định kiến cũ. Cảm hứng của nhà văn hướng về việc cải tạo xã hội ngày càng tốt đẹp.
Tác phẩm một lần nữa thể hiện quan niệm dùng văn chương “chữa bệnh tinh thần” cho dân tộc Trung Hoa của nhà văn vĩ đại Lỗ Tấn. Xuất phát từ tình yêu với quê hương và con người nghèo khổ, Lỗ Tấn đã viết nên những trang cảm động về tình bạn ấu thơ, nỗi xót xa truớc tình trạng khốn cùng và suy thoái tinh thần của người dân tại cố hương.
Tấm lòng nhiệt thành và ý thức đấu tranh chống xã hội bất công thấm đượm trong từng trang sách. Ông đã đưa ra những dự đoán thiên tài về cuộc đổi đời vĩ đại của dân tộc Trung Hoa khi tìm ra con đường chân chính tự giải phóng mình.
Cố hương không phải là những dư âm nhạt nhòa mà còn mang ý nghĩa thời sự nóng hổi. Chừng nào nhân loại còn gánh chịu những bất công vô lí, còn những số phận khốn khổ như Nhuận Thổ và những người dân quê, thì chúng ta còn cần đến một tấm lòng Cố hương để chia sẻ nỗi niềm, khơi dậy ý thức xoá bỏ ranh giới giàu nghèo, để giúp cho người mãi đến với nhau bằng tấm lòng bè bạn.
Phân Tích Cố Hương Chọn Lọc – Mẫu 2
Hình ảnh quê hương đã in dấu lại trong sáng tác của rất nhiều những nghệ sĩ trong đó có Lỗ Tấn. Nhắc đến ông là nhắc đến một nhà văn nổi tiếng, có nhiều đóng góp cho kho tàng văn chương Trung Quốc nói riêng và thế giới nói chung. Các tác phẩm tiêu biểu của Lỗ Tấn phải kể đến: “AQ chính truyện”, “Thuốc”, “Nhật kí của một người điên”,… và sẽ là một thiếu sót lớn nếu chúng ta không nhắc đến truyện ngắn “Cố hương”.
Truyện ngắn này được Lỗ Tấn sáng tác vào năm 1923, nằm trong tập “Gào thét”. Nhan đề “Cố hương” có nghĩa là quê cũ, nơi mình đã sinh ra và lớn lên nhưng hiện tại mình không ở đó nữa. Truyện kể về việc nhân vật “tôi” trở về quê hương sau hơn hai mươi năm xa quê.
Cảnh vật làng quê trở nên tiêu điều, hoang vắng chứ không còn là một làng quê tươi đẹp đến nỗi không có hình ảnh ngôn ngữ nào có thể diễn tả được như trong trí nhớ của nhân vật. “Tôi” về quê lần này với mục đích nhằm đưa gia đình đến nơi đất khách để làm ăn, sinh sống. Mang trong mình nỗi buồn thương, xót xa, nhân vật “tôi” ra đi với mong ước cuộc sống của làng quê mình sẽ tốt đẹp hơn.
Mở đầu tác phẩm là hình ảnh cố hương hiện ra với sự u ám, thôn xóm, cảnh vật hoang tàn và thê lương “nằm im lìm dưới bầu trời màu vàng úa”. Chứng kiến khung cảnh đó, nhân vật “tôi” không nén được cảm xúc, “lòng se lại”.
Trong trí nhớ của nhân vật, làng cũ vốn đẹp hơn và cũng không xơ xác, ảm đạm như thực tại. Quê hương trong kí ức của nhân vật “tôi” là những ngày “thầy tôi hãy còn, cảnh nhà còn sung túc, tôi đàng hoàng là một cậu ấm” và cả những kỉ niệm của tuổi thơ thật đáng nhớ.
Hình ảnh con người ở làng quê dần được hiện lên qua sự khắc họa tài tình của tác giả. Người mẹ thấy con về đã “chạy ra đón” bằng vẻ mặt rất mừng rỡ nhưng “vẫn ẩn một nỗi buồn thầm kín”. Người mẹ ấy đã gắn bó với quê hương bao nhiêu năm, nay phải rời xa nó nên trong lòng cũng lưu luyến, thương nhớ. Những ngày ở quê, nhân vật tôi còn gặp một số người khác như Nhuận Thổ, chị Hai Dương, cháu Hoàng,…
Nghe tin nhân vật “tôi” về quê, Nhuận Thổ đã đến chơi. Trong kí ức của “tôi”, Nhuận Thổ là một đứa bé chạc mười tuổi, “khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bé tí tẹo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng”.
Hắn ta là một cậu bé khỏe mạnh, lanh lợi, biết nhiều chuyện lạ lùng không thể kể xiết. Nhân vật “tôi” và Nhuận Thổ có mối quan hệ chủ tớ do trước đây bố con Nhuận Thổ đi ở tháng cho nhà “tôi”. Hai người thân nhau và trở thành bạn bè. Đây là mối quan hệ bình đẳng, gắn bó với nhau.
Nhưng trong quá khứ Nhuận Thổ khôi ngô, lanh lợi bao nhiêu thì con người anh ta ở hiện tại lại hoàn toàn trái ngược bấy nhiêu. Nhuận Thổ “cao gấp hai trước, nước da màu vàng sạm, lại có thêm những nếp nhăn sâu hoắm”, “mi mắt viền đỏ húp mọng lên”.
Anh ta đội “cái mũ lông rách tươm, mặc một chiếc áo bông mỏng dính, người co ro cúm rúm, tay cầm một bọc giấy và một tẩu thuốc lá dài”. Bàn tay “hồng hào, lanh lẹ, mập mạp, cứng rắn” trước đây không còn nữa mà thay vào đó là đôi bàn tay “vừa thô kệch vừa nặng nề, nứt nẻ như vỏ cây thông”.
Cuộc sống khốn khó, vất vả đã khiến Nhuận Thổ trở nên như vậy. Khi trông thấy người bạn tuổi thơ năm xưa của mình, Nhuận Thổ “vừa hớn hở, vừa thê lương, môi mấp máy nhưng cũng nói không ra tiếng” rồi anh lấy một dáng điệu “cung kính” chào. Điệu bộ, cử chỉ ấy phần nào bộc lộ mặc cảm về thân phận hèn kém của mình. Hoàn cảnh “con đông, mùa mất, thuế nặng, lính tráng, trộm cướp, quan lại, thân hào đày đọa thân anh khiến anh trở thành đần độn, mụ mẫm đi”.
Sự thay đổi ở con người Nhuận Thổ khiến nhân vật “tôi” rất buồn và xót xa. Nhuận Thổ biến đổi như vậy cũng là vì sự sa sút kinh tế, những hà khắc của xã hội phong kiến Trung Quốc và do lối sống lạc hậu của những người nông dân không biết đứng lên đấu tranh cho chính mình.
Làng quê ấy không chỉ có Nhuận Thổ mà còn có chị Hai Dương được mệnh danh là “nàng Tây Thi đậu phụ”. Ngày xưa chị đẹp người, đẹp nết, trẻ trung còn bây giờ chị đã là một người đàn bà trên dưới 50 tuổi, “lưỡng quyền nhô ra, môi mỏng dính, hai tay chống nạnh, không buộc thắt lưng, chân đứng chạng ra, giống hệt cái com-pa trong bộ đồ vẽ, có hai chân bé tí”. Những lời nói ngoa ngoắt của chị đã bộc lộ một tính cách chua ngoa, đanh đá.
Bằng biện pháp so sánh tương phản, Lỗ Tấn đã khắc họa rõ nét sự thay đổi về ngoại hình lẫn tính cách của hai nhân vật này. Qua đó, ông cũng tái hiện lại sự sa sút về các mặt của đời sống xã hội, sự suy thoái, những thay đổi tiêu cực trong lối sống của con người lao động.
Quê hương đẹp đẽ của nhân vật “tôi” chỉ còn đọng lại trong kí ức nên khi rời đi, nhân vật này “không chút lưu luyến”. Nhân vật “tôi” chỉ cảm thấy xung quanh là “bốn bức tường vô hình, nhưng rất cao, làm cho tôi vô cùng lẻ loi, ngột ngạt”.
Ngột ngạt bởi cảnh vật làng quê hiu hắt, tiêu điều và sự thay đổi tiêu cực của con người. Họ trở nên tàn tạ, nghèo khổ, đần độn, ngoa ngoắt và vụ lợi. Có người đến để đưa chân, nhưng cũng có người đến để lấy đồ đạc.
Họ lấy tất cả những đồ đạc trong ngôi nhà cũ, “hư hỏng, to nhỏ, xấu tốt đều mang đi sạch trơn như tuyết”. Nằm nghe nước vỗ vào mạn thuyền, nhân vật “tôi” mong ước cho Thủy Sinh và Hoàng không bị cách bức nhau như mình và Nhuận Thổ.
Đồng thời “tôi cũng không muốn chúng nó vì thân thiết nhau mà phải vất vả, chạy vạy như tôi, cũng không muốn chúng nó phải khốn khổ mà đần độn như Nhuận Thổ, cũng không muốn chúng nó phải khốn khổ mà tàn nhẫn như bao nhiêu người khác”. Bọn trẻ phải sống một cuộc đời mới tốt đẹp hơn.
Tác giả đã khép lại “Cố hương” bằng hình ảnh con đường giàu ý nghĩa biểu tượng. Đây không chỉ là con đường đi thường ngày mà còn là con đường hướng con người đến cuộc sống tươi sáng, hạnh phúc hơn ở tương lai. Nhân vật “tôi” đã khẳng định: “kì thực trên mặt đất vốn làm gì có đường, người ta đi mãi thì thành đường thôi”. Con đường không có sẵn trong tự nhiên mà do chính con người tạo nên.
“Tôi” luôn có niềm tin vào con đường mới sẽ giúp con người có một cuộc sống tự do, no ấm, đầy đủ hơn. Tình yêu quê hương mãnh liệt của nhân vật “tôi” được thể hiện qua niềm tin vào sự đổi thay của làng quê và con người theo hướng tích cực. Đó cũng là tư tưởng nhân đạo mà Lỗ Tấn kí thác trong tác phẩm của mình.
Truyện đã sử dụng linh hoạt những thủ pháp nghệ thuật như hiện tại, hồi ức, đối chiếu và xen kẽ nhau tạo nên một mạch truyện liên kết chặt chẽ.
Bằng nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế, nhà văn đã khắc họa được những nhân vật một cách rõ nét, sinh động và chân thực. Việc sử dụng hình ảnh biểu tượng và các phương thức biểu đạt tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận đã góp phần không nhỏ trong việc tạo nên sự thành công của tác phẩm.
Qua truyện ngắn này, bạn đọc có thể thấy được tiếng nói tố cáo, phê phán xã hội phong kiến cũ đồng thời ông cũng đặt ra vấn đề con đường đi của người nông dân lao động và toàn thể xã hội. Ông đã dùng thứ vũ khí lợi hại là ngôn từ để “biến đổi tinh thần” nhân dân đang trong tình trạng “ngu muội” và hèn nhát”.
Phân Tích Cố Hương Nổi Bật – Mẫu 3
Nhà văn Lỗ Tấn được biết đến là một nhà văn cách mạng lừng danh của Trung Quốc. Nhắc đến ông không thể không nhắc đến truyện ngắn “Cố hương” được. Tác phẩm Cố hương là một thành công của ông nó mang đến cho người đọc một thứ tình cảm vô cùng dịu nhẹ và thấm đẫm cảm xúc tình yêu quê hương. Tác phẩm giống như một thức phim đã ghi lại cho chúng ta những hồi ức vô cùng dịu ngọt của những con người ở quê hương với những nỗi buồn, sự hi vọng.
Truyện ngắn “Cố Hương” có những nhân vật như tôi, mẹ tôi, cháu Hoàng, Nhuận Thổ, Thủy Sinh, chị Hải Dương. Họ chính là những con người của quê hương và cũng chính họ đã gợi ra biết bao nhiêu những kỷ niệm buồn vui và sâu nặng với quê hương – nơi cho họ biết bao nhiêu kỷ niệm cũng như những ký ức đẹp đẽ.
Trong khoảng thời gian 20 năm xa cách thì nhân vật “tôi” lúc này về thăm quê hương, nhân vật phải trải qua 2000 dặm với cái lạnh đến thấu xương khiến cho lòng của nhân vật tôi như bồi hồi khôn xiết. Những cơn gió lạnh như thật vi vu và đã thổi về khiến cho bao nhiêu ký ức dội về trong lòng nhân vật.
Chuyến về quê lần này dường như cũng thật đặc biệt vì công việc về để bán cũng như giao lại cho chủ mới. Về để nói lời tạm biệt ngôi nhà vô cùng thân yêu và gắn bó với ký ức tuổi thơ của nhân vật sau 20 năm xa cách.
Thực sự cứ mỗi lần nói đến quê hương là thường nói đến tổ tiên ông bà, quê hương cũng chính là một nơi để thể hiện sự tôn kính phụ dưỡng đối với ông bà cha mẹ. Thế nhưng trong tác phẩm ta không thấy nói đến. Ở đây, tác giả Lỗ Tấn dường như cũng chỉ xúc động nói đến ký ức tuổi thơ của mình trong khoảng ba mươi năm về trước.
Ta như nhận thấy được ở đó có một tình bạn đẹp với Nhuận Thổ con của một gia đình làm thuê cho nhà của nhân vật “tôi”. Cũng chính vì nhờ nhân vật Nhuận Thổ mà nhân vật tôi biết được nhiều chuyện kỳ lạ. Bởi cũng vì nhờ Nhuận Thổ mà tôi dường như lại còn cảm nhận được vẻ đẹp quê hương, với bao cảnh tượng thần tiên thật đẹp nơi nhân gian.
Có thể nói rằng quê hương cũ với bao kỷ niệm thời thơ bé, thế rồi cũng chính cái ngày mà thầy của “tôi” cũng cứ vẫn còn cảnh nhà sung túc sang trọng. Đặc biệt hơn vào ngày giỗ tổ các đồ ăn thức uống được bày sang trọng. Hình ảnh của quê hương trong ký ức mỗi người bao giờ cũng đẹp và thật thân thương biết bao nhiêu.
Khi nhà văn Lỗ Tấn nói đến quê hương hiện tại và quê hương trong quá khứ trong lúc ông trở về gặp bạn cũ người xưa. Tất cả dường như đều có những niềm vui và nỗi buồn, tất cả như cứ ùa về và khiến cho tác giả không thể nào có thể quên được.
Người mẹ của tác giả cũng đã già và tác giả giờ đây cũng đã lại trưởng thành., đi làm ăn xa lưu lạc 20 năm trời nay thì mới về thăm quê thăm mẹ. Khi gặp lại thì mẹ như mừng lắm, nét mặt như lại ẩn chứa biết bao nhiêu vẻ buồn. Chắc hẳn là mẹ cũng buồn vì cảnh nhà như sa sút và phải theo người con trai đến miền đất mới, rời xa quê hương yêu dấu đã gắn bó biết bao nhiêu năm.
Khi tác giả nhắc đến Nhuận Thổ thì người mẹ dường như cũng đã lại thở than cho cảnh nhà anh ta. Khi mẹ cũng cứ bàn với tác giả dọn nhà cái gì mang được đi thì mang đi còn không thì cho Nhuận Thổ hết.
Nhân vật Nhuận Thổ chính là tình bạn tuổi thơ. Ta có thể nhận thấy được hình ảnh thuở lên 10 của Thổ với khuôn mặt tròn trĩnh, cùng với đó là nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bé tý tẹo và trên của cổ đeo vòng bạc sáng loáng. Quan trọng hơn hết là Nhuận Thổ cũng lại dạy cho tôi nhiều trò lạ và tình yêu quê hương trong lòng tôi.
Thực sự cũng không có tuổi thơ thì không có quê hương, ta như nhận thấy được tình bạn tuổi thơ đã làm cho tình yêu quê hương cũng cứ mãi mãi tươi thắm. Có thể khẳng định tuổi ấu thơ là hình ảnh quê hương đó chính là một vành trăng non trên bầu trời xanh miền thơ ấu.
Xây dựng lên hình ảnh nhân vật Nhuận Thổ trong hiện tại là nỗi đau, lại là nỗi buồn về quê hương. Nhất là sau 30 năm xa cách nay gặp lại Nhuận Thổ dường như cũng đã có bao thay đổi. Nước Nhuận Thổ vàng sạm, những nếp nhăn trên mặt sâu hóm.
Đôi mắt thì đỏ mọng lên, trên đầu thì đội cái mũ lông chiên rách tơi, thế rồi Nhuận Thổ như mặc chiếc áo bông mỏng dính giữa trời rét dữ. Khi gặp lại bạn cũ Nhuận Thổ lúc này cũng lại vừa hấn hở vừa thê lương, mấp máy đôi môi không ra tiếng sau mới thể hiện được sự cung kính.
Nhuận Thổ hiện tại được xây dựng lên chính là hình ảnh một xứ sở , một miền quê xơ xác tiêu điều và đây cũng chính là một người nông dân bị bần cùng hóa bị áp bức đến tận xương tủy. Chỉ với việc thông qua hình ảnh Nhuận Thổ tác giả Lỗ Tấn dường như cũng đã lên án những tội ác của chế độ phong kiến đối với nhân dân từ đó đặt ra quyền sống cũng như quyền hạnh phúc của nhân dân trên đường đi tới.
Nói đến quê hương trong cố hương thực sự không thể không nhắc đến hình ảnh chị Hai Dương, hay còn đó là nhân vật chị Tây Thi đậu phụ ngày xưa son phấn nổi danh tài sắc bây giờ đã trở thành một vỏ bỉ trơ tráo.
Tác phẩm “Cố hương” của nhà văn Lỗ Tấn chứa được hình ảnh quê hương tươi đẹp trong tuổi thơ của tôi bỗng ùa về. Và quê hương đó ngày càng một phát triển cũng như để sánh vai với các cường quốc năm châu. Mai sau này cho dù có đi xa trên khắp nẻo đường thì hình ảnh quê hương sẽ mãi hiện hữu và làm đắm say níu giữ bước chân ta tìm về.
Phân Tích Cố Hương Tiêu Biểu – Mẫu 4
Lỗ Tấn (1881 – 1936) là nhà tư tưởng lớn, nhà văn hiện thực nổi tiếng của Trung Quốc vào thời kì đầu thế kỉ XX. Sự nghiệp sáng tác mà ông để lại cho đời rất đồ sộ và đa dạng, trong đó có 17 tập tạp văn và hai tập truyện ngắn xuất sắc là “Gào thét” (1923) và “Bàng hoàng” (1926). Một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của tập “Gào thét” là truyện ngắn “Cố hương”.
Thông qua việc kể lại chuyến về quê lần cuối cùng và những suy ngẫm, rung cảm của bản thân trước sự thay đổi của cảnh vật và con người ở quê hương, tác giả đã kín đáo phê phán chế độ phong kiến hủ bại, đồng thời đề cập đến con đường giải phóng nông dân ra khỏi những ràng buộc vô hình, những nghiệt ngã của xã hội đương thời.
Sau hai mươi năm sống xa nhà, tác giả về thăm quê cũ giữa mùa đông lạnh giá. Ngồi trên thuyền, thấy khung cảnh ven sông tiêu điều, lòng ông dâng lên cảm xúc buồn thương khó tả. Đây là lần ông về quê để cùng người thân giải quyết chuyện bán nhà, đưa gia đình đến nơi khác làm ăn.
Về đến nơi, ông được mẹ già chạy ra đón. Mọi người đang bận rộn thu dọn đồ đạc. Nghe mẹ nhắc tới Nhuận Thổ, tác giả lập tức nhớ lại những kỉ niệm thần tiên của thời thơ ấu. Nhuận Thổ là con trai người làm mướn cho gia đình tác giả cách đây hơn hai chục năm. Lúc ấy, Nhuận Thổ mới lên mười. Mỗi lần theo cha đến nhà, Nhuận Thổ thường kể cho “tôi” nghe cách bẫy chim sẻ, cách bắt con tra hay ăn trộm dưa và nhiều chuyện khác, khiến “tôi” say mê, thán phục.
Tác giả gặp lại mấy người hàng xóm cũ, trong đó có Nhuận Thổ. Cuộc sống vất vả, lam lũ đã khiến Nhuận Thổ thành một người hoàn toàn khác. Hình dáng tiều tụy, thảm hại, mặt mũi ngơ ngác, đần độn. Không còn chút dấu vết nào của Nhuận Thổ khi xưa.
Mấy ngày sau, cả gia đình tác giả rời quê. Khi con thuyền đã xa làng, tác giả vẫn trĩu nặng nỗi suy tư về cảnh vật và con người ở cố hương. Ông cố gắng tìm ra nguyên nhân của sự thay đổi đáng buồn ấy và cầu mong cho con cháu của Nhuận Thổ sau này sẽ tìm ra cách sống mới để không còn phải khổ cực như ông cha nữa.
Chất trữ tình đậm đà của tác phẩm thể hiện ở diễn biến tâm trạng của nhân vật. Từ phảng phất buồn đến đau xót (trên đường về quê). Từ đau xót đến bi quan (những ngày ở quê). Cuối cùng, lại nhen nhóm hi vọng (trên đường rời quê). Tuy vậy, dù buồn bã, đau xót hay hi vọng cũng đều là biểu hiện của tình cảm yêu mến quê hương sâu nặng. Cái hay của tác phẩm là thể hiện diễn biến tâm trạng ấy một cách sinh động, chân thật và hợp lí.
Mở đầu bài văn, tác giả bộc bạch tâm trạng của mình trong chuyến trở về cố hương: Tôi không quản trời lạnh giá, về thăm làng cũ, xa những hai ngàn dặm mà tôi đã từ biệt hơn hai mươi năm nay. Chuyến đi này có tầm quan trọng và ý nghĩa rất lớn nên tác giả không thể không về, dẫu phải đi qua hai ngàn dặm đường, trong thời tiết mùa đông giá lạnh.
Cố hương là quê cũ, là những gì gắn bó tha thiết, thiêng liêng đối với mỗi người. Sau hai mươi năm phiêu bạt nơi đất khách, nay tác giả mới về quê nhà, mà về lần này là để đón cả gia đình đến nơi mình đang làm ăn sinh sống. Trở về không phải để sum họp mà là để biệt li, có thể là biệt li mãi mãi. Cho nên, tâm trạng tác giả trĩu nặng một mỗi buồn và nỗi buồn ấy lan sang cả cảnh vật:
Đang độ giữa đông. Gần về đến làng, trời lại càng u ám. Gió lạnh lùa vào khoang thuyền. Nhìn qua các khe hở mui thuyền, thấy xa gần thấp thoáng mấy thôn xóm tiêu điều, hoang vắng, nằm im lìm dưới vòm trời màu vàng úa. Không nén được, lòng “tôi” se lại.
Trải qua thời gian dài đằng đẵng, biết bao vật đổi sao dời. Cảnh quê vốn tiêu điều, hoang vắng, nay hiện lên trước mắt người xa xứ càng nhuốm sắc thê lương, ảm đạm. Tác giả không tin vào kí ức của mình và cho rằng vì tâm trạng mình đang buồn nên nhìn cảnh mới ra như thế:
“Hình ảnh làng cũ trong kí ức tôi không giống hẳn như thế này. Làng cũ tôi đẹp hơn kia. Nhưng nếu phải nhớ rõ đẹp như thế nào, nói rõ đẹp ở chỗ nào thì thật không có hình ảnh ngôn ngữ nào diễn tả ra cho được. Phảng phất thì cũng có hơi giống đấy. Tôi nghĩ bụng: Hẳn làng cũ mình vốn chỉ như thế kia thôi, tuy chưa tiến bộ hơn xưa, nhưng cũng vì tắt đèn nên thê lương như mình tượng. Chẳng qua là tâm tình mình đã đổi khác, bởi vì về thăm chuyển này, lòng mình đang không vui.
Về thăm quê chuyến này, ý định là để từ giã nó lần cuối cùng. Ngôi nhà cũ nơi cả đại gia đình chúng tôi đời đời ở chung với nhau, mà chúng tôi đã phải đồng tình bán cho người ta rồi, nội năm nay, phải giao cho họ. Vì thế, tôi cần phải về trước Tết, vĩnh biệt ngồi nhà yêu dấu và từ giã làng cũ thân yêu, đem gia đình đến nơi đất khách tôi đang làm ăn, sinh sống”.
Đoạn văn phản ánh sự thay đổi theo chiều hướng đáng buồn của cố hương và những cảm xúc bâng khuâng khó tả trong tâm trạng nhân vật. Đặt chân lên bờ, tác giả thấy quang cảnh trong làng cũng giống như quang cảnh ven sông: “Tinh mơ sáng hôm sau, tôi về tới cổng nhà. Trên mái ngói, mấy cọng tranh khô phất phơ trước gió, đủ rõ nhà không đổi chủ không được. Những gia đình khác có lẽ đã dọn đi rồi, cho nên cảnh tượng càng hiu quạnh”.
Về đến nhà, bàn chuyện dọn nhà xong xuôi, bà mẹ kể rằng có anh Nhuận Thổ lần nào đến chơi cũng nhắc đến con và rất mong có ngày được gặp con. Mẹ đã nhắn tin cho anh ấy biết chừng ngày nào con về. Có lẽ anh ấy cũng sắp đến thôi. Nghe mẹ nói, bất chợt trong kí ức nhà văn, hình ảnh làng quê với những cảnh vật và con người năm xưa- hiện lên rõ ràng từng chi tiết:
Lúc bấy giờ, trong kí ức tôi bỗng hiện ra một cảnh tượng thần tiên, kì dị: Một vầng trăng tròn vàng thắm treo lửng lơ trên nền trời xanh đậm, dưới là một bãi cát bên bờ biển, trồng toàn dưa hấu, bát ngát một màu xanh rờn. Giữa ruộng dưa, một đứa bé trạc mười một, mười hai tuổi, cổ đeo vòng bạc, tay lăm lăm cầm chiếc đinh ba, đang cố sức đâm theo một con tra. Con vật bỗng quay lại, luồn qua háng đứa bé, chạy mất.
Tác giả nhớ như in hình ảnh của người bạn nhỏ cách đây hai chục năm. Bắt đầu là cảnh Nhuận Thồ xuất hiện vào ngày giỗ lớn của gia đình tác giả. Đó là cậu bé xinh xắn, khỏe mạnh, khuôn mật tròn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bé tí tẹo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng, … Tiếp sau đó là những kỉ niệm về người bạn đáng yêu thuở thiếu thời.
Nhuận Thổ hay kể chuyện bẫy chim: Làng em toàn đất cát, hễ tuyết xuống là em quét lấy một khoảng đất trống, dùng một cây que ngắn chống một cái nong lớn, rắc ít lúa lép, thấy chim tước xuống ăn, đứng đằng xa giật mạnh sợi dây buộc vào cái que, thế là chim bị chụp vào nong hết.
Thứ nào cũng có: sẻ đồng, chào mào, “bột cô”, sẻ xanh lưng. Hết chuyện bẫy chim đến chuyện rủ “cậu ấm” đi chơi bờ biển: “Đến mùa hè, anh xuống nhà em chơi. Ban ngày, chúng mình ra biển nhặt vỏ sò, màu đỏ có, màu xanh có, đủ cả. Có cả sò “mặt quỷ”, sò “tay phật””.
Rồi chuyện về con tra kì lạ như trong cổ tích: Ở làng em, người đi qua đường khát nước hái một quả dưa ăn, không kề là lấy trộm. Canh là canh lợn rừng, nhím, tra. Này nhé! Sáng trăng. Có tiếng sột soạt. Tra đang ngốn dưa đấy! Thế là cầm đinh ba khe khẽ tiến lên…”
Thời ấy, trước con mắt của “cậu ấm” con chủ nhà thì Nhuận Thổ là tiểu anh hùng, là người từng trải: “Trời! Nhuận Thổ hẳn biết nhiều chuyện lạ lùng lắm, kể không xiết! Những chuyện đó, bạn bè tôi từ trước đến nay, không ai biết cả. Chúng nó không biết là vì trong khi Nhuận Thổ sống bên bờ biển thì chúng nó, cũng như tôi, chỉ nhìn một mảnh trời vuông trên bốn bức tường cao bao bọc lấy cái sân mà thôi!”
Tình bạn tuổi thơ giữa tác giả và Nhuận Thổ thật trong sáng và đằm thắm. Nhưng tiếc thay, đã hết tháng giêng. Nhuận Thổ phải về quê hắn. Lòng tôi xốn xang, tôi khóc to lên. Hắn lẩn trong bếp, cũng khóc mà không chịu về. Nhưng rồi bố hắn cũng lôi hắn đi. Sau đó, hắn có nhờ bố hắn mang lên cho tôi một bọc vỏ sò và mấy thứ lông chim rất đẹp. Tôi căng cổ vài lần gửi cho hắn ít quà. Nhưng từ đấy chúng tôi không hề gặp mặt nhau nữa.
Tác giả đã lấy hình ảnh tươi đẹp trong quá khứ đối chiếu với hình ảnh Nhuận Thổ trong hiện tại để nêu bật chủ đề tác phẩm. Sau hai mươi năm cách biệt, nay hai người mới gặp lại nhau: “Người đi vào là Nhuận Thổ.
Tuy tôi nhận ra ngay là Nhuận Thổ, nhưng lại không phải là Nhuận Thổ trong kí ức tôi. Anh cao gấp hai trước, khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật trước kia nay đã đổi thành sạm, lại có thêm những nếp răn sâu hoắm. Cặp mắt giống hệt cặp mắt anh ngày trước, mi mắt viền đỏ húp mọng lên.
Tôi không lấy làm lạ, ở miền biển, gió thổi suốt ngày, đại để ai cũng thế cả. Anh đội một cái mũ lông chiên rách tươm, mặc một chiếc áo bông mỏng dính, người co ro cúm rúm, tay cầm một bọc giấy và một tẩu thuốc lá dài. Bàn tay này cũng không phải là bàn tay tôi còn nhớ, hồng hào, lanh lẹ, mập mạp, cứng rắn, mà vừa thô kệch vừa nặng nề, nứt nẻ như vỏ cây thông…
Nhuận Thổ đứng dừng lại, nét mặt vừa hớn hở vừa thê lương, môi mấp máy, nhưng cũng nói không ra tiếng. Rồi bỗng anh lấy một dáng điệu cung kính, chào rất rành mạch: Bẩm ông! Sau đó, anh ta rón rén đưa ra một gói giấy và ấp úng: – Ngày đông tháng giá chẳng có gì, chỉ có ít đậu xanh của nhà phơi khô, xin ông…”
Nghệ thuật tả thực của tác giả thật sắc sảo. Ông đã khắc họa sinh động chân dung một nông dân lam lũ, nghèo khó và đầy mặc cảm tự ti. Qua đó, ta có thể hình dung ra cảnh sống cơ cực, điêu đứng của Nhuận Thổ nói riêng và nông dân nói chung lúc bấy giờ.
Người bạn nhỏ khỏe mạnh, đáng yêu thuở nào giờ đây là một nông xơ xác, da mặt vàng xạm vì nghèo đói. Ngày xưa, Nhuận Thổ là một cậu bé có khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên, cổ đeo vòng bạc sáng loáng, được bố cưng chiều.
Về hình thức, Nhuận Thổ giờ đây đã hoàn toàn thay đổi, nhưng tận đáy lòng, Nhuận Thổ vẫn giữ nguyên tình bạn sâu nặng với “cậu chủ” ngày xưa. Nghe nói “cậu chủ” đã về nên Nhuận Thổ đến ngay và dù rất nghèo nhưng cũng không quên mang chút quà “cây nhà lá vườn” đến tặng “cậu chủ”. Chính điều đó làm cho những thay đôi trong quan hệ giữa hai người giờ đây trở nên phi lí.
Hai biện pháp nghệ thuật chính được tác giả sử dụng trong truyện là hồi ức và đối chiếu được kết hợp một cách nhuần nhuyễn, khéo léo để làm nổi bật sự thay đổi của con người và cảnh vật. Đồng thời, tác già đặt ra cho người đọc câu hỏi tại sao lại có sự thay đổi ghê gớm vậy?
Qua truyện, tác giả muốn nói đến tình cảnh đói nghèo của nông dân dù nạn áp bức, tham nhũng nặng nề ở nông thôn. Song điều ông quan tâm hơn cả là sự thay đổi theo chiều hướng xấu của họ, thể hiện qua tính cách của thím Hai Dương, của những người khách mượn cớ đưa tiễn để lấy đồ đạc. Đặc biệt là qua tính cách của Nhuận Thổ. Trong mọi thay đổi, điều làm cho tác giả ngạc nhiên, đau xót đến “điếng người đi” chính là mối quan hệ giữa Nhuận Thổ và mình.
Bằng thủ pháp đối chiếu và tương phản, tác giả đã phản ánh tình cảnh suy thoái về mọi mặt của xã hội phong kiến Trung Quốc đầu thế kỉ XX. Ông phân tích nguyên nhân và lên án các thế lực hủ bại đã đẩy xã hội vào thực trạng đáng buồn. Bên cạnh đó, Lỗ Tấn cũng chỉ ra những mặt tiêu cực nằm ngay trong tâm hồn, tính cách của người lao động.
Những nông dân như Nhuận Thổ không chỉ khổ vì con đông, mùa mất, thuế nặng, lính tráng, trộm cướp, quan lại mà còn khổ sở, đau đớn hơn nhiều bởi những quan niệm cũ kĩ về đẳng cấp, bởi sự đè nén, áp bức của giai cấp thống trị, bởi mê tín dị đoan…
Nhuận Thổ xin bằng được đồ thờ của gia đình chủ cũ chắc là để mong cho đời mình đỡ khổ: Khi Nhuận Thổ xin chiếc lư hương và đôi đèn nến, tôi cười thầm, cho rằng anh ta lúc nào cũng không quên sùng bái tượng gỗ.
Để làm nổi bật sự thay đổi ghê gớm đó, tác giả không chỉ đối chiếu tính cách của từng nhân vật trong quá khứ với hiện tại mà còn đối chiếu nhân vật này với nhân vật kia, đặc biệt là đối chiếu giữa Nhuận Thổ ngày xưa với Thủy Sinh, con trai anh ta bây giờ. Cậu bé Nhuận Thổ cách đây hơn hai mươi năm hồng hào, khỏe mạnh, cổ đeo vòng bạc. Còn Thủy Sinh bây giờ ốm yếu vàng vọt, cổ không đeo vòng bạc…
Hình ảnh cố hương trong tác phẩm không chỉ mang ý nghĩa là nơi chôn nhau cắt rốn mà còn là bức tranh thu nhỏ của xã hội. Những thay đổi mà Lỗ Tấn đã miêu tả trong “Cố hương” là những thay đổi có tính điển hình của xã hội Trung Quốc thời cận đại. Bởi vậy, qua việc miêu tả sự thay đổi cụ thể của một làng quê, Lỗ Tấn đã đặt ra vấn đề vô cùng bức thiết là phải xây dựng một cuộc đời mới tốt đẹp:
Tôi đang mơ màng thì trước mắt tôi hiện ra cảnh đồng cát, màu xanh biếc, cạnh bờ biển, trên vòm trời xanh đậm lơ lửng một vầng trăng tròn vàng thắm. Tôi nghĩ bụng: Đã gọi là hi vọng thì không thể nói đâu là thực, đâu là hư. Cũng giống như những con đường trên mặt đất; kì thực trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi.
Trên mặt đất vốn dĩ không có đường. Đường là do con người giẫm nát cỏ ở chỗ chưa có đường mà tạo ra, là khai phá chỗ gai góc mà có… Trong cuộc sống, bất kể là gặp bao nhiêu gian nan trắc trở, chúng ta cần kiên định, bền gan vững chí để mở đường đi tới tương lai tươi sáng. Đó là thông điệp tâm huyết mà nhà văn Lỗ Tấn muốn gửi đến tất cả chúng ta.
Phân Tích Cố Hương Đặc Sắc – Mẫu 5
Trong các nhà văn Trung Quốc đã học, không thể không kể đến Lỗ Tấn (1881 – 1936). Ông là nhà văn cách mạng nổi tiếng với truyện ngắn Cố hương. Nó man mác một tình quê vơi đầy, ghi lại một cách chân thực, cảm động ký ức tuổi thơ.
Nó phản ánh số phận những con người quê hương với bao nỗi buồn thương và hi vọng. Các nhân vật như tôi, mẹ tôi, cháu Hoàng, Nhuận Thổ, Thủy Sinh, chị Hai Dương – là những con người của quê hương, gợi ra bao nỗi buồn vui về nơi chôn rau cắt rốn sâu nặng nghĩa tình.
Sau 20 năm xa cách “tôi” về thăm quê. Phải vượt qua 2000 dặm giữa một mùa đông lạnh giá. Lòng “tôi” bồi hồi khôn xiết. Gió lạnh vi vu thổi vào khoang thuyền. Gần về đến làng, trời càng u ám, xóm thôn xa dần, thấp thoáng tiêu điều, hoang vắng… lòng “tôi” se lại, về quê thì phải vui sao lại buồn? “Tôi” tự hỏi có phải đây là làng cũ thân yêu trong ký ức nữa không?
Chuyến về thăm quê này rất đặc biệt, về để bán nhà, giao nhà lại cho chủ mới. Về để từ giã ngôi nhà cũ – nơi cả đại gia đình “chúng tôi” đời đời ở chung với nhau. Sao không buồn được, vì sau 20 năm đi xa, lần này “tôi” trở về là để “vĩnh biệt ngôi nhà yêu dấu và từ giã làng cũ thân yêu đem gia đình đến nơi đất khách tôi đang làm ăn sinh sống”.
Quê hương thường gắn liền với phần mộ tổ tiên ông bà nhưng trong Cố hương không thấy nói đến. Tác giả chỉ xúc động nói đến ký ức tuổi thơ khoảng chừng 30 năm về trước. Một tình bạn đẹp tuổi thơ độ lên mười với Nhuận Thổ – con trai của một người làm thuê cho gia đình “tôi”.
Nhờ Nhuận Thổ mà “tôi” được biết bao chuyện kỳ lạ: cách bẫy chim trên tuyết, con “tra” lông da trơn như mỡ biết ăn dưa; bên bờ biển quê hương có nhiều vỏ sò đẹp và lạ: sò “mặt quỷ” và sò “tay Phật”. Nhờ Nhuận Thổ mà tôi cảm nhận được vẻ đẹp quê hương, với bao cảnh tượng thần tiên: “Một vầng trăng tròn vàng thắm treo lơ lửng trên nền trời xanh đậm, dưới là một bãi cát bên bờ biển, trồng toàn dưa hấu, bát ngát một màu xanh rờn”.
Quê hương cũ với bao kỷ niệm thời thơ bé. Đó là những ngày mà “thầy tôi hãy còn”, cảnh nhà sung túc… năm ấy nhà tôi đến lượt lo giỗ tổ. Giỗ vào tháng giêng. Lễ vật rất nhiều, các đồ tế rất sang, người đến lễ cúng rất đông…
Quê hương trong ký ức bao giờ cũng cảm động. Lỗ Tấn đã nói về hình ảnh quê hương trong hiện tại và trong quá khứ, lúc ở trên đường trở về, lúc gặp lại bạn cũ, người xưa. Có niềm vui nỗi buồn, 30 năm đã trôi qua, nhưng không bao giờ có thể quên được quê hương và tuổi thơ.
Mẹ đã già. ” Tôi” đã trưởng thành, đi làm ăn xa, lưu lạc 20 năm trời nay mới về thăm quê, thăm mẹ. Lâu nay chỉ “gặp mẹ” và hỏi thăm mẹ qua những cánh thư. Con vừa bước vào nhà, mẹ “đã chạy ra đón”. Mẹ già “rất mừng rỡ’’ gặp lại con trai sau những năm dài xa cách, thế nhưng “nét mặt vẫn ẩn nỗi buồn thầm kín”.
Chắc là mẹ buồn vì thương nhớ người đã khuất, mẹ buồn vì cảnh nhà sa sút, phải bán nhà, theo con trai đến nơi đất khách quê người? Mẹ vẫn hiền hậu, săn sóc “tôi” như ngày “tôi” còn thơ bé: “Mẹ bảo tôi ngồi xuống nghỉ ngơi, uống trà…”.
Mẹ nói với con trai chuyện dọn nhà… Mẹ vẫn hiền từ như xưa: “Con hãy nghỉ ngơi vài hôm, đi thăm các nhà bà con một chút rồi mẹ con mình lên đường ”. Nhắc đến Nhuận Thổ…
“Mẹ tôi” động lòng. Gặp 2 bố con Nhuận Thổ, mẹ ân cần vồn vã. Mẹ thở than cho cảnh nhà anh ta, mẹ bàn với “tôi”: “Cái gì không cần chở đi thì cho anh ta hết. Cứ để cho tùy ý chọn, lấy cái nào thì lấy!”. Thương con cháu và thương người đó là hình ảnh người mẹ trong Cố hương.
Có một nhà thơ trẻ Việt Nam đã viết: “Quê hương là cầu tre nhỏ – Mẹ về nón lá nghiêng che”. Đọc Cố hương của Lỗ Tấn, nếu ai đó không hiểu được người mẹ thì làm sao cảm nhận được hình ảnh quê hương thân yêu. Bởi lẽ mẹ là quê hương, quê hương là mẹ! Tình yêu quê hương luôn luôn gắn liền thiết tha với người mẹ hiền mà ta yêu quý.
Nhuận Thổ trước hết là tình bạn tuổi thơ. Ba mươi năm trước, “tôi” và Nhuận Thổ đã sống với nhau trong suốt một tháng giêng mà suốt đời “tôi” không thể nào quên được. Hình ảnh hắn thuở lên 10, lần đầu gặp tôi: “Khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bé tí tẹo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng…”.
Hắn “bẽn lẽn” với mọi người, nhưng “không bẽn lẽn” với chỉ riêng tôi. Hắn nói lên tỉnh, hắn được trông thấy những điều hắn chưa bao giờ trông thấy cả. Cũng như “tôi” nghe hắn nói chuyện bẫy chim sẻ, chuyện cầm đinh ba đâm con “tra” khi đi canh dưa, chuyện vỏ sò, vỏ ốc, v.v… là những chuyên lí thú, kỳ lạ. Ba mươi năm rồi, “tôi” nhớ đến Nhuận Thổ là nhớ đến gói quà hắn gửi cho tôi: một bọc vỏ sò và mấy thứ lông chim rất đẹp.
Không có tuổi thơ thì không có quê hương. Tình bạn tuổi thơ làm cho tình yêu quê hương mãi mãi tươi thắm. Đúng như Lỗ Tấn đã viết: “Bây giờ mẹ tôi nhắc đến Nhuận Thổ, kí ức tôi bỗng dưng sáng bừng lên trong chốc lát.
Tôi cảm thấy tựa hồ tôi đã tìm được quê hương tôi đẹp ở chỗ nào rồi. Hình ảnh Nhuận Thổ ấu thơ là hình ảnh quê hương, là “vành trăng non trên bầu trời xanh miền thơ ấu”. Nhuận Thổ là một phần rất nhỏ của Cố hương, là tình yêu quê hương.
Hình ảnh Nhuận Thổ trong hiện tại là nỗi đau, nỗi buồn về quê hương. Sau 30 năm xa cách nay găp lại, Nhuận Thổ thay đổi quá nhiều. Nước da “vàng xạm”, những nếp nhăn trên mặt “sâu hóm”. Cặp mắt, mí mắt “viền húp đỏ mọng lên”. Đầu đội một cái mũ lông chiên “rách tươm”, mặc một cái áo bông “mỏng dính” giữa lúc trời rét dữ! Người “co ro cúm rúm”, đôi bàn tay “vừa thô kệch, vừa nặng nề nứt nẻ như vỏ cây thông”.
Thời gian đã tàn phá một con người về mặt ngoại hình. Sự nghèo khổ và vất vả làm tàn tạ một con người vốn cường tráng và dẻo dai. Gặp lại bạn cũ, Nhuận Thổ “vừa hớn hở vừa thê lương” mấp máy đôi môi nói không ra tiếng, sau mới “cung kính” nói được hai tiếng: “Bẩm ông!”.
Lễ giáo và tôn ti trật tự của xã hội phong kiến đã tạo nên giữa đôi bạn “một bức tường khá dày ngăn cách”. “Tôi” như bị “điếng người” khi nghe anh ta nói. Nhìn người và nghe Nhuận Thổ nói “tôi” nặng trĩu trong lòng “trông anh ta phảng phất như một pho tượng đá” vô hồn và vô cảm.
Hình ảnh Nhuận Thổ trong hiện tại là hình ảnh một xứ sở, một miền quê xơ xác, tiêu điều, người nông dân bị bần cùng hóa, bị áp bức và bóc lột đến tận xương tủy: “mất mùa, thuế nặng, lính tráng, trộm cướp, quan lại, thân hào…”, “chỗ nào cũng hỏi tiền, chẳng có luật lệ gì cả”.
Thông qua việc tường thuật chuyến về quê lần cuối cùng của “tôi”, thông qua những rung cảm của “tôi” trước sự thay đổi, tàn tạ ghê gớm của làng quê, đặc biệt là Nhuận Thổ, tác giả đã lên án tội ác của chế độ phong kiến đối với nông dân, từ đó đặt ra vấn đề quyền sống và hạnh phúc của nhân dân trên con đường đi tới.
Nói đến con người quê hương trong Cố hương không thể nào không nhắc tới hình ảnh chị Hai Dương – “Tây Thi đậu phụ”, ngày xưa “phấn son” nổi danh tài sắc bây giờ đã trở thành một “bỉ vỏ” trơ tráo, lúc thì ăn cướp đôi tất tay, lúc thì lấy cái “cẩu khí sát” rồi chạy biến. Cũng không thể không nghĩ tới cháu Hoàng và Thủy Sinh, con trai thứ năm của Nhuận Thổ. Trẻ con xưa nay vẫn hồn nhiên và đáng yêu.
Nghĩ đến những con người quê hương, “tôi” mong muốn những em bé quê hương sẽ không còn “phải khốn khổ và tàn nhẫn…”, mong mỏi chúng nó được sống “một cuộc đời mà chúng tôi chưa từng được sống”.
Phần cuối truyện Cố hương tác giả viết một câu văn rất lạ mà hay. Sau khi ông nói đến mọi thứ “tượng gỗ” và “sùng bái tượng gỗ”, nói đến mong ước “gần gũi” và “xa vời”, nói đến “thực” và “hư’’ trong “hy vọng”, rồi ông hạ bút. Đó là suy ngẫm của “tôi”: “ Cũng giống như những con đường trên mặt đất; kỳ thực trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi”. Có con đường mưu sinh phải xa quê.
Có con đường tình nghĩa, không quản xa xôi, cách trở đã về thăm lại quê. Có con đường khổ ải. Có con đường hạnh phúc. Con đường gần, con đường xa, con đường hi vọng đi lên phía trước. Có con đường mòn… Cũng có chuyện phá lối mở đường. Con đường đến với mỗi người là con đường số phận. Con đường của mỗi dân tộc là con đường cách mạng. Phải chăng đó là ý tưởng sâu sắc về hình tượng con đường trong Cố hương.
Ca dao có câu:
Quê hương nghĩa nặng tình sâu,
Bể dâu biến đổi biết đâu là nhà
Đọc Cố hương của Lỗ Tấn, tôi bâng khuâng mãi về tiếng hát ấy từng vang vọng khắp miền Trung thân yêu của quê mẹ…