Truyện Kiều Của Nguyễn Du [Nội Dung Bài Thơ + Giá Trị + Phân Tích]

Truyện Kiều [Nguyễn Du] ❤️️ Nội Dung Bài Thơ, Giá Trị, Phân Tích ✅ Chia Sẻ Thông Tin Về Hoàn Cảnh Sáng Tác, Bố Cục, Đọc Hiểu, Giáo Án.

Nội Dung Truyện Kiều

Truyện Kiều của Nguyễn Du là một trong những kiệt tác văn học đã kết tinh những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của thời đại. Thohay.vn xin chia sẻ cho bạn đọc những nội dung Truyện Kiều nổi bật nhất bên dưới.

Kiều thăm mộ Đạm tiên

Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
5. Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Cảo thơm lần giở trước đèn,
Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh.
Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh,
10. Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng.
Có nhà viên ngoại họ Vương,
Gia tư nghĩ cũng thường thường bực trung.
Một trai con thứ rốt lòng,
Vương Quan là chữ, nối dòng nho gia.
15. Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
20. Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo, mặn mà,
So bề tài, sắc, lại là phần hơn.
25. Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một, hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.
Thông minh vốn sẵn tư trời,
30. Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên bạc mệnh, lại càng não nhân.
35. Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Ngày xuân con én đưa thoi,
40. Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ, hội là đạp Thanh.
45. Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử, giai nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như nêm.
Ngổn ngang gò đống kéo lên,
50. Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.
Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
55. Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Sè sè nấm đất bên đàng,
Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.
Rằng: Sao trong tiết thanh minh,
60. Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?
Vương Quan mới dẫn gần xa:
Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi.
Nổi danh tài sắc một thì,
Xôn xao ngoài cửa hiếm gì yến anh.
65. Kiếp hồng nhan có mong manh,
Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương.
Có người khách ở viễn phương,
Xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi.
Thuyền tình vừa ghé tới nơi,
70. Thì đà trâm gẫy bình rơi bao giờ.
Buồng không lạnh ngắt như tờ,
Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh.
Khóc than khôn xiết sự tình,
Kéo vô duyên ấy là mình với ta.
75. Đã không duyên trước chăng mà,
Thì chi chút ước gọi là duyên sau.
Sắm xanh nếp tử xe châu,
Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa.
Trải bao thỏ lặn ác tà,
80. Ấy mồ vô chủ, ai mà viếng thăm!
Lòng đâu sẵn mối thương tâm,
Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa.
Đau đớn thay phận đàn bà!
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
85. Phũ phàng chi bấy hoá công,
Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha.
Sống làm vợ khắp người ta,
Khéo thay thác xuống làm ma không chồng.
Nào người phượng chạ loan chung,
90. Nào người tích lục tham hồng là ai?
Đã không kẻ đoái người hoài,
Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương.
Gọi là gặp gỡ giữa đường,
Họa là người dưới suối vàng biết cho.
95. Lầm rầm khấn khứa nhỏ to,
Sụp ngồi vài gật trước mồ bước ra.
Một vùng cỏ áy bóng tà,
Gió hiu hiu thổi một vài bông lau.
Rút trâm sẵn giắt mái đầu,
100. Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần.
Lại càng mê mẩn tâm thần
Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra.
Lại càng ủ dột nét hoa,
Sầu tuôn đứt nối, châu sa vắn dài.
105. Vân rằng: Chị cũng nực cười,
Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa.
Rằng: Hồng nhan tự thuở xưa,
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu?
Nỗi niềm tưởng đến mà đau,
110. Thấy người nằm đó biết sau thế nào?
Quan rằng: Chị nói hay sao,
Một lời là một vận vào khó nghe.
Ở đây âm khí nặng nề,
Bóng chiều đã ngả dặm về còn xa.
115. Kiều rằng: Những đấng tài hoa,
Thác là thể phách, còn là tinh anh,
Dễ hay tình lại gặp tình,
Chờ xem ắt thấy hiển linh bây giờ.
Một lời nói chửa kịp thưa,
120. Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay.
Ào ào đổ lộc rung cây,
Ở trong dường có hương bay ít nhiều.
Đè chừng ngọn gió lần theo,
Dấu giày từng bước in rêu rành rành.
125. Mắt nhìn ai nấy đều kinh,
Nàng rằng: Này thực tinh thành chẳng xa.
Hữu tình ta lại gặp ta,
Chớ nề u hiển mới là chị em.
Đã lòng hiển hiện cho xem,
Tạ lòng nàng lại nối thêm vài lời.
130. Lòng thơ lai láng bồi hồi,
Gốc cây lại vạch một bài cổ thi.
Dùng dằng nửa ở nửa về,
Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần.
135. Trông chừng thấy một văn nhân,
Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng.
Đề huề lưng túi gió trăng,
Sau chân theo một vài thằng con con.
Tuyết in sắc ngựa câu giòn,
140. Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.
Nẻo xa mới tỏ mặt người,
Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình.
Hài văn lần bước dặm xanh,
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao.
145. Chàng Vương quen mặt ra chào,
Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa.
Nguyên người quanh quất đâu xa,
Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh.
Nền phú hậu, bậc tài danh,
150. Văn chương nết đất, thông minh tính trời.
Phong tư tài mạo tót vời,
Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa.
Chung quanh vẫn đất nước nhà,
Với Vương Quan trước vẫn là đồng thân.
155. Vẫn nghe thơm nức hương lân,
Một nền đồng Tước khóa xuân hai Kiều.
Nước non cách mấy buồng thêu,
Những là trộm nhớ thầm yêu chốc mòng.
May thay giải cấu tương phùng,
160. Gặp tuần đố lá thoả lòng tìm hoa.
Bóng hồng nhác thấy nẻo xa,
Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai.
Người quốc sắc, kẻ thiên tài,
Tình trong như đã, mặt ngoài còn e.
165. Chập chờn cơn tỉnh cơn mê.
Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn.
Bóng tà như giục cơn buồn,
Khách đà lên ngựa, người còn nghé theo.
Dưới cầu nước chảy trong veo,
170. Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
Kiều từ trở gót trướng hoa,
Mặt trời gác núi chiêng đà thu không.
Mảnh trăng chênh chếch dòm song,
Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân.
175. Hải đường lả ngọn đông lân,
Giọt sương gieo nặng cành xuân la đà.
Một mình lặng ngắm bóng nga,
Rộn đường gần với nỗi xa bời bời:
Người mà đến thế thì thôi,
180. Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi!
Người đâu gặp gỡ làm chi,
Trăm năm biết có duyên gì hay không?
Ngổn ngang trăm mối bên lòng,
Nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình.
185. Chênh chênh bóng nguyệt xế mành,
Tựa nương bên triện một mình thiu thiu.
Thoắt đâu thấy một tiểu kiều,
Có chiều thanh vận, có chiều thanh tân.
Sương in mặt, tuyết pha thân,
190. Sen vàng lãng đãng như gần như xa.
Chào mừng đón hỏi dò la:
Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây?
Thưa rằng: Thanh khí xưa nay,
Mới cùng nhau lúc ban ngày đã quên.
195. Hàn gia ở mé tây thiên,
Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu.
Mấy lòng hạ cố đến nhau,
Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng.
Vâng trình hội chủ xem tường,
200. Mà sao trong sổ đoạn trường có tên.
Âu đành quả kiếp nhân duyên,
Cùng người một hội, một thuyền đâu xa!
Này mười bài mới mới ra,
Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời.
205. Kiều vâng lĩnh ý đề bài,
Tay tiên một vẫy đủ mười khúc ngâm.
Xem thơ nức nở khen thầm:
Giá đành tú khẩu cẩm tâm khác thường
Ví đem vào tập Đoạn Trường
210. Thì treo giải nhất chi nhường cho ai.
Thềm hoa khách đã trở hài,
Nàng còn cầm lại một hai tự tình.
Gió đâu xịch bức mành mành,
Tỉnh ra mới biết rằng mình chiêm bao.
215. Trông theo nào thấy đâu nào
Hương thừa dường hãy ra vào đâu đây.
Một mình lưỡng lự canh chầy,
Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh.
Hoa trôi bèo dạt đã đành,
220. Biết duyên mình, biết phận mình thế thôi!
Nỗi riêng lớp lớp sóng dồi,
Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn.
Giọng Kiều rền rĩ trướng loan,
Nhà Huyên chợt tỉnh hỏi: Cơn cớ gì?
225. Cớ sao trằn trọc canh khuya,
Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa?
Thưa rằng: Chút phận ngây thơ,
Dưỡng sinh đôi nợ tóc tơ chưa đền.
Buổi ngày chơi mộ Đạm Tiên,
230. Nhắp đi thoắt thấy ứng liền chiêm bao.
Đoạn trường là số thế nào,
Bài ra thế ấy, vịnh vào thế kia.
Cứ trong mộng triệu mà suy,
Phận con thôi có ra gì mai sau!
235. Dạy rằng: Mộng triệu cớ đâu,
Bỗng không mua não chuốc sầu nghĩ nao.
Vâng lời khuyên giải thấp cao,
Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch Tương.
Ngoài song thỏ thẻ oanh vàng,
240. Nách tường bông liễu bay ngang trước mành.
Hiên tà gác bóng chênh chênh,
Nỗi riêng, riêng chạnh tấc riêng một mình.
Cho hay là thói hữu tình,
Đố ai gỡ mối tơ mành cho xong.

Kiều gặp Kim Trọng

245. Chàng Kim từ lại thư song,
Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây.
Sầu đong càng lắc càng đầy,
Ba thu dồn lại một ngày dài ghê.
Mây Tần khóa kín song the,
250. Bụi hồng lẽo đẽo đi về chiêm bao.
Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao,
Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng.
Buồng văn hơi giá như đồng,
Trúc se ngọn thỏ, tơ chùng phím loan.
255. Mành Tương phất phất gió đàn,
Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình.
Vì chăng duyên nợ ba sinh,
Thì chi đem thói khuynh thành trêu ngươi.
Bâng khuâng nhớ cảnh, nhớ người,
260. Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi.
Một vùng cỏ mọc xanh rì,
Nước ngâm trong vắt, thấy gì nữa đâu!
Gió chiều như gợi cơn sầu,
Vi lô hiu hắt như màu khảy trêu.
265. Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều,
Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang.
Thâm nghiêm kín cổng cao tường,
Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh.
Lơ thơ tơ liễu buông mành,
270. Con oanh học nói trên cành mỉa mai.
Mấy lần cửa đóng then cài,
Đầy thềm hoa rụng, biết người ở đâu?
Tần ngần đứng suốt giờ lâu,
Dạo quanh chợt thấy mái sau có nhà.
275. Là nhà Ngô Việt thương gia,
Buồng không để đó người xa chưa về.
Lấy điều du học hỏi thuê,
Túi đàn cặp sách đề huề dọn sang.
Có cây, có đá sẵn sàng,
280. Có hiên Lãm thúy, nét vàng chưa phai.
Mừng thầm chốn ấy chữ bài,
Ba sinh âu hẳn duyên trời chi đây.
Song hồ nửa khép cánh mây,
Tường đông ghé mắt ngày ngày hằng trông.
285. Tấc gang đồng tỏa nguyên phong,
Tuyệt mù nào thấy bóng hồng vào ra.
Nhẫn từ quán khách lân la,
Tuần trăng thấm thoắt nay đà thèm hai.
Cách tường phải buổi êm trời,
290. Dưới đào dường có bóng người thướt tha.
Buông cầm xốc áo vội ra,
Hương còn thơm nức, người đà vắng tanh.
Lần theo tường gấm dạo quanh,
Trên đào nhác thấy một cành kim thoa.
295. Giơ tay với lấy về nhà:
Này trong khuê các đâu mà đến đây?
Ngẫm âu người ấy báu này,
Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm!
Liền tay ngắm nghía biếng nằm,
300. Hãy còn thoang thoảng hương trầm chưa phai.
Tan sương đã thấy bóng người,
Quanh tường ra ý tìm tòi ngẩn ngơ.
Sinh đà có ý đợi chờ,
Cách tường lên tiếng xa đưa ướm lòng:
305. Thoa này bắt được hư không,
Biết đâu Hợp Phố mà mong châu về?
Tiếng Kiều nghe lọt bên kia:
Ơn lòng quân tử sá gì của rơi,
Chiếc thoa nào của mấy mươi,
310. Mà lòng trọng nghĩa khinh tài xiết bao!
Sinh rằng: Lân lý ra vào,
Gần đây nào phải người nào xa xôi.
Được rày nhờ chút thơm rơi,
Kể đà thiểu não lòng người bấy nay!
315. Bấy lâu mới được một ngày,
Dừng chân gạn chút niềm tây gọi là.
Vội về thêm lấy của nhà,
Xuyến vàng đôi chiếc khăn là một vuông.
Bậc mây rón bước ngọn tường,
320. Phải người hôm nọ rõ ràng chẳng nhe?
Sượng sùng giữ ý rụt rè,
Kẻ nhìn rõ mặt người e cúi đầu.
Rằng: Từ ngẫu nhĩ gặp nhau.
Thầm trông trộm nhớ bấy lâu đã chồn.
325. Xương mai tính đã rũ mòn,
Lần lừa ai biết hãy còn hôm nay!
Tháng tròn như gởi cung mây,
Trần trần một phận ấp cây đã liều!
Tiện đây xin một hai điều,
330. Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng?
Ngần ngừ nàng mới thưa rằng:
Thói nhà băng tuyết chất hằng phỉ phong,
Dù khi lá thắm chỉ hồng,
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.
335. Nặng lòng xót liễu vì hoa,
Trẻ thơ đã biết đâu mà dám thưa!
Sinh rằng: Rày gió mai mưa,
Ngày xuân đã dễ tình cờ mấy khi!
Dù chăng xét tấm tình si,
340. Thiệt đây mà có ích gì đến ai?
Chút chi gắn bó một hai,
Cho đành rồi sẽ liệu bài mối manh.
Khuôn thiêng dù phụ tấc thành,
Cũng liều bỏ quá xuân xanh một đời.
345. Lượng xuân dù quyết hẹp hòi,
Công đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm ru!
Lặng nghe lời nói như ru,
Chiều xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng.
Rằng: Trong buổi mới lạ lùng,
350. Nể lòng có lẽ cầm lòng cho đang!
Đã lòng quân tử đa mang,
Một lời vàng tạc đá vàng thủy chung.
Được lời như cởi tấm lòng,
Giờ kim hoàn với khăn hồng trao tay.
355. Rằng: Trăm năm cũng từ đây,
Của tin gọi một chút này làm ghi.
Sẵn tay khăn gấm quạt quỳ,
Với cành thoa ấy tức thì đổi trao.
Một lời vừa gắn tất giao,
360. Mái sau dường có xôn xao tiếng người.
Vội vàng lá rụng hoa rơi,
Chàng về viện sách nàng dời lầu trang.
Từ phen đá biết tuổi vàng,
Tình càng thấm thía dạ càng ngẩn ngơ.
365. Sông Tương một dải nông sờ,
Bên trông đầu nọ bên chờ suối kia.
Một tường tuyết trở sương che.
Tin xuân đâu dễ đi về cho năng.
Lần lần ngày gió đêm trăng,
370. Thưa hồng rậm lục đã chừng xuân qua.
Ngày vừa sinh nhật ngoại gia,
Trên hai đường dưới nữa là hai em.
Tưng bừng sắm sửa áo xiêm,
Biện dâng một lễ xa đem tấc thành.
375. Nhà lan thanh vắng một mình,
Ngẫm cơ hội ngộ đã dành hôm nay.
Thời trân thức thức sẵn bày,
Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mái tường.
Cách hoa sẽ dặng tiếng vàng,
380. Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông:
Trách lòng hờ hững với lòng,
Lửa hương chốc để lạnh lùng bấy lâu.
Những là đắp nhớ đổi sầu,
Tuyết sương nhuốm nửa mái đầu hoa râm.
385. Nàng rằng: Gió bắt mưa cầm,
Đã cam tệ với tri âm bấy chầy.
Vắng nhà được buổi hôm nay,
Lấy lòng gọi chút ra đây tạ lòng!
Lần theo núi giả đi vòng,
390. Cuối tường dường có nẻo thông mới rào.
Xắn tay mở khóa động đào,
Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên-thai.
Mặt nhìn mặt càng thêm tươi,
Bên lời vạn phúc bên lời hàn huyên.
395. Sánh vai về chốn thư hiên,
Góp lời phong nguyệt nặng nguyền non sông.
Trên yên bút giá thi đồng,
Đạm thanh một bức tranh tùng treo trên.
Phong sương được vẻ thiên nhiên,
400. Mặt khen nét bút càng nhìn càng tươi.
Sinh rằng: Phác họa vừa rồi,
Phẩm đề xin một vài lời thêm hoa.
Tay tiên gió táp mưa sa,
Khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu.
405. Khen: Tài nhả ngọc phun châu,
Nàng Ban ả Tạ cũng đâu thế này!
Kiếp tu xưa ví chưa dày
Phúc nào nhắc được giá này cho ngang!
Nàng rằng: Trộm liếc dung quang,
410. Chẳng sân bội ngọc cũng phường kim môn.
Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn,
Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay?
Nhớ từ năm hãy thơ ngây,
Có người tướng sĩ đoán ngay một lời:
415. Anh hoa phát tiết ra ngoài,
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa.
Trông người lại ngẫm đến ta,
Một dầy một mỏng biết là có nên?
Sinh rằng: Giải cấu là duyên,
420. Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều.
Ví dù giải kết đến điều,
Thì đem vàng đá mà liều với thân!
Đủ điều trung khúc ân cần,
Lòng xuân phơi phới chén xuân tàng tàng.
425. Ngày vui ngắn chẳng đầy gang,
Trông ra ác đã ngậm gương non đoài.
Vắng nhà chẳng tiện ngồi dai,
Giã chàng nàng mới kíp dời song sa.
Đến nhà vừa thấy tin nhà,
430. Hai thân còn dở tiệc hoa chưa về.
Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.
Nhặt thưa gương giọi đầu cành,
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu.
435. Sinh vừa tựa án thiu thiu,
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê.
Tiếng sen sẽ động giấc hòe,
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.
Bâng khuâng đỉnh Giáp non Thần,
440. Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
Nàng rằng: Khoảng vắng đêm trường,
Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa.
Bây giờ rõ mặt đôi ta,
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?
445. Vội mừng làm lễ rước vào,
Đài sen nối sáp song đào thêm hương.
Tiên thề cùng thảo một chương,
Tóc mây một món dao vàng chia đôi.
Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
450. Đinh ninh hai mặt một lời song song.
Tóc tơ căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.
Chén hà sánh giọng quỳnh tương,
Dải là hương lộn bình gương bóng lồng.
455. Sinh rằng: Gió mát trăng trong,
Bấy lâu nay một chút lòng chưa cam.
Chày sương chưa nện cầu Lam,
Sợ lần khân quá ra sàm sỡ chăng?
Nàng rằng: Hồng diệp xích thằng,
460. Một lời cũng đã tiếng rằng tương tri.
Đừng điều nguyệt nọ hoa kia.
Ngoài ra ai lại tiếc gì với ai.
Rằng: Nghe nổi tiếng cầm đài,
Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ.
465. Thưa rằng: Tiện kỹ sá chi,
Đã lòng dạy đến dạy thì phải vâng.
Hiên sau treo sẵn cầm trăng,
Vội vàng Sinh đã tay nâng ngang mày.
Nàng rằng: Nghề mọn riêng tay,
470. Làm chi cho bận lòng này lắm thân!
So dần dây vũ dây văn,
Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương.
Khúc đâu Hán Sở chiến trường,
Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau.
475. Khúc đâu Tư mã Phượng cầu,
Nghe ra như oán như sầu phải chăng!
Kê Khang này khúc Quảng lăng,
Một rằng lưu thủy hai rằng hành vân.
Qua quan này khúc Chiêu Quân,
480. Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia.
Trong như tiếng hạc bay qua,
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời.
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa.
485. Ngọn đèn khi tỏ khi mờ,
Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu.
Khi tựa gối khi cúi đầu,
Khi vò chín khúc khi chau đôi mày.
Rằng: Hay thì thật là hay,
490. Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào!
Lựa chi những bậc tiêu tao,
Dột lòng mình cũng nao nao lòng người?
Rằng: Quen mất nết đi rồi,
Tẻ vui thôi cũng tính trời biết sao!
495. Lời vàng âm lĩnh ý cao,
Họa dần dần bớt chút nào được không.
Hoa hương càng tỏ thức hồng,
Đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu.
Sóng tình dường đã xiêu xiêu,
500. Xem trong âu yếm có chiều lả lơi.
Thưa rằng: đừng lấy làm chơi,
Dẽ cho thưa hết một lời đã nao!
Vẻ chi một đóa yêu đào,
Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh.
505. Đã cho vào bậc bố kinh,
Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu
Ra tuồng trên Bộc trong dâu,
Thì con người ấy ai cầu làm chi!
Phải điều ăn xổi ở thì,
510. Tiết trăm năm nỡ bỏ đi một ngày!
Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay,
Lứa đôi ai đẹp lại tày Thôi Trương.
Mây mưa đánh đổ đá vàng,
Quá chiều nên đã chán chường yến anh.
515. Trong khi chắp cánh liền cành,
Mà lòng rẻ rúng đã dành một bên.
Mái tây để lạnh hương nguyền,
Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng.
Gieo thoi trước chẳng giữ giàng,
520. Để sau nên thẹn cùng chàng bởi ai?
Vội chi liễu ép hoa nài,
Còn thân ắt lại đền bồi có khi!
Thấy lời đoan chính dễ nghe,
Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân.
525. Bóng tàu vừa lạt vẻ ngân,
Tin đâu đã thấy cửa ngăn gọi vào.
Nàng thì vội trở buồng thêu,
Sinh thì dạo gót sân đào bước ra.
Cửa sài vừa ngỏ then hoa,
530. Gia đồng vào gởi thư nhà mới sang.
Đem tin thúc phụ từ đường,
Bơ vơ lữ thấn tha hương đề huề.
Liêu dương cách trở sơn khê,
Xuân đường kíp gọi sinh về hộ tang.
535. Mảng tin xiết nỗi kinh hoàng,
Băng mình lẻn trước đài trang tự tình.
Gót đầu mọi nỗi đinh ninh,
Nỗi nhà tang tóc nỗi mình xa xôi:
Sự đâu chưa kịp đôi hồi,
540. Duyên đâu chưa kịp một lời trao tơ,
Trăng thề còn đó trơ trơ,
Dám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng.
Ngoài nghìn dặm chốc ba đông,
Mối sầu khi gỡ cho xong còn chầy!
545. Gìn vàng giữ ngọc cho hay,
Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời.
Tai nghe ruột rối bời bời,
Ngập ngừng nàng mới giãi lời trước sau:
Ông tơ ghét bỏ chi nhau,
550. Chưa vui sum họp đã sầu chia phôi!
Cùng nhau trót đã nặng lời,
Dẫu thay mái tóc dám dời lòng tơ!
Quản bao tháng đợi năm chờ,
Nghĩ người ăn gió nằm mưa xót thầm.
555. Đã nguyền hai chữ đồng tâm,
Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai.
Còn non còn nước còn dài,
Còn về còn nhớ đến người hôm nay!
Dùng dằng chưa nỡ rời tay,
560. Vầng đông trông đã đứng ngay nóc nhà.
Ngại ngùng một bước một xa,
Một lời trân trọng châu sa mấy hàng.
Buộc yên quảy gánh vội vàng,
Mối sầu xẻ nửa bước đường chia hai.
565. Buồn trông phong cảnh quê người,
Đầu cành quyên nhặt cuối trời nhạn thưa.
Não người cữ gió tuần mưa,
Một ngày nặng gánh tương tư một ngày.
Nàng còn đứng tựa hiên tây,
570. Chín hồi vấn vít như vầy mối tơ.
Trông chừng khói ngất song thưa,
Hoa trôi trác thắm, liễu xơ xác vàng.

Kiều Bán Mình Chuộc Cha

Tần ngần dạo gót lầu trang,
Một đoàn mừng thọ ngoại hương mới về,
575.Hàn huyên chưa kịp giãi dề,
Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao.
Người nách thước, kẻ tay đao;
Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi.
Già giang một lão một trai,
580.Một dây vô lại buộc hai thâm tình.
Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh,
Rụng rời khung dệt, tan tành gói may.
Đồ tế nhuyễn, của riêng tây,
Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham.
585.Điều đâu bay buộc ai làm?
Này ai dan dậm, giật giàm bỗng dưng?
Hỏi ra sau mới biết rằng:
Phải tên xưng xuất là thằng bán tơ.
Một nhà hoảng hốt ngẩn ngơ,
590.Tiếng oan dậy đất, án ngờ lòa mây.
Hạ từ van lạy suốt ngày,
Điếc tai lân tuất, phũ tay tồi tàn.
Rường cao rút ngược dây oan,
Dẫu là đá cũng nát gan, lọ người.
595.Mặt trông đau đớn rụng rời,
Oan này còn một kêu trời, nhưng xa.
Một ngày lạ thói sai nha,
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền.
Sao cho cốt nhục vẹn tuyền,
600.Trong khi ngộ biến tòng quyền biết sao?
Duyên hội ngộ, đức cù lao,
Bên tình bên hiếu, bên nào nặng hơn?
Để lời thệ hải minh sơn,
Làm con trước phải đền ơn sinh thành.
605.Quyết tình nàng mới hạ tình:
Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha!
Họ Chung có kẻ lại già,
Cũng trong nha dịch lại là từ tâm.
Thấy nàng hiếu trọng tình thâm,
610.Vì nàng nghĩ cũng thương thầm xót vay.
Tính bài lót đó luồn đây,
Có ba trăm lạng việc này mới xuôi.
Hãy về tạm phó giam ngoài,
Dặn nàng qui liệu trong đôi ba ngày.
615.Thương tình con trẻ thơ ngây,
Gặp cơn vạ gió tai bay bất kỳ!
Đau lòng tử biệt sinh ly,
Thân còn chẳng tiếc, tiếc gì đến duyên!
Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,
620.Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân.

Sự lòng ngỏ với băng nhân,
Tin sương đồn đại xa gần xôn xao.
Gần miền có một mụ nào,
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh.
625.Hỏi tên rằng: Mã Giám sinh.
Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần.
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.
Trước thầy sau tớ lao xao
630.Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng,
Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra.
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng!
635.Ngại ngùng giợn gió e sương,
Nhìn hoa bóng thẹn, trông gương mặt dày.
Mối càng vén tóc bắt tay,
Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai.
Đắn đo cân sắc cân tài,
640.Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ.
Mặn nồng một vẻ một ưa,
Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu.
Rằng: Mua ngọc đến Lam Kiều,
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?
645.Mối rằng: đáng giá nghìn vàng,
Gấp nhà nhờ lượng người thương dám nài.
Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.
Một lời thuyền đã êm dằm
650.Hãy đưa canh thiếp trước cầm làm ghi.
Định ngày nạp thái vu qui,
Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong!
Một lời cậy với Chung công,
Khất từ tạm lĩnh Vương ông về nhà.
655.Thương tình con trẻ cha già,
Nhìn nàng ông những máu sa ruột dàu:
Nuôi con những ước về sau,
Trao tơ phải lứa, gieo cầu đáng nơi.
Trời làm chi cực bấy trời,
660.Này ai vu thác cho người hợp tan!
Búa rìu bao quản thân tàn,
Nỡ đầy đọa trẻ, càng oan khốc già.
Một lần sau trước cũng là,
Thôi thì mặt khuất chẳng thà lòng đau!
665.Theo lời càng chảy dòng châu,
Liều mình ông rắp gieo đầu tường vôi.
Vội vàng kẻ giữ người coi,
Nhỏ to nàng lại tìm lời khuyên can:
Vẻ chi một mảnh hồng nhan,
670.Tóc tơ chưa chút đền ơn sinh thành.
Dâng thư đã thẹn nàng Oanh,
Lại thua ả Lý bán mình hay sao?
Cỗi xuân tuổi hạc càng cao,
Một cây gánh vác biết bao nhiêu cành.
675.Lòng tơ dù chẳng dứt tình,
Gió mưa âu hẳn tan tành nưóc non.
Thà rằng liều một thân con,
Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây.
Phận sao đành vậy cũng vầy,
680.Cầm như chẳng đậu những ngày còn xanh.
Cũng đừng tính quẩn lo quanh,
Tan nhà là một thiệt mình là hai.
Phải lời ông cũng êm tai,
Nhìn nhau giọt vắn giọt dài ngổn ngang.

685.Mái ngoài họ Mã vừa sang,
Tờ hoa đã ký, cân vàng mới trao.
Trăng già độc địa làm sao?
Cầm dây chẳng lựa buộc vào tự nhiên.
Trong tay đã sẵn đồng tiền,
690.Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì!
Họ Chung ra sức giúp vì,
Lễ tâm đã đặt, tụng kỳ cũng xong.
Việc nhà đã tạm thong dong,
Tinh kỳ giục giã đã mong độ về.
695.Một mình nàng ngọn đèn khuya,
Áo dầm giọt lệ, tóc xe mối sầu.
Phận dầu, dầu vậy cũng dầu,
Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời!
Công trình kể biết mấy mươi.
700.Vì ta khăng khít, cho người dở dang.
Thề hoa chưa ráo chén vàng,
Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa.
Trời Liêu non nước bao xa.
Nghĩ đâu rẽ cửa chia nhà tự tôi.
705.Biết bao duyên nợ thề bồi.
Kiếp này thôi thế thì thôi còn gì.
Tái sinh chưa dứt hương thề.
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai.
Nợ tình chưa trả cho ai,
710.Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan.
Nỗi riêng riêng những bàng hoàng,
Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn.
Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân,
Dưới đèn ghé đến ân cần hỏi han:
715.Cơ trời dâu bể đa đoan,
Một nhà để chị riêng oan một mình,
Cớ chi ngồi nhẫn tàn canh?
Nỗi riêng còn mắc mối tình chi đây?
Rằng: Lòng đương thổn thức đầy,
720.Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong.
Hở môi ra cũng thẹn thùng,
Để lòng thì phụ tấm lòng với ai.
Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
725.Giữa đường đứt gánh tương tư,
Loan giao chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
730.Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai!
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
735.Chiếc thoa với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc, ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin,
740.Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Mai sao dầu có bao giờ.
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
745.Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai;
Dạ đài cách mặt khuất lời,
Rẩy xin chén nước cho người thác oan.
Bây giờ trâm gẫy bình tan,
750.Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.
Trăm nghìn gửi lại tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Phận sao phận bạc như vôi,
Đã đành nước chẩy hoa trôi lỡ làng.
755.Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Cạn lời hồn ngất máu say,
Một hơi lặng ngắt đôi tay giá đồng.

Xuân Huyên chợt tỉnh giấc nồng,
760.Một nhà tấp nập, kẻ trong người ngoài.
Kẻ thang người thuốc bời bời,
Mới dằn cơn vựng, chưa phai giọt hồng.
Hỏi: Sao ra sự lạ lùng?
Kiều càng nức nở mở không ra lời.
765.Nỗi nàng Vân mới rỉ tai,
Chiếc thoa này với tờ bồi ở đây..
Này cha làm lỗi duyên mày,
Thôi thì nỗi ấy sau này đã em.
Vì ai rụng cải rơi kim,
770.Để con bèo nổi mây chìm vì ai.
Lời con dặn lại một hai,
Dẫu mòn bia đá, dám sai tấc vàng.
Lậy thôi, nàng lại thưa chiềng,
Nhờ cha trả được nghĩa chàng cho xuôi.
775.Sá chi thân phận tôi đòi,
Dẫu rằng xương trắng quê người quản đâu.
Xiết bao kể nỗi thảm sầu!
Khắc canh đã giục nam lâu mấy hồi.
Kiệu hoa đâu đã đến ngoài,
780.Quản huyền đâu đã giục người sinh ly.
Đau lòng kẻ ở người đi,
Lệ rơi thấm đá tơ chia rũ tằm.
Trời hôm mây kéo tối rầm,
Rầu rầu ngọn cỏ đầm đầm cành sương.
785.Rước nàng về đến trú phường,
Bốn bề xuân khóa một nàng ở trong.
Ngập ngừng thẹn lục e hồng,
Nghĩ lòng lại xót xa lòng đòi phen.
Phẩm tiên rơi đến tay hèn,
790.Hoài công nắng giữ mưa gìn với ai:
Biết thân đến bước lạc loài,
Nhị đào thà bẻ cho người tình chung.
Vì ai ngăn đón gió đông,
Thiệt lòng khi ở đau lòng khi đi.
795.Trùng phùng dầu họa có khi,
Thân này thôi có còn gì mà mong.
Đã sinh ra số long đong,
Còn mang lấy kiếp má hồng được sao?
Trên yên sẵn có con dao,
800.Giấu cầm nàng đã gói vào chéo khăn:
Phòng khi nước đã đến chân,
Dao này thì liệu với thân sau này.
Đêm thu một khắc một chầy,
Bâng khuâng như tỉnh như say một mình.

Kiều Gặp Từ Hải

Mịt mù dặm cát đồi cây,
2030.Tiếng gà điếm nguyệt dấu giày cầu sương.
Canh khuya thân gái dặm trường,
Phần e đường xá, phần thương dãi dầu!
Trời đông vừa rạng ngàn dâu,
Bơ vơ nào đã biết đâu là nhà!
2035.Chùa đâu trông thấy nẻo xa,
Rành rành Chiêu Ẩn Am ba chữ bài.
Xăm xăm gõ mái cửa ngoài,
Trụ trì nghe tiếng, rước mời vào trong.
Thấy màu ăn mặc nâu sồng,
2040.Giác Duyên sư trưởng lành lòng liền thương.
Gạn gùng ngành ngọn cho tường,
Lạ lùng nàng hãy tìm đường nói quanh:
Tiểu thiền quê ở Bắc Kinh,
Qui sư, qui Phật, tu hành bấy lâu.
2045.Bản sư rồi cũng đến sau,
Dạy đưa pháp bảo sang hầu sư huynh.
Rày vâng diện hiến rành rành,
Chuông vàng khánh bạc bên mình giở ra.
Xem qua sư mới dạy qua:
2050.Phải nơi Hằng Thủy là ta hậu tình.
Chỉ e đường sá một mình,
Ở đây chờ đợi sư huynh ít ngày.
Gửi thân được chốn am mây,
Muối dưa đắp đổi tháng ngày thong dong.
2055.Kệ kinh câu cũ thuộc lòng,
Hương đèn việc cũ, trai phòng quen tay.
Sớm khuya lá bối phướn mây,
Ngọn đèn khêu nguyệt, tiếng chày nện sương.
Thấy nàng thông tuệ khác thường,
2060.Sư càng nể mặt, nàng càng vững chân.
Cửa thuyền vừa tiết cuối xuân,
Bóng hoa đầy đất, vẻ ngân ngang trời.
Gió quang mây tạnh thảnh thơi,
Có người đàn việt lên chơi cửa Già.
2065.Giở đồ chuông khánh xem qua,
Khen rằng: Khéo giống của nhà Hoạn nương!
Giác Duyên thực ý lo lường,
Đêm thanh mới hỏi lại nàng trước sau.
Nghĩ rằng khôn nỗi giấu mầu,
2070.Sự mình nàng mới gót đầu bày ngay:
Bây giờ sự đã dường này,
Phận hèn dù rủi, dù may, tại người.
Giác Duyên nghe nói rụng rời,
Nửa thương, nửa sợ, bồi hồi chẳng xong.
2075.Rỉ tai nàng mới giãi lòng:
Ở đây cửa Phật là không hẹp gì;
E chăng những sự bất kỳ,
Để nàng cho đến thế thì cũng thương!
Lánh xa, trước liệu tìm đường,
2080.Ngồi chờ nước đến, nên đường còn quê!
Có nhà họ Bạc bên kia,
Am mây quen lối đi về dầu hương.
Nhắn sang, dặn hết mọi đường,
Dọn nhà hãy tạm cho nàng trú chân.

2085.Những mừng được chốn an thân,
Vội vàng nào kịp tính gần tính xa.
Nào ngờ cũng tổ bợm già,
Bạc bà học với Tú bà đồng môn!
Thấy nàng mặt phấn tươi son,
2090.Mừng thầm được mối bán buôn có lời.
Hư không đặt để nên lời,
Nàng đà nhớn nhác rụng rời lắm phen.
Mụ càng xua đuổi cho liền,
Lấy lời hung hiểm ép duyên Châu Trần.
2095.Rằng: Nàng muôn dặm một thân,
Lại mang lấy tiếng dữ gần, lành xa.
Khéo oan gia, của phá gia,
Còn ai dám chứa vào nhà nữa đây!
Kíp toan kiếm chốn xe dây,
2100.Không dưng chưa dễ mà bay đường trời!
Nơi gần thì chẳng tiện nơi,
Nơi xa thì chẳng có người nào xa.
Này chàng Bạc Hạnh cháu nhà,
Cùng trong thân thích ruột rà, chẳng ai.
2105.Cửa hàng buôn bán châu Thai,
Thực thà có một, đơn sai chẳng hề.
Thế nào nàng cũng phải nghe,
Thành thân rồi sẽ liệu về châu Thai.
Bấy giờ ai lại biết ai,
2110.Dầu lòng bể rộng sông dài thênh thênh.
Nàng dù quyết chẳng thuận tình,
Trái lời nẻo trước lụy mình đến sau.
Nàng càng mặt ủ mày chau,
Càng nghe mụ nói, càng đau như dần.
2115.Nghĩ mình túng đất, sẩy chân,
Thế cùng nàng mới xa gần thở than:
Thiếp như con én lạc đàn,
Phải cung rày đã sợ làn cây cong!
Cùng đường dù tính chữ tòng,
2120.Biết người, biết mặt, biết lòng làm sao?
Nữa khi muôn một thế nào,
Bán hùm, buôn sói, chắc vào lưng đâu?
Dù ai lòng có sở cầu,
Tâm mình xin quyết với nhau một lời.
2125.Chứng minh có đất, có Trời,
Bấy giờ vượt bể ra khơi quản gì?
Được lời mụ mới ra đi,
Mách tin họ Bạc tức thì sắm sanh.
Một nhà dọn dẹp linh đình,
2130.Quét sân, đặt trác, rửa bình, thắp nhang.
Bạc sinh quì xuống vội vàng,
Quá lời nguyện hết Thành hoàng, Thổ công.
Trước sân lòng đã giãi lòng,
Trong màn làm lễ tơ hồng kết duyên.
2135.Thành thân mới rước xuống thuyền,
Thuận buồm một lá, xuôi miền châu Thai.
Thuyền vừa đỗ bến thảnh thơi,
Bạc sinh lên trước tìm nơi mọi ngày.
Cũng nhà hành viện xưa nay,
2140.Cũng phường bán thịt, cũng tay buôn người.
Xem người định giá vừa rồi,
Mối hàng một, đã ra mười, thì buông.
Mượn người thuê kiệu rước nường,
Bạc đem mặt bạc, kiếm đường cho xa!
2145.Kiệu hoa đặt trước thềm hoa,
Bên trong thấy một mụ ra vội vàng.
Đưa nàng vào lạy gia đường,
Cũng thần mày trắng, cũng phường lầu xanh!
Thoắt trông nàng đã biết tình,
2150.Chim lồng khốn lẽ cất mình bay cao.
Chém cha cái số hoa đào,
Gỡ ra, rồi lại buộc vào như chơi!
Nghĩ đời mà chán cho đời,
Tài tình chi lắm, cho trời đất ghen!
2155.Tiếc thay nước đã đánh phèn,
Mà cho bùn lại vẩn lên mấy lần!
Hồng quân với khách hồng quần,
Đã xoay đến thế, còn vần chửa tha.
Lỡ từ lạc bước bước ra,
2160.Cái thân liệu những từ nhà liệu đi.
Đầu xanh đã tội tình chi?
Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi.
Biết thân chạy chẳng khỏi trời,
Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.

2165.Lần thu gió mát trăng thanh,
Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi,
Râu hùm, hàm én, mày ngài,
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.
Đường đường một đấng anh hào,
2170.Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài.
Đội trời đạp đất ở đời,
Họ Từ tên Hải, vốn người Việt đông.
Giang hồ quen thú vẫy vùng,
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo.
2175.Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều,
Tấm lòng nhi nữ cùng xiêu anh hùng.
Thiếp danh đưa đến lầu hồng,
Hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa.
Từ rằng: Tâm phúc tương cờ
2180.Phải người trăng gió vật vờ hay sao?
Bấy lâu nghe tiếng má đào,
Mắt xanh chẳng để ai vào có không?
Một đời được mấy anh hùng,
Bõ chi cá chậu, chim lồng mà chơi!
2185.Nàng rằng: Người dạy quá lời,
Thân này còn dám xem ai làm thường!
Chút riêng chọn đá thử vàng,
Biết đâu mà gởi can tràng vào đâu?
Còn như vào trước ra sau,
2190.Ai cho kén chọn vàng thau tại mình.
Từ rằng: Lời nói hữu tình,
Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên Quân.
Lại đây xem lại cho gần,
Phỏng tin được một vài phần hay không?
2195.Thưa rằng: Lượng cả bao dong,
Tấn Dương được thấy mây rồng có phen.
Rộng thương cỏ nội hoa hèn,
Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!
Nghe lời vừa ý gật đầu,
2200.Cười rằng: Tri kỷ trước sau mấy người!
Khen cho con mắt tinh đời,
Anh hùng đoán giữa trần ai mới già!
Một lời đã biết tên ta,
Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau!
2205.Hai bên ý hợp tâm đầu,
Khi thân chẳng lọ là cầu mới thân!
Ngỏ lời nói với băng nhân,
Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn.
Buồng riêng sửa chốn thanh nhàn,
2210.Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên.
Trai anh hùng, gái thuyền nguyên,
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng.
Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
2215.Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm, yên ngựa lên đàng thẳng rong.
Nàng rằng: Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi!
Từ rằng: Tâm phúc tương tri,
2220.Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia,
2225.Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận, biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì?
Quyết lời rứt áo ra đi,
2230.Cánh bằng tiện gió cất lìa dậm khơi.

Nàng thì chiếc bóng song mai,
Đêm thâu đằng đẵng, nhặt cài then mây.
Sân rêu chẳng vẽ dấu giầy,
Cỏ cao hơn thước, liễu gầy vài phân.
2235.Đoái thương muôn dặm tử phần
Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa;
Xót thay huyên cỗi xuân già,
Tấm lòng thương nhớ, biết là có nguôi.
Chốc là mười mấy năm trời,
2240.Còn ra khi đã da mồi tóc sương.
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng!
Duyên em dù nối chỉ hồng,
May ra khi đã tay bồng tay mang.
2245.Tấc lòng cố quốc tha hương,
Đường kia nỗi nọ ngổn ngang bời bời.
Cánh hồng bay bổng tuyệt vời,
Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm.
Đêm ngày luống những âm thầm,
2250.Lửa binh đâu đã ầm ầm một phương,
Ngất trời sát khí mơ màng,
Đầy sông kình ngạc, chật đường giáp binh.
Người quen kẻ thuộc chung quanh
Nhủ nàng hãy tạm lánh mình một nơi.
2255.Nàng rằng: Trước đã hẹn lời,
Dẫu trong nguy hiểm dám rời ước xưa.
Còn đương dùng dắng ngẩn ngơ
Mái ngoài đã thấy bóng cờ tiếng loa.
Giáp binh kéo đến quanh nhà,
2260.Đồng thanh cùng gửi: nào là phu nhân?
Hai bên mười vị tướng quân,
Đặt gươm, cởi giáp, trước sân khấu đầu.
Cung nga, thể nữ nối sau,
Rằng: Vâng lệnh chỉ rước chầu vu qui.
2265.Sẵn sàng phượng liễn loan nghi,
Hoa quan phấp phới hà y rỡ ràng.
Dựng cờ, nổi trống lên đàng,
Trúc tơ nổi trước, kiệu vàng theo sau.
Hoả bài tiền lộ ruổi mau,
2270.Nam đình nghe động trống chầu đại doanh.
Kéo cờ lũy, phát súng thành,
Từ công ra ngựa, thân nghênh cửa ngoài.
Rỡ mình, là vẻ cân đai,
Hãy còn hàm én mày ngài như xưa.
2275.Cười rằng: Cá nước duyên ưa,
Nhớ lời nói những bao giờ hay không?
Anh hùng mới biết anh hùng,
Rầy xem phỏng đã cam lòng ấy chưa?
Nàng rằng: Chút phận ngây thơ,
2280.Cũng may dây cát được nhờ bóng cây.
Đến bây giờ mới thấy đây,
Mà lòng đã chắc những ngày một hai.
Cùng nhau trông mặt cả cười,
Dan tay về chốn trướng mai tự tình.
2285.Tiệc bày thưởng tướng khao binh
Om thòm trống trận, rập rình nhạc quân.
Vinh hoa bõ lúc phong trần,
Chữ tình ngày lại thêm xuân một ngày.

Kiều – Kim Trọng Đoàn Tụ

Cơ duyên đâu bỗng lạ sao,
Giác Duyên đâu bỗng tìm vào đến nơi.
2975.Trông lên linh vị chữ bài,
Thất kinh mới hỏi: Những người đâu ta?
Với nàng thân thích gần xa,
Người còn sao bỗng làm ma khóc người?
Nghe tin ngơ ngác rụng rời,
2980.Xúm quanh kể lể rộn lời hỏi tra:
Này chồng này mẹ này cha,
Này là em ruột này là em dâu.
Thật tin nghe đã bấy lâu,
Pháp sư dạy thế sự đâu lạ thường!
2985.Sư rằng: Nhân quả với nàng,
Lâm truy buổi trước Tiền đường buổi sau.
Khi nàng gieo ngọc trầm châu,
Đón nhau tôi đã gặp nhau rước về,
Cùng nhau nương cửa bồ đề,
2990.Thảo am đó cũng gần kề chẳng xa.
Phật tiền ngày bạc lân la,
Đăm đăm nàng cũng nhớ nhà khôn khuây.
Nghe tin nở mặt nở mày,
Mừng nào lại quá mừng này nữa chăng?
2995.Từ phen chiếc lá lìa rừng,
Thăm tìm luống những liệu chừng nước mây.
Rõ ràng hoa rụng hương bay,
Kiếp sau họa thấy kiếp này hẳn thôi.
Minh dương đôi ngả chắc rồi,
3000.Cõi trần mà lại thấy người cửu nguyên!
Cùng nhau lạy tạ Giác Duyên,
Bộ hành một lũ theo liền một khi.
Bẻ lau vạch cỏ tìm đi,
Tình thâm luống hãy hồ nghi nửa phần.
3005.Quanh co theo dải giang tân,
Khỏi rừng lau đã tới sân Phật đường.
Giác Duyên lên tiếng gọi nàng,
Buồng trong vội dạo sen vàng bước ra.
Trông xem đủ mặt một nhà:
3010.Xuân già còn khỏe huyên già còn tươi.
Hai em phương trưởng hòa hai,
Nọ chàng Kim đó là người ngày xưa!
Tưởng bây giờ là bao giờ,
Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao!
3015.Giọt châu thánh thót quẹn bào,
Mừng mừng tủi tủi xiết bao là tình!
Huyên già dưới gối gieo mình,
Khóc than mình kể sự tình đầu đuôi:
Từ con lưu lạc quê người,
3020.Bèo trôi sóng vỗ chốc mười lăm năm!
Tính rằng sông nước cát lầm,
Kiếp này ai lại còn cầm gặp đây!
Ông bà trông mặt cầm tay,
Dung quang chẳng khác chi ngày bước ra.
3025.Bấy chầy dãi nguyệt dầu hoa,
Mười phần xuân có gầy ba bốn phần.
Nỗi mừng biết lấy chi cân?
Lời tan hợp chuyện xa gần thiếu đâu!
Hai em hỏi trước han sau,
3030.Đứng trông chàng cũng trở sầu làm tươi.
Quây nhau lạy trước Phật đài,
Tái sinh trần tạ lòng người từ bi.

Kiệu hoa giục giã tức thì,
Vương ông dạy rước cùng về một nơi.
3035.Nàng rằng: Chút phận hoa rơi,
Nửa đời nếm trải mọi mùi đắng cay.
Tính rằng mặt nước chân mây,
Lòng nào còn tưởng có rày nữa không?
Được rày tái thế tương phùng.
3040.Khát khao đã thỏa tấm lòng lâu nay!
Đã đem mình bỏ am mây,
Tuổi này gởi với cỏ cây cũng vừa
Mùi thiền đã bén muối dưa,
Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng.
3045.Sự đời đã tắt lửa lòng,
Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi!
Dở dang nào có hay gì,
Đã tu tu trót quá thì thì thôi!
Trùng sinh ân nặng bể trời,
3050.Lòng nào nỡ dứt nghĩa người ra đi?
Ông rằng: Bỉ thử nhất thì,
Tu hành thì cũng phải khi tòng quyền.
Phải điều cầu Phật cầu Tiên,
Tình kia hiếu nọ ai đền cho đây?
3055.Độ sinh nhờ đức cao dày,
Lập am rồi sẽ rước thầy ở chung.
Nghe lời nàng cũng chiều lòng,
Giã sư giã cảnh đều cùng bước ra.

Một nhà về đến quan nha,
3060.Đoàn viên vội mở tiệc hoa vui vầy.
Tàng tàng chén cúc dở say,
Đứng lên Vân mới giãi bày một hai.
Rằng: Trong tác hợp cơ trời.
Hai bên gặp gỡ một lời kết giao.
3065.Gặp cơn bình địa ba đào,
Vậy đem duyên chị buộc vào cho em.
Cũng là phận cải duyên kim,
Cũng là máu chảy ruột mềm chớ sao?
Những là rày ước mai ao,
3070.Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình!
Bây giờ gương vỡ lại lành,
Khuôn thiêng lừa lọc đã dành có nơi.
Còn duyên may lại còn người,
Còn vầng trăng bạc còn lời nguyền xưa.
3075.Quả mai ba bảy đương vừa,
Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì.
Dứt lời nàng vội gạt đi:
Sự muôn năm cũ kể chi bây giờ?
Một lời tuy có ước xưa,
3080.Xét mình dãi gió dầu mưa đã nhiều.
Nói càng hổ thẹn trăm chiều,
Thà cho ngọn nước thủy triều chảy xuôi!
Chàng rằng: Nói cũng lạ đời,
Dẫu lòng kia vậy còn lời ấy sao?
3085.Một lời đã trót thâm giao,
Dưới dày có đất trên cao có trời!
Dẫu rằng vật đổi sao dời,
Tử sinh phải giữ lấy lời tử sinh!
Duyên kia có phụ chi tình,
3090.Mà toan sẻ gánh chung tình làm hai?
Nàng rằng: Gia thất duyên hài,
Chút lòng ân ái ai ai cũng lòng.
Nghĩ rằng trong đạo vợ chồng,
Hoa thơm phong nhị trăng vòng tròn gương.
3095.Chữ trinh đáng giá nghìn vàng,
Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa.
Thiếp từ ngộ biến đến giờ.
Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa.
Bấy chầy gió táp mưa sa.
3100.Mấy trăng cũng khuyết mấy hoa cũng tàn.
Còn chi là cái hồng nhan,
Đã xong thân thế còn toan nỗi nào?
Nghĩ mình chẳng hổ mình sao,
Dám đem trần cấu dự vào bố kinh!
3105.Đã hay chàng nặng vì tình,
Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru!
Từ rày khép cửa phòng thu,
Chẳng tu thì cũng như tu mới là!
Chàng dù nghĩ đến tình xa,
3110.Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ.
Nói chi kết tóc xe tơ,
Đã buồn cả ruột mà dơ cả đời!
Chàng rằng: Khéo nói nên lời,
Mà trong lẽ phải có người có ta!
3115.Xưa nay trong đạo đàn bà,
Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường,
Có khi biến có khi thường,
Có quyền nào phải một đường chấp kinh.
Như nàng lấy hiếu làm trinh,
3120.Bụi nào cho đục được mình ấy vay?

Trời còn để có hôm nay,
Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời.
Hoa tàn mà lại thêm tươi,
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa.
3125.Có điều chi nữa mà ngờ,
Khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu!
Nghe chàng nói đã hết điều,
Hai thân thì cũng quyết theo một bài.
Hết lời khôn lẽ chối lời,
3130.Cúi đầu nàng những vắn dài thở than.
Nhà vừa mở tiệc đoàn viên,
Hoa soi ngọn đuốc hồng chen bức là.
Cùng nhau giao bái một nhà,
Lễ đà đủ lễ đôi đà xứng đôi.
3135.Động phòng dìu dặt chén mồi,
Bâng khuâng duyên mới ngậm ngùi tình xưa.
Những từ sen ngó đào tơ,
Mười lăm năm mới bây giờ là đây!
Tình duyên ấy hợp tan này,
3140.Bi hoan mấy nỗi đêm chầy trăng cao.
Canh khuya bức gấm rủ thao,
Dưới đèn tỏ rạng má đào thêm xuân.
Tình nhân lại gặp tình nhân,
Hoa xưa ong cũ mấy phân chung tình.
3145.Nàng rằng: Phận thiếp đã đành,
Có làm chi nữa cái mình bỏ đi!
Nghĩ chàng nghĩa cũ tình ghi,
Chiều lòng gọi có xướng tùy mảy may.
Riêng lòng đã thẹn lắm thay,
3150.Cũng đà mặt dạn mày dày khó coi!
Những như âu yếm vành ngoài,
Còn toan mở mặt với người cho qua.
Lại như những thói người ta,
Vớt hương dưới đất bẻ hoa cuối mùa.
3155.Khéo là giở nhuốc bày trò,
Còn tình đâu nữa là thù đấy thôi!
Người yêu ta xấu với người,
Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau!
Cửa nhà dù tính về sau,
3160.Thì còn em đó lọ cầu chị đây.
Chữ trinh còn một chút này,
Chẳng cầm cho vững lại giày cho tan!
Còn nhiều ân ái chan chan,
Hay gì vầy cánh hoa tàn mà chơi?
3165.Chàng rằng: Gắn bó một lời,
Bỗng không cá nước chim trời lỡ nhau.
Xót người lưu lạc bấy lâu,
Tưởng thề thốt nặng nên đau đớn nhiều!
Thương nhau sinh tử đã liều,
3170.Gặp nhau còn chút bấy nhiêu là tình.
Chừng xuân tơ liễu còn xanh,
Nghĩ rằng chưa thoát khỏi vành ái ân.
Gương trong chẳng chút bụi trần,
Một lời quyết hẳn muôn phần kính thêm!
3175.Bấy lâu đáy bể mò kim,
Là nhiều vàng đá phải tìm trăng hoa?
Ai ngờ lại họp một nhà,
Lọ là chăn gối mới ra sắt cầm!
Nghe lời sửa áo cài trâm,
3180.Khấu đầu lạy tạ cao thâm nghìn trùng:
Thân tàn gạn đục khơi trong,
Là nhờ quân tử khác lòng người ta.
Mấy lời tâm phúc ruột rà,
Tương tri dường ấy mới là tương tri!
3185.Chở che đùm bọc thiếu chi,
Trăm năm danh tiết cũng vì đêm nay!
Thoắt thôi tay lại cầm tay,
Càng yêu vì nết càng say vì tình.
Thêm nến giá nối hương bình,
3190.Cùng nhau lại chuốc chén quỳnh giao hoan.

Tình xưa lai láng khôn hàn,
Thong dong lại hỏi ngón đàn ngày xưa.
Nàng rằng: Vì mấy đường tơ,
Lầm người cho đến bây giờ mới thôi!
3195.Ăn năn thì sự đã rồi!
Nể lòng người cũ vâng lời một phen.
Phím đàn dìu dặt tay tiên,
Khói trầm cao thấp tiếng huyền gần xa.
Khúc đâu đầm ấm dương hòa,
3200.Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh.
Khúc đâu êm ái xuân tình,
Ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên?
Trong sao châu nhỏ duềnh quyên,
Ấm sao hạt ngọc Lam điền mới đông!
3205.Lọt tai nghe suốt năm cung,
Tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao.
Chàng rằng: Phổ ấy tay nào,
Xưa sao sầu thảm nay sao vui vầy?
Tẻ vui bởi tại lòng này,
3210.Hay là khổ tận đến ngày cam lai?
Nàng rằng: Ví chút nghề chơi,
Đoạn trường tiếng ấy hại người bấy lâu!
Một phen tri kỷ cùng nhau,
Cuốn dây từ đấy về sau cũng chừa.
3215.Chuyện trò chưa cạn tóc tơ,
Gà đà gáy sáng trời vừa rạng đông.
Tình riêng chàng lại nói sòng,
Một nhà ai cũng lạ lùng khen lao.
Cho hay thục nữ chí cao,
3220.Phải người tối mận sớm đào như ai?
Hai tình vẹn vẽ hòa hai,
Chẳng trong chăn gối cũng ngoài cầm thơ.
Khi chén rượu khi cuộc cờ,
Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên.
3225.Ba sinh đã phỉ mười nguyền,
Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy.
Nhớ lời lập một am mây,
Khiến người thân thích rước thầy Giác Duyên.
Đến nơi đóng cửa cài then,
3230.Rêu trùm kẻ ngạch cỏ len mái nhà,
Sư đà hái thuốc phương xa,
Mây bay hạc lánh biết là tìm đâu?
Nặng vì chút nghĩa bấy lâu,
Trên am cứ giữ hương dầu hôm mai.
3235.Một nhà phúc lộc gồm hai,
Ngàn năm dằng dặc quan giai lần lần.
Thừa gia chẳng hết nàng Vân,
Một cây cù mộc một sân quế hòe.
Phong lưu phú quý ai bì,
3240.Vườn xuân một cửa để bia muôn đời
Ngẫm hay muôn sự tại trời,
Trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
3245.Có đâu thiên vị người nào,
Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai,
Có tài mà cậy chi tài,
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
3250.Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Lời quê chắp nhặt dông dài,
Mua vui cũng được một vài trống canh.

Chia sẻ cho bạn đọc tác phẩm 💚 Hoàng Lê Nhất Thống Chí 💚 Những Mẫu Phân Tích Hay Nhất

Tóm Tắt Truyện Kiều

Tham khảo bản Tóm Tắt Truyện Kiều ngắn gọn dễ hiểu.

Thúy Kiều là một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, sống êm ấm cùng cha mẹ và 2 em là Thúy Vân và Vương Quan. Trong buổi du xuân, Kiều gặp Kim Trọng, thề nguyền đính ước với nhau. Kim Trọng về quê chịu tang chú, gia đình Kiều bị mắc oan, Kiều phải bán mình chuộc cha.

Kiều bị Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh lừa đẩy vào lầu xanh, được Thúc Sinh cúư khỏi lầu xanh nhưng bị Hoạn Thư ghen, Kiều phải trốn đi nương náu ở chùa Giác Duyên. Vô tình Kiều lại rơi vào tay Bạc Hạnh, Bạc Bà phải vào lầu xanh lần thứ 2. Kiều gặp Từ Hải. Từ Hải lấy Kiều làm vợ, giúp Kiều báo ân báo oán.

Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến, bị giết. Kiều bị bắt ép gả cho tên thổ quan. Nàng tủi nhục trầm mình ở sông Tiền Đường, Được sư Giác Duyên cứu, nương nhờ cửa Phật lần thứ 2. Kim Trọng trở lại, kết duyên với Thúy Vân nhưng vẫn đi tìm Kiều. Nhờ sư Giác Duyên, Kim-Kiều gặp nhau, gia đình đoàn tụ. Kim gặp Kiều đổi tình yêu thành tình bạn.

Về Nguyễn Du

Đừng vội bỏ lỡ những thông tin chính về tác giả Nguyễn Du.

  • Nguyễn Du (1765 – 1820), tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên.
  • Quê gốc làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, nhưng sinh và trải qua thời niên thiếu ở Thăng Long.
  • Ông sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống về văn học.
  • Cuộc đời ông gắn bó sâu sắc với những biến cố lịch sử của giai đoạn cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XX.
  • Nguyễn Du là người có kiến thức sâu rộng, am hiểu văn hóa dân tộc và văn chương Trung Quốc.
  • Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du gồm nhiều tác phẩm có giá trị bằng chữ Hán và chữ Nôm.
  • Một số tác phẩm như:
    • Tác phẩm bằng chữ Hán (3 tập thơ, gồm 243 bài): Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục.
    • Tác phẩm chữ Nôm: Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều)…

Xem thêm về phân tích 🌼 Chuyện Cũ Trong Phủ Chúa Trịnh 🌼 Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị

Về Tác Phẩm Truyện Kiều

Về tác phẩm Truyện Kiều, tác phẩm thuộc thể loại truyện thơ Nôm, bao gồm 3254 câu thơ lục bát.

Truyện Kiều là bức tranh hiện thực về một xã hội bất công, tàn bạo cũng như là tiếng nói thương cảm trước số phận bi kịch của con người. Đó còn là tiếng nói khẳng định đề cao tài năng, nhân phẩm và khát vọng chân chính của con người.

Xuất Xứ Và Hoàn Cảnh Sáng Tác Truyện Kiều

Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác Truyện Kiều như sau:

  • Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) được Nguyễn Du sáng tác vào đầu thế kỉ 19 (khoảng 1805 – 1809).
  • Nguyễn Du sáng tác “Truyện Kiều” dựa trên cốt truyện “Kim Vân Kiều truyện” của Trung Quốc.
  • Tuy nhiên, phần sáng tạo của Nguyễn Du là vô cùng lớn, mang đến sự thành công và sức hấp dẫn cho tác phẩm.

Có thể bạn sẽ quan tâm🌱 Chuyện Người Con Gái Nam Xương 🌱 Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích

Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm Truyện Kiều

Tiết lộ cho bạn đọc ý nghĩa nhan đề tác phẩm Truyện Kiều.

  • Truyện Kiều: tên gọi thể hiện nội dung cơ bản của tác phẩm – dùng tên nhân vật chính của truyện để đặt tên cho tác phẩm.
  • Đoạn trường tân thanh: đoạn trường (đứt ruột) tân thanh (tiếng kêu mới) tên gọi được rút ra từ nội dung cơ bản của tác phẩm – tiếng kêu đau xót xa toát lên từ số phận con người.

=> Tóm lại tác phẩm là tiếng kêu dứt ruột của Nguyễn Du khi chứng kiến nỗi bất hạnh của người phụ nữa trong xã hội phong kiến xưa.

Bố Cục Truyện Kiều

Bố cục tác phẩm Truyện Kiều được chia làm 3 phần:

  • Phần thứ nhất: Gặp gỡ và đính ước
  • Phần thứ hai: Gia biến và lưu lạc
  • Phần thứ ba: Đoàn tụ

Khám phá thêm ❤️️ Cảnh Ngày Xuân ❤️️ Nội Dung, Nghệ Thuật 

Đọc Hiểu Tác Phẩm Truyện Kiều

Xem ngay nội dung đọc hiểu tác phẩm Truyện Kiều đầy đủ.

1. Khái quát về Truyện Kiều:

  • Tên gọi: Đoạn trường tân thanh (Tiếng kêu mới đứt ruột).
  • Dung lượng: 3254 câu thơ lục bát.
  • Nguồn gốc: “Truyện Kiều” được sáng tác dựa theo cốt truyện “Kim Vân Kiều truyện” – tiểu thuyết chương hồi của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). Nguyễn Du đã “hoán cốt đoạt thai” tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân, và đem lại cho “Truyện Kiều” những sáng tạo mới mẻ cả về nội dung và nghệ thuật.
  • Thể loại: truyện Nôm bác học.

2. Tóm tắt nội dung, nghệ thuật của Truyện Kiều:

a. Phân tích giá trị tư tưởng trong Truyện Kiều:

  • Thể hiện khát vọng về tình yêu tự do và ước mơ công lí.
  • Là tiếng kêu thương đến đứt ruột cho thân phận con người, đặc biệt là người phụ nữ tài sắc trong xã hội phong kiến.
  • Là bản cáo trạng đanh thép tội ác của các thế lực đen tối trong xã hội cũ. Nguyễn Du phê phán mạnh mẽ sự “lên ngôi” của thế lực đồng tiền.
  • Là bức chân dung tinh thần tự họa của Nguyễn Du, với “con người mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời”, trái tim chan chứa tình yêu thương con người.

b. Phân tích giá trị nghệ thuật của Truyện Kiều:

  • Nghệ thuật xây dựng nhân vật
  • Nghệ thuật tự sự mới mẻ
  • Thể loại
  • Ngôn ngữ trong sáng, điêu luyện, giàu sức gợi tả gợi cảm; ẩn dụ, điển cố,…
  • Giọng điệu cảm thương rất phù hợp với chủ nghĩa nhân đạo thống thiết của Nguyễn Du.

Giá Trị Tác Phẩm Truyện Kiều

Cập nhật những giá trị tác phẩm Truyện Kiều cho bạn đọc.

Giá trị nội dung

  • Giá trị hiện thực:
    • Truyện Kiều là bức tranh hiện thực về một xã hội bất công, tàn bạo và coi trọng đồng tiền. Đặc biệt tác phẩm còn khắc họa số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến – dù có tài năng nhưng không được làm chủ cuộc đời của mình, phải chịu nhiều cay đắng, khổ cực.
  • Giá trị nhân đạo:
    • Tiếng nói thương cảm trước số phận bi kịch của con người.
    • Tiếng nói khẳng định đề cao tài năng, nhân phẩm và khát vọng chân chính của con người: khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc…
    • Bài ca về tình yêu tự do, thủy chung cũng như ước mơ về một xã hội công bằng.

Giá trị nghệ thuật

  • Đỉnh cao của ngôn ngữ dân tộc và thể thơ lục bát.
  • Nghệ thuật tự sự có bước phát triển vượt bậc.
  • Nghệ thuật dẫn chuyện đến miêu tả thiên nhiên, khắc họa tính cách và miêu tả tâm lí con người.

Nhất định đừng bỏ qua bài 🔻 Hồi Trống Cổ Thành 🔻 Sơ Đồ Tư Duy, Mẫu Phân Tích Hay 

Soạn Bài Truyện Kiều

Chia sẻ cho bạn đọc gợi ý soạn bài Truyện Kiều đầy đủ.

👉Câu 1 (trang 80 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

Những nét chính về Nguyễn Du có ảnh hưởng đến sáng tác Truyện Kiều :

a. Thời đại : Sống vào cuối thế kỉ XVIII là giai đoạn lịch sử đầy biến động : chế độ phong kiến rối ren, khủng hoảng, phong trào nông dân nổi lên khắp nơi.

b. Gia đình : Sinh ra trong gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống văn học.

c. Cuộc đời : Từng trải, đi nhiều, tiếp xúc nhiều, có vốn sống phong phú. Từng làm quan dưới triều Nguyễn, đi sứ Trung Quốc.

👉Câu 2 (trang 80 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

Tóm tắt Truyện Kiều :

a. Gặp gỡ và đính ước :

Thúy Kiều là thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, con gái đầu một gia đình trung lưu lương thiện, em gái Thúy Vân và em trai Vương Quan. Trong buổi du xuân, nàng gặp và nảy nở mối tình với chàng Kim Trọng, nhân trả chiếc thoa rơi, Kim Trọng bày tỏ tâm tình và họ tự do đính ước.

b. Gia biến và lưu lạc

Kim Trọng về quê chịu tang, gia đình Kiều bị vu oan. Kiều nhờ Vân trả nghĩa Kim Trọng còn mình bán thân chuộc cha. Kiều bị bọn buôn người Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh lừa gạt đưa vào lầu xanh. Sau đó nàng được Thúc Sinh cứu vớt, nhưng lại bị vợ cả Thúc Sinh là Hoạn Thư đày đọa. Kiều trốn đến nương nhờ cửa Phật. Sư Giác Duyên vô tình gửi nàng cho Bạc Bà – một kẻ buôn người, nàng lại rơi vào lầu xanh. Thúy Kiều gặp Từ Hải, người anh hùng “đội trời đạp đất”. Từ Hải lấy Kiều, giúp nàng báo ân báo oán. Hồ Tôn Hiến lừa và giết Từ Hải, bắt Kiều hầu đàn, rượu. Bị ép gả cho viên thổ quan, Kiều trẫm mình ở sông Tiền Đường, nhưng nàng được sư Giác Duyên cứu giúp.

c. Đoàn tụ

Kim Trọng sau khi chịu tang, trở lại tìm Thúy Kiều. Hay tin gia đình Kiều, chàng đau đớn. Tuy kết duyên với Thúy Vân nhưng chàng không nguôi tình xưa, cất công đi tìm Kiều. Nhờ gặp sư Giác Duyên, Kiều tìm được gia đình. Chiều ý mọi người, nàng nối duyên Kim Trọng nhưng chỉ coi là tình bạn.

Chia sẻ cho bạn đọc 🌿 Người Ở Bến Sông Châu 🌿 Nội Dung, Nghệ Thuật 

Giáo Án Truyện Kiều

Đừng bỏ lỡ nội dung giáo án Truyện Kiều bên dưới.

I. Mục tiêu bài học

1. Kiến thức

Giúp học sinh:

– Nắm được một số phương diện tiểu sử tác giả.

– Nắm vững những điểm chính yếu trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du.

– Nắm được một số đặc điểm cơ bản của nội dung và nghệ thuật “Truyện Kiều” (Nguyễn Du).

2. Kĩ năng

– Tìm hiểu một văn bản thuyết minh về tác gia VH

3. Thái độ, phẩm chất

– Yêu quý, trân trọng và tự hào về Nguyễn Du – một danh nhân văn hóa và một di sản văn học vô giá của dân tộc và tự tìm hiểu thêm về tác phẩm của ông.

4. Định hướng phát triển năng lực

– Năng lực tự chủ và tự học, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực thẩm mỹ, năng lực tư duy; năng lực sử dụng ngôn ngữ.

II. Phương tiện

1. Giáo viên

SGK, SGV Ngữ văn 10, Tài liệu tham khảo, Thiết kế bài giảng

2. Học sinh

SGK, vở soạn, tài liệu tham khảo

III. Phương pháp thực hiện

Gv kết hợp phương pháp đọc sáng tạo, đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, tích hợp.

IV. Tiến trình dạy học

1. Ổn định tổ chức lớp

Sĩ số: ……………………………………….

2. Kiểm tra bài cũ

– Nỗi sầu muộn triền miên và nỗi nhớ thương đau đáu của người chinh phụ được thể hiện như thế nào trong đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” ?

3. Bài mới

Hoạt động 1. Hoạt động khởi động

Trong bài “Kính gửi cụ Nguyễn Du” nhà thơ Tố Hữu lắng sâu cảm xúc của mình:

Nỗi niềm xưa, nghĩ mà thương
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng
Nhân tình nhắm mắt chưa xong
Biết ai hậu thế khóc cùng Tố Như.

Nhà thơ Huy Cận cũng gửi lòng mình tới Nguyễn Du:

Lòng ai thức trắng giữa đêm dài
Yêu nước non yêu vạn cảnh đời
Đời khổ mà không phương cứu khổ
Càng đau biết mấy Tố Như ơi!

Để hiểu rõ ông là con người như thế nào, sự nghiệp vĩ đại của ông ra sao, chúng ta tìm hiểu về tác gia văn học Nguyễn Du.

Hoạt động của GV và HSKiến thức cần đạt
Hoạt động 2. Hình thành kiến thức mới

GV HD HS TÌM VỀ CUỘC ĐỜI ND:Gọi hs đọc phần cuộc đời SGK.
I. CUỘC ĐỜI:

Nguyễn Du (1765- 1802), tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên.
Gia đình Nguyễn Du có gì đặc biệt? Nó tác động tích cực đến ông ntn.

Gv: Dòng họ, gia đình Nguyễn Du có nhiều người tài hoa, đỗ đạt cao. Dân gian tương truyền câu ca dao ngợi ca: Bao giờ Ngàn Hống hết cây/ Sông Rum hết nước họ này hết quan.
1.Gia đình và quê hương:

a. Gia đình:

– Cha: Nguyễn Nghiễm (1708- 1775), tài hoa, từng giữ chức tể tướng.
– Mẹ: Trần Thị Tần (1740-1778), người con gái xứ Kinh Bắc.
– Dòng họ Nguyễn Tiên Điền có hai truyền thống:
+ Khoa bảng → danh vọng lớn.
+ Văn hóa, văn học.
Quê cha, quê mẹ, nơi sinh ra và lớn lên của Nguyễn Du có tác động đến ông ntn ?b. Quê hương:

– Quê cha: Hà Tĩnh
– vùng đất thuộc khúc ruột miền trung khổ nghèo, nơi có sông Lam, núi Hồng, sơn thủy hữu tình.
– Quê mẹ: xứ Kinh Bắc hào hoa, cái nôi của dân ca quan họ.
– Nơi sinh ra và lớn lên: kinh thành Thăng Long nghìn năm văn hiến.
→ Nguyễn Du có điều kiện tiếp nhận truyền thống văn hóa quý báu của gia đình và của nhiều vùng quê khác nhau. Đó là tiền đề cho sự phát triển tài năng nghệ thuật của ông sau này.
Trong khoảng thời gian 1765 – 1820, XHVN có gì đặc biệt. (Hay XHVN tk 18 – 19 có gì đặc biệt?).

Gv: Một phen thay đổi sơn hà/ Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?
2. Thời đại và xã hội:

– Cuối thế kỉ XVIII- đầu thế kỉ XIX:
+ XHPKVN khủng hoảng trầm trọng đầy bóng tối, khổ đau: loạn lạc, khởi nghĩa nông dân, kiêu binh nổi loạn (tính chất bi kịch).
+ Diễn ra nhiều biến cố lớn: Tây Sơn thay đổi sơn hà diệt Lê, Trịnh, diệt Xiêm, đuổi Thanh, huy hoàng một thuở; Nhà Nguyễn lập lại chính quyền chuyên chế và thống nhất đất nước, thiết lập chế độ cai trị hà khắc (1802).
Nêu những nét lớn về cuộc đời Nguyễn Du? Tác động của chúng đến sự nghiệp văn học của ông.

Gv nhận xét, bổ sung: Trong phủ Nguyễn Nghiễm, ngựa xe quan lại đi lại tấp nập, kẻ nô bộc cũng được mặc gấm, ăn thịt. Nguyễn Khản (người anh cùng cha khác mẹ với Nguyễn Du) làm quan to trong phủ chúa Trịnh. Ông là người say mê âm nhạc, trong phủ ko lúc nào ngừng tiếng tơ tiếng trúc.

– Nguyễn Du từng được thăng qua các chức: Tri huyện Phù Dung (Khoái Châu- Hưng Yên), tri phủ Thường Tín (Hà Tây), Đông Các điện học sĩ, Cai bạ Quảng Bình, Cần tránh điện học sĩ, Chánh sứ đi sứ Trung Quốc.

– Tương truyền, trước khi mất Nguyễn Du yêu cầu người nhà xem chân tay ông đã lạnh chưa. Khi người nhà trả lời đã lạnh cả rồi. Nguyễn Du chỉ nói “được” rồi mất, ko trối lại một điều gì.
3. Cuộc đời Nguyễn Du:

– Thời thơ ấu và niên thiếu:
+Tuổi thơ sung túc nhưng sớm mồ côi cha mẹ.→ Đk dùi mài kinh sử, tích lũy vốn vh, vhọc.
+ Đến sống với anh: (chứng kiến sự xa hoa của quan lại) → dấu ấn trong sáng tác..→ đồng cảm thân phận nhỏ bé.

– Thời thanh niên: thi đỗ tam trường (1783); sau đó làm quan võ ở Thái Nguyên (họ Hà).

– Biến cố lịch sử: gia đình li tán, cuộc sống khó khăn:
+ 10 năm phiêu bạt: (1786- 1796): đất Bắc.“Ngạo với trời xanh chống kiếm dàiBùn lầy lăn lóc tuổi 30”
+ về ở ẩn tại Hà Tĩnh (1796 – 1802).→vốn sống thực tế phong phú, nắm vững ngôn ngữ dân gian, có dịp suy ngẫm nhiều về xã hội và là tiền đề quan trọng để hình thành tài năng, bản lĩnh sáng tạo văn chương và phong cách ngôn ngữ.
– 1802: làm quan cho nhà Nguyễn:→ con đường công danh khá suôn sẻ
– 1813: giữ chức Chánh sứ sang Trung Quốc → từng trải, tiếp xúc với nền văn hoá TQ rực rỡ →thêm hiểu biết, nâng tầm tư tưởng.
– Bị ốm, mất ở Huế ngày 18/9/1820.→ Với cuộc đơi, con người, với tấm lòng yêu thương nhân dân như yêu chính bản thân mình và với những đóng góp về mặt nội dung và Nt về thơ ca vào kho tàng VH đồ sộ đó nên ND được phong tặng là thiên tài văn học, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn, danh nhân văn hóa.
→ Là con người kết hợp hài hòa giữa tâm và tài.“ Thiên tài trước hết là một trái tim vĩ đại” (Victo Hugo)“ ND có con mắt trông thấu sáu cõi, có tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời”. (Mộng Liên Đường Chủ Nhân).
– 1965: Hội đồng hòa bình thế giới tổ chức kỉ niệm 200 ngày sinh và công nhận là danh nhân vh; xây nhà tưởng niệm ND tại xã Tiên Điền.
GV HD HS TÌM HIỂU SỰ NGHIỆP VÀ ĐẶC ĐIỂM THƠ CỦA ND:II. SỰ NGHIỆP VĂN HỌC:1. Các sáng tác chính:
Dựa vào sgk cũng như phần chuẩn bị ờ nhà, em hãy kể tên các sáng tác bằng chữ Hán của Nguyễn Du? Nêu những nội dung chính của tập Bắc hành tạp lục.

Gv: Thơ chữ Hán Nguyễn Du chủ yếu là những vần thơ tâm tình, khắc họa hình tượng chủ thể trữ tình Nguyễn Du, một tâm trạng rất động trước mọi biến cố của cuộc đời. Đọc thơ ông, người đọc cảm nhận được một cõi lòng đau thương, tê tái, sâu kín, như ông từng nói: “Ta có một tấc lòng ko biết ngỏ cùng ai”.

Bên trong tâm sự đau thương ấy là những suy ngẫm của nhà thơ về con người, xã hội, những chiêm nghiệm sâu sắc đầy trắc ẩn về những biến động của cuộc sống đang diễn ra trước mắt. Làm thơ là cách ông đặt vấn đề trực tiếp về số phận con người trong tương giao với vận mệnh của thời đại, nhất là thời đại ông đang sống.
a. Bằng chữ Hán:

– Nam trung tạp ngâm: gồm 40 bài thơ ngâm khi ở phương Nam (thời gian làm quan ở Huế và Quảng Bình- những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh, quê hương ông).
– Thanh Hiên thi tập: gồm 78 bài viết trong thời gian lưu lạc.
– Bắc hành tạp lục: gồm 131 bài được viết trong thời kì đi sứ Trung Quốc. Những nội dung chính của tập Bắc hành tạp lục:
+ Ca ngợi, đồng cảm với các nhân cách cao thượng và phê phán những nhân vật phản diện. VD: Phản chiêu hồn.
+ Phê phán XHPK chà đạp quyền sống của con người.
+ Cảm thông với những thân phận nhỏ bé dưới đáy xã hội, bị đày đọa hắt hủi.VD: Độc Tiểu Thanh kí, Sở kiến hành.→ Nội dung thơ chữ Hán nói chung: thể hiện trực tiếp tư tưởng, tình cảm và nhân cách Nguyễn Du.
Nêu các sáng tác bằng chữ Nôm của Nguyễn Du?…Thử khái quát một số đặc điểm và nội dung chính về tác phẩm xuất sắc – vĩ đại của ND – “TK”. (Nguồn gốc tp,(kết cấu, nội dung, nhân vật, đặc điểm nghệ thuật, giá trị tp…).

Gv bổ sung: Trong Văn chiêu hồn, Nguyễn Du cất tiếng khóc than cho mười kiếp người nhỏ bé, đáng thương nhất trong xã hội (những tiểu nhi tấm bé, những phụ nữ, kĩ nữ tài hoa bạc mệnh, những học trò nghèo, những người hành khất, những người dân lao động lam lũ “đòn gánh tre chín dạn hai vai”,…
b. Bằng chữ Nôm:

– Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh):
+ Nguồn gốc: Gồm 3254 câu thơ lục bát, bắt nguồn từ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc).
+ Sáng tạo: Bằng tài năng và tâm huyết của mình, Nguyễn Du đã sáng tạo nên một tác phẩm mới, với một cảm hứng mới, một cách nhận thức và lí giải hiện thực mới và gửi gắm vào đó tâm sự của con người thời đại ông. Truyện Kiều được coi là kiệt tác của VHTĐVN.
+ Tóm tắt:
+ Giá trị ND và NT:

– Văn chiêu hồn (Văn tế thập loại chúng sinh):
+ Thể thơ: song thất lục bát.
+ Nội dung: thể hiện một cách cảm động, thấm thía tình thương con người của Nguyễn Du
Nêu những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật thơ văn Nguyễn Du? Nêu dẫn chứng minh họa?

Gv:“Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”
(Kính gửi cụ Nguyễn Du – Tố Hữu)
2. Một vài đặc điểm về giá trị nội dung và ngệ thuật thơ văn ND:

a. Đặc điểm giá trị nội dung:

* Giá trị hiện thực:Văn thơ ND phản ánh sâu sắc:

– Bộ mặt của XHPK suy tàn:“Hậu thế nhân nhân giai Thượng QuanĐại địa xứ xứ giai Mịch La”(Phản “Chiêu hồn”)
– Số phận đau thương của những con người bé nhỏ, bị XH chà đạp, coi rẻ :
+ Người phụ nữ tài hoa bạc mệnh: Kiều,Tiểu Thanh…“Đau đớn thay phận đàn bàLời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”(Truyện Kiều)
+ Ngứời nghèo khổ: mẹ con ngứời ăn xin; ông già mù hát rong; ngứời phu xe, trẻ con.. …
– Lên án thế lực đồng tiền:“Trong tay đã sẵn đồng tiềnDầu lòng đổi trắng thay đen khó gì” (TK)“Còn bạc còn tiền, còn đệ tử,Hết tiền hết bạc, hết ông tôi”.

* Giá trị nhân đạo:

– Cảm thông sâu sắc với những đau khổ của con ngýời, cho tài hoa nhan sắc bị vùi dập:“Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”“Chữ tài liền với chữ tai một vần” (TK)
– Tố cáo các thế lực bạo tàn, những bất công của XH (DC thơ)
– Trân trọng, đề cao tài sắc, nhân phẩm và những khát vọng chân chính của con ngứời:
+ tình yêu tự do, trong sáng, chung thuỷ“Bấy lâu đáy bể mò kimLà nhiều vàng đá, phải tìm trăng hoa”
+ giấc mơ về tự do, công lý.

b. Giá trị nghệ thuật:

– Thơ chữ Hán sử dụng linh hoạt nhiều thể thơ.
– Thơ chữ Nôm:
+ Việt hoá nhiều từ Hán → làm TV thêm giàu đẹp
+ Thể thơ lục bát đạt đến đỉnh cao
+ Lời thơ trau chuốt, giàu sức biểu cảm.
Đánh giá về vị trí của ND trong nền VH dân tộc.III. TỔNG KẾT:

Vị trí của Nguyễn Du trong nền VH dân tộc: là một thiên tài VH, đại thi hào dân tộc, đồng thời là danh nhân văn hóa thế giới.
Hoạt động 3: Hoạt động thực hành.

Hs thảo luận, phát biểu làm các bài tập.

Hãy nêu nguồn gốc, những sáng tạo và giá trị của Truyện Kiều.

Gv nhận xét, khẳng định đáp án.
? Nguồn gốc Truyện Kiều ?Câu 1 : Nguồn gốc Truyện Kiều

Từ cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc) với tài năng nghệ thuật bậc thầy, nhất là với tấm lòng nhân đạo bao la, ND đã sáng tạo ra một kiệt tác văn chương bất hủ : Đoạn trường tân thanh
? Sự sáng tạo của Nguyễn Du trong Truyện Kiều ?Câu 2 : Sự sáng tạo của Nguyễn Du trong Truyện Kiều- Về nội dung: Từ câu chuyện tình của Thanh Tâm Tài Nhân, ND đã tạo nên một “Khúc ca mới đứt ruột” (Đoạn trường tân thanh), nhấn vào nỗi đau bạc mệnh và gửi gắm những xúc cảm về nhân sinh của nhà thơ trước “những điều trông thấy”.

– Về nghệ thuật: Lược bỏ các tình tiết về mưu mẹo, về báo oán,… (trong tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân), bằng thể lục bát truyền thống, với một ngôn ngữ trau chuốt tinh vi, chính xác đến trình độ cổ điển, trong một truyện thơ Nôm, Nguyễn Du tập trung thể hiện nội tâm nhân vật một cách tài tình.
? Tóm tắt Truyện Kiều ?Câu 3 : Tóm tắt

3 phần:
– Gặp gỡ và đính ước.
– Gia biến và lưu lạc.
– Đoàn tụ.
? Giá trị nội dung tư tưởng của Truyện Kiều ?Câu 4 : Giá trị Truyện Kiều1/ Nội dung tư tưởng:- Giá trị hiện thực : TK là bức tranh hiện thực về 1 XH bất công, tàn bạo.

– Giá trị nhân đạo:
+ Tiếng nói cảm thương trước số phận bi kịch của con người.
+ Tiếng nói lên án, tố cáo những thế lực xấu xa, tàn bạo.
+ Tiếng nói khẳng định, đề cao tài năng, nhân phẩm và những khát vọng chân chính của con người như khát vọng về quyền sống, khát vọng tự do, công lí, khát vọng tình yêu, hạnh phúc…
? Giá trị nghệ thuật của Truyện Kiều ?2/ Nghệ thuật:

+ Nghệ thuật khắc họa tính cách và miêu tả tâm lí nhân vật.
+ Nghệ thuật kể chuyện.
+ Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ : thể thơ lục bát đã đạt tới đỉnh cao rực rỡ.

→ Kết luận: Truyện Kiều là kiệt tác số một của văn học dân tộc Việt Nam, di sản văn học của nhân loại, là một “tập đại thành” của truyền thống nghệ thuật, văn hoá Việt Nam, tiêu biểu cho cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa, vừa là niềm thương cảm sâu sắc, là tấm lòng “nghĩ tới muôn đời”, vừa là thái độ nâng niu, trân trọng những giá trị nhân bản cao đẹp của con người.

Hoạt động 5. Hoạt động bổ sung

4. Củng cố

(1)Vì sao nói: Gia đình, quê hương, Thời đại và xã hội, và chính ngay bản thân ND từng trải đã hun đúc nên một thiên tài văn học vĩ đại – ND và một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn tk 18 – 19?

(2) Nêu sự hiểu biết của em về Truyện Kiều – tác phẩm tự sự trữ tình độc nhất vô nhị trong văn học trung đại VN. Một bản cáo trạng đanh thép đòi quyền sống, hạnh phúc của con người….

(3) Những sáng tác chính của Nguyễn Du. Nội dung cũng như nghệ thuật của những sáng tác ấy?

5. Dặn dò

– Về học thuộc bài, làm phần luyện tập.

– Soạn bài đoạn trích: Trao duyên (Trích “Truyện Kiều”).

Sơ Đồ Tư Duy Truyện Kiều

Cùng tham khảo các sơ đồ tư duy Truyện Kiều sau đây nhé.

Sơ đồ tư duy phân tích Truyện Kiều
Sơ đồ tư duy phân tích Truyện Kiều
Sơ đồ tư duy Truyện Kiều dễ hiểu
Sơ đồ tư duy Truyện Kiều dễ hiểu
Sơ đồ tư duy Truyện Kiều chi tiết
Sơ đồ tư duy Truyện Kiều chi tiết
Sơ đồ tư duy Truyện Kiều đầy đủ
Sơ đồ tư duy Truyện Kiều đầy đủ
Sơ đồ tư duy Truyện Kiều hay nhất
Sơ đồ tư duy Truyện Kiều hay nhất

Cập nhật cho bạn đọc 🌸 Xúy Vân Giả Dại 🌸 Sơ Đồ Tư Duy, Phân Tích, Dàn Ý

5 Mẫu Phân Tích Truyện Kiều Hay Nhất

Nhất định đừng bỏ qua 5 mẫu phân tích Truyện Kiều hay nhất bên dưới.

Phân Tích Truyện Kiều Chọn Lọc – Mẫu 1

Nhà phê bình Hoài Thanh từng nhận xét về tác gia Nguyễn Du và “Truyện Kiều”: “Tuy Nguyễn Du đã sáng tạo nhân vật Thúy Kiều nhưng Kiều lại có thật với Nguyễn Du, Nguyễn Du đã sống rất lâu trong tâm tình của Kiều, đã nhập vào Kiều làm một”, giúp ta thấy tuyệt tác “Truyện Kiều” ghi dấu tâm huyết, tài năng của thi nhân.

Đại thi hào Nguyễn Du tên hiệu là Thanh Hiên, tên chữ là Tố Như. Ông xuất thân trong một gia đình đại quý tộc, giàu truyền thống khoa bảng. Cơn lốc lịch sử đạp đổ lầu son gác tía đẩy ông vào cuộc sống lay lắt, tha hương suốt mười lăm năm trời. Cuộc sống đó bóp nghẹt lí tưởng nhất quán khiến ông sống giữa cuộc đời như những người dân thường.

Con người thanh liêm, sống thầm lặng, khinh bỉ quan lại chỉ biết lo vinh hoa phú quý, không lo gì đến việc dân, việc nước, nay lại trực tiếp chứng kiến nỗi khổ của nhân dân nên ông có con mắt nhìn đời thông suốt sáu cõi.

Những va đập cuộc đời khiến thi sĩ đồng cảm sâu xa với mọi kiếp người đày đọa, tạo nên chiều sâu tư tưởng tác phẩm “ Truyện Kiều” sau này. Vốn hiểu biết uyên bác làm cơ sở để tuyệt tác “Truyện Kiều” trở thành một viên ngọc sáng trong văn học Việt Nam về giá trị nghệ thuật.

Mộng Liên Đường cho rằng: “Những lời văn tả ra hình như có máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc cũng phải thấm thía, ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột”. Tác phẩm ban đầu mang tên “Đoạn trường tân thanh” nhưng nhân dân gọi là “Truyện Kiều”.

Áng truyện thơ lấy nội dung từ tiểu thuyết “ Kim Vân Kiều truyện” nhưng những sáng tạo của đại thi hào là rất lớn. Câu chuyện nói về mười lăm năm lưu lạc, tủi nhục của nàng Kiều sau khi gia biến, bán mình chuộc cha và em.

Chủ nghĩa nhân đạo cao đẹp của Nguyễn Du biến một câu chuyện tình khổ thành khúc ca đớn đau, tri âm với kẻ bạc mệnh, những điều mắt thấy tai nghe trong xã hội bấy giờ cũng đi vào trang viết của thi sĩ. “ Truyện Kiều” ngợi ca tình yêu tự do và ước mơ công lí. Mối tình Kim- Kiều dám vượt lên những ràng buộc của lễ giáo phong kiến khắt khe để thề nguyền cùng nhau, rung động đầu đời trong sáng, chân tình không chút vụ lợi. Hình ảnh nàng Kiều:

“Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”

Còn khiến mỗi chúng ta ngạc nhiên bởi Nguyễn Du khuyến khích tinh thần chủ động ấy. Giữa phường gian trá, thi nhân khắc họa nhân vật Từ Hải không chỉ thể hiện ước nguyện xã hội công lí mà nhân vật phần nào phản ánh lí tưởng của thi sĩ từng bị giam hãm.

Từ Hải là ngôi sao sáng bang qua cuộc đời Kiều, giúp nàng thực hiện màn báo ân, báo oán thích đáng. Đọc “Truyện Kiều” như vọng lại tiếng khóc đau thương cho thân phận con người. Nguyễn Du từng nói:

Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kì oan ngã tự cư”

Người cho rằng: “Chữ tài liền với chữ tai một vần” nên xoay quanh đời Kiều- người con gái tài hoa luôn phải gánh chịu bao giông tố. Tiếng khóc xót xa cho mối tình đằm thắm Kim- Kiều “đứt gánh tương tư”, mối tình tri kỉ của Từ Hải và nàng Kiều. Giọt nước mắt đắng chát khi nhân phẩm bị chà đạp, thân xác con người bị đánh đập tàn nhẫn. Sâu xa hơn, tiếng kêu khóc vang lên đòi quyền sống cho con người trong nỗi đau nhân thế.

Nguyễn Đình Thi nhận định: “Truyện Kiều” là ngọn roi sắt quất thẳng vào những sự bất công, độc ác, dối trá…”, có thể xem thi phẩm là bản cáo trạng đanh thép vạch trần sự mục ruỗng, thối nát của xã hội bấy giờ.

Mọi tầng lớp đều bỉ ổi bị thế lực đồng tiền chi phối từ thằng bán tơ, lũ buôn thịt bán người như Tú Bà, Bạc Bà, Bạc Hạnh, chức quan Hồ Tôn Hiến… Nguyễn Du bóc trần nhìn thẳng vào thực trạng, gọi tên những kẻ chà đạp lên quyền sống con người.

“Truyện Kiều” có sức sống trường tồn còn bởi những giá trị nghệ thuật đặc sắc. Với học vấn uyên thâm, Nguyễn Du thành công xây dựng nhân vật sinh động, cá tính. Nàng Kiều không phải nhân vật minh họa mà nàng có đời sống nội tâm, lí tưởng cao đẹp của Từ Hải cũng được khắc tạc.

Với thể thơ lục bát giàu truyền thống, đại thi hào biến một tiểu thuyết thành thơ vừa mộc mạc vừa trang nhã, cổ điển. Điểm nhìn trần thuật của tác giả cũng thay đổi linh hoạt, đặt vào từng nhân vật, khiến tác phẩm không khô khan. Ngôn ngữ trong “Truyện Kiều” có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn từ bác học và dân gian tạo nên sức biểu cảm, sự trong sáng.

Nhắc đến đại thi hào Nguyễn Du, ta không thể không nhớ tới áng thiên cổ kì bút “Truyện Kiều”. Ở đó hội tụ tất cả cái tài, tấm lòng và tầm vóc của thi nhân. Những giá trị đích thực của tác phẩm còn bất tử với nền văn học Việt Nam.

Phân Tích Truyện Kiều Nổi Bật – Mẫu 2

Nhắc đến Nguyễn Du là nhắc đến một đại thi hào lỗi lạc của thơ ca trung đại Việt Nam. Không chỉ có đóng góp lớn cho văn học nước nhà ông còn được cả thế giới biết đến với thi phẩm “Truyện Kiều”.

Nguyễn Du có tên chữ là Tố Như hiệu là Thanh Hiên sinh năm 1765 mất năm 1820, quê tại làng Tiên Điền huyện Nghi Xuân Tỉnh Hà Tĩnh. Sinh thời ông có một nền tảng gia đình vô cùng danh giá, cha làm quan lớn trong triều Lê, anh trai cùng cha khác mẹ cũng làm tới quan Tham tụng trong triều.

Tuy nhiên do mồ côi cha mẹ sớm (9 tuổi mất cha, 12 tuổi mất mẹ), tuổi thơ ông trải qua một cách đầy biến động, phải tha hương nhiều nơi lúc thì về quê cha, khi về quê mẹ và có một thời gian phải phiêu dạt tận quê vợ ở Thái Bình.

Cộng thêm vào giai đoạn đó lịch sử nước nhà có nhiều rối ren các thế lực phong kiến chém giết và tàn sát lẫn nhau, nông dân nổi dậy khởi nghĩa khắp nơi mà tiêu biểu là phong trào Tây Sơn do Nguyễn Huệ lãnh đạo.

Những yếu tố đó đã tác động không nhỏ đến tình cảm cũng như nhận thức của nhà thơ. Bởi thế ông luôn nhận thức trung thành với triều Lê, căm thù sâu sắc với quân Tây Sơn, sau này làm quan thì rụt rè, u uất.

Có thể nói chính cuộc sống chìm nổi cùng với thời thế đầy biến động, phiêu bạt nhiều nơi đã là những thứ hồ để tạo nên một Nguyễn Du có học vấn sâu rộng, trái tim chất chứa yêu thương và cảm thông sâu sắc với những kiếp người nghèo khổ. Ông cũng được coi như 1 trong năm người giỏi nhất nước Nam thời bấy giờ.

Nguyễn Du được coi là một người có thiên phú văn học từ nhỏ, bậc thầy trong việc sử dụng tiếng Việt ngôi sao sáng chói trên bầu trời văn học Việt Nam. Ông để lại cho đời cả một kho tàng văn học phong phú với khoảng hơn ngàn tác phẩm bao gồm cả chữ hán và chữ nôm.

Trong đó chữ Hán có Thanh Hiên thi tập gồm 78 bài, Bắc hành tạp lục 125 bài, Nam trung tạp ngâm 40 bài… chữ Nôm có văn chiêu hồn, Văn tế, và tiêu biểu là tác phẩm Truyện Kiều hay còn có tên gọi khác là Đoạn trường Tân Thanh.

“Truyện Kiều” hay còn có tên gọi là “Đoạn trường Tân Thanh” được nhà thơ sáng tác vào cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ 19 (1805 -1809). Đây là một tác phẩm tiêu biểu viết bằng chữ Nôm dựa trên cốt truyện tiểu thuyết của Thanh Tâm tài nhân (Trung Quốc) tuy nhiên đã được sáng tạo tài trình cải biến để phù hợp với xã hội Việt Nam. Đây là câu truyện được kể bằng 3254 câu thơ chia làm 3 phần chính: Gặp gỡ và đính ước, Gia biến và lưu lạc, Đoàn tụ.

Truyện kể về một gia đình viên ngoại họ Vương có 3 người con : Thúy Kiều, Thúy Vân và Vương Quan. Cả hai người con gái đều có sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành. Trong lễ hội đạp thanh Thúy Kiều gặp Kim Trọng cả hai người nguyện thề sống chết.

Kim Trọng về Liễu Dương chịu tang chú, gia đình Thúy Kiều gặp nạn. Kiều phải bán mình chuộc cha, nhường mối tơ duyên cho em gái Thúy vân. Từ đây bắt đầu 15 năm lưu lạc đầy nước mắt của Kiều “thanh y mấy lượt, thanh lâu mấy lần”.

Sau đó Thúy Kiều may mắn gặp Từ Hải một người anh hùng đầu đội trời chân đạp đất, Kiều trả ân, báo oán. Kiều và Từ Hải mắc mưu Hồ Tôn Hiến, Từ Hải chết đứng. Kiều bị Hồ Tôn Hiến bắt gả cho viên thổ quan, vì quá nhục nhã Kiều nhảy xuống sông Tiền Đường nhưng may mắn được sư vãi Giác Duyên cứu sống và đi tu. Sau đó Kim Trọng và Vương Quan đỗ đạt làm quan lớn, may mắn gặp sư vãi Giác Duyên và đoàn tụ gia đình sau 15 năm lưu lạc.

Có thể nói ngoài việc thể hiện được tài năng và nghệ thuật điều khiển ngôn từ cao tay của Nguyễn Du, Truyện Kiều còn mang giá trị hiện thực và nhân đạo vô cùng sâu sắc.

Về giá trị hiện thực đó là bức tranh xã hội đầy rối ren. Các thế lực đồng tiền, có quyền có thế ép người khiến nhân dân lầm than khổ cực. Cả xã hội bị chi phối bởi đồng tiền, nó có thể biến con người trở thành những nạn nhân đau khổ.

Đẩy gia đình Vương viên ngoại vào cảnh tan cửa nát nhà, đồng tiền cũng khiến Thúy Kiều dăm lần bảy lượt vào lầu xanh chịu sự sỉ nhục, đánh đập của Hoạn Thư, Bạc Bà, Bạc Hạnh. Cuộc đời đầy nước mắt của Kiều chính là bằng chứng đanh thép nhất để tố cáo xã hội phong kiến đầy bất lương và tàn nhẫn.

Về giá trị nhân đạo Truyện Kiều chính là tiếng nói yêu thương sâu sắc giữa người với người. Nó là sự thương cảm với những kiếp người bất hạnh, đồng thời cũng là khát vọng ước mơ về một hạnh phúc tình yêu chân chính của con người. Bên cạnh đó niềm khát khao công lý về chiến thắng thế lực bạo tàn còn được nhà thơ gửi gắm qua hình tượng nhân vật Từ Hải.

Có thể nói đến “Truyện Kiều” thì tài năng của Nguyễn Du như được khẳng định một cách trọn vẹn nhất. bằng cách điều khiển ngôn từ, xây dựng cốt truyện hấp dẫn , nghệ thuật miêu tả – tả cảnh ngụ tình… ông đã khiến cho Truyện Kiều trở thành một thi phẩm xuất sắc.

Đó cũng là lý do vì sao Truyện Kiều trở thành cuốn sách gối đầu giường của rất nhiều người, truyền tải ý nghĩa nhân văn sâu sắc, khơi gợi tình yêu thương sự công bình giữa người với người trong xã hội.

Phân Tích Truyện Kiều Ấn Tượng – Mẫu 3

“Truyện Kiều” của Nguyễn Du không còn là tác phẩm xa lạ đối với mỗi chúng ta.Tác phẩm được Nguyễn Du viết bằng chữ Nôm với 3254 câu thơ lục bát dựa trên cốt truyện “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân – tác giả nổi tiếng của văn học Trung Quốc.

”Truyện Kiều” không chỉ mang ý nghĩa tố cáo hiện thực xã hội bất công, bạo tàn mà còn nổi bật bởi giá trị nhân đạo sâu sắc được thể hiện thông qua nhân vật Thúy Kiều. Đây là nhân vật chính của “Truyện Kiều” và cũng là nhân vật để lại nhiều ấn tượng trong lòng bạn đọc.

Giá trị nhân đạo là những tình cảm chân thành xuất phát từ trái tim người nghệ sĩ đối với nhân vật của mình nói riêng và những tình cảm đối với con người nói chung. Đó là những sự đồng cảm, niềm cảm thương dành cho những số phận bất hạnh.

Bên cạnh đó, tác giả cũng thể hiện sự trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn, niềm tin vào công lí xã hội và khát vọng về sự tự do trong tình yêu của con người.Những điều ấy đều được Nguyễn Du thể hiện qua nhân vật Thúy Kiều – một hồng nhan bạc phận để lại biết bao nỗi xót thương nơi độc giả.

Nguyễn Du đã ca ngợi vẻ đẹp của nàng bằng những câu thơ ước lệ đầy ấn tượng:

“Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”.

Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn, là một người có cái nhìn tinh tế nên Nguyễn Du không thể bỏ qua chi tiết ấy.Đôi mắt của Thúy Kiều mang vẻ đẹp trong sáng của làn nước mùa thu, đôi lông mày thanh thoát như nét núi mùa xuân.

Vẻ đẹp hình thể ấy khiến thiên nhiên như hoa, liễu cũng nảy sinh lòng đố kị. Phải chăng chi tiết ấy đã dự báo cho cuộc đời về sau của Thúy Kiều sẽ không được êm đềm trong “trướng rủ màn che” nữa mà sẽ gặp nhiều trắc trở, sóng gió?

Các động từ “ghen” và “hờn” đã bộc lộ sự ghen ghét của thiên nhiên đối với vẻ đẹp “mười phân vẹn mười” của Thúy Kiều. Vẻ đẹp “nghiêng nước nghiêng thành”không ai sánh nổi đó trong nhân gian chỉ có duy nhất nàng Kiều còn về tài năng thì may mắn có người thứ hai. Kiều là một người vẹn toàn cả về nhan sắc và trí tuệ:

Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”.

Trời phú cho nàng sự thông minh, tài giỏi nên nàng am hiểu và có tài năng cả về bốn lĩnh vực: cầm, kì, thi, họa nhưng nàng giỏi nhất là đàn. Kiều thuộc lòng năm nốt: cung, thương, dốc, chủy, vũ trong âm giai của nhạc cổ. Tài đàn của nàng vượt xa, “ăn đứt” mọi người. Không những thế, nàng còn sáng tác “thiên Bạc mệnh” mang âm hưởng đau khổ, sầu não.

Vẻ đẹp của Thúy Kiều trở nên toàn diện hơn bởi sự hiếu thảo với cha mẹ và lòng chung thủy với người yêu:

“Duyên hội ngộ, đức cù lao
Chữ tình chữ hiếu bên nào nặng hơn?
Để lời thệ hải minh sơn
Làm con trước phải đền ơn sinh thành”.

Kiều đau đớn nhường nào khi phải lựa chọn giữa chữ hiếu và chữ tình. Nàng đã chấp nhận hi sinh tình yêu với Kim Trọng để bán mình chuộc cha và em.Ngay cả khi ở lầu Ngưng Bích, nỗi nhớ cha mẹ lại càng da diết và khôn nguôi. Nàng thương cha mẹ đã về già mà nàng thì không thể ở bên cạnh chăm sóc:

“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ”.

Giá trị nhân đạo của “Truyện Kiều” còn được thể hiện trong tình yêu của Thúy Kiều với Kim Trọng. Đó cũng là quan niệm về một tình yêu tự do của đại thi hào Nguyễn Du. Mới gặp nhau lần đầu tiên trong tiết thanh minh nhưng cả “người quốc sắc” và “kẻ thiên tài” đều “tình trong như đã mặt ngoài còn e”.

Để rồi từ đó, Kim Trọng thuê trọ gần nhà Thúy Kiều để được trông thấy nàng còn Thúy Kiều thì “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” sang nhà Kim Trọng để thề nguyền “trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”.

Tình yêu của họ là tình yêu tự do, chủ động, xuất phát từ sự tự nguyện của hai phía. Nó đã phá tan đi những lễ giáo phong kiến trói buộc người phụ nữ vào những quy tắc, luật lệ hà khắc. Họ hoàn toàn bị động và không có quyền chủ động trong tình yêu.Lòng thủy chung với chàng Kim đã khiến Thúy Kiều vô cùng đau đớn khi trao duyên lại cho Thúy Vân và mong em sẽ thay mình thực hiện lời thề nguyền với Kim Trọng.

Cuộc đời nàng là một chuỗi các bi kịch tiếp nối nhau.Tình yêu say đắm với Kim Trọng chưa được bao lâu thì “giữa đường đứt gánh tương tư” bởi biến cố bất ngờ mà gia đình Thúy Kiều gặp phải. Tình yêu tan vỡ, hai người phải chịu cảnh chia li, xa cách trong một thời gian dài và khi gặp lại nhau tuy tình cảm dành cho nhau vẫn còn nhưng hai người lại chọn cách ứng xử “duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy”.

Song song với bi kịch tình yêu là bi kịch bị chà đạp lên nhân phẩm. Để có tiền chuộc cha và em, Kiều đã bán mình cho Mã giám Sinh để làm vợnhưng kẻ lọc lừa, xảo trá ấy đã bán Kiều vào lầu xanh khiến nàng phải “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”. Nàng gặp phải những kẻ buôn thịt bán người đầy mưu mô như Tú Bà, Bạc Bà, Bạc Hạnh, Mã Giám Sinh, Sở Khanh,…

Thúy Kiều phải sống cuộc sống ô nhục ở chốn lầu xanh nhơ nhớp. Đó là bức tranh hiện thực mà tác giả muốn tố cáo. Nguyễn Du đã lên án xã hội vì đồng tiền mà nhân phẩm con người bị chà đạp, sức mạnh của đồng tiền có thể đổi trắng thay đen, khiến những con người vô tội phải chịu nỗi oan uổng.

Bàn về giá trị nhân đạo của “Truyện Kiều”, Mộng Liên Đường đã đưa ra nhận định xác đáng: “Lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy khiến ai đọc cũng thấm thía ngậm ngùi”. Quả đúng là như vậy, Nguyễn Du viết về thân phận người phụ nữ bằng bao nhiêu sự xót xa, đồng cảm:

“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

Ông đau đớn cho số phận của Thúy Kiều phải chịu sự vùi dập. Ông cũng trân trọng khát vọng về một tình yêu tự do, khát vọng sống và khát vọng hạnh phúc của nàng. “Nếu không phải con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì không tài nào có được bút lực ấy” (Mộng Liên Đường).

Nếu không phải một nhà thơ có tình yêu thương đối với những con người bất hạnh thì có lẽ Nguyễn Du đã không viết nên được tác phẩm “Truyện Kiều” nổi tiếng không chỉ trong nước mà còn được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài.

Thúy Kiều là nhân vật Nguyễn Du gửi gắm những tư tưởng nhân đạo của mình. Đồng thời, nàng cũng là nhân vật thể hiện giá trị nhân đạo của toàn bộ thiên kiệt tác. “Truyện Kiều” đã đánh thức trái tim của mỗi chúng ta, khiến chúng ta rơi lệ bởi sự thương xót cho nhân vật Thúy Kiều. “Truyện Kiều” là di sản vĩ đại, là linh hồn của dân tộc Việt Nam. “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn” (Phạm Quỳnh).

Phân Tích Truyện Kiều Tiêu Biểu – Mẫu 4

Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, là người gắn bó am hiểu văn hóa dân tộc, văn chương Trung Quốc, cuộc đời từng trải. Nguyễn Du có một vốn sống phong phú, niềm thương cảm sâu sắc với nhân dân lao động. “Truyện Kiều” là một tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Du và của văn học trung đại Việt Nam.

Nguyễn Du sinh năm 1765 mất năm 1820 tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc có truyền thống khoa bảng và văn chương. Cuộc đời của ông gắn bó sâu sắc với những biến cố lịch sử của xã hội phong kiến Việt Nam cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIX.

Nguyễn Du từng sống phiêu bạt mười năm trên đất Bắc sau đó về ở ẩn tại quê nội Hà Tĩnh rồi ra làm quan bất đắc dĩ với triều Nguyễn. Chính những biến động lịch sử đó đã tác động đến tâm hồn và tư tưởng của Nguyễn Du.

Nguyễn Du đã để lại sự nghiệp văn học đồ sộ với những tác phẩm có giá trị lớn, tiêu biểu là “Truyện Kiều”. “Truyện Kiều” là tác phẩm tiêu biểu cho thể loại truyện thơ nôm theo thể thơ lục bát gồm 3254 câu. “Truyện Kiều” dựa vào cốt truyện “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc), bằng tài năng của mình, Nguyễn Du đã sáng tạo nên “Truyện Kiều” của người Việt.

“Truyện Kiều” lấy bối cảnh năm Gia Tĩnh triều Minh (Trung Quốc) để phản ánh xã hội phong kiến Việt Nam những năm cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIX. Truyện kể về mười lăm năm lưu lạc đầy đau khổ, tủi nhục của người con gái tài hoa tuyệt sắc Thúy Kiều do bị các thế lực đen tối trong xã hội phong kiến bất công đầy đọa.

Nguyễn Du đã lược bỏ các chi tiết về mưu mẹo, về sự báo oán tàn nhẫn và một số chi tiết dung tục trong tác phẩm của Thanh Tâm tài nhân, thay đổi thứ tự kể và sáng tạo thêm một số chi tiết mới để tạo ra một thế giới nhân vật sống động như thật, biến các sự kiện chính của tác phẩm thành đối tượng để bộc lộ cảm xúc, tình cảm của nhân vật và người kể, chuyển trọng tâm của truyện từ việc kể sự kiện sang biểu hiện nội tâm nhân vật làm cho các nhân vật sống hơn, sâu sắc hơn và tác phẩm trở thành một bách khoa toàn thư của muôn vàn tâm trạng.

Giá trị của truyện Kiều được thể hiện trên hai phương diện chủ yếu là giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật. Giá trị nội dung được thể hiện qua giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Giá trị hiện thực của tác phẩm là bức tranh hiện thực về xã hội phong kiến bất công của những thế lực đen tối, sức mạnh ma quái của đồng tiền đã chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc của con người đặc biệt là người phụ nữ.

“Truyện Kiều” tố cáo các thế lực đen tối trong xã hội phong kiến, từ bọn sai nha, quan xử kiện cho đến “họ Hoạn danh gia”, “quan Tổng đốc trọng thần” rồi là bọn ma cô, chủ chứa,… đều ích kỷ, tham lam, tàn nhẫn, coi nhẹ sinh mạng và phẩm giá con người.

“Truyện Kiều” còn cho thấy sức mạnh ma quái của đồng tiền đã làm cho tha hóa con người. Đồng tiền làm đảo điên “Dẫu lòng đổi trắng thay đen khó gì”, đồng tiền giẫm lên lương tâm con người và xóa mờ công lý “Có ba trăm lạng việc này mới xuôi”.

Giá trị nhân đạo của “Truyện Kiều” thể hiện ở chỗ tác phẩm là tiếng nói thương cảm cho số phận bi kịch của người phụ nữ đồng thời trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp, tài năng, ước mơ, khát vọng chân chính của con người. “Truyện Kiều” là tiếng nói thương cảm, là tiếng khóc đau đớn trước số phận bi kịch của con người.

Thúy Kiều là nhân vật mà Nguyễn Duy yêu quý nhất. Khóc Thúy Kiều, Nguyễn Du khóc cho những nỗi đau đớn của con người: tình yêu tan vỡ, cốt nhục lìa tan, nhân phẩm bị chà đạp, thân xác bị đọa đày.

Tình yêu của Thúy Kiều và Kim Trọng là tình yêu tự do, trong sáng, chung thủy đã phá vỡ những quy tắc thánh hiền về sự cách biệt nam nữ. Qua hình tượng Từ Hải, Nguyễn Du gửi gắm ước mơ anh hùng “đội trời đạp đất”, làm chủ cuộc đời, trả ân báo oán, thực hiện công lí, khinh bỉ những “phường giá áo túi cơm”.

“Truyện Kiều” còn là một tác phẩm mang giá trị nghệ thuật đặc sắc. “Truyện Kiều” là “tập đại thành” của nền văn học trung đại, kết tinh những thành tựu nghệ thuật, văn hóa dân tộc cả về ngôn ngữ và thể loại. Ngôn ngữ dân tộc đạt tới đỉnh cao rực rỡ. Ngôn ngữ “Truyện Kiều” rất trong sáng.

Trong tác phẩm có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ bác học và ngôn ngữ bình dân, cả hai đều được sử dụng có chọn lọc, hợp lý, đúng chỗ đúng lúc. Ngôn ngữ dành cho nhân vật được cá thể hóa cao độ, lời nhân vật nào phù hợp với nhân vật ấy làm rõ tính cách nhân vật. Ngôn ngữ dân tộc được nâng lên thành ngôn ngữ nghệ thuật, đủ sức diễn tả những biến thái tinh vi của cảnh sắc thiên nhiên và những biểu hiện tinh tế trong tâm hồn con người.

Thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc được sử dụng hết sức điêu luyện và vận dụng ý nghĩa một cách tối đa, đủ sức diễn tả nhiều sắc thái cuộc sống và những biểu hiện tinh tế trong đời sống tâm hồn con người.

Nguyễn Du đã thành công trong việc xây dựng được một tiểu tiểu thuyết bằng thơ lục bát. Cả một thiên tiểu thuyết không một câu nào gượng ép. Nghệ thuật tự sự đã có bước phát triển vượt bậc. Nghệ thuật miêu tả nhân vật đến mức độ điêu luyện.

Với nhân vật chính diện, tác giả dùng bút pháp ước lệ tượng trưng là chủ yếu, lấy vẻ đẹp thiên nhiên để gợi tả vẻ đẹp con người. Còn với nhân vật phản diện, tác giả chủ yếu tả thực, đi sâu và khắc họa vẻ xảo trá, ranh mãnh của chúng. Có thể nói với mỗi nhân vật dù là phản diện hay chính diện, Nguyễn Du thường tìm được nét thần thái của nhân vật để miêu tả dù chỉ đôi dòng hay vài chữ mà lột tả được cả bản chất của nhân vật.

Nghệ thuật kể chuyện trong “Truyện Kiều” cũng là một thành công đáng kể. Tác phẩm là mẫu mực của nghệ thuật kể chuyện và trữ tình bằng thơ lục bát với bút pháp trần thuật và miêu tả nhân vật độc đáo. Bút pháp miêu tả tinh tế nhất là bút pháp tả cảnh ngụ tình, mượn cảnh để đi sâu khai thác nội tâm nhân vật.

“Truyện Kiều” là một kiệt tác của dân tộc Việt Nam, là di sản văn học của nhân loại tiêu biểu cho cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa, vừa là niềm thương cảm sâu sắc, là tấm lòng nghĩ tới muôn đời vừa là thái độ nâng niu, trân trọng những giá trị nhân văn cao đẹp của con người.

“Truyện Kiều” đã được lưu truyền phổ biến rộng rãi ở trong và ngoài nước có một sức lôi cuốn với mọi tầng lớp người đọc. Tác phẩm đã trở thành cuốn sách gối đầu giường của mỗi người dân Việt Nam.

Chẳng thế mà khi nhận xét về Nguyễn Du và “Truyện Kiều”, Mộng Liên Đường đã nói: “Ông là người có con mắt trông thấu sáu cõi và tấm lòng nghĩ tới nghìn đời. Ông viết “Truyện Kiều” như có máu rỏ đầu ngọn bút, nước mắt thấm qua giấy,…”. “Truyện Kiều” của Nguyễn Du sẽ sống mãi với dân tộc và trở thành linh hồn dân tộc Việt Nam.

Phân Tích Truyện Kiều Đặc Sắc – Mẫu 5

Nếu văn học Trung Quốc tự hào về nhà văn Lỗ Tấn, văn học Nga tự hào về nhà văn Macxim Gooky thì Việt Nam cũng tự hào về đại thi hào Nguyễn Du. Ông đã để lại cho nền văn học nước nhà tác phẩm văn học vô cùng nổi tiếng mang tên Truyện Kiều. Với học vấn uyên thâm cùng tài năng văn học xuất chúng, cùng những giá trị nhân đạo sâu sắc, Nguyễn Du và Truyện Kiều thực sự đã trở thành niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.

Nguyễn Du sinh ra và lớn lên trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan, có truyền thống văn học. Cha ông là Nguyễn Nghiễm, cũng là người giỏi văn chương. Ông thi đỗ tiến sĩ và làm quan Tể tướng. Mẹ ông là bà Trần Thị Tân, người con gái Bắc Kinh cũng văn hay chữ tốt. Anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản làm quan từ dưới thời Lê Trịnh.

Ông xuất thân danh giá nhưng cuộc đời lại nhiều nỗi đau. Năm 13 tuổi, ông mồ côi cả cha lẫn mẹ, phải sống với anh Nguyễn Khản. Khi ông 15 tuổi, Nguyễn Khản bị khép tội mưu phản, ông phải nương nhờ nhà họ hàng xa. Đặc biệt, cuộc đời ông gắn bó sâu sắc với những biến cố lịch sử giai đoạn của thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX – giai đoạn mà giai cấp cai trị thối nát, tham lam, không quan tâm nhân dân, họ chém giết lẫn nhau để tranh giành quyền lực.

Ông phiêu bạt nhiều nơi trong hoàn cảnh đó, đến năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi, Nguyễn Du phải bất đắc dĩ làm quan. Ông được cử sang Trung Quốc hai lần nhưng lần thứ 2 vào năm 1820 chưa kịp đi thì ông bị bệnh và mất tại Huế.

Tuy cuộc đời nhiều biến cố nhưng đổi lại ông có được vốn kiến thức sâu rộng cùng nỗi lòng thương cảm xót xa với số phận bi thảm của người dân. Ông là đại thi hào của dân tộc với nhiều tác phẩm có giá trị gồm ba tập thơ bằng chữ Hán gồm Thanh Hiên Thi tập, Bắc Hành tạp lục, Nam Trung tạp ngôn và tác phẩm chữ Nôm xuất sắc nhất là Truyện Kiều.

Truyện Kiều trước đó có tên là “Đoạn trường Tân Thanh”. Truyện Kiều được Nguyễn Du sáng tạo từ truyện “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm tài nhân Trung Quốc. Tuy nhiên khác với “Đoạn trường Tân Thanh”, Truyện Kiều được viết bằng thể thơ lục bát gồm 3254 câu thơ và chia thành ba giai đoạn: Gặp gỡ và đính ước, gia biệt và lưu lạc, đoàn tụ.

Truyện kể về cuộc đời của nàng Kiều. Thúy Kiều là một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, trưởng thành trong gia đình trung lưu lương thiện họ Vương, nhà có ba chị em: Thúy Kiều, Thúy Vân và Vương Quan. Trong một lần du xuân, Kiều gặp gỡ Kim Trọng, cả 2 đem lòng yêu nhau và âm thầm tự do đính ước. Gia đình Kim Trọng xảy ra biến cố, chú mất, Kim Trọng phải về Liêu Dương để tang chú, gia đình Kiều cũng gặp biến cố, Kiều phải bán thân chuộc cha.

Kiều bị bọn buôn mình là Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh lừa gạt, lưu lạc vào lầu xanh. Kiều gặp Thúc Sinh và được về làm vợ lẽ, nhưng Hoạn Thư là vợ Thúc Sinh ghen tuông, nàng bị đánh ghen. Trốn khỏi nhà Thúc Sinh và lại rơi vào tay Bạc Hà, Bạc Hạnh lưu lạc lầu xanh lần hai.

Tại đây Kiều gặp Từ Hải – một anh hùng “đội trời đạp đất”.Từ Hải chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, giúp Kiều báo ân, báo oán. Song, Kiều lại mắc mưu Hồ Tôn Hiến, Từ Hải chết, Kiều bị ép lấy viên quan thổ quan.

Vì quá nhục nhã, đau đớn, nàng gieo mình xuống sông Tiền. Sau đó, nàng được sư Giác Duyên cứu và quyết định tu hành. Kim Trọng sau khi chịu tang xong trở lại kết duyên với Thúy Vân nhưng vẫn không quên được Kiều. Sau 15 năm lưu lạc Kiều đoàn tụ cùng gia đình và Kim Trọng nhưng quyết định không kết duyên với Kim Trọng mà trở thành tri âm tri kỉ.

Giá trị nội dung được thể hiện qua giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm. Truyện Kiều phản ánh hiện thực xã hội đương thời với bộ mặt tàn bạo của giai cấp thống trị. Sức mạnh của đồng tiền và số phận những con người bị áp bức, nạn nhân của đồng tiền, đặc biệt là người phụ nữ. Cuộc đời đầy nước mắt của người con gái tài sắc Thuý Kiều cũng bắt đầu từ chính sức mạnh và sự bất nhân của đồng tiền.

Truyện cũng có giá trị nhân đạo vô cùng sâu sắc. Trước hết là sự trân trọng đề cao con người từ ngoại hình, phẩm chất, tài năng khát vọng đến ước mơ và tình yêu chân chính. Đồng thời lên án, tố cáo những thế lực tàn bạo chà đạp lên quyền sống của con người. Mặt khác Truyện Kiều còn thể hiện niềm thương cảm sâu sắc trước số phận và những khổ đau của con người, đặc biệt là người phụ nữ và trân trọng tài năng, nét đẹp của những con người tài hoa mà bạc mệnh.

Về giá trị nghệ thuật, Nguyễn Du đã bộc lộ tài hoa, sắc sảo trong nghệ thuật tự sự, miêu tả nhân vật, tả cảnh, sử dụng ngôn từ. Truyện Kiều là một kiệt tác nghệ thuật, với bút pháp của một nghệ sĩ thiên tài, tiếng Việt trong Truyện Kiều đã đạt đến độ giàu và đẹp.

Với việc sử dụng ngôn ngữ kể chuyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật miêu tả – tả cảnh ngụ tình Nguyễn Du đã tái hiện thành công bức tranh một xã hội tàn bạo bất công, chà đạp lên những con người nghèo khó, đặc biệt là người phụ nữ. Qua đó lên án các thế lực xấu xa. Đồng thời đề cao vẻ đẹp ngoại hình, tài năng cùng nhân phẩm và khát vọng chân chính của con người về tự do hạnh phúc, chân lí.

Với những thành công về nội dung và nghệ thuật như thế, Truyện Kiều đã trở thành tác phẩm tiêu biểu của đời thơ Nguyễn Du, của văn học dân tộc. Nguyễn Du và Truyện Kiều sẽ sống mãi trong lòng người đọc, sống mãi với dân tộc.

Viết một bình luận