Xúy Vân Giả Dại ❤️️ Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích ✅ Chia Sẻ Bạn Đọc Về Hoàn Cảnh Sáng Tác, Bố Cục, Đọc Hiểu, Ý Nghĩa Nhan Đề.
NỘI DUNG CHÍNH
Nội Dung Vỡ Chèo Xúy Vân Giả Dại
Đoạn trích Xúy Vân giả dại được trích trong vở chèo Kim Nham, là đoạn kể về sự việc giả điên của Xúy Vân để mong được thoát khỏi Kim Nham. Nội Dung Vỡ Chèo Xúy Vân Giả Dại như sau.
Kim Nham là một nho sinh, trọ học ở Trảng An). Sau khi kết duyên với Xuý Vân, chàng tiếp tục lên kinh miệt mài đèn sách đợi khoa thi, để Xuý Vân sống trong cảnh cô đơn, buồn bã. Ở quê, Xuý Vân bị gãy Trân Phương tán tỉnh, hứa hẹn ngon ngọt. Nàng giả điên với hi vọng thoát khỏi Kim Nham để theo Trần Phương. Sau những cố gắng chạy chữa cho vợ không thành, Kim Nham đành phải để nàng được tự do. Xuý Vân tìm đến Trần Phương nhưng bị hẳn trở mặt, quay lưng. Từ chỗ giả điên, Xuý Vân đã hoá điên thật. Đoạn trích dưới đây thể hiện cảnh Xuý Vân tự dựng lên màn điên loạn của chính mình.
XUÝ VÂN (Nói lệch):
Đau thiết thiệt van,
Than cùng bà Nguyệt”
Đánh cho lẽ liệt,
Chết mệt con đồng.
Bắt đò sang sông,
Bộ đồ, bớ đò”.
(Vỉa):
Tôi kêu đò, đồ nọ không thưa,
Tôi càng chờ càng đợi, càng trưa chuyến đò.
(Hát quá giang):
Nên tôi phải luy đò,
Cách con sông nên tôi phải lụy đò,
Bởi ông trời tối, phải luy cô bán hàng.
Chả nên gia thất thì về,
Ở làm chỉ mãi cho chúng chê, bạn cười. trạng thái tâm lý gì của
Tôi chắp tay lạy bạn đừng cười,
Tôi không trăng gió lại gặp người gió trăng.
Gió trăng thời mặc gió trăng,
Ai ơi giữ lấy đạo hằng chớ quên.
Chị em ơi!
Ra đây có phải xưng danh không nhỉ?
(Đế):
Không xưng danh, ai biết là ai?
XUÝ VÂN:
Bước chân vào tối thưa rằng vậy,
Chẳng giấu gì Xuý Vân là tôi,
Tuy đại đột, tài cao vô giá,
Thiên hạ đồn rằng tôi hát hay đã lạ,
Ai cũng gọi là cô ả Xuý Vân.
Phụ Kim Nham, say đắm Trần Phương,
Nên đến nổi điên cuồng, rồ dại.
(Hát điệu con gà rừng):
Con gà rừng ăn lẫn với công,
Đắng cay chẳng có chịu được,
Mà để láng giểng ai hay?
Bông bông dắt, bông bông díu,
Xa xa lắc, xa xa líu,
Láng giềng ai hay, úc bởi xuân huyên
Chờ cho bông lúa chín vàng,
Để anh đi gặt, để nàng mang cơm.
Bông bông dắt, bông bông díu,
Xa xa lắc, xa xa líu,
Láng giềng ai hay, úc bởi xuân huyên.
(Tiếng trống nhịp nối lên, Xu Vận múa điệu bắt nhện, xe tơ, dệt cửi. Múa xong, Xuý Vân hát lên rồi cười nhà hát điệu sa lệch).
Rủ nhau lên núi Thiên Thai,
Thấy hai con quạ đang ăn xoài trên cây.
Ba cô bán mắm trong làng,
Mắm không bán hết, còn quang với thùng…
Chị em ơi, tội thân thân tôi vài câu nhé.
(Đế):
Ờ.
XUÝ VÂN (Nói điệu sử rầu):
Than ôi!
Tôi thương nhân ngãi, tôi nhớ nhân tình
Đêm năm canh tôi thức cả vừa năm.
(Hát sắp):
Than rằng nhân ngãi, cựu tình tôi đâu
Con cá rô nằm vũng chân trâu,
Để cho năm bảy cần câu châu vào!
(Nói):
Chị em ơi, tôi hát xuôi cũng được,
Mà tôi hát ngược cũng hay,
Tôi hát câu này cho chị em nghe nhé!
(Hát ngược):
Chiếc trống cơm, ai khéo vỗ nên bông,
Một đàn các cö con gái lội sông té bèo.
Chuột đậu cành rào, muỗi ấp cánh dơi,
Ông Bụt kia bẻ cổ con nai,
Cái trứng gà mà tha con qua lên ngồi trên cây.
Ở trong đình có cái khua, cái nhôi”
Ở trong cái nón có cái kèo, cái cột, cách liên hệ bÃIt thường
Ở dưới sông có cái phố bán bát, giả điện.
Lên trên biển ta đốn gỗ làm nhà, Ta
Con ma kia ấp trứng ba ba,
Cưỡi con gà mà đi đánh giặc!
(Xuý Vân vào, vừa đi vừa cười điên dại)
Cùng cập nhật tác phẩm HOT ✨ Bài Thơ Mùa Hoa Mận ✨ Nội Dung, Giá Trị, Phân Tích
Tóm Tắt Xúy Vân Giả Dại
Tiếp theo là bản Tóm Tắt Xúy Vân Giả Dại.
Xúy Vân bước ra sân khấu với những câu hát nửa điên dại, ngô nghê, nửa chân thực tỉnh táo về thân phận dang dở, bẽ bàng. Sau những câu hát xưng danh là tâm sự đau xót về một cuộc đời lạc lõng, cô đơn, vô nghĩa.
Đoạn trích tiếp tục những lời độc thoại về nỗi thất vọng trước mâu thuẫn vì ước mơ hạnh phúc tốt đẹp gặp phải thực tế phũ phàng. Màn kịch kết thúc trong tiếng cười điên dại, bất ổn, trớ trêu trong tâm trạng của Xúy Vân.
Về Tác Giả Vở Xúy Vân Giả Dại
Cùng Thohay.vn khám phá những thông tin cơ bản Về Tác Giả Vở Xúy Vân Giả Dại.
- Vở Xúy Vân giả dại thuộc vở chèo Kim Nham. Đây là một trong số các vở chèo cổ kinh điển của nghệ thuật sân khấu chèo Việt Nam. Như vậy không có tác giả cụ thể của tác phẩm này. Mà tác phẩm được lưu truyền qua nhiều thế hệ nghệ sĩ.
- Vở chèo cải biên Xúy Vân (Súy Vân) do GS NSND Trần Bảng là đạo diễn, người chủ biên, lần đầu tiên công diễn trong hội diễn sân khấu chuyên nghiệp mùa xuân năm 1962 bởi Nhà hát Chèo Việt Nam.
Cập nhật cho bạn đọc 💚 Đi Trong Hương Tràm 💚 Những Mẫu Phân Tích Hay Nhất
Về Tác Phẩm Xúy Vân Giả Dại
Về Tác Phẩm Xúy Vân Giả Dại, đây là lớp chèo thuộc loại đỉnh cao không chỉ của riêng vở Kim Nham mà còn của cả nền chèo cổ Việt Nam.
Đoạn trích Xúy Vân giả dại rất tiêu biểu cho nghệ thuật chèo. Xuý Vân giả dại là hiện thân của số phận bi kịch bị giằng xé giữa khát vọng tình yêu và hạnh phúc đối với hoàn cảnh sống khắc nghiệt của người phụ nữ trong chế độ xưa. Sự bất bình đẳng trong xã hội cũ là một trong những nguyên nhân gây nên vô số những tấn thảm kịch số phận của người phụ nữ.
Xuất Xứ Và Hoàn Cảnh Sáng Tác Xúy Vân Giả Dại
Tìm hiểu về Xuất Xứ Và Hoàn Cảnh Sáng Tác Xúy Vân Giả Dại ngay bên dưới.
Kim Nham là một trong số các vở chèo cổ kinh điển của nghệ thuật sân khấu chèo Việt Nam. Vở chèo Kim Nham có trích đoạn “Xúy Vân giả dại” được đánh giá là một trong những trích đoạn hay nhất của chèo cổ Việt Nam.
Kim Nham là vở chèo cổ nói về người học trò cùng tên. Sau khi kết duyên với Xúy Vân chàng đã lên kinh đô tiếp tục học hành, Xúy Vân ở nhà bị Trần Phương dụ dỗ, hứa hẹn nên đã giả điên để mong thoát khỏi Trần Phương. Chạy chữa không thành, Kim Nham đành để cho vợ được tự do nhưng khi tới tìm Trần Phương, Xúy Vân lại bị hắn ta trở mặt. Từ chỗ giả điên, nàng đã hóa điên thật.
Đừng bỏ lỡ tác phẩm 🌿 Cảm Xúc Mùa Thu [Đỗ Phủ] 🌿 Nội Dung, Nghệ Thuật
Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm Xúy Vân Giả Dại
Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm Xúy Vân Giả Dại như sau:
Nhan đề “Xuý Vân giả dại” góp phần nói lên nội dung chính của đoạn trích. Đây là trích đoạn đặc sắc nhất trong vở chèo Kim Nham. Trích đoạn tập trung thể hiện bi kịch tình yêu và nội tâm đầy mâu thuẫn của Xuý Vân, qua đó bộc lộ tinh thần nhân đạo sâu sắc của tác giả dân gian.
Bố Cục Xúy Vân Giả Dại
Bố Cục Xúy Vân Giả Dại bao gồm 3 phần:
- Phần 1: từ đầu đến “ai biết là ai?”: màn giới thiệu của Xúy Vân với khán giả
- Phần 2: tiếp theo đến “than thân vài câu nhé”: tình cảnh éo le, nỗi đau khổ của Xúy Vân hiện tại và niềm mong ước của nàng về một cuộc sống gia đình hòa hợp, hạnh phúc.
- Phần 3: còn lại: nỗi ân hận, xót xa và hối lỗi, tự trách của Xúy Vân
Nhất định đừng bỏ qua bài 🌸 Lính Đảo Hát Tình Ca Trên Đảo 🌸 Sơ Đồ Tư Duy, Phân Tích, Dàn Ý
Đọc Hiểu Tác Phẩm Xúy Vân Giả Dại
Tiếp theo là nội dung Đọc Hiểu Tác Phẩm Xúy Vân Giả Dại.
Xuý Vân là một nhân vật bi kịch. Trong trích đoạn Xuý Vân giả dại, bi kịch ấy phần nào được bộc lộ. Một người phụ nữ đảm đang, khéo léo (có thể thấy qua hình ảnh Xuý Vân múa điệu quay tơ, dệt cửi,…) có ước mong, khát vọng hạnh phúc thật giản dị :
Gia đình đầm ấm với những việc cày cấy của nhà nông (Chờ cho bông lúa chín vàng – Để anh đi gặt, để nàng mang cơm), sống trong một gia đình với người chồng đặt tất cả vào sự nghiệp đèn sách, thi cử. Đó là nguyên nhân dẫn đến bi kịch của Xuý Vân. Ở khía cạnh này, nàng là người rất đáng thương.
Đặt trong toàn bộ vở chèo, số phận Xuý Vân còn thể hiện những điểm đáng thương khác nữa. Xuý Vân không được lựa chọn hôn nhân, lấy Kim Nham là do cha mẹ sắp đặt, nàng phải chung sống với người mình không yêu. Tác giả dân gian phê phán Xuý Vân “phụ Kim Nham, say đắm Trần Phương” thì cũng có phương diện đúng.
Nhưng với cái nhìn cảm thông hơn, con người hơn thì sẽ thấy không chỉ có thế. Xuý Vân đến với Trần Phương là một hành động mạnh mẽ, dám vì tình yêu. Chính cái ước mơ chính đáng và tình cảnh bế tắc, cô đơn, lạc lõng giữa gia đình nhà chồng đã đẩy Xuý Vân đến sự lựa chọn tự do nhưng đầy bi kịch.
Những tình tiết như Xuý Vân bị Trần Phương phụ bạc, rồi ra người điên dại và cuối cùng tự vẫn có vẻ như là sự trừng phạt đối với người vợ phụ chồng. Trước tính cách và số phận Xuý Vân, đáng trách và đáng thương đi liền với nhau cũng như chính tính chất mâu thuẫn, phức tạp bên trong người phụ nữ này.
Lời trong đoạn trích là lời Xuý Vân khi giả dại, nhưng không phải tất cả đều là những lời điên dại mà ngược lại, phần lớn các câu nói và lời hát ở đây lại là những câu nói tỉnh táo. Lời tỉnh táo xen lẫn những lời điên dại, khi trực diện, khi bóng gió góp phần bộc lộ nổi bật trạng thái nội tâm nhân vật Xuý Vân. Chẳng hạn :
Than ôi !
Tôi thương nhân ngãi, tôi nhớ nhân tình,
Đêm năm canh tôi thức cả vừa năm.
Than rằng nhân ngãi, cựu tình tôi đâu,
Con cá rô nằm trong vũng chân trâu,
Để cho năm bảy cần câu châu vào !
Không những không phải những lời điên dại mà còn là những lời nói rất thật.
Trong đoạn trích, tâm trạng của Xuý Vân được diễn tả rất sâu sắc, thể hiện qua diễn biến phức tạp, với nhiều trạng thái đan xen :
– Có khi là tâm trạng của người tự thấy mình đã lỡ làng, dở dang, bẽ bàng : Tôi kêu đò, đò nọ không thưa – Tôi càng chờ càng đợi, càng trưa chuyến đò ; Chả nên gia thất thì về – Ở làm chi mãi cho chúng chê, bạn cười,…
– Có khi là tâm trạng của người phụ nữ tự thấy mình lạc lõng, cô đơn, vô nghĩa trong gia đình chồng : Con gà rừng ăn lẫn với công – Đắng cay chẳng có chịu được, ức !
– Có khi là nỗi thất vọng trước mâu thuẫn giữa ước mơ hạnh phúc gia đình đầm ấm (Để anh đi gặt, để nàng mang cơm) với thực tế bị chồng xao nhãng, bỏ bê vì mải mê đèn sách. Duyên phận dắt díu, ràng buộc họ với nhau, nhưng khát vọng của họ không gặp nhau. Lời hát “Bông bông dắt, bông bông díu – Xa xa lắc, xa xa líu” điệp lại trong lời hát của Xuý Vân là nhằm tô đậm, lột tả trạng thái tâm lí đó.
– Có khi là trạng thái ấm ức, cô đơn, quẫn bách : Con cá rô nằm trong vũng chân trâu – Để cho năm bảy cần câu châu vào. Hình ảnh này vừa gợi tả tình cảnh bế tắc, tù đọng đầy bất trắc, vừa phản ánh sức nặng của áp lực từ nhiều phía, thậm chí là từ chính khát vọng hạnh phúc của mình đang đè nặng tâm trạng Xuý Vân. Câu “Láng giềng ai hay, ức bởi xuân huyên” được điệp lại trong lời hát Xuý Vân khắc hoạ sự cô đơn, nỗi tủi phận vì không có người sẻ chia.
Ở cuối đoạn trích, tâm trạng của Xuý Vân lại là một trạng thái tâm lí khác của nhân vật được bộc lộ. Những câu nói ngược, đầy những phi lí, nghịch dị khơi gợi về một thực trạng nội tâm xáo trộn, bất ổn, đầy trớ trêu. Nhân vật dường như rơi vào trạng thái hỗn loạn, điên dại, rối bời, mất phương hướng.
Xuý Vân giả dại là trích đoạn đặc sắc nhất trong vở chèo Kim Nham. Trích đoạn tập trung thể hiện bi kịch tình yêu và nội tâm đầy mâu thuẫn của Xuý Vân, qua đó bộc lộ tinh thần nhân đạo sâu sắc của tác giả dân gian.
Tham khảo tác phẩm ⚡ Tỏ Lòng [Thuật Hoài] ⚡ Nội Dung Bài Thơ, Nghệ Thuật, Phân Tích
Giá Trị Vở Chèo Xúy Vân Giả Dại
Cùng xem các Giá Trị Vở Chèo Xúy Vân Giả Dại sau đây.
Giá trị nội dung
- Đoạn trích đã khắc họa thành công hình hóa điên của nhân vật Xúy Vân qua những câu từ, lời lẽ và hành động của nhân vật
- Từ hoàn cảnh của Xúy Vân, giúp người đọc hình dung được hoàn cảnh và thân phận của người phụ nữ xưa cùng những thiệt thòi của họ khi sống trong xã hội nam quyền
- Thể hiện những quan niệm về gia đình, đạo vợ chồng
- Thể hiện phần nào văn hóa làng xã của Việt Nam thuở xưa, coi trọng và khắt khe đối với phẩm chất của người phụ nữ.
- Bộc lộ niềm cảm thông đối với người phụ nữ trong xã hội nam quyền xưa
Giá trị nghệ thuật
- Thể hiện được những đặc trưng của thể loại chèo ở nhiều khía cạnh như cách xưng danh, sự tương tác giữa người xem và người diễn,…
- Ngôn từ được thể hiện đa dạng theo nhiều cách như nói lệch, vỉa, hát quá giang, đế, điệu con gà rừng, điệu sử rầu, hát sắp, hát ngược
- Giàu tính bi kịch
Soạn Bài Xúy Vân Giả Dại
Chia sẻ các gợi ý Soạn Bài Xúy Vân Giả Dại.
👉Câu 1 (trang 65 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Chú ý các chỉ dẫn sân khấu (in nghiêng trong ngoặc đơn) và ngôn ngữ của nhân vật để hình dung hành động cảm xúc, tâm trạng của Xuý Vân.
Trả lời:
– Các chỉ dẫn sân khấu (nói lệch; vỉa; hát quả giang; đế)
– Ngôn ngữ của nhân vật: mang tính hình tượng, tính truyền cảm, mộc mạc, giản dị, giàu giá trị văn chương
+ Thấy được tâm trạng đau khổ vì tự thấy mình đã lỡ làng, dang dở
“Tôi càng chờ đợi, càng trưa chuyến đò”, “Chả nên gia thất thì về ở làm chi mãi cho chúng chê, bạn cười”
→ Hình ảnh cô gái càng chờ đợi, càng không thấy con đò tới đã cụ thể hóa sự bẽ bàng, lỡ dở của Xúy Vân.
👉Câu 2 (trang 65 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Cách dùng từ ngữ trong lời hát của Xuý Vân ở đoạn này có gì độc đáo.
Trả lời:
– Cách dùng từ ngữ trong lời hát của Xúy Vân ở đoạn này độc đáo là nửa điên dại, ngô nghê, nửa chân thực, tỉnh táo, rất giàu hình ảnh, nhiều ngụ ý thể hiện tâm trạng đau khổ của Xúy Vân về thân phận dang dở, bẽ bàng.
👉Câu 3 (trang 66 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Trong lời xưng danh, Xuý Vân kể điều gì về bản thân?
Trả lời:
– Trong lời xưng danh, Xúy Vân là một người dại dột, có tài cao nhưng lại phụ Kim Nham say đắm Trần Phương, nghe theo lời xui dại của hắn là giả điên để thoát khỏi chồng, cuối cùng từ chỗ giả điên trở thành điên thật.
👉Câu 4 (trang 66 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Chú ý các hình ảnh thể hiện tình cảnh, mơ ước và tâm trạng của Xuý Vân.
Trả lời:
+ Tâm trạng lạc lõng, cô đơn, vô nghĩa trong gia đình chồng “Con gà rừng ăn lẫn với con công – Đắng cay chẳng có chịu được, ức!”
+ Nỗi thất vọng trước mâu thuẫn giữa ước mơ hạnh phúc gia đình đầm ấm “Để anh đi gặt, để nàng mang cơm” với thực tế bị chồng xao nhãng, bỏ bê vì mải mê đèn sách “Bông bông dắt, bông bông díu – Xa xa lắc, xa xa líu
+ Tâm trạng uất ức, cơ đơn, quẫn bách “Láng giềng ai hay, ức bởi xuân huyên” khắc họa sự cô đơn, nỗi tủi phận vì không có người chia sẻ.
👉Câu 5 (trang 66 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Hình dung điệu múa, lời hát của Xuý Vân trên sân khấu.
Trả lời:
– Chúng ta có thể hình dung điệu múa Xúy Vân thể hiện nàng là một người phụ nữ đảm đang, khéo léo “điệu múa bắt nhện, xe tơ, dệt cửi”. Là một cô gái lao động, mong ước của nàng thật nhỏ bé, bình thường, cụ thể. Tâm trạng Xúy Vân được thể hiện đặc sắc giữa những câu hát, trận cười điên dại tưởng như vô nghĩa cho thấy nội tâm phong phú, rối bời, đầy tính bi kịch của nàng.
👉Câu 6 (trang 67 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Xuý Vân than về điều gì? Chú ý biện pháp ẩn dụ trong đoạn hát sắp.
Trả lời:
– Xúy Vân than về nỗi nhớ về người tình, trằn chọc không thể ngủ được, lưu luyến mối tình xưa.
– Biện pháp ẩn dụ trong câu “Con cá rô nằm trong vũng chân trâu – Để cho năm bảy cần câu châu vào” là trạng thái ấm ức, cô đơn, quẫn bách, gợi tả tình cảnh bế tắc, tù đọng đầy bất trắc, vừa phản ánh sức nặng của áp lực từ nhiều phía.
👉Câu 7 (trang 67 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Chú ý những điều ngược đời, phi thực tế trong câu hát của Xuý Vân,
Trả lời:
– Những điều ngược đời, phi thực tế trong câu hát của Xúy Vân được thể hiện rõ nhất trong ở đoạn cuối văn bản: “Chiếc trống cơm, ai khéo vỗ nên bông … Cưỡi con gà mà đi đánh giặc!”
– Qua đoạn cuối văn bản, tâm trạng của Xúy Vân rơi vào trạng thái hỗn loạn, điên dại, rối bời, mất phương hướng”. Những câu nói ngược, đầy những phi lí, nghịch dị khơ gợi về một thực trạng nội tâm xáo trộn, bất ổn, đầy trớ trêu. Nhân vật dường như rơi vào trạng thái hỗn loạn, điên dại, rối bờ, mất phương hướng.
Cập nhật cho bạn đọc 💚 Lời Má Năm Xưa 💚 Sơ đồ tư duy, phân tích hay nhất
Giáo Án Xúy Vân Giả Dại
Tham khảo nội dung Giáo Án Xúy Vân Giả Dại bên dưới.
A. Mục tiêu cần đạt:
1. Hiểu được nội dung – ý nghĩa của vở chèo “Kim Nham” qua đoạn trích
2. Thấy được nghệ thuật thể hiện đặc sắc nội tâm của Xuý Vân trong đoạn trích.
3. Có thái độ trân trọng đối với nghệ thuật truyền thống độc đáo của dân tộc.
B. Phương tiện thực hiện:
– Sách giáo khoa, sách giáo viên.
– Thiết kế bài học.
– Đĩa hình về vở chèo “Kim Nham” và một số vở chèo khác như “Quan Âm Thị Kính ( Cảnh Thị Mầu lên chùa).
C. Cách thức tiến hành:
– Giáo viên dành thời gian thích hợp để giới thiệu sơ lược về nghệ thuật chèo, vở chèo “Kim Nham” kết hợp cho học sinh xem lướt trên đĩa hình.
– Chú ý: Chèo là nghệ thuật biểu diễn dân gian vì vậy khi tìm hiểu thể loại này không chỉ quan tâm đến phần văn bản mà cần quan tâm đến cả đặc trưng của nghệ thuật sân khấu.
– Tìm hiểu đoạn trích bằng phương pháp đọc sáng tạo, trao đổi thảo luận trả lời các câu hỏi, so sánh.
D. Tiến trình tổ chức dạy học:
1. Ổn định.
2. Kiểm tra bài cũ.
3. Bài mới
👉Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ học tập
– GV tổ chức trò chơi mang tên “Loại hình nghệ thuật nào? Vở diễn gì?”. GV đưa ra một số bức ảnh chụp cảnh diễn chèo hoặc tuồng để HS đoán, xác định, nhận diện về các đối tượng.
Hình ảnh 1:
Hình ảnh 2:
Hình ảnh 3:
Hình ảnh 4:
👉Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ học tập
– HS chơi trò chơi, nhìn vào hình ảnh, đoán tên và các nhân vạt trong vở chèo.
👉Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động và thảo luận
– GV mời một số HS trả lời từng hình ảnh.
👉Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập
– GV nhận xét, đánh giá, chốt:
Tranh | Vở chèo | Nhân vật |
1 | Quan Âm Thị Kính | Thị Mầu, Tiểu Kính Tâm |
2 | Lưu Bình – Dương Lễ | Lưu Bình, Châu Long, Dương Lễ |
3 | Trương Viên | Thị Phương, mẹ Trương Viên, Trương Viên |
4 | Kim Nham | Xúy Vân |
– GV dẫn dắt vào trích đoạn Xúy Vân giả dại: Tiết học hôm nay, chúng ta sẽ tìm hiểu về một lớp chèo trong vở chèo cuối cùng được nhắc đến trong trò chơi vừa rồi. Đó là lớp chèo Xúy Vân giả dại trong vở chèo Kim Nham.
HÌNH THÀNH KIẾN THỨC
Hoạt động: Đọc văn bản
- Mục tiêu: Nắm được những thông tin về văn bản Xúy Vân giả dại và hiểu được những nét cơ bản của chèo Kim Nham.
- Nội dung: HS sử dụng SGK, chắt lọc kiến thức để tiến hành trả lời câu hỏi liên quan đến chèo Kim Nham và lớp chèo Xúy Vân giả dại.
- Sản phẩm học tập: Câu trả lời của HS và kiến thức HS tiếp thu được liên quan đến chèo Kim Nham và lớp chèo Xúy Vân giả dại.
- Tổ chức thực hiện:
HOẠT ĐỘNG CỦA GV – HS | DỰ KIẾN SẢN PHẨM |
NV1: Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ học tập – GV mời 1 HS đọc phần thông tin dẫn nhập vào văn bản trước lớp để cả lớp nắm bắt được vở chèo Kim Nham. – 1 HS đọc trước lớp, cả lớp theo dõi. – GV chia lớp thành 4 nhóm, yêu cầu các nhóm thảo luận, vẽ sơ đồ thể hiện diễn biến chính của tích trò. – Các nhóm tiếp nhận nhiệm vụ. Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ học tập – Các nhóm thảo luận để vẽ sơ đồ. Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động và thảo luận – GV mời đại diện 1 nhóm lên bảng vẽ sơ đồ, yêu cầu các nhóm khác nhận xét, góp ý, bổ sung. Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập – GV nhận xét, chốt kiến thức. NV2: Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ học tập – GV yêu cầu HS đọc thông tin trong SGK, nêu đặc điểm của chèo Kim Nham. – HS tiếp nhận nhiệm vụ. Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ học tập – HS đọc thông tin trong SGK, chuẩn bị trình bày trước lớp. Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động và thảo luận – GV mời 2 – 3 HS phát biểu, yêu cầu cả lớp nhận xét, bổ sung. Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập – GV nhận xét, đánh giá, chốt kiến thức. | I. Tìm hiểu chung 1. Diễn biến chính của tích trò Kim Nham – Kim Nham là một học tròà Kim Nham kết duyên với Xúy Vân và Kim Nham tiếp tục lên kinh ứng thí, Xúy Vân sống trong cảnh cô đơnà Xúy Vân sống trong cảnh cô đơn, Trần Phương tán tỉnh Xúy Vânà Xúy Vân giả điên để thoát khỏi Kim Nhamà Kim Nham chạy chữ cho Xúy Vânà Chạy chữa không được, Kim Nham đành để Xúy Vân tự doà Xúy Vân tìm đến Trần Phương nhưng bị Trần Phương quay lưngà Xúy Vân hóa điên thật 2. Đặc điểm của chèo Kim Nham – Nêu cao bài học đạo lí khi thể hiện quan hệ gia đình, chồng vợ, đồng thời cũng bộc lộ sự cảm thông với thân phận của người phụ nữ trong xã hội nam quyền xưa. – Hội tụ được những tinh hoa của nghệ thuật chèo, vừa giàu tính bi kịch, vừa đầy tiếng cười hài hước. – Tích trò Kim Nham có một số dị bản, kể khác nhau ít nhiều về nguồn gốc gia đình Xúy Vân, nguyên cớ chính khiến Xúy Vân giả điên và đoạn kết thúc số phận bi kịch của nàng. – Vở chèo Kim Nham khi được biểu diễn, có những lớp, những màn hết sức đặc sắc, gắn liền với tài năng biểu diễn của các nghệ sĩ qua nhiều thời. Đã có nhiều diễn viên khẳng định tài năng xuất chúng của mình nhờ lớp chèo này như Dịu Hương, Diễm Lộc, Thúy Ngần,… |
Sơ Đồ Tư Duy Xúy Vân Giả Dại
Chia sẻ cho bạn đọc các Sơ Đồ Tư Duy Xúy Vân Giả Dại.
Đừng vội bỏ lỡ phân tích 🍀Đăm Săn Đi Chinh Phục Nữ Thần Mặt Trời🍀 Sơ Đồ Tư Duy, Các Mẫu Phân Tích
5 Mẫu Phân Tích Xúy Vân Giả Dại Hay Nhất
Đừng bỏ qua 5 Mẫu Phân Tích Xúy Vân Giả Dại Hay Nhất sau đây.
Phân Tích Xúy Vân Giả Dại Nổi Bật – Mẫu 1
Chèo là một loại hình sân khấu dân gian kết hợp nghệ thuật hát, múa, diễn rất hài hoà. Các làn điệu chèo rất phong phú, đa dạng; lời chèo thấm quyện ca dao, dân ca một cách tài tình. Chèo là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian lâu đời của dân tộc ta.
Những vở chèo như “Quan Âm Thị Kính”, “Trương Viên”, “Chu Mãi Thần”, “Kim Nham”… rất nổi tiếng, được các thế hệ ông bà, cha mẹ chúng ta yêu thích. Sau mùa gặt bội thu hay đầu xuân, nhiều làng quê mở hội chèo, tiếng trống chèo rung lên sau luỹ tre xanh, gợi lên bao xao xuyến trong lòng người:
“Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy
Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ
Mẹ bảo: “Thôn Đoài hát tối nay… ”
(Nguyễn Bính)
Những trích đoạn như “Thị Mầu lên chùa ”, “Xuý Vân giả dại ”, “Thị Phương dắt mẹ chồng chạy giặc”, “Tuần Ty gặp đào Huế”… được nhiều người yêu thích, xem mãi vẫn muốn xem, không chán.
Trích đoạn “Xuý Vân giả dại” nằm trong phần hai vở chèo “Kim Nhan”. Xa chồng lâu ngày, Xuý Vân dan díu với Trần Phương, bị dụ dỗ, nàng giả điên giả dại, lập mưu để Kim Nhan li dị.
Với ánh mắt bốc lửa, tiếng hát đắm say, với bước đi, điệu lượn, cánh tay múa… như điên cuồng, nhân vật Xuý Vân từng để lại nhiều ấn tượng về lửa tình, về bi kịch tình yêu trong lòng khán giả. Nhiều nghệ sĩ chèo đã thành danh qua vai chèo “Xúy Vân giả dại”.
Mấy câu mở đầu, Xuý Vân xuất hiện (chưa xưng danh) từ nói lệch, đến hát xuôi, cô nàng quay cuồng với tâm trạng dở tỉnh dở điên, dở ngây dở dại. Cất tiếng than bà Nguyệt (trách duyên số) rồi réo cô đồng, rồi cất tiếng hát nói về con đò, con đò tình duyên của một cô gái chờ chồng, đợi chồng đi xa:
“Tôi là dò, đò nỏ có thưa
Tôi càng chờ, càng đợi, càng trưa chuyển dò”.
Buồn và lo vì tuổi xuân sẽ trôi qua, như kẻ đứng trên bến vắng chờ đò “càng trưa chuyến đò”
Những câu hát tiếp theo là những câu thơ lục bát phá thể, biến thể, thể hiện tâm trạng đầy bi kịch của người con gái đã có chồng (như gông đeo cổ) nên phải “lụy dò” lúc muốn “qua sông”, muốn dứt bỏ mối duyên tình cũ:
“Chẳng nên gia thất thì về
Ở làm chi nữa chúng chê bạn cười”
Chẳng cần chi úp mở, cô gái thổ lộ mối tình “gió giăng ” của mình, với niềm tin sẽ cùng với tình nhân “gió giăng” sống đến đầu bạc răng long, trọn vẹn “đạo hằng” thuỷ chung:
“Gió giăng thì mặc gió giăng
Đôi ta chỉ quyết đạo hằng với nhau”
Tâm trạng “nổi loạn” ấy của Xuý Vân cho đến nay vẫn còn làm cho nhiều khán giả ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Phải chăng đó là sự “bứt phá” đạo tam tòng tứ đức lễ giáo phong kiến của một người con gái đang “nổi loạn”?
Sau tiếng hỏi của vai diễn và tiếng đế hô ứng của khán giả, Xuy Vân mới xưng danh:
“Chẳng giấu gì: tôi tên gọi Xuý Vân
Lấy Kim Nhan nhà khó gian truân
Chồng học vắng chầy ngày mong mỏi
Tôi ngồi từ tối
Đợi khách tha nhang
Gái phải nằm hàng
Nghề dại dột… nhưng tài cao vô giá
Thiên hạ đồn tôi hát hay đã lạ
Ai cũng gọi là cô ả Xuý Vân
Phụ Kim Nhan say đắm Trần Phương
Nên đến nỗi điên cuồng rồ dại… ”
Rồi Xuý Vân cất điệu “hát con gà rừng” thể hiện một duyên phận trớ trêu, khác nào “Con gà rừng ăn lẫn với công”, vô duyên lấy phải anh chồng vai u thịt bắp, sống cuộc đời lam lũ: “Để anh đi gặt lúa, để cô nàng mang cơm”. Xuý Vân tự cho mình là con quan, cao môn lệnh tộc, còn Kim Nhan là con nhà nghèo hèn, cục mịch tầm thường.
Rồi nàng lại chuyển sang “hát xe chỉ” diễn tả tâm trạng mong nhớ “đợi chờ tình nhân”, ước ao khát khao muốn được cùng Trần Phương sống trong tình yêu hạnh phúc “Áo giải làm chiếu, chăn quây làm mùng”. Hát rồi nói, bộc lộ một tâm trạng cô đơn của cô gái đa tình:
“Tôi thương nhân ngãi
Tôi nhớ nhân tình
Đêm năm canh trằn trọc hoà năm
Than rằng nhân ngãi cựu tình đi đâu”?
Đoạn “hát ngược ” đã thể hiện tâm trạng trăm mối tơ vò của một cô gái giả dại mà ngọn lửa tình ngùn ngụt, mà nỗi khao khát dục tình cháy bỏng khôn nguôi. Giả dại, giả điên hay hóa cuồng? Ngược đời trong tự nhiên cũng là nghịch lí trong tâm trạng người con gái đa tình mà thất tình: “Muỗi ấp cánh dơi… Cái trứng gà mày tha con quạ lên ngồi trên cây…”
Rồi Xuý Vân như chợt bừng tỉnh, giải thích rõ cái dại, cái rồ, cái điên của mình:
“Rồ này ai bán thì mua
Dại này ai thấy không mơ mẩn tình
Lúc thì giả cách làm thinh
Lúc thì giả dại ra hình làm điên
Lúc thì tưởng đến nhân duyên
Cho nên đến nỗi phát điên, phát rồ”.
Trần Phương đã qua mụ quán xúi Xuý Vân giả dại để thoả tình giăng gió, gió giăng. Phải xem chèo và nghe chèo mới cảm thấy cái hay màn chèo “Xuý Vân giả dại”. Trích đoạn này đã làm nổi bật tâm trạng đau khổ của một cô gái đa tình mà thất tình, muốn dứt bỏ, đập phá mối quan hệ vợ chồng với Kim Nhan để chạy theo mối tình mới với Trần Phương – một Sở khanh mà nàng đâu biết.
Nỗi khát khao về tình yêu hạnh phúc lứa đôi, nỗi buồn cô đơn của ngư i vợ trẻ trong cảnh ngộ “thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây” của Xuý Vân là điều có thể cảm thông và thương cảm.
Xuý Vân giả dại là khởi đầu của một sự trượt dốc để không bao lâu thân tàn ma dại trở thành hành khất, rồi bị điên, rồi tự tử. Cái kết cục bi thảm đó đã làm cho cảm hứng nhân đạo thấm sâu vai chèo, màn chèo.
Cái bánh vẽ tình yêu mà Trần Phương trao cho Xuý Vân, nàng tưởng là ngọt ngào nhưng vô cùng cay đắng.
Màn chèo Xuý Vân giả dại đã thể hiện sâu sắc quan niệm của nhân dân về tình yêu lứa đôi, về sự đau khô dại khờ trong tình yêu lứa đôi. Câu hỏi được đặt ra: “Thế nào là tình yêu hạnh phúc gia đình chân chính?” cứ xoáy sâu mãi vào những người yêu thích chèo Kim Nham.
Phân Tích Xúy Vân Giả Dại Chọn Lọc – Mẫu 2
Vở chèo Kim Nham được bắt đầu bằng cuộc hôn nhân giữa Xuý Vân với cha nẹ Kim Nham. Cuộc gả bán vội vàng, không có tình yêu đó đã đưa đẩy Xuý Vân làm nên bi kịch của chính mình và trở thành một trong những nhân vật đào lệch đặc sắc của chèo cổ.
Lấy chồng chẳng được gần chồng, thân thế nông dân lại bị gả vào gia đình chữ nghĩa, cô tự thấy mình lạc lõng, vô nghĩa trong gia đình Kim Nham, chẳng có ai bầu bạn, cũng không người chia sẻ. Tâm trạng đó được thể hiện qua câu hát của Xuý Vân “gà rừng ăn lẫn với công – Đắng cay chẳng có chịu được ức…”. Cô ví mình như con gà rừng ngu ngơ, lạc lõng, đành chịu cay đắng giữa bầy công cao sang, xa lạ.
Đang trong cảnh tù túng bế tắc đó, gặp Trần Phương là tay chơi nổi tiếng đất Đông Ngàn mà cô không biết, cô yêu hắn tưởng như túm được chiếc phao cứu đỡ cho cuộc đời. Nghe lời ngon ngọt của Trần Phương, Xuý Vân giả dại để được trả về nhà với hi vọng được sống với người mình yêu, được thoát khỏi cảnh tù túng để bay ra cuộc sống tự do.
Những câu hát điên dại của Xuý Vân không phải tất cả đều là điên dại, ngược lại phần lớn nhũng câu nói và hát đó đều là những lời cay đắng tự trong tâm can cô, phản chiếu niềm khao khát mãnh liệt của một tâm hồn trẻ trung, muốn giao cảm với đời.
Cô đã mượn lời nói khi điên dại, khi bóng gió để thể hiện nỗi lòng và bộc lộ tâm trạng của mình, điều mà khi tỉnh không một người phụ nữ nào trong xã hội phong kiến xưa đủ can đảm bộc lộ.
Xuý Vân vừa rối rít gọi đò “bớ đò, bớ đò”, lại vừa chán chường trong lời hát : “Tôi kêu đò, đò nọ không thưa – Tôi càng chờ càng đợi, càng trưa chuyến đò”. Lời hát ấy bộc lộ tâm trạng tự thấy mình đã dở dang, lỡ làng. Dường như chẳng có ai đợi cô ở bên này, cũng chẳng ai đón cô ở đầu kia của bến đò. Cô bẽ bàng trong cảnh đi cũng dở, ở cũng không xong.
Con sông trong văn học dân gian và trong thơ cổ thường là biểu tượng của sự chia li, khoảng cách của đôi bờ, của mặt nước mênh mang luôn gợi buồn. Ca dao
có câu :
Sông Thương nước chảy đôi dòng,
Bên trong, bên đục đau lòng biệt li.
Lí Bạch, nhà thơ nổi tiếng ở Trung Quốc thòi Đường khi tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng cũng có câu thơ nổi tiếng về dòng sông li biệt:
Bóng buồm đã khuất bầu không,
Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời.
Con đò (thuyền) là phương tiện nối liền sự xa cách, nhưng con thuyền mất hút chỉ thấy dòng sông bát ngát trong thơ Lí Bạch, con đò “càng chờ càng đợi” càng không thấy đâu trong câu hát của Xuý Vân đều gợi hình ảnh thật buồn bã, bất lực.
Cô vẫn biết “Chả nên gia thất thì về – ở làm chi mãi cho chúng chê, bạn cười”, nhưng nói về mà về đâu có dễ, nhất là với các cô gái đã lấy chổng, đã “sang ngang”. Cô càng chờ đợi càng muộn màng, lỡ dở. Hình ảnh cô gái càng chờ đợi, con đò càng không tới đã cụ thể hoá sự bẽ bàng, lỡ dở của cô, cho ta thấm thìa nỗi trống trải, thất vọng của nhân vật.
Với cô thôn nữ Xuý Vân, một gia đình hạnh phúc “anh đi gặt, nàng mang cơm” là ước mơ giản dị và đầm ấm. Mơ ước tưởng như bình thường đó với cô lại không thể có được, bởi Kim Nham mải mê đèn sách, thi cử, bỏ mặc cô một minh với gánh nặng gia đình. Cho nên, lời hát : “Bông bông dắt, bông bông díu – Xa xa lắc, xa xa líu – Láng giềng ai hay…” được lặp đi lặp lại mấy lần, đã phản ánh bằng hình ảnh cụ thể nỗi thất vọng của cô.
Nhân duyên khiến hai người gắn bó, dắt díu, ràng buộc với nhau, nhưng những ao ước của họ khác xa nhau, đến mức không thể sẻ chia. Một bên chỉ mong ước cùng sống với nhau dưới một mái nhà, “chồng cày, vợ cấy”, được mùa lúa chín “anh đi gặt, nàng mang cơm”, còn bên kia lại mơ ước học hành, thi cử, đỗ đạt, làm quan để “võng anh đi trước, võng nàng theo sau”.
Mơ ước của cả hai đều đẹp và đáng được trân trọng, song nó không có chỗ gặp nhau khiến hôn nhân trở thành sự trói buộc nghiệt ngã. Có nỗi ấm ức, bế tắc, cô đơn nào khòng khiến người ta thất vọng! Xuý Vân tự hoạ nỗi thất vọng ấy của mình bằng hình ảnh “Con cá rô nằm vũng chân trâu – Để cho năm bảy cần câu châu vào…”.
Hình ảnh được gợi lên qua câu hát đã bóng gió về không gian cạn hẹp và đầy bất trắc. Trong câu hát đó không có lời nào nói đến “mắc câu”, nhưng hình ảnh con cá rô nhỏ bé, trong cái vũng chân trâu cạn hẹp, không có lối ra, lại có đến năm bảy cái cần câu chực sẵn thì làm sao thoát được. Đó cũng là tình cảnh bị mất tự do, bế tắc của Xuý Vân trong gia đình Kim Nham.
Sau mỗi lời bộc bạch là điệp ngữ : “Láng giềng ai hay, ức bởi xuân huyên” càng làm cho nỗi cô đom và niềm khát khao hạnh phúc của cô hiển hiện. Xuân huyên vốn là hai loại cây sống rất lâu năm, tượng trưng cho cha mẹ già. Xuân là cây cổ thụ, gốc to, vững chãi, được ví với người cha; huyền là loại cây lá nhỏ và thanh mảnh, thường được ví với người mẹ.
Những người xung quanh không hiểu cô, đến cả cha mẹ là những người thân yêu, tin cậv nhất cô cũng không thể chia sẻ, bởi đằng sau họ là xã hội phong kiến với quan niệm khe khắt “cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy” làm gì có chỗ để cảm thông với một Xuý Vân đã có chồng rồi còn không yên bề gia thất, làm gì có ai đồng tình với một Xuý Vân muốn bỏ chồng để chạy theo người khác…
Xuý Vân cuống cuồng vùng vẫy trong không gian cạn hẹp, tù túng đó. Thật đúng như lời một câu ca dao :
Em như con hục đần đình,
Muốn bay không cất nổi mình mà bay.
Thân phận của Xuý Vân làm cho ta cứ bị ám ảnh, vương vấn, day dứt khôn nguôi.
Cùng với những câu hát bóng gió và nhũng lời bộc bạch, những câu hát ngược cuối đoạn trích lại là một lối bộc lộ rất khéo tâm trạng nhân vật :
… Cái trứng gà mà tha con quạ lên ngồi trên cây
Ở trong đình có cái khua, cúi nhôi,
Ở trong cái nón có cái kèo, cúi cột,
Ở dưới sông có cái phố bán bát,
Lẻn trên biển ta đốn gỗ làm nhà…
Chỉ có những người điên dại mới lẫn lộn, không rõ ngược xuôi. Những câu hát ngược, hát xuôi lẫn lộn của Xuý Vân vừa thể hiện tư duy điên dại, thiếu tỉnh táo, vừa gợi hình ánh ngược đời, trớ trêu, điên đảo, đúng sai, thực giả lẫn lộn mà cô chứng kiến.
Những hình ảnh ẩn dụ khi kín đáo, khi bóng bảy, khi thì được giấu giữa những tiếng cười, câu hát đicn dại tưởng như vô nghĩa, khi lại là những câu nói ngược,… tất cả làm thành một nội tâm phong phú, rối bời, đầy tính bi kịch, diễn tả tâm trạng bế tắc, mất phương hướng của cô.
Phân Tích Xúy Vân Giả Dại Ấn Tượng – Mẫu 3
Thuộc loại hình sân khấu dân gian, chèo được hình thành và phát triển ở nước ta từ rất sớm. Những vở chèo nổi tiếng nhất có thể kể đến như: Quan âm Thị Kính, Kim Nhan… những vở chèo không chỉ nhằm mục đích giải trí mà thông qua vở chèo các tác giả dân gian đã gửi gắm biết bao quan niệm về nhân sinh. Chèo đối với cuộc sống của con người đã trở nên vô cùng quen thuộc, chẳng những vậy mà nhà văn Nguyễn Bính cũng từng viết:
“Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy
Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ
Mẹ bảo: “Thôn Đoài hát tối nay… ”
Trong những trích đoạn chèo hay và nổi tiếng nhất có thể kể đến, đó chính là Xúy Vân giả dại. Trích đoạn chèo này thuộc vở chèo Kim Nham, nói về việc Xúy Vân có những dan díu bất chính với tình nhân là Trần Phương khi chồng vắng nhà. Để có thể đến được với Trần Phương, Xúy Vân đã quyết định giả dại để làm lí do có thể li hôn với Kim Nhan.
Ở phần mở đầu, Xúy Vân xuất hiện với những tiếng hát và hành động quay cuồng, tâm trạng nửa tỉnh nửa mê, nửa ngây nửa dại. Xúy Vân đã cất tiếng hát than thở với bà Nguyệt về tình duyên của mình, sau đó Xúy Vân đã mượn hình ảnh con đò tình duyên để nói về mình, một người phụ nữ mòn mỏi chờ chồng, hạnh phúc dang dở.
“Tôi là đò, đò nhỏ có thưa
Tôi càng chờ, càng đợi, càng trưa chuyến đò”
Tuy lời hát xuất phát từ trạng thái nửa tỉnh nửa ngây nhưng qua lời hát ấy chúng ta vẫn có thể cảm nhận được tâm trạng đầy đau khổ, day dứt của một cô gái đang lo lắng trước tuổi xuân đang trôi qua, hình ảnh của cô gái ấy như một người lữ khách đứng trên bến đò vắng nhưng chưa thấy bóng dáng con đò.
Ở những câu hát tiếp theo, dưới hình thức của những câu thơ lục bát biến thể, Xúy Vân đã thể hiện được tâm trạng của một người con gái đã có chồng, tự do bị trói buộc, mọi thứ đều phải phụ thuộc vào chồng. Muốn qua sông lần nữa thì phải dứt bỏ tình duyên cũ với chồng:
“Chẳng nên gia thất thì về
Ở làm chi nữa chúng chê bạn cười”
Xúy Vân không phủ định mà thừa nhận tình cảm đổi thay của mình, cô gái ấy luôn khát khao tình yêu và có một niềm tin mãnh liệt vào một tương lai đầy hạnh phúc với tình nhân mới củy mình.
“Gió giăng thì mặc gió giăng
Đôi ta chỉ quyết đạo hằng với nhau”
Hình ảnh Xúy Vân mạnh mẽ tìm đến tình yêu của mình đã từng bị coi là hành vi phá bỏ những giá trị đạo đức phong kiến, phá vỡ đạo tam tòng tứ đức, trở thành một người nổi loạn chẳng quá cũng vì quá khát khao tình yêu và đắm chìm trong tình yêu ấy đến nỗi không thể thoát ra được.
Sau những tâm sự, trước tiếng hỏi của vai diễn cũng như sự hô ứng của tác giả thì nhân vật Xúy Vân mới bắt đầu giới thiệu về mình:
“Chẳng giấu gì: tôi tên gọi Xúy Vân
Lấy Kim Nhan nhà khó gian truân
Chồng học vắng thầy ngày mong mỏi
Khi đã giới thiệu về bản thân mình. Xúy Vân cũng đã mạnh dạn thừa nhận mình đã phụ tấm lòng của Kim Nhan mà say đắm tình nhân trong hiện tại là Trần Phương, dẫu biết là sai trái nhưng tình cảm nào chịu nghe theo sự chi phối của lí trí:
“Phụ Kim Nham say đắm Trần Phương
Nên đến nỗi điên cuồng rồ dại”
Nhưng cũng có những lúc Xúy Vân chợt bừng tỉnh khỏi cơn mê để nhận thức được cái dại khờ của mình:
“Rồ này ai bán thì mua
Dại này ai thấy không mơ mẩn tình
Lúc thì giả cách làm thinh
Lúc thì giả dại ra hình làm điên”
Trích đoạn Xúy Vân giả dại đã làm nổi bật lên tâm trạng nhiều đau khổ, day dứt của Xúy Vân, một cô gái đa tình mà đành phụ tình, đi theo tình yêu mới. Tuy nhiên nàng cũng không hề hay biết rằng người mà mình yêu say đắm Trần Phương lại là một tên Sở Khanh không hơn không kém.
Phân Tích Xúy Vân Giả Dại Đặc Sắc – Mẫu 4
“Xúy Vân giả dại” là một trong những trích đoạn tiêu biểu của vở chèo “Kim Nham”. Đây được đánh giá là lớp chèo xuất sắc của nền chèo cổ. Văn bản “Xúy Vân giả dại” không chỉ ẩn chứa những hấp dẫn về mặt nội dung mà còn thể hiện sự độc đáo của các yếu tố nghệ thuật.
Chèo “Kim Nham” xoay quanh câu chuyện giữa ba nhân vật chính là Kim Nham, Xúy Vân và Trần Phương. Sau khi nên vợ nên chồng với Xúy Vân, Kim Nham tiếp tục lên kinh đô dùi mài kinh sử. Nàng Xúy Vân ở nhà sống trong cảnh “chăn đơn gối chiếc”, chờ chồng trở về.
Trong lúc ấy, tên Trần Phương xuất hiện và tán tỉnh Xúy Vân. Nàng xiêu lòng rồi giả điên với hi vọng Kim Nham trả lại tự do cho mình để đi theo nhân tình. Đoạn trích “Xúy Vân giả dại” diễn tả cảnh nàng tự dựng lên màn điên loạn của bản thân nhằm che mắt chồng.
Có thể thấy, ở toàn bộ trích đoạn, Xúy Vân đã trực tiếp bày tỏ nỗi lòng, tâm trạng của mình. Mọi lời nói, hành động của nàng đều tập trung thể hiện những mâu thuẫn giằng xé trong nội tâm. Ngôn ngữ mà nàng sử dụng là ngôn ngữ của kẻ nửa tỉnh nửa điên.
Thông qua lời tự giới thiệu, tác giả dân gian đã cung cấp cho người đọc một số thông tin về tên, tài năng, tình cảnh của nhân vật:
“Bước chân vào tôi thưa rằng vậy,
Chẳng giấu gì Xúy Vân là tôi.
Tuy dại dột, tài cao vô giá,
Thiên hạ đồn rằng tôi hát hay đã lạ,
Ai cũng gọi là cô ả Xúy Vân.
Phụ Kim Nham, say đắm Trần Phương,
Nên đến nỗi điên cuồng, rồ dại.”
Nàng tuy dại dột nhưng “tài cao vô giá”, được mọi người đồn có tài hát hay. Chứng tỏ, Xúy Vân cũng là người phụ nữ tài hoa. Ngoài ra, lời thừa nhận “Phụ Kim Nham, say đắm Trần Phương/ Nên đến nỗi điên cuồng rồ dại.” của Xúy Vân càng khắc họa rõ những giằng xé trong nội tâm nhân vật.
Mở đầu đoạn trích, Xúy Vân trực tiếp bày tỏ nỗi đau đớn, tủi hờn:
“Đau thiết thiệt van.
Than cùng bà Nguyệt.
Đánh cho tê liệt,
Chết mệt con đồng.
Bắt đò sang sông,
Bớ đò, bớ đò.”
Nàng đau khổ tới mức phải kêu lên, than thở cùng với ông Tơ, bà Nguyệt. Xúy Vân trách duyên phận mình dang dở, lỡ làng. Do hoàn cảnh xô đẩy nên nàng buộc lòng phải theo “Nên tôi phải lụy đò,/ Cách con sông nên tôi phải lụy đò,” để rồi từ đó rơi vào bi kịch.
Đâu chỉ dừng lại ở đau khổ, xót xa, nàng còn bộc lộ nỗi xấu hổ, bẽ bàng qua câu “Không trăng gió lại gặp người gió trăng”. Xúy Vân nhận thấy bản thân mình không “trăng gió”, chỉ vì gặp người đàn ông phong lưu, đa tình nên mới xiêu lòng.
Nhận thức được sai lầm, nàng khuyên mọi người phải giữ lấy chuẩn mực, cốt cách của người phụ nữ “Gió trăng mặc thời gió trăng,/ Ai ơi giữ lấy đạo hằng chớ quên”. Xúy Vân khuyên người nhưng cũng chính là lời nhắc nhở bản thân.
Trong điệu hát con gà, nỗi niềm đắng cay, bực tức được thể hiện rõ nét. Nàng dùng hình ảnh “con gà rừng”, “con công” để khẳng định sự bơ vơ, lạc lõng. Đồng thời, thể hiện ý thức về địa vị, vai trò của bản thân. Nàng nhận thấy mình thấp kém, chênh lệch so với người chồng.
Không những vậy, câu “Láng giềng ai hay, ức bởi xuân huyên” được lặp lại hai lần đã nhấn mạnh vào nỗi uất ức, cùng cực của Xúy Vân. Nàng phẫn uất trước sự sắp đặt của cha mẹ. Vì thế, nàng luôn khao khát có được cuộc sống gia đình hạnh phúc như bao người:
“Chờ cho bông lúa chín vàng,
Để anh đi gặt, để nàng mang cơm”
Đến đoạn nói điệu sử rầu, hát sắp, nhân vật bộc lộ sự tự ý thức về chính mình. Nàng mắc kẹt trong mối duyên tình với Trần Phương “Tôi thương nhân ngãi, tôi nhớ nhân tình,/ Đêm năm canh tôi thức cả vừa năm.”. Biện pháp ẩn dụ trong đoạn hát sắp: “Con cá rô nằm vũng chân trâu,/ Để cho năm bảy cần câu châu vào!” thể hiện tình cảnh bế tắc, không lối thoát của Xúy Vân.
Nàng như con cá ở trong vũng nước nhỏ, xung quanh chứa đầy rủi ro, bất trắc. Cho nên, lúc nào Xúy Vân cũng sống trong cảm giác bất an, sợ hãi.
Cuối cùng, Xúy Vân thực sự nhập tâm và hóa điên trong đoạn hát ngược. Các hình ảnh, từ ngữ được liên hệ đầy bất thường, phi logic:
“Một đàn các cô con gái lội sông té bèo.
Chuột đậu cành rào, muỗi ấp cánh dơi,
Ông Bụt kia bẻ cổ con nai,
Cái trứng gà mà tha con quạ lên ngồi trên cây.
Ở trong đình có cái khua, cái nhôi,
[…] Cưỡi con gà mà đi đánh giặc!”
Nó cho thấy nàng thực sự không còn giữ nổi sự tỉnh táo trong cả hành động lẫn lời nói. Chỉ có những người thần trí không bình thường mới khó có thể phân biệt được ngược, xuôi. Những câu hát tưởng chừng như vô nghĩa lại mở ra đời sống nội tâm phức tạp, phong phú với những rối bời. Xúy Vân lúc này đã thực sự đánh mất mình và hoàn toàn rơi vào trạng thái mất phương hướng.
Bên cạnh lời thoại, tâm trạng của Xúy Vân còn được mô tả thông qua hành động như hát, nói, múa. Nàng múa điệu bắt nhện, xe tơ, dệt cửi trên nền trống rồi vừa hát vừa cười. Những hành động này cho thấy khát khao cháy bỏng của Xúy Vân về cuộc sống hôn nhân hạnh phúc.
Nàng cũng muốn được trở thành vợ hiền, dâu thảo. Thế nhưng, hiện thực khiến mong ước ấy trở nên xa vời. Kết thúc điệu hát ngược, nàng đi vào vừa đi vừa cười điên dại càng làm nổi bật tình trạng thiếu minh mẫn, đau khổ, tuyệt vọng.
Bên cạnh yếu tố nội dung thì nghệ thuật cũng là phương diện quan trọng góp phần tạo nên thành công cho đoạn trích. Lớp chèo “Xúy Vân giả dại” được tác giả dân gian sử dụng lối nói theo giọng điệu đặc trưng: nói lệch, vỉa, điệu sử rầu, nói kết hợp với các làn điệu hát chèo như: quá giang, con gà rừng, sắp, sa lệch, hát ngược.
Ngôn ngữ chèo mang đậm màu sắc dân gian, sử dụng chất liệu ca dao, dân ca và thể thơ truyền thống. Ngoài ra, các chỉ dẫn sân khấu: âm thanh tiếng trống, hành động múa, hát, cử chỉ, điệu bộ giúp cho vở diễn được trơn tru, hấp dẫn hơn.
Như vậy, thông qua lớp chèo “Xúy Vân giả dại”, ta thấy được khát vọng hạnh phúc, khát vọng sống thật của nhân vật Xúy Vân. Đồng thời, bày tỏ nỗi xót thương, cảm thông sâu sắc đối với tình cảnh của người phụ nữ trong xã hội xưa.
Tóm lại, giữa sự nở rộ của hàng ngàn loại hình giải trí, chèo cổ vẫn luôn có sức sống mãnh liệt, bền bỉ với thời gian. Đoạn trích “Xúy Vân giả dại” nói riêng và chèo “Kim Nham” nói chung vẫn giữ được vị trí đặc biệt trong lòng người dân Việt Nam.
Phân Tích Xúy Vân Giả Dại Tiêu Biểu – Mẫu 5
Chèo chính là một thể loại mang nhiều nét dân tộc đặc sắc của Việt Nam, là một trong những nét đẹp văn hóa được bảo tồn và phát huy. Trong những bộ chèo đặc sắc, có lẽ Xúy Vân giả dại là bộ khiến cho tác giả có nhiều cảm xúc nhất, và cũng tái hiện chân thực nhất số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Ngay từ đầu chuyện, qua những từ ngữ miêu tả, Xúy Vân xuất hiện trước mắt khán giả với vẻ đẹp đoan trang của người phụ nữ xưa. Kể cả trong lúc giả ngây giả dại, những điệu múa, câu thơ của nàng cũng cho người đọc thấy được, nàng chính là một người phụ nữ tài năng.
Vậy tại sao một người phụ nữ sinh đẹp, tài năng như nàng lại đi đến con đường này? Có lẽ, nguyên nhân khách quan lớn nhất chính là do những đặc điểm và định kiến tại thời điểm đó vẫn quá khắt khe với người phụ nữ.
“Tôi là đò, đò nhỏ có thưa
Tôi càng chờ, càng đợi, càng trưa chuyến đò”
Câu thơ này thể hiện rõ được khát khao với hạnh phúc lứa đôi của người con gái. Nhưng trong thời điểm ấy, Xúy Vân lại thể hiện sự lo lắng cho tuổi xuân của mình đang dần trôi đi bởi những ngày tháng chồng không quan tâm. Con đò ấy cứ đợi mãi, nhưng lại chẳng chờ được một người đi đò. Như người chồng cứ mải chong đèn học tập, không quan tâm đến những sự vất vả, hy sinh của nàng dành cho gia đình.
Trong những câu thơ tiếp theo, thể thơ lục bát cùng cách ngắt nhịp nhanh chóng cũng cho thấy sự gấp gáp, vội vàng hướng tới một tình yêu mù mịt. Nàng đã bị trói buộc quá lâu, đến mức chỉ thấy được tia hy vọng nhỏ, nàng vẫn cố gắng bám víu và bắt lấy nó cho mình.
Nhưng hành động theo đuổi hạnh phúc đó của nàng lại trái với luân đạo của thế giới hiện tại, trái với đức hạnh của một người làm vợ trong xã hội hiện giờ. Nàng cũng tự nhận thức được lỗi lầm của mình, nhưng nàng lại không thể từ chối được tình yêu đang nảy nở trong người.
Tóm lại, nhân vật Xúy Vân tuy không làm tròn lễ tiết của một người phụ nữ, nhưng lại không đến nỗi đáng trách. Bởi nàng chỉ muốn được sống một cuộc sống hạnh phúc như bao người, mong muốn có một tình yêu giản dị mà đích thực.