Lính Đảo Hát Tình Ca Trên Đảo: Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích

Lính Đảo Hát Tình Ca Trên Đảo ❤️️ Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích ✅ Chia Sẻ Bạn Đọc Về Hoàn Cảnh Sáng Tác, Bố Cục, Đọc Hiểu.

Nội Dung Bài Thơ Lính Đảo Hát Tình Ca Trên Đảo

Trước khi tìm hiểu nội dung phân tích tác phẩm, mời bạn đọc xem Nội Dung Bài Thơ Lính Đảo Hát Tình Ca Trên Đảo đầy đủ bên dưới nhé.

Lính đảo hát tình ca trên đảo
Tác giả: Trần Đăng Khoa

Đá san hô kê lên thành sân khấu
Vài tấm tôn chôn mấy cánh gà
Em đừng trách bọn chúng anh tạm bợ
Chẳng phông màn nào chịu nổi gió Trường Sa

Gió rát mặt, đảo luôn thay hình dạng
Đá củ đậu bay như lũ chim hoang
Cứ mặc nó! Nào hỡi các chiến hữu
Ta bắt đầu thôi. Mây nước đã mở màn…

Sân khấu lô nhô mấy chàng đầu trọc
Người xem ngổn ngang cũng… rặt lính trọc đầu
Nước ngọt hiếm, không lẽ dành gội tóc
Lính trẻ, lính già đều trọc tếu như nhau

Những lúc vui cứ gọi đùa sư cụ
Là bà con xa với bụt ốc đây mà
Thôi lặng yên nghe. Có gì đang sóng sánh
Hoá ra là sư cụ hát tình ca

Cái giai điệu ngang tàng như gió biển
Nhưng lời ca toàn nhớ với thương thôi
Đêm buông xuống nhình nhau không rõ nữa
Cứ ngỡ như đảo đá cất thành lời…

Rằng có đêm trăng dắt em đi dạo
Gương mặt em dịu dàng. Hàng cây cũng tươi xinh
Mở mắt chung chiêng nghe lưng trời sóng vỗ
Và tay mình lại nắm lấy tay mình

Người yêu chúng anh ơi, các em ở phương nào?
Các em cao hay lùn? Có trời mà biết được
Bóng dáng nào sẽ đến với chúng anh?
Trông bốn phía chỉ âm u mây nước

Nào hát lên cho mấy nước biết
Rằng chúng ta là những con người
Yêu em thủy chung hơn muối mặn
Dù thư tình chưa biết gửi cho ai…

Nào hát lên cho đêm tối biết
Rằng tình yêu sáng trong ngực ta đây
Ta đứng vững trên đảo xa sóng gió
Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này

Điệu tình ca cứ ngân lên chót vót
Bỗng bàng hoàng nhìn lại phía sau
Ngoài mép biển, người đâu lên đông thế
Ồ, hoá ra toàn những đá trọc đầu…

Cập nhật thêm cho bạn đọc ⚡ Tỏ Lòng [Thuật Hoài] ⚡ Nội Dung Bài Thơ, Nghệ Thuật, Phân Tích 

Về Nhà Thơ Trần Đăng Khoa

Cùng khám phá những thông tin chính Về Nhà Thơ Trần Đăng Khoa nhé.

  • Nhà thơ Trần Đăng Khoa sinh ngày 24-4-1958 tại Tỉnh Hải Dương, nước Việt Nam. Ông sống và làm việc chủ yếu ở Thành phố Hà Nội.
  • Nhà thơ Trần Đăng Khoa bắt đầu sáng tác từ rất sơm, năm 8 tuổi ông đã có một số sáng tác được in trên báo.
  • Năm 1975 nhập ngũ, ông từng là lính hải quân, học viên Trường sĩ quan Lục quân.
  • Nhận giải thưởng thơ của báo Thiếu niên Tiền phong các năm 1968, 1969, 19711
  • Đạt giải nhất báo Văn nghệ năm 1982
  • Đạt giải thưởng Nhà nước năm 2000
  • Tác phẩm đã xuất bản: Từ góc sân nhà em (thơ – 1968), Góc sân và khoảng trời (thơ – 1968, tái bản lần thứ 20 năm 1995), Thơ Trần Đăng Khoa (tập l – 1970), Khúc hát người anh hùng (trường ca – 1974), Trường ca Trừng phạt (thơ – 1973), Trường ca Giông bão (thơ – 1983), Bên cửa sổ máy bay (thơ – 1986), Thơ Trần Đăng Khoa (tập 2 – 1983), Chân dung và đối thoại (bình luận – 1998).

Về Tác Phẩm Lính Đảo Hát Tình Ca Trên Đảo

Về Tác Phẩm Lính Đảo Hát Tình Ca Trên Đảo, bài thơ được viết theo thể tự do, viết về những người lính trên quần đảo Trường Sa vào đầu những năm 80 của thế kỉ XX.

Bài thơ khắc họa hiện thực về cuộc sống khó khăn, gian khổ, thiếu thốn của những người lính trên quần đảo Trường Sa. Đồng thời thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời, lãng mạn hào hoa của những người lính trẻ.

Với ngôn ngữ thơ mộc mạc nhưng lại như một bài ca du dương, Trần Đăng Khoa còn sử dụng rất nhiều từ gợi hình để làm người đọc hiểu rõ thêm về cuộc sống và con người ở vùng đảo xa xôi.

Nhất định đừng bỏ qua bài 💚 Lời Má Năm Xưa 💚 Sơ đồ tư duy, phân tích hay nhất

Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Lính Đảo Hát Tình Ca Trên Đảo

Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Lính Đảo Hát Tình Ca Trên Đảo như sau:

  • Bài thơ sáng tác vào năm 1982 trong một lần đi thăm những người chiến sĩ nơi đảo xa của nhà thơ Trần Đăng Khoa.
  • Bài thơ được trích từ tập “Tuyển thơ” của nhà xuất bản Văn học

Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Lính Đảo Hát Tình Ca Trên Đảo

Bật mí cho bạn đọc Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Lính Đảo Hát Tình Ca Trên Đảo.

Nhan đề “Lính đảo hát tình ca trên đảo” góp phần thể hiện cuộc sống của những người chiến sĩ ở huyện đảo Trường Sa gắn liền với biển đảo, nơi đầu sóng ngọn gió giữa trùng khơi, góp phần giữ gìn sự yên bình cho Tổ quốc.

Nhan đề cùng với những ảnh hình, chi tiết, nhân vật trong bài thơ chính là một phần hiện thực cuộc sống của người lính đảo.

Chia sẻ cho bạn đọc 🍀Đăm Săn Đi Chinh Phục Nữ Thần Mặt Trời🍀  Sơ Đồ Tư Duy, Các Mẫu Phân Tích

Giá Trị Tác Phẩm Lính Đảo Hát Tình Ca Trên Đảo

Tiếp theo là những Giá Trị Tác Phẩm Lính Đảo Hát Tình Ca Trên Đảo.

Giá trị nội dung

  • Nêu hiện thực cuộc sống khốn khổ, khó khăn của những người lính nơi đảo xa
  • Ca ngợi tinh thần lạc quan, yêu tổ quốc, vượt lên trên khó khăn của những mình lính đảo
  • Tình cảm xót thương trước hiện thực khó khăn, thiếu thốn của những người lính ngoài đảo xa

Giá trị nghệ thuật

  • Nghệ thuật so sánh, nhân hóa sinh động, linh hoạt
  • Ngôn ngữ thơ mềm mại, uyển chuyển
  • Hình ảnh thơ mới mẻ, sáng tạo
  • Thể thơ tự do vui tươi, rộn ràng, tạo không khí trẻ trung sôi nổi
  • Giọng thơ hào hứng, say mê

Bố Cục Bài Thơ Lính Đảo Hát Tình Ca Trên Đảo

Bố Cục Bài Thơ Lính Đảo Hát Tình Ca Trên Đảo gồm 3 phần chính:

  • Đoạn 1,2,3: Khâu chuẩn bị biểu diễn của những người lính đảo
  • Đoạn 4,5,6: Buổi biểu diễn của những người lính đảo
  • Đoạn 7,8,9,10: Buổi biểu diễn đến cao trào

Chia sẻ cho bạn đọc tác phẩm 🌷 Ngôi Nhà Truyền Thống Của Người Ê Đê 🌷 phân tích đầy đủ nhất

Dàn Ý Lính Đảo Hát Tình Ca Trên Đảo

Chia sẻ bạn đọc Dàn Ý Lính Đảo Hát Tình Ca Trên Đảo đầy đủ.

I. Mở bài: Giới thiệu tác giả Trần Đăng Khoa và bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo.

II. Thân bài: Hình tượng người lính đảo hiện lên là những con người không đẹp về ngoại hình nhưng nội tâm của họ lại phong phú, tươi đẹp. Tâm hồn họ tràn đầy sự lạc quan, niềm vui, tinh thần bất khuất.

  • Cách xưng hô thân mật: gọi em – xưng anh
  • Khổ đầu trong bài thơ được Trần Đăng Khoa miêu tả sự khắc nghiệt về thời tiết nơi quần đảo Trường Sa nhiều nắng gió. Sân khấu dựng lên vô cùng đặt biệt: Giữa trời biển bao la, đá san hô kê thành sân khấu, vài tấm tôn chôn mấy cánh gà 

→ Sự thiếu thốn, khó khăn đặc biệt về vật chất nơi đây. 

  • Họ gọi đùa nhau mấy chàng đầu trọc, lính trọc đầu, lính già lính trẻ đều trọc tếu giống những sư cụ là bà con xa với bụt ốc

→ Chính cuộc sống gian nan, cùng với ngoại hình ấn tượng với đầu trọc lốc không tóc của những người lính đảo, càng làm nổi bật sự khó khăn, thiếu thốn về vật chất nơi đây, điều kiện sống nguy hiểm.

  • Điệp ngữ: “Nào hát lên cho…”

→ Nhấn mạnh vào tiếng hát của những người lính. Họ hát tình ca trên đảo với biết bao tâm trạng và cảm xúc trào dâng

Đến cuối bài, giọng điệu và hình ảnh thơ vẫn sống động, hóm hỉnh và tếu táo mang đậm phong cách thơ Trần Đăng Khoa. Hình ảnh “toàn những đá trọc đầu” khi thủy triều vừa rút như một kết thúc bất ngờ và ám ảnh.

Đó là cả một sự quan sát, một phút xuất thần để có những câu thơ hay: “Điệu tình ca cứ ngân lên chót vót/ Bỗng bàng hoàng nhìn lại phía sau/ Ngoài mép biển, người đâu lên đông thế/ Ồ, hóa ra toàn những đá trọc đầu…”

  • Bài thơ được viết theo mạch cảm hứng của một buổi trình diễn âm nhạc, từ khâu chuẩn bị cho đến lúc trình diễn và lời ca được cất lên cao trào.
  • Ngôn ngữ được sử dụng trong bài thơ gần gũi, giản dị, vô cùng dễ hiểu nhưng cũng không kém phần độc đáo.
  • Bài thơ góp một giọng điệu rất riêng, vừa tươi vui, hóm hỉnh nhưng cũng cảm động, sâu lắng về cuộc sống của người lính nơi đảo xa.

III. Kết bài: Kết luận của em về hình tượng người lính đảo.

Cập nhật cho bạn đọc ✨ Gặp Ka Díp Và Xi La ✨ Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật

Soạn Bài Lính Đảo Hát Tình Ca Trên Đảo

Đừng bỏ lỡ gợi ý Soạn Bài Lính Đảo Hát Tình Ca Trên Đảo.

👉Câu 1 trang 20 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Các phát biểu sau đây là đúng hay sai? Hãy đánh dấu x vào ô phù hợp.

Nội dung phát biểuĐúngSai
(1) Bài thơ viết về người lính trong kháng chiến chống Mỹ  
(2) Bài thơ được viết theo thể thơ tự do  
(3) Nhân vật trữ tình trong bài thơ là người lính đảo  
(4) Bài thơ được in lần đầu trong tập Bên cửa sổ máy bay (1985)  
(5) Bốn khổ đầu của bài thơ thể hiện khúc tình ca của lính đảo  

Trả lời:

Nội dung phát biểuĐúngSai
(1) Bài thơ viết về người lính trong kháng chiến chống Mỹ x
(2) Bài thơ được viết theo thể thơ tự dox 
(3) Nhân vật trữ tình trong bài thơ là người lính đảox 
(4) Bài thơ được in lần đầu trong tập Bên cửa sổ máy bay (1985)x 
(5) Bốn khổ đầu của bài thơ thể hiện khúc tình ca của lính đảo x

👉Câu 2 trang 21 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: (Câu hỏi 3, SGK) Phân tích tác dụng của một số biện pháp nghệ thuật được tác giả sử dụng để thể hiện hình tượng người lính đảo và khúc tình ca của họ trong sáu khổ thơ cuối.

Trả lời:

– Một số biện pháp nghệ thuật:

+ Điệp ngữ: “Nào hát lên cho…”

→ Nhấn mạnh vào tiếng hát của những người lính. Họ hát tình ca trên đảo với biết bao tâm trạng và cảm xúc trào dâng

+ Ẩn dụ: “những đá trọc đầu”

→ Hình ảnh “toàn những đá trọc đầu” khi thủy triều vừa rút như một kết thúc bất ngờ và ám ảnh. Thiếu thốn đủ thứ, trong đó có nước ngọt, vì vậy phần lớn họ phải cạo trọc đầu cho đỡ rít khi không có nước ngọt gội tóc, thành ra “lính trẻ lính già đều trọc tếu như nhau”

– So sánh: Giai điệu của người lính ngang tàn như gió biển/ Yêu em thủy chung hơn muối mặn

→ Thể hiện hình tượng người lính đảo: Họ là những con người lạc quan và đầy mơ mộng với cuộc sống.

👉Câu 3 trang 21 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: (Câu hỏi 4, SGK) Hãy chỉ ra mạch cảm hứng của nhân vật trữ tình trong bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo. Nêu nhận xét của em về ngôn ngữ, giọng điệu của bài thơ.

Trả lời:

– Bài thơ được viết theo mạch cảm hứng của một buổi trình diễn âm nhạc, từ khâu chuẩn bị cho đến lúc trình diễn và lời ca được cất lên cao trào.

– Ngôn ngữ được sử dụng trong bài thơ gần gũi, giản dị, vô cùng dễ hiểu nhưng cũng không kém phần độc đáo.

– Bài thơ góp một giọng điệu rất riêng, vừa tươi vui, hóm hỉnh nhưng cũng cảm động, sâu lắng về cuộc sống của người lính nơi đảo xa. 

👉Câu 4 trang 21 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Các câu thơ: “Ngoài mép biển người đâu lên đông thế / Ồ, hoá ra toàn những đá trọc đầu…” đem lại cảm nhận gì cho người đọc?

Trả lời:

Các câu thơ: “Ngoài mép biển người đâu lên đông thế / Ồ, hoá ra toàn những đá trọc đầu…” đem lại sự thú vị, bất ngờ vì liên tưởng độc đáo của tác giả. Sự liên tưởng này bắt nguồn từ thực tế.

Về đêm, thuỷ triều rút, bãi cát rộng thêm ra. Người lính say sưa biểu diễn, nhập tâm hồn mình vào khúc tình ca, dường như quên cả xung quanh. Khi lời hát ngân lên chót vót, họ mới “bàng hoàng” nhìn lại phía sau. Những tảng “đá trọc đầu” vốn nằm trong sóng nước, giờ hiện ra lô nhô trên bãi cát.

Trong một liên tưởng bất ngờ, thú vị, tinh nghịch, “đá trọc đầu” trở thành những khán giả đặc biệt của đêm diễn. “Đá trọc đầu” tưởng cũng đang lặng đi nghe khúc hát tình ca của lính đảo. Thiên nhiên và con người cùng hoà một nhịp đập của cảm xúc,…

👉Câu 5 trang 21 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: (Câu hỏi 6, SGK) Tưởng tượng em là khán giả trong buổi biểu diễn văn nghệ của người lính đảo. Hãy chia sẻ cảm nhận, suy nghĩ của em khi đó bằng một đoạn văn (khoảng 8 – 10 dòng).

Trả lời:

Cùng đi với đoàn công tác của tỉnh ra thăm, động viên cán bộ, chiến sĩ huyện đảo Trường Sa mới đây là Đội văn nghệ xung kích của Đoàn Ca múa nhạc Hải Đăng và một số diễn viên của Nhà hát Nghệ thuật truyền thống Khánh Hòa.

Gọi là Đội văn nghệ xung kích bởi lực lượng chính là những diễn viên trẻ, trong đó có người đã ra Trường Sa lần thứ 2, thứ 3… Cảm nhận được sự mong đợi, tin yêu của những người lính đảo, nên hễ có điều kiện, bên hành lang đảo chìm hay dưới tán lá tra, bàng vuông… các anh chị em đều hăng say đem lời ca tiếng hát phục vụ lính đảo.

👉Câu 6 trang 21 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Tìm hiểu và kể thêm một số bài thơ viết về người lính đảo trong tập Bên cửa sổ máy bay của tác giả Trần Đăng Khoa.

Trả lời:

Tập thơ được in lần đầu năm 1985, gồm 26 bài, trong đó thành công hơn cả là các sáng tác viết về đề tài người lính biển như: Thơ tình người lính biển, Cây phong ba đảo Nam Yết, Đồng đội tôi trên đảo Thuyền Chài, Đoạn văn xuôi chép ở đảo Chìm, Hát về hòn đảo Chìm, Cô tổng đài hải đảo, Lính đảo hát tình ca trên đảo, Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn.

Tham khảo tác phẩm 🌱Chiến Thắng Mtao Mxây🌱 Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích

Giáo Án Lính Đảo Hát Tình Ca Trên Đảo

Tham khảo ngay nội dung Giáo Án Lính Đảo Hát Tình Ca Trên Đảo.

I. MỤC TIÊU

  1. Mức độ/ yêu cầu cần đạt:

– Phân tích đánh giá được giá trị thẩm mĩ của các yếu tố hình thức (nhân vật trữ tình, hình ảnh, từ ngữ…) và nội dung (cảm hứng chủ đạo, chủ đề…) trong bài thơ trữ tình (thể thơ tự do) viết về đề tài quê hương đất nước.

  1. Năng lực

Năng lực chung

– Năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tự quản bản thân, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác…

Năng lực riêng biệt

– Nêu được những hiểu biết về thơ tự do, nhân vật trữ tình, hình ảnh, ngôn từ, cảm hứng chủ đạo…

– Phân tích đánh giá được giá trị thẩm mĩ của các yếu tố hình thức (nhân vật trữ tình, hình ảnh, từ ngữ…) và nội dung (cảm hứng chủ đạo, chủ đề…) trong bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo.

– Liên hệ với bản thân để rút ra được thông điệp có ý nghĩa.

– Biết cách đọc hiểu các văn bản khác cùng thể loại.

  1. Phẩm chất:

– Trân trọng biết ơn những người lính đảo đã âm thầm, lặng lẽ cống hiến cho quê hương đất nước.

– Có trách nhiệm gìn giữ và bảo vệ biển đảo quê hương, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc.

II. THIẾT BỊ DẠY HỌC VÀ HỌC LIỆU

  1. Chuẩn bị của giáo viên:

– Giáo án;

– Phiếu bài tập, trả lời câu hỏi;

– Bảng phân công nhiệm vụ cho học sinh hoạt động trên lớp;

– Bảng giao nhiệm vụ học tập cho học sinh ở nhà;

  1. Chuẩn bị của học sinh: SGK, SBT Ngữ văn 10, soạn bài theo hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài, vở ghi.

III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC

  1. KHỞI ĐỘNG
  2. Mục tiêu: Thu hút sự chú ý, tạo hứng thú học tập; kết nối với những bài học trước đó; huy động tri thức nền và trải nghiệm của HS. Đồng thời qua đó, thực hiện nhiệm vụ học tập.
  3. Nội dung: Kiến thức, vốn sống của HS có liên quan đến bài học.
  4. Sản phẩm: Chia sẻ của HS về những truyện đã đọc.
  5. Tổ chức thực hiện:

👉Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ học tập

   – GV cho HS nghe bài hát “Nơi đảo xa”của nhạc sĩ Thế Song và trả lời câu hỏi: Cảm xúc của em sau khi nghe bài hát?

👉Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ học tập

– HS nghe GV nêu yêu cầu và trả lời.

👉Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động và thảo luận

– GV mời 2 – 3 HS chia sẻ trước lớp.

👉Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ

– GV nhận xét, khen ngợi các HS đã tích cực trả lời câu hỏi

– Từ các ý kiến của HS, GV dẫn dắt vào bài học mới: Chúng ta vừa được lắng nghe những giai điệu hào hùng, đầy tự hào về những người lính nơi đầu sóng ngọn gió của đất nước. Bài học hôm nay chúng ta cùng tìm hiểu về hình ảnh những người lính đảo nơi Trường Sa thân yêu của Tổ quốc qua bài thơ  Lính đảo hát tình ca trên đảo. của Trần Đăng Khoa.

  1. HÌNH THÀNH KIẾN THỨC

Hoạt động 1: Đọc và tìm hiểu chung

  1. Mục tiêu: Giúp HS chuẩn bị các điều kiện cần thiết để đọc hiểu văn bản Lính đảo hát tình ca trên đảo. một cách hiệu quả.
  2. Nội dung: Tìm hiểu tri thức có liên quan về văn bản Lính đảo hát tình ca trên đảo..
  3. Sản phẩm học tập: Câu trả lời của HS.
  4. Tổ chức thực hiện:
HOẠT ĐỘNG CỦA GV – HSDỰ KIẾN SẢN PHẨM
Nhiệm vụ 1: Tìm hiểu tác giả, tác phẩm

Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ học tập

– GV yêu cầu HS dựa vào phần tìm hiểu ở nhà, hãy giới thiệu về tác giả, tác phẩm.
 
Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ học tập

– HS đọc thông tin tác giả trong SGK, tóm tắt ý chính.

Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động và thảo luận

– GV mời 2 HS trình bày trước lớp, yêu cầu cả lớp nghe, nhận xét, bổ sung.

Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ

– GV đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ, chốt kiến thức.

Nhiệm vụ 2: Đọc văn bản

Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ học tập

– GV gọi 2-3 HS đọc văn bản, chú ý đọc diễn cảm.
– GV yêu cầu HS xác định thể thơ, bố cục bài thơ.
.
Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ học tập

– HS đọc thông tin tác giả trong SGK, tóm tắt ý chính.

Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động và thảo luận

– GV mời 2 HS trình bày trước lớp, yêu cầu cả lớp nghe, nhận xét, bổ sung.

Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ

– GV đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ, chốt kiến thức.
II. Tìm hiểu chung

1. Tác giả:
– Nhà thơ Trần Đăng Khoa sinh năm 1958, quê ở huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương.
– Thế giới thơ Trần Đăng Khoa chân thực, hồn nhiên, tinh tế, có những bài chạm đến suy tư sâu sắc.
– TP chính: Góc sân và khoảng trời, bên cửa sổ máy bay, Chân dung và đối thoại

2. Tác phẩm
– Bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo được viết năm 1982
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
3. Đọc văn bản
 
– Thể thơ: Tự do
– Nhân vật trữ tình: Người lính đảo
 đó là những chia sẻ chân thực, xúc động, sâu sắc về người lính nơi quần đảo Trường Sa, về cuộc sống tâm hông của chính họ thông qua một buổi biểu diễn văn nghệ.

– Bố cục:
+ 4 khổ đầu: Sân khấu và chân dung đặc biệt của người lính đảo.
 + 6 khổ cuối: Tình ca của lính đảo.
 

Sơ Đồ Tư Duy Lính Đảo Hát Tình Ca Trên Đảo

Lưu lại các Sơ Đồ Tư Duy Lính Đảo Hát Tình Ca Trên Đảo.

Sơ Đồ Tư Duy Lính Đảo Hát Tình Ca Trên Đảo Chi Tiết
Sơ Đồ Tư Duy Lính Đảo Hát Tình Ca Trên Đảo Chi Tiết
Sơ Đồ Tư Duy Lính Đảo Hát Tình Ca Trên Đảo Đầy Đủ
Sơ Đồ Tư Duy Lính Đảo Hát Tình Ca Trên Đảo Đầy Đủ
Sơ Đồ Tư Duy Lính Đảo Hát Tình Ca Trên Đảo Dễ Hiểu
Sơ Đồ Tư Duy Lính Đảo Hát Tình Ca Trên Đảo Dễ Hiểu

Chia sẻ cho bạn đọc ❤️️ Cuộc Tu Bổ Lại Các Giống Vật ❤️️ Nội Dung, Nghệ Thuật 

3 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Lính Đảo Hát Tình Ca Trên Đảo Hay Nhất

Tặng bạn đọc 3 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Lính Đảo Hát Tình Ca Trên Đảo Hay Nhất.

Phân Tích Bài Thơ Lính Đảo Hát Tình Ca Trên Đảo Ấn Tượng – Mẫu 1

Nếu nói những con chữ là tinh hoa nghệ thuật thì những thi nhân chĩnh là những nhà nghệ sĩ. Họ dùng con chữ để vẽ ra những bức tranh tuyệt đẹp. Trần Đăng Khoa chính là một nghệ nhân như vậy. Qua bài thơ Lính đảo hát bài ca trên đảo, những cảnh vật, con người xuất hiện lung linh.

Vẻ đẹp ấy càng tôn lên được ý nghĩa của việc họ đang làm, của nhiệm vụ thiêng liêng canh giữ nói đất đảo. Hình ảnh của những người lính được ông khai thác dưới một góc nhìn vừa thơ mộng, vừa thể hiện được hết sự khó khăn của cuộc sống nơi hải đảo xa xôi.

“Gió rát mặt, đảo luôn thay hình dạng
Sỏi cát bay như lũ chim hoang
Cứ mặc nó! Nào hỡi các chiến hữu
Ta bắt đầu thôi. Mây nước đã mở màn…”

Ngay đoạn mở đầu, người đọc đã thấy được hết những cái khắc nghiệt của hải đảo. Nơi đây chỉ thấy nắng và gió, đảo theo dòng nước mà luôn thay đổi hình dáng. Trên nền khung cảnh tưởng chừng như chẳng thấy điểm cuối ấy, chim hoang vẫy cánh làm cảnh vật càng thêm tiêu điều. Mỗi ngày, cuộc sống con người nơi đây đều phải chịu sự vất vả ấy.

Nhưng chính do đó, họ dần quen thuộc và bình thản trước những sóng gió ấy. Trên nền cảnh vật xơ xác, sự mãnh liệt và quyết tâm của những người lính làm sáng lên cả bức tranh chỉ toàn gam màu vàng và xanh. Họ lạc quan, cổ vũ nhau tiến bước về phía trước mặc cho sự vất vả vây quanh.

Với họ, có lẽ chỉ cần có “chiến hữu” thì chẳng còn khó khăn mà chỉ có niềm vui và những điều thú vị. Hình ảnh so sánh mây nước như một buổi biểu diễn, màn ấy là một sân khấu lơ lửng giữa đất trời. Đó là một cách liên tưởng vô cùng độc đáo và thú vị của tác giả.

“Sân khấu lô nhô mấy chàng đầu trọc
Người xem ngổn ngang cũng… rặt lính trọc đầu
Nước ngọt hiếm, không lẽ dành gội tóc
Lính trẻ, lính già đều trọc tếu như nhau
Những lúc vui cứ gọi đùa sư cụ
Là bà con xa với bụt ốc đây mà
Thôi lặng yên nghe. Có gì đang đang sóng sánh
Hóa ra là sư cụ hát tình ca”

Những câu thơ tiếp theo đây vẫn là hình ảnh khắc nghiệt của thiên nhiên vùng hải đảo. Không chỉ gò cát làm hoạt động những người lính khó khăn, mà nó còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống và sức khỏe của họ. Những người lính hiện lên với hình ảnh ai nấy đều trọc đầu, kể cả già trẻ đều như nhau.

Đó chính là do họ tự cạo hết tóc của mình để tránh dùng nhiều nước trong khi vệ sinh cá nhân. Bởi nơi đây, thứ hiếm hoi và cần tiết kiệm nhất chính là nước ngọt. Quanh đảo đều là nước, nhưng đó đều là nước biển mặn chát không thể sử dụng được. Thứ những người đất liền chúng ta không coi trọng, lại được những con người ở đó quý trọng đến từng giọt nhỏ.

Để làm dịu đi bầu không khí nặng nề ấy, tác giả đã sử dụng những ngôn ngữ, hình ảnh hài hước. Đó là câu nói những người lính đầu trọc trông thật “tếu” và đùa vui so sánh họ với hình ảnh “sư cụ”. Sự đoàn kết của những người lính không chỉ còn là đồng chí, họ là những người anh em cũng chung hoạn nạn, là những người như một gia đình.

Và cuối đoạn, bài ca ngân lên với giai điệu nhẹ nhàng như sóng biển. Đó chính là sự quyến rũ khi người và vật hòa quện vào nhau, khi thiên nhiên đàn, biển tấu và con người ngân nga khúc tình ca.

“Cái giai điệu ngang tàng như gió biển
Nhưng lời ca toàn nhớ với thương thôi
Đêm buông xuống nhình nhau không rõ nữa
Cứ ngỡ như đảo đá cất thành lời…
Rằng có đêm trăng dắt em đi dạo
Gương mặt em dịu dàng. Hàng cây cũng tươi xinh
Mở mắt chung chiêng nghe lưng trời sóng vỗ
Và tay mình lại nắm lấy tay mình
Người yêu chúng anh ơi, các em ở phương nào?
Các em cao hay lùn? Có trời mà biết được
Bóng dáng nào sẽ đến với chúng anh?
Trông bốn phía chỉ âm u mây nước
Nào hát lên cho mấy nước biết
Rằng chúng ta là những con người
Yêu em thủy chung hơn muối mặn
Dù thư tình chưa biết gửi cho ai…
Nào hát lên cho đêm tối biết
Rằng tình yêu sáng trong ngực ta đây
Ta đứng vững trên đảo xa sóng gió
Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này”

Giọng hát như con người, những người lính cất giọng được miêu tả là ngang tàng,đúng chất những người chiến sĩ. Tuy nhiên giai điệu họ đang ngâm lại là những khúc tình ca lãng mạn toàn nhớ với thương. Lời ca ấy thể hiện sự yêu đời, lạc quan, cũng là niềm khao khát về một tình yêu của những người lính trẻ.

Trong đêm ấy, tạm bỏ hết những gánh nặng trên vai, họ cũng chỉ là những chàng trai qua đôi mươi đầy khao khát, mong chờ. Những hình ảnh tiếp theo là sự ao ước về một viễn cảnh hạnh phúc. Rời xa hiện thực, mọi người như chìm vào đó với biển đảo, những sự vật nơi đất biển. Hai câu thơ cuối, “Ta đứng vững trên đảo xa sóng gió

Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này” như một lời tuyên thệ. Họ sẽ vẫn đứng đó để bảo vệ từng tấc đất. Bởi sự hòa bình, một đất nước toàn vẹn cũng là khởi đầu từ sự yên bình nơi hải đảo xa xôi.

“Điệu tình ca cứ ngân lên chót vót
Bỗng bàng hoàng nhìn lại phía sau
Ngoài mép biển, người đâu lên đông thế
Ồ, hoá ra toàn những đá trọc đầu…”

Sau đoạn ngân lên đầy những cảm xúc, tác giả cũng thăng hoa trong những con chữ bay bổng. Bỗng “bàng hoàng” nhìn lại, như có gì kích động tác giả. Hóa ra đó là những “đầu trọc” của đồng đội, như đưa mọi người về lại hiện thực và trách nhiêm của mình. Tuy nhiên, khi đọc đến đây, người đọc lại chẳng cảm nhận được sự khó chịu của những người lính. Họ cam tâm làm tất cả vì Tổ Quốc thân yêu.

Với ngôn ngữ thơ mộc mạc nhưng lại như một bài ca du dương, Trần Đăng Khoa còn sử dụng rất nhiều từ gợi hình để làm người đọc hiểu rõ thêm về cuộc sống và con người ở vùng đảo xa xôi. Đó là những con người vừa dũng cảm, vừa mang trong mình tinh thần và tình yêu tha thiết. Cách trang giấy mà ta vẫn có thể hình dung được những người ấy, đẹp đẽ và nên thơ đến vậy!

Phân Tích Bài Thơ Lính Đảo Hát Tình Ca Trên Đảo Đặc Sắc – Mẫu 2

Cuộc sống là cánh đồng màu mỡ để cho thơ bén rễ sinh sôi (puskin). Thơ là một thể loại văn học thuộc phương thức biểu hiện trữ tình, là tiếng nói tình cảm là những rung động của trái tim con người trước cuộc đời.

Ta say đắm trước áng mây hồng của buổi sớm mai bình minh hay áng mây buồn khi chiều tà khuất lối? Ta rung động trước cánh hoa đẹp lung linh kiều diễm hay những cánh đồng lúa úa tàn không sinh khí? Thơ không chỉ là những đóa hoa cao sang kiều diễm mà thơ đôi khi  là những cơn gió rít lên từng hồi, là những làn sóng dồn dập  vỗ về bờ cát trắng hay chỉ là những con người chân phương hiện lên đầy chất phác đến đáng yêu.

Là một làn gió không mấy xa lạ, nhưng sức sống mà nhà thơ ấy thổi vào đem đến một làn gió mới mẻ gợi những rung cảm sâu xa cho người đọc. Bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo của nhà thơ Trần Đăng Khoa là một “bài ca” như vậy. 

Thơ là cuộc hôn phối giữa con người và vũ trụ. Thơ luôn tìm về với cuộc sống, thơ ở trong cuộc sống nên “Nhà thơ tuy chẳng muốn, cũng thấy mình bị ràng buộc vào biến chuyển lịch sử”_ John Perse. Như vậy dù ý thức hay vô thức, thơ vẫn chảy trong biển lớn của cuộc đời và nhà thơ không thể đứng ngoài dòng chảy ấy.

Hơn ai hết họ là người cảm nhận cuộc sống mãnh liệt nhất, tinh tế nhất. Trần Đăng khoa đứng trong dòng chảy của thời đại để cất lên những vần thơ trong trẻo bình dị mang đến sức rung cảm mãnh liệt cho người đọc. Bài thơ viết về những người lính trên quần đảo Trường Sa vào đầu những năm 80 của thế kỉ XX.

Tuy cuộc sống của họ còn thiếu thốn về vật chất, sống với điều kiên khắc nghiệt… nhưng tâm hồn họ thì vô cùng lạc quan, yêu đời. Họ cất cao lời hát của tự do của tâm hồn, bài hát của tình yêu tổ quốc tình yêu quê hương đất nước.

Dù chưa biết “người thương” ở phương nào, họ vẫn khát khao và mộng tưởng, họ khẳng định tình yêu thủy chung như muối mặn của mình dẫu chưa hề biết “bóng dáng nào sẽ đến” với họ. Có thể nói, họ thiếu thốn cả về vật chất và tình cảm. Chỉ có tình yêu cuộc sống, tình yêu đất nước thì luôn chan chứa trong tim.

“Đá san hô kê lên thành sân khấu
Vài tấm tôn chôn mấy cánh gà
Em đừng trách bọn chúng anh tạm bợ
Chẳng phông màn nào chịu nổi gió trường sa” 

Trần Đăng Khoa được biết đến là nhà thơ viết nhiều về thiếu nhi và những sáng tác của ông dành nhiều cho thiếu nhi đã tạo nên một thế giới nghệ thuật riêng của ông. Nhưng điều đó không có nghĩa là những sác tác của ông ở ngoài vùng sở trường lại mờ nhạt, nghèo nàn.

Nếu ta đã quen với hình ảnh chú bộ đội cụ hồ xuất thân từ những người nông dân chân chất trong bài thơ Đồng Chí của nhà thơ Chính Hữu hay những chàng thanh niên yêu nước đi theo tiếng gọi của tổ quốc trong bài thơ Tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Cùng hát chung khúc hát về người lính, “lính đảo hát tình ca trên đảo” mang một giọng văn riêng, âm sắc riêng – thật mới mẻ và đặc sắc giữa cõi văn chương.

Vẫn là những anh lính đảo sống giữa muôn trùng sóng nước thiếu thốn đủ bề mà luôn lạc quan, yêu đời. Khổ thơ đầu tiên mở ra cho ta thấy về những buổi liên hoan văn nghệ của người lính đảo. Người lính đâu chỉ có khô cằn cứng nhắc trong điều lệ, nội quy, họ cũng có lúc bay bổng, thăng hoa trong lời ca tiếng hát.

Với tâm hồn lồng lộng biển khơi, yêu đời, yêu cuộc sống, người lính đã tự làm sinh động cho nhịp sống thường nhật buồn tẻ chốn hoang sơ củ mình bằng những giai điệu du dương, ngang tàng chất lính.  Ta đã quen với một sân khấu với giàn âm thanh ánh sáng lộng lẫy, những vũ công diễn viên xinh đẹp thì ở nhưng người lính sân khấu của họ thật đặt biệt. Sân khấu của họ chẳng cầu kì như lẽ thường phải thế.

Sân khấu của họ được kê bằng đá san hô, còn cánh gà chôn mấy tấm tôn tạm bợ. Họ trang trí nơi biểu diễn nghệ thuật bằng những thứ chẳng có tính nghệ thuật – những thứ vốn có sẵn trong cuộc sống thường ngày. Điều đó nói lên rất nhiều những thiếu thốn, gian khổ của người lính chốn biển đảo xa xôi. Đất nước mình những năm 80 còn khó khăn vất vả gấp bội phần.

Những thiếu thốn ấy đã được những chàng lính yêu đời, lạc quan biện luận bằng một lí do rất chân thực. Theo lời phân trần của người lính, thì sự tạm bợ của họ không hẳn vì họ không có phông màn trang trí cho sân khấu mà vì: “chẳng phông màn nào chịu nổi gió trường sa” thật dễ thông cảm biết bao với cái lí do bất khả kháng ấy. Đọc câu thơ này của ông ta chợt nhớ đến bài thơ Tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật: 

“ Xe không kính không phải vì xe không có kính
  Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi..”

Những con người lạc quan luôn nhìn thấy trong khó khăn những điều thú vị như vật đó. 

Qua sự phân trần của những người lính, người đọc mới hiểu hơn về một Trường Sa khắc nghiệt đến bội phần:  

“Gió rát mặt, đảo luôn thay hình dạng
Sỏi cát bay như lũ chim hoang
Cứ mặc nó! Nào hỡi các chiến hữu
Ta bắt đầu thôi. Mây nước đã mở màn…”

Lời thơ như khắc họa trong tâm trí người đọc một trường sa đầy nắng và gió. Gió mang cảm giác bỏng rát trên mặt trần, gió tùng sỏi cát như lũ chim hoang, gió làm biến đổi hình dạng của đảo mỗi ngày… hai câu thơ giàu sức gợi mang đến những những cảm nhận có phần khá lạ lẫm trong lòng người đọc về thiên nhiên trường sa, bởi không phải ai cũng từng được trải nghiệm sức mạnh khủng khiếp của nắng gió nơi đây.

Cuộc sống mỗi ngày phải đối diện với khó khăn, vất vả thế nhưng thật thú vị, người lính nói về đièu đó một cách thản nhiên, bình thản như đó là một phần hương vị của cuộc sống, không có gì đáng bận tâm. Họ không lấy điều đó làm phiền, ngược lại họ vẫn sống lạc quan yêu đời. 

“Cứ mặc nó! Nào hỡi các chiến hữu
Ta bắt đầu thôi. Mây nước đã mở màn…”

Người lính bỏ lại tất cả sau lưng những khó khăn để vui sống mỗi ngày. Niềm vui ấy là cùng các chiến hữu cất cao lời hát, niềm vui ấy không cầu kì mà đậm chất lính. Sự phối hợp hài hòa đối lập nhau giữa hình ảnh thiên nhiên khắc nghiệt trong những câu thơ trên và tâm hồn phơi phới của những chàng lính là dụng ý nghệ thuật của nhà thơ.

Trần Đăng Khoa đã mượn gian nan, khắc nghiệt của cuộc sống làm đòn bẩy nâng cao vẻ đẹp tinh thần lạc quan, yêu đời của những người lính. Cách nói mây nước mở màn của nhà thơ thật lạ, thật thú vị. Màn ở đây là màn sân khấu. Sân khấu dựng giữa đất trời mênh mông nên mấy nước mở màn là một liên tưởng độc đáo. Sân khấu ấy thiế phông màn vải vóc sặc sỡ, được thay bằng mây nước biển khơi. 

“Sân khấu lô nhô mấy chàng đầu trọc
Người xem ngổn ngang cũng… rặt lính trọc đầu
Nước ngọt hiếm, không lẽ dành gội tóc
Lính trẻ, lính già đều trọc tếu như nhau
Những lúc vui cứ gọi đùa sư cụ
Là bà con xa với bụt ốc đây mà
Thôi lặng yên nghe. Có gì đang đang sóng sánh
Hóa ra là sư cụ hát tình ca”

Sự khắc nghiệt của thiên nhiên không chỉ cản trờ người lính trong hoạt động nghệ thuật nữa mà còn khiến cho những người lính ấy phải cạo trọc đầu để chống chọi lại sự thiếu thốn ấy. Ở nơi biển đảo hẻo lánh ấy thứ còn quý hơn vàng có lẽ là nước ngọt. Một tài nguyên ta cho là tầm thường và hiện hữu quanh ta nên ta chẳng biết quý trọng.

Chỉ khi ta đặt mình vào vị trí của những người lính ấy bốn bể đèo là cát trắng và nước biển mặn chát là gió rít từng hồi rát cả da thịt… ta mới hiểu được câu thơ  “Nước ngọt hiếm, không lẽ dành gội tóc” những anh chàng đầu trọc khiến ta liên tưởng tới những người lính đầu trọc trong tây tiến của Quang Dũng:

“Tây tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữu oai hùm…”

Đều là những khó khăn xuất phát từ hoàn cảnh, nhưng ý chí kiên cường của người lính có lẽ còn cứng rắn hơn bất kì thứ gì khác. Diễn viên và khán giả ở đây đều là những anh chàng “trọc đầu” trông thật tếu. Những người thanh niên ấy đã hi sinh tuổi trẻ, thanh xuân của mình để bám trụ lại nơi địa cùng tổ quốc để giữ yên từng tấc đất nơi đây.

Họ cũng như chúng ta, họ cũng biết làm đẹp cho bản thân chứ, ai lại muốn “đầu trọc” bao giờ, nhưng bởi vì nước ngọt ở đảo trường sa ấy còn khan hiếm lắm đâu chỉ dùng để tắm gội thôi đâu mà còn để uống để sinh hoạt nấu nướng.Điều kiện sống của những người làm nhiệm vụ ở Trường Sa còn có quá nhiều thiếu thốn, gian khổ, đến mức khắc nghiệt.

Cuộc sống của cán bộ, chiến sĩ ở đây còn nhiều khó khăn: thiếu nước ngọt, thiếu rau xanh, thiếu văn công và các hoạt động nghệ thuật. Nhưng, ở nơi đầu sóng ngọn gió, hàng ngày, thậm chí hàng giờ, những người lính canh biển luôn trong tư thế sẵn sàng.

Không có sự yếu lòng trước những thử thách của cuộc sống. Khó khăn vất vả là vậy tình đồng chí đồng đội luôn thắp sáng và sưởi ấm con tim của những người cầm súng bảo vệ nơi đầu sóng. Họ biết yêu thương nhau, tạo niềm vui cho cuộc sống của mình.

Họ cùng nhau lắng nghe khúc tình ca của biển cả, những cơn sóng ôm ấp chồng lên nhau tạo nên một giai điệu rất riêng mà có lẽ chỉ những người sống trên vùng đất này mới cảm nhận hết được vẻ đẹp này. Biển hiền hòa êm dịu, biển êm đềm khúc hát…. mãi mãi khúc tình ca.

Con người và thiên nhiên hòa làm một, con người là trung tâm của vũ trũ và thiên nhiên là nền trời cho con người tỏa sáng. Khúc hát rì rầm ấy khi nghe người ta cũng chẳng biết được là trái tim của người lính đang thổn thức hay là lời thì thầm của biển cả.  

Hơn bao giờ hết, bản tình ca này đặc biệt hơn thế: 

“Cái giai điệu ngang tàng như gió biển
Nhưng lời ca toàn nhớ với thương thôi
Đêm buông xuống nhình nhau không rõ nữa
Cứ ngỡ như đảo đá cất thành lời…”

Đâu chỉ những nốt nhạc mới làm nên giai điệu, đôi khi chỉ là tiếng du dương rầm rì của sóng vỗ lao xao của gió biển lay đưa hàng dừa ….. chúng hòa trộn vào nhau, tạo nên một bản giao hưởng đậm hương vị mặn mà của biển.

Nói đến giai điệu, chắc hẳn ai cũng nghĩ rằng nó sẽ là sự êm ả vui tai, nhẹ nhàng mà trầm lắng nhưng với Trần Đăng Khoa giai điệu được ví ngang tàng như sóng biển. Lời ca ấy không chỉ là yêu đời, một tinh thần lạc quan mà còn chứa đựng một nỗi nhớ và tình thương sâu nặng. Lời ca nào mà chẳng có tình yêu, huống chi đó là lời ca xuất phát từ con tim của người chiến sĩ.

Làm nhiệm vụ xa nhà chắc hẳn các anh rất nhớ đất liền. Nhưng tạm gác lại nỗi nhớ nhiệm vụ mà các anh gánh vác trên vai còn cao cả hơn thế. Đêm buông xuống, màn nhung đen phủ kín bầu trời chẳng còn nhìn rõ được gì nữa. Chỉ có tiếng hát là vang vọng mãi biển xa. Tiếng vỏ ốc va vào nhau sau từng đợt sóng được nhà thơ nhân hóa lên thành vỏ ốc cất lời làm cho lời như sống dậy, sinh động hơn. 

“Rằng có đêm trăng dắt em đi dạo
Gương mặt em dịu dàng. Hàng cây cũng tươi xinh
Mở mắt chung chiêng nghe lưng trời sóng vỗ
Và tay mình lại nắm lấy tay mình

Người yêu chúng anh ơi, các em ở phương nào?
Các em cao hay lùn? Có trời mà biết được
Bóng dáng nào sẽ đến với chúng anh?
Trông bốn phía chỉ âm u mây nước” 

Ở độ tuổi đẹp nhất đời người, đôi mươi sung sức có lẽ các anh chiến sĩ nơi đây cô đơn lắm vì chẳng ở gần người thương. Họ ao ước vào những đêm trăng sáng, được năm tay người mình yêu đi dạo, được ngắm nhìn khuôn mặt dịu dàng của em dưới ánh sáng lấp ló qua hàng cây… thật lung linh tuyệt đẹp. Nhưng khi mở mắt ra, mọi ao ước đều ảo mộng mơ phai, chỉ nghe bên tai tiếng sóng vỗ rì rào.

Và tay mình lại nắm lấy chính tay mình. Khó khăn cô đơn là thế nhưng họ vẫn rất lạc quan, họ vẫn mong chờ người mình yêu đang ở một nơi nào đó đợi mình. Người ấy ở đâu, như thế nào cũng chẳng biết nữa chỉ biết là khi mở mắt ra, bốn phía bao quanh mình đều là mây nước lồng lộng. 

“Nào hát lên cho mấy nước biết
Rằng chúng ta là những con người
Yêu em thủy chung hơn muối mặn
Dù thư tình chưa biết gửi cho ai…

Nào hát lên cho đêm tối biết
Rằng tình yêu sáng trong ngực ta đây
Ta đứng vững trên đảo xa sóng gió
Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này”

 Dù ở hoàn cảnh nào, dù gặp khó khăn gì họ vẫn cất cao tiếng hát của tâm hồn, một tâm hồn cao cả và đa cảm. Dù chưa biết mai này mình sẽ yêu ai, chưa biết chủ nhân của bức thư tình là người nào nhưng các anh vẫn trung trinh một tấm lòng chung thủy.

Lời hát cất lên như một lời thề son sắt, tình yêu vẫn còn trong tim dù là đứng trong đêm tối mịt mù tình yêu sẽ là ánh sáng dẫn đường , các anh vẫn sẽ ở đây, bảo vệ cho khoảng trời thân yêu này bởi Việt Nam bắt đầu tại nơi đây.  Điệp lại cấu trúc thơ: “Nào hát lên; Rằng chúng ta, Rằng tình yêu”. Phép điệp cấu trúc giúp hai khổ thơ liên kết gần gũi, dễ đọc dễ nhớ giống đoạn điệp khúc của một bài hát.

“Điệu tình ca cứ ngân lên chót vót
Bỗng bàng hoàng nhìn lại phía sau
Ngoài mép biển, người đâu lên đông thế
Ồ, hoá ra toàn những đá trọc đầu…”

Khúc tình ca ấy vẫn mãi ngân vang, bỗng chừng lại như một bản nhạc đang cao trào lên quãng 8 thì trầm xuống đến lắng đọng lòng người. Cảm xúc thăng hoa của tác giả như gặp điều gì đó bỗng trầm lắng xuống. Ngoài mép biển kia có gì đáng để nhà thơ phân tâm.

Kết thúc bài thơ là một câu cảm thán mang ngữ khí bất ngờ, đặc biệt: “Ồ, hóa ra toàn những đá trọc đầu…”, thể hiện thái độ bất ngờ về sự xuất hiện của những người lính đảo. Họ được ví như những hòn đá, chịu nắng chịu mưa để bảo vệ cho an nguy tổ quốc. Họ hi sinh thầm lặng, gạt bỏ những nỗi lòng riêng để cùng phục vụ cho một mục đích cao cả hơn hết đó chính là sự yên bình của đất nước nơi đầu sóng ngọn gió.

 Với ngôn ngữ thơ mộc mạc, tự nhiên pha chút đùa vui hóm hỉnh, những hình ảnh so sánh đối lập khá lạ. Bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo là một bài ca hùng tráng về người chiến sĩ hải quân ở Trường Sa.

Qua vài nét phác họa đơn sơ của nhà thơ Trần Đăng Khoa ta có thể cảm nhận được những khó khăn, vất vả, thiếu thốn của người lính nơi biển đảo xa xôi ấy cũng như vẻ đẹp của tinh thần bất khuất, lạc quan yêu đời của họ. Tình cảm ưu ái và ngưỡng mộ của nhà thơ Trần Đăng Khoa dành cho họ cũng theo lời thơ mà bộc một cách tự nhiên, chân thành.

Phân Tích Bài Thơ Lính Đảo Hát Tình Ca Trên Đảo Tiêu Biểu – Mẫu 3

Có lẽ mỗi câu thơ của Trần Đăng Khoa viết về Trường Sa đều chứa chan vị mặn của biển cả bạc trùng, thậm chí có cả máu và nước mắt nhiều thế hệ chiến sĩ hải quân canh trời giữ đảo.

Một loạt bài thơ của Trần Đăng Khoa viết về biển đảo và người lính được bạn đọc hoan nghênh đón nhận như: Thư tình người lính biển, Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn, Đồng đội tôi trên đảo Thuyền Chài… và đây là thi phẩm Lính đảo hát tình ca trên đảo.

Bài thơ góp một giọng điệu rất riêng, vừa tươi vui, hóm hỉnh nhưng cũng cảm động, sâu lắng về cuộc sống của người lính nơi đảo xa. Nhờ đó, tác phẩm neo vào lòng người sâu sắc, bền chặt suốt mấy chục năm qua.

Khổ đầu trong bài thơ được Trần Đăng Khoa miêu tả sự khắc nghiệt về thời tiết nơi quần đảo Trường Sa nhiều nắng gió. Cái sân khấu dựng lên giữa trời biển bao la ấy phải kỳ công và độc đáo lắm mới chịu nổi cái gió như quăng quật, tấp táp vào mặt con người.

Sân khấu kê lên từ đá san hô biển, cánh gà phải dựng bằng tôn, tất cả đều tạm bợ thế thôi, vì không có phông màn nào chịu nổi thông thốc của gió trời biển đảo: “Đá san hô kê lên thành sân khấu/Vài tấm tôn chôn mấy cánh gà/Em đừng trách bọn chúng anh tạm bợ/Chẳng phông màn nào chịu nổi gió Trường Sa”.

Nhưng sự thú vị nhất lại nằm ở khổ thơ thứ hai. Ở đây có sự đối lập giữa cái khắc nghiệt của thiên nhiên và sự dũng cảm, lạc quan của người lính. Gió rát mặt, “sỏi cát bay như lũ chim hoang”, thủy triều xuống lên liên tục khiến cho đảo cũng thay hình đổi dạng không ngừng.

Quả là một vùng đất đầy gian nan, thử thách đối với người lính. Tuy vậy, người lính vẫn hiên ngang, lãng mạn và hào sảng:“Gió rát mặt, đảo luôn thay hình dạng/Sỏi cát bay như lũ chim hoang/Cứ mặc nó! Nào hỡi các chiến hữu/Ta bắt đầu thôi. Mây nước đã mở màn…”.

Từ “mây nước mở màn”, hình tượng người lính đảo hiện lên thật độc đáo, tếu táo qua hình dáng bên ngoài lẫn vẻ đẹp tâm hồn, nhờ đó đã giúp cho Trần Đăng Khoa có được một giọng thơ hóm hỉnh, bông đùa nhưng tạo được cảm xúc sâu lắng trong lòng người đọc.

Cuộc sống trên đảo Trường Sa khắc nghiệt, gian khổ “đến một cái cây cũng không sống được”, thành ra người lính cũng phải chấp nhận để thích nghi với môi trường. Thiếu thốn đủ thứ, trong đó có nước ngọt, vì vậy phần lớn họ phải cạo trọc đầu cho đỡ rít khi không có nước ngọt gội tóc, thành ra “lính trẻ lính già đều trọc tếu như nhau”.

Đọc đến đây, hẳn chúng ta không thể quên hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, cũng tếu táo và có vẻ “bặm trợn” khác thường giữa cuộc sống núi rừng miền Tây Bắc khắc nghiệt: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc/Quân xanh màu lá dữ oai hùm”:

“Sân khấu lô nhô mấy chàng đầu trọc/Người xem ngổn ngang cũng… rặt lính trọc đầu/Nước ngọt hiếm, không lẽ dành gội tóc/Lính trẻ, lính già đều trọc tếu như nhau”. Họ gọi đùa nhau là “sư cụ”, là “bà con xa với bụt ốc”, thế hóa thành vui nhộn vì cảnh tượng “sư cụ hát tình ca” mới đưa duyên và “sóng sánh” làm sao!

Quả vậy, chính cuộc sống gian nan giữa nước trời thăm thẳm ấy, hình tượng người lính Trường Sa hiện lên thật lãng mạn và hào hoa. Họ hát tình ca trên đảo với biết bao tâm trạng và cảm xúc trào dâng: Khát khao một tình yêu cháy bỏng, bày tỏ sự nồng nàn và chung thủy thiết tha.

Cái giọng tình ca ở đây cũng thật kỳ lạ, cứ “ngang tàng như gió biển” nhưng lời lẽ tình tứ không chê vào đâu được, bồi hồi bỏng cháy “toàn nhớ với thương thôi”.

Có lẽ chính những năm tháng sống cùng đồng đội nơi biển cả bạc trùng, nơi đảo nổi, đảo chìm của Tổ quốc giúp Trần Đăng Khoa có được chất liệu hiện thực chân thật và sâu sắc đến thế. Đọc thơ, người đọc không chỉ hiểu thêm về cuộc sống người lính Trường Sa mà còn để trái tim mình cảm thông và rưng rưng xúc động.

Chính cái giọng phớt đời, tưng tửng lại là chỗ xót xa và lấy nhiều nước mắt của người đọc: “Cái giai điệu ngang tàng như gió biển/Nhưng lời ca toàn nhớ với thương thôi/Đêm buông xuống nhìn nhau không rõ nữa/Cứ ngỡ như vỏ ốc cất thành lời…/Rằng có đêm trăng dắt em đi dạo/Gương mặt em dịu dàng/Hàng cây cũng tươi xinh/Mở mắt chung chiêng nghe lưng trời sóng vỗ/Và tay mình lại nắm lấy tay mình”.

Hóm hỉnh nhất là khổ thơ với các câu hỏi tu từ tự vấn về người yêu của người lính đảo. Họ hát tình ca, yêu đắm say và nhớ thương tha thiết chỉ qua tưởng tượng, thành ra họ hình dung về người yêu của mình cũng có năm bảy đường khác biệt.

Các em ở phương nào? Các em cao hay thấp? Xót xa nhất là bóng dáng nào sẽ đến với các anh như một câu hỏi xoáy sâu vào lặng lẽ, vào thăm thẳm ruột gan mong chờ khao khát mỗi khi đêm về trông ra chỉ bốn bề mây nước âm u: “Người yêu chúng anh ơi, các em ở phương nào?/Các em cao hay lùn? Có trời mà biết được/Bóng dáng nào sẽ đến với chúng anh?/Trông bốn phía chỉ âm u mây nước”.

Lãng mạn, hào hoa là thế, nhưng chất lính, sự kiên cường và dấn thân của người lính mới chính là vẻ đẹp cao cả về lòng yêu nước. Hát tình ca để khẳng định tình yêu thủy chung, khẳng định chủ quyền đất nước.

Nhà thơ không nói hết, nhưng đó là tiếng nói phản kháng chiến tranh, là tiếng nói nhân văn sâu sắc. Cao hơn, hình tượng người lính đứng giữa trời nước bao la bảo vệ chủ quyền thiêng liêng cho Tổ quốc chính là trách nhiệm lớn lao, thiêng liêng không gì sánh được: “Nào hát lên cho đêm tối biết/Rằng tình yêu sáng trong ngực ta đây/Ta đứng vững trên đảo xa sóng gió/Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này”.

Đến cuối bài, giọng điệu và hình ảnh thơ vẫn sống động, hóm hỉnh và tếu táo mang đậm phong cách thơ Trần Đăng Khoa. Hình ảnh “toàn những đá trọc đầu” khi thủy triều vừa rút như một kết thúc bất ngờ và ám ảnh.

Đó là cả một sự quan sát, một phút xuất thần để có những câu thơ hay: “Điệu tình ca cứ ngân lên chót vót/ Bỗng bàng hoàng nhìn lại phía sau/ Ngoài mép biển, người đâu lên đông thế/ Ồ, hóa ra toàn những đá trọc đầu…”.

Lính đảo hát tình ca trên đảo của Trần Đăng Khoa là một bài thơ hay, để lại ấn tượng sâu sắc từ khi ra đời cho đến nay. Từ cấu tứ, hình ảnh, giọng điệu, tất cả đọc lên cứ vừa tếu táo, bông đùa nhưng lại cảm thương sâu sắc về cuộc đời người lính biển.

Họ trở thành tượng đài bất khuất giữa trùng khơi, như một minh chứng cho lòng quả cảm, sự kiên cường của một dân tộc chưa bao giờ khuất phục, sẵn sàng “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Tình ca và hùng ca, hóm hỉnh và lắng đọng, trần trụi và đầy suy tư… là những trạng thái cảm xúc hài hòa, gắn kết xuyên suốt bài thơ.

Viết một bình luận