Cảnh Ngày Xuân: Nội Dung Bài Thơ + Nghệ Thuật + Phân Tích

Cảnh Ngày Xuân ❤️️ Nội Dung Bài Thơ, Nghệ Thuật, Phân Tích ✅ Cập Nhật Ngay Dàn Ý, Bố Cục, Giáo Án, Sơ Đồ Tư Duy, Ý Nghĩa Nhan Đề.

Nội Dung Bài Thơ Cảnh Ngày Xuân

Truyện Kiều là một trong những tác phẩm nổi tiếng của nền văn học Việt Nam trung đại. Nổi bật trong tác phẩm là đoạn trích “Cảnh ngày xuân”, gợi lên một bức tranh xuân trong sáng, tươi đẹp mà còn gợi lên không khí lễ hội rộn ràng và tưng bừng. Nội dung bài thơ Cảnh ngày xuân như sau.

Cảnh ngày xuân
Tác giả: Nguyễn Du

Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử, giai nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như nêm.
Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.
Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.

Xem thêm về phân tích 🔻 Hồi Trống Cổ Thành 🔻 Sơ Đồ Tư Duy, Mẫu Phân Tích Hay 

Về Nhà Thơ Nguyễn Du

Cùng xem những thông tin chính về nhà thơ Nguyễn Du bên dưới.

  • Nguyễn Du sinh năm 1765 tại Thăng Long, tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên.
  • Quê gốc làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, nhưng sinh và trải qua thời niên thiếu ở Thăng Long.
  • Ông sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống về văn học.
  • Cuộc đời ông gắn bó sâu sắc với những biến cố lịch sử của giai đoạn cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XX.
  • Nguyễn Du là người có kiến thức sâu rộng, am hiểu văn hóa dân tộc và văn chương Trung Quốc.
  • Sáng tác bằng chữ Hán: gồm 249 bài thơ chữ Hán do Nguyễn Du viết vào các thời kỳ khác nhau.
    • Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên): 78 bài viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi ra làm quan nhà Nguyễn.
    • Nam trung tạp ngâm (Các bài thơ ngâm khi ở phương Nam): 40 bài viết thời gian làm quan ở Huế và Quảng Bình, những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh quê hương ông.
    • Bắc hành tạp lục (Ghi chép trong chuyến đi sang phương Bắc) gồm 131 bài thơ sáng tác trong chuyến đi sứ Trung Quốc.
    • => Thơ chữ Hán của Nguyễn Du thể hiện tư tưởng, tình cảm, nhân cách của ông.
  • Sáng tác bằng chữ Nôm: Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều) và Văn chiêu hồn.

Về Tác Phẩm Cảnh Ngày Xuân

Về tác phẩm Cảnh ngày xuân, đoạn trích nằm phía sau đoạn tả tài sắc chị em Thúy Kiều. Tác phẩm thuộc truyện thơ Nôm và được viết bằng thể thơ lục bát. Đoạn này tả cảnh ngày xuân trong tiết Thanh minh và cuộc du xuân của chị em Thúy Kiều.

Đoạn trích Cảnh ngày xuân – một đoạn trích tuy ngắn nhưng lại rất đầy đủ khi nêu lên cả ngòi bút tả cảnh và tả tâm trạng nhân vật khéo léo của nhà thơ. Qua đó, ta được một bức tranh thiên nhiên thật đẹp, gợi mở sự tò mò của người đọc đối với cuộc đời Thúy Kiều ở phía trước.

Cập nhật cho bạn đọc 🌿 Người Ở Bến Sông Châu 🌿 Nội Dung, Nghệ Thuật 

Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Cảnh Ngày Xuân

Khám phá hoàn cảnh sáng tác bài thơ Cảnh ngày xuân ngay sau đây.

  • Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) được Nguyễn Du sáng tác vào đầu thế kỉ 19 (khoảng 1805 – 1809).
  • Nguyễn Du sáng tác “Truyện Kiều” dựa trên cốt truyện “Kim Vân Kiều truyện” của Trung Quốc.
  • Tuy nhiên, phần sáng tạo của Nguyễn Du là vô cùng lớn, mang đến sự thành công và sức hấp dẫn cho tác phẩm.
  • Thể loại: Truyện thơ Nôm, 3254 câu thơ lục bát.

Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Cảnh Ngày Xuân

Bật mí cho bạn đọc ý nghĩa nhan đề bài thơ Cảnh ngày xuân.

  • Tên nhan đề là một sáng tạo độc đáo, một phát hiện mới mẻ của nhà thơ.
  • Hình ảnh mùa xuân là biếu tượng cho những gì tinh túy nhất, đẹp đẽ nhất của sự sống và của cuộc đời mỗi con người.
  • Thể hiện nguyện ước của tác giả muốn làm một mùa xuân,nghĩa là sống đẹp, sống với tất cả sức sống tươi trẻ của mình nhưng rất khiêm nhường là một mùa xuân nhỏ góp vào mùa xuân lớn của đất nước của cuộc đời.
  • Thể hiện quan điểm về sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung, giữa cá nhân và cộng đồng.

Tham khảo thêm tác phẩm 🌸 Prô Mê Tê Và Loài Người 🌸 Sơ Đồ Tư Duy, Phân Tích, Dàn Ý

Giá Trị Nghệ Thuật Cảnh Ngày Xuân

Tiếp theo là những giá trị nghệ thuật Cảnh ngày xuân.

Giá trị nội dung

  • Đoạn trích miêu tả bức tranh thiên nhiên, lễ hội mùa xuân tươi đẹp, trong sáng qua ngôn ngữ và bút pháp nghệ thuật giàu chất tạo hình của đại thi hào Nguyễn Du

Giá trị nghệ thuật

  • Sử dụng ngôn ngữ miêu tả giàu hình ảnh, giàu nhịp điệu, nhiều từ láy miêu tả cảnh vật và tâm trạng con người, diễn tả tinh tế tâm trạng nhân vật.
  • Miêu tả theo trình tự thời gian cuộc du xuân của hai chị em.
  • Tả cảnh thiên nhiên bằng những từ ngữ, hình ảnh giàu chất tạo hình.

Bố Cục Bài Thơ Cảnh Ngày Xuân

Bố cục bài thơ cảnh ngày xuân bao gồm 3 phần chính:

  • Phần 1. Bốn câu đầu: Khung cảnh thiên nhiên mùa xuân.
  • Phần 2. Tiếp theo đến “ Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay ”. Khung cảnh lễ Thanh minh.
  • Phần 3. Còn lại. Khung cảnh chị em Thúy Kiều khi ra về.

Nhất định đừng bỏ qua bài ✨ Bài Thơ Mùa Hoa Mận ✨ Nội Dung, Giá Trị, Phân Tích

Dàn Ý Cảnh Ngày Xuân

Đừng bỏ lỡ dàn ý Cảnh ngày xuân chi tiết.

I. Mở bài

Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du, tác phẩm Truyện Kiều và nội dung của đoạn trích Cảnh ngày xuân.

II. Thân bài

a. Khung cảnh thiên nhiên mùa xuân

– Thời gian: “ngày xuân”, “chín chục đã ngoài sáu mươi” – Ý chỉ thời gian trôi qua thật nhanh, đã bước sang tháng thứ ba.

– Không gian: “thiều quang” – ánh sáng đẹp đẽ của mùa xuân bao trùm không gian.

– Bức tranh thiên nhiên điểm một vài nét nổi bật:

  • “Cỏ non xanh tận chân trời”: không gian bao la tràn ngập sự sống của mùa xuân.
  • “Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”: đảo ngữ nhấn mạnh hình ảnh những bông hoa lê với sắc trắng đặc trưng cho mùa xuân.
  • Động từ “điểm” gợi ra hình ảnh bàn tay người họa sĩ đang vẽ nên những bông hoa lê để tô điểm cho cảnh mùa xuân tươi, khiến cảnh vật trở nên sống động có hồn.

=> Chỉ vài nét chấm phá, tác giả đã gợi tả bức tranh thiên nhiên đầy sinh động.

b. Khung cảnh lễ hội trong tết Thanh minh

– Khung cảnh tết Thanh minh diễn ra với hai phần:

  • lễ Tảo mộ (dọn dẹp, sửa sang phần mộ của người đã mất)
  • hội Đạp thanh (ý chí hành động du xuân).

– Không khí lễ hội được diễn ta qua một loạt các từ ngữ:

  • Các từ “nô nức”, “gần xa” và “ngổn ngang” bộc lộ tâm trạng của người đi hội.
  • Hình ảnh “ngựa xe như nước, áo quần như nêm” gợi sự đông đúc của những người đi hội.

=> Khung cảnh lễ hội mang đậm truyền thống văn hóa của dân tộc.

c. Khung cảnh chị em Thúy Kiều khi ra về

– Thời gian: “Tà tà bóng ngả về tây” – thời điểm kết thúc của một ngày.

– Hình ảnh chị em Thúy Kiều: “thơ thẩn dan tay ra về” – lễ hội kết thúc cũng là lúc con người phải trở về với sinh hoạt hằng ngày.

– Hai câu cuối: khắc họa cảnh vật trên đường trở về, qua đó bộc lộ tâm trạng nuối tiếc của con người.

III. Kết bài

Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích Cảnh ngày xuân.

Đừng vội bỏ lỡ phân tích 💚 Đi Trong Hương Tràm 💚 Những Mẫu Phân Tích Hay Nhất

Soạn Bài Cảnh Ngày Xuân

Tham khảo gợi ý soạn bài Cảnh ngày xuân nhé.

👉Câu 1 (trang 86 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

4 câu thơ đầu :

   – Khung cảnh mùa xuân: chim én chao liệng, trời xuân cao rộng, trong sáng, thảm cỏ non, vài bông hoa lê trắng. Cảnh ngập sắc trắng và xanh → tươi đẹp, êm đềm.

   – Cách dùng từ chọn lọc, tinh tế đầy sức gợi: “điểm” vài bông hoa khiến cảnh vật có hồn, không tĩnh tại. Miêu tả theo lối chấm phá điểm xuyết của thơ ca cổ. “Con én đưa thoi” một phép ẩn dụ nhân hóa tạo thêm nét sinh động cho cảnh sắc.

👉Câu 2 (trang 86 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

8 câu thơ tiếp:

– Từ ghép là tính từ, danh từ, động từ gợi không khí lễ hội rộn ràng, náo nức, nhộn nhịp, đông vui :

       + Danh từ : yến anh, chị em, tài tử, giai nhân, ngựa xe, áo quần.

       + Động từ: sắm sửa, tảo mộ, đạp thanh, bộ hành

       + Tính từ : dập dìu, gần xa, nô nức, ngổn ngang.

   – Lễ hội truyền thống : đông vui, nhộn nhịp và cũng rất thiêng liêng (tảo mộ).

👉Câu 3 (trang 86 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

6 câu cuối:

Cảnh vật, không khí xuân đã vào chiều tà, không còn đông vui nhộn nhịp mà chuyển sang vắng lặng, nhẹ nhàng. Bởi chính con người đến cuối ngày cũng đã thấy mệt mỏi. Tà tà, thanh thanh, nao nao không chỉ tả cảnh mà còn tả tình, bộc lộ tâm trạng bâng khuâng, xao xuyến, thấm đượm nỗi buồn man mác của con người.

👉Câu 4 (trang 87 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

Thành công về nghệ thuật miêu tả :

   – Ngôn ngữ chọn lọc, giàu chất tạo hình.

   – Hệ thống từ ngữ đa dạng, từ láy giàu sức biểu cảm.

   – Bút pháp tả cảnh đặc sắc: tả điểm xuyết, vừa gợi vừa tả, tả cảnh ngụ tình.

Cập nhật cho bạn đọc 🌿 Cảm Xúc Mùa Thu [Đỗ Phủ] 🌿 Nội Dung, Nghệ Thuật 

Giáo Án Cảnh Ngày Xuân

Cùng xem thêm nội dung giáo án Cảnh ngày xuân.

I. Mục tiêu bài học

– Thông qua bài học giúp học sinh hiểu đuợc:

1. Kiến thức

– Thấy được nghệ thuật miêu tả thiên của Nguyễn Du. Sự đồng cảm của ND với những tâm hồn trẻ tuổi .

2. Kĩ năng

– Bổ sung kiến thức đọc hiểu vb truyện thơ trung đại, phát hiện, phân tích đc các chi tiết m/t cảnh thiên nhiên trong đoạn trích.

– Cảm nhận đc tâm hồn trẻ trung của nv qua cái nhìn cảnh vật trong ngày xuân

– Vận dụng bài học để viết văn m/t, biểu cảm.

3. Thái độ

– Có ý thức trân trọng cái đẹp đặc biệt là cái đẹp của thiên nhiên và con người

II. Chuẩn bị tài liệu

1. Giáo viên

   + Soạn bài, đọc các tài liệu tham khảo,tài liệu chuẩn kiến thức kĩ năng, chuẩn bị tranh ND và các tư liệu về truyện Kiều.

2. Học sinh

   + Đọc trước bài, chuẩn bị bài (trả lời câu hỏi đọc hiểu sgk)

III. Tiến trình tổ chức dạy học

1. Ổn định tổ chức

Kiểm diện: Sĩ số

9A:

9C:

2. Kiểm tra

Đọc thuộc lòng đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” nêu giá trị nội dung và nghệ thuật? Vì sao tác giả lại miêu tả chân dung TV trước TK mặc dù TV là em?

3. Bài mới

– ND không chỉ là bậc thầy trong NT miêu tả chân dung con người mà nhà thơ còn là bậc thầy trong việc tả cảnh thiên nhiên. Sau bức tranh chân dung hai nàng tố nga diễm lệ là bức tranh tả cảnh ngày xuân tháng 3 tuyệt vời. Vậy chúng ta sẽ cùng nhau khám phá bức tranh ấy qua đoạn trích: “Cảnh ngày xuân”.

Hoạt động của GV và HSKiến thức cần đạt
HĐ1. HDHS đọc và tìm hiểu chú thích:

– GV hướng dẫn đọc(chú ý ngắt nhịp phù hợp). Đọc mẫu 4 dòng đầu. Gọi
– HS đọc tiếp?
– Hỏi một số chú thích?
I. Đọc và tìm hiểu chú thích
1. Đọc:
2. Chú thích
HĐ2. HDHS đọc- hiểu văn bản:H: So với đoạn “Chị em Thuý Kiều” đoạn này nằm ở vị trí nào?  H: Đoạn trích chia làm mấy phần? Nội dung?II. Đọc – hiểu văn bản

1. Vị trí đoạn trích:

– Sau đoạn “Chị em Thuý Kiều”
– phần g/thiệu nv ( thuộc phần đầu của t/p truyện Kiều).

2. Bố cục:
– Bố cục 3 phần theo trình tự tg của cuộc du xuân.   
+ 4 câu đầu: Khung cảnh ngày xuân   
+ 8 câu tiếp: khung cảnh lễ hội trong tiết thanh minh.   
+ 6 câu cuối: Cảnh chị em Kiều du xuân trở về.
– Đọc 4 câu đầu?

H: Nhận xét về cách giới thiệu về thời gian của Nguyễn Du bằng 2 câu thơ đầu tiên?

H: én thường xuất hiện khi nào? én đưa thoi gợi tưởng? Thiều quang nghĩa là gì ? ý cả câu thơ như thế nào?

H: Chỉ ra các hình ảnh thiên nhiên là tín hiệu ngày xuân?

H: Những hình ảnh ấy gợi ấn tượng gì về mùa xuân? (So sánh “cỏ non như khói.bến xuân tươi..”Nguyễn Trãi)

H: Từ “Điểm” động từ khiến bức tranh thiên nhiên như thế nào?

H: Nxét cách dùng từ ngữ và bút pháp NT của ND khi gợi mùa xuân? theo em tg phải có năng lực nổi bật nào để viết 1 câu lục bát mà vẽ được bức tranh p/c mùa xuân đẹp như vậy?(tài quan sát,tâm hồn nhạy cảm với cái đẹp

H: Từ đó bức tranh mùa xuân hiện lên ntn?
3. Phân tích

a. Bức tranh thiên nhiên mùa xuân

“Ngày xuân… thoi
Thiều quang…. Sáu mươi
Cỏ non…………….chân trời
Cành lê….. vài bông hoa”

– Dùng hình ảnh thiên nhiên để nói về thời gian.   
+ én đưa thoi → gợi thời gian, không gian.   
+ Thiều quang : ánh sáng
⇒ Mùa xuân đẹp nhưng thấm thoát trôi mau tiết trời đã sang tháng 3 tháng cuối của mùa xuân .
→ NT ẩn dụ và nhân hoá

– Cỏ non xanh, cành lê trắng
→ Bức hoạ đẹp về mùa xuân: cỏ non là gam màu nền cho bức tranh xuân trên nền ấy điểm xuyết bông lê trắng
→ màu sắc hài hoà tôn lên vẻ đẹp của mùa xuân.
⇒ Bức tranh mùa xuân có không gian khoáng đạt; cảnh mùa xuân trong trẻo tinh khôi đầy sức sống sinh động, có hồn,không tĩnh tại.
Đọc tiếp 8 câu tiếp theo?

H: Những hoạt động lễ hội nàođược nói tới trong đoạn thơ? Lễ tạo mộ? Hồi Đạp Thanh?

H: Hệ thống từ ghép sử dụng phong phú hãy phân chia theo từ loại và nêu ý nghĩa của từng loại?

H: Biện pháp nghệ thuạt nào đc sử dụng? “ yến anh”

H: Cảnh lễ hội hiện lên như thế nào? (Qua cuộc du xuân, tác giả khắc hoạ 1 truyền thống văn hoá lễ hội xưa)
b. Cảnh lễ hội trong tiết thanh minh:

– Lễ tảo mộ: Dọn dẹp, sửa sang phần mộ của người thân, thắp hương…
– Hội đạp thanh: chơi xuân ở chốn đồng quê- Nghệ thuật : sử dụng các từ ghép, từ láy:   
+ Gần xa, nô nức (TT) → tâm trạng náo nức   
+ Yến anh, tài tử, giai nhân (DT): gợi sự đông vui náo nhiệt.   
+ Sắm sửa, dập dìu (ĐT): không khí nhộn nhịp, rộn ràng   
+ Cách nói ẩn dụ từng đoàn người chơi xuân như chim yến, chim oanh, làm nổi bật k/k ngày hội và tâm trạng của ng đi hội
⇒ Không khí lễ hội: tưng bừng, đông vui, tấp nập, nhộn nhịp.
– Đọc 6 câu cuối.

H: Cảnh vật, không khí mùa xuân trong 6 câu cuối có gì khác so với 4 câu đầu ?

H: Các từ láy có ý nghĩa biểu đạt như thế nào? 

H: Vậy tâm trạng con ng đc bộc lộ qua các từ ngữ ấy ntn? (Linh cảm điều sắp xảy ra: Gặp mộ đạm Tiên, gặp Kim Trọng)

H: Khung cảnh chiều chị em TK du xuân hiện lên ntn?
c. Cảnh chị em Kiều du xuân trở về:“ Tà tà …. Về tây………………………..Dịp cầu………….bắc ngang”

– Bóng ngả về tây: Thời gian, không gian thay đổi (yên lặng dần, không còn nhộn nhịp, tưng bừng)
– Nghệ thuật : các từ tà tà, thanh thanh, nao nao,thơ thân-> từ láy không chỉ miêu tả sắc thái cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người-> cách vận dụng ng ngữ d/t sáng tạo độc đáo của ND.
– Tâm trạng bâng khuâng, xao xuyến, có chút tiếc nuối về một ngày vui xuân đang còn mà sự linh cảm điều gì sắp xảy ra đã xhiện(Nao nao đã nhuốm màu tâm trạng lên cảnh vật).

⇒ Bức tranh chiều tà,cảnh vẫn mang cái thanh, cái dịu của mùa xuân, mọi chuyển động đều nhẹ nhàng-> cảnh nhuốm màu tâm trạng.
HĐ3. HDHS tổng kết:

H: Nghệ thuật nổi bật của đoạn trích?

H: Cảm nhận của em về cảnh trong đoạn trích?

– HS đọc ghi nhớ.
III. Tổng kết

1. Nghệ thuật:

– Tả cảnh thiên nhiên đặc sắc bằng bút pháp tả, gợi. Sử dụng từ ghép, từ láy giàu chất tạo hình
– Nội dung:
Bức tranh thiên nhiên lễ hội mùa xuân tươi đẹp, trong sáng.

* Ghi nhớ: SGK / 87

4. Củng cố – luyện tập

H: Bức tranh thiên nhiên mùa xuân được miêu tả ntn?

H: Không khí lễ hội thanh minh được miêu tả ra sao?

H: Cảnh chị em TK du xuân trở về?

5. Hướng dẫn học sinh về nhà:

– Chuẩn bị: Miêu tả trong văn bản tự sự

   + Đọc văn bản

   + Trả lời hệ thống câu hỏi

   + Tìm yếu tố miêu tả nêu tác dụng

Sơ Đồ Tư Duy Cảnh Ngày Xuân

Tổng hợp cho bạn đọc một số sơ đồ tư duy Cảnh ngày xuân.

Sơ Đồ Tư Duy Cảnh Ngày Xuân Tìm Hiểu Chung Và Đọc Hiểu
Sơ Đồ Tư Duy Cảnh Ngày Xuân Tìm Hiểu Chung Và Đọc Hiểu
Sơ Đồ Tư Duy Cảm Nhận Cảnh Ngày Xuân
Sơ Đồ Tư Duy Cảm Nhận Cảnh Ngày Xuân
Sơ Đồ Tư Duy Cảnh Ngày Xuân Chi Tiết
Sơ Đồ Tư Duy Cảnh Ngày Xuân Chi Tiết
Sơ Đồ Tư Duy Cảnh Ngày Xuân Dễ Hiểu
Sơ Đồ Tư Duy Cảnh Ngày Xuân Dễ Hiểu
Sơ Đồ Tư Duy Cảnh Ngày Xuân Ngắn Gọn
Sơ Đồ Tư Duy Cảnh Ngày Xuân Ngắn Gọn

Cùng xem tác phẩm HOT 🌸 Lính Đảo Hát Tình Ca Trên Đảo 🌸 Sơ Đồ Tư Duy, Phân Tích, Dàn Ý

5 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Cảnh Ngày Xuân Hay Nhất

Nhất định đừng bỏ qua 5 mẫu phân tích bài thơ Cảnh ngày xuân hay nhất.

Phân Tích Bài Thơ Cảnh Ngày Xuân Chọn Lọc – Mẫu 1

Nguyễn Du sinh ra và lớn lên trong một gia đình đại quý tộc với nhiều đời làm quan. Ông học rộng tài cao là một nhà nho chân chính và còn là một đại thi hào lớn của nền văn học Việt Nam. Tác phẩm Truyện Kiều của nguyễn Du không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn vươn xa ra thế giới. Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” thuộc phần đầu Truyện Kiều miêu tả cảnh ngày xuân và cảnh chị em Thúy Kiều đi du xuân.

“Cảnh ngày xuân” chính là bức tranh mùa xuân sinh động và đặc sắc với đầy đủ âm thanh, ánh sáng,.. mà Nguyễn Du thể hiện sinh động trong Truyện Kiều. Ngày xuân ấy làm con người ta phơi phới được thể hiện qua bức tranh thiên nhiên ngày xuân

“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”

Ngày xuân chim chóc muôn loài cũng nô nức bay lượn. Và con chim én là loài chim đại diện mùa xuân cũng không ngoại lệ. Chim én bay đi bay lại như thoi đưa. Câu thơ vừa tả cảnh, vừa ngụ ý ngày xuân qua nhanh quá. Ngoài ra Nguyễn Du còn tài năng trong việc sử dụng những từ ngữ miêu tả như: “thiều quang”,”cỏ non”,”cành lê trắng”,…

Từ những từ ngữ gợi tả mà Nguyễn Du đã phát họa nên một khung cảnh xuân khiến bao người mê mẩn thèm thuồng được một lần chim ngưỡng. Một ánh sáng chói lóa, một bầu trời xuân xanh ngát, một vài bông hoa nhẹ nhẹ đong đưa. Ôi! Khung cảnh ấy làm người ta say đắm! Từ đó tạo nên một bức tranh ngày xuân tràn đầy sức sống.

Cảnh thiên nhiên vừa đẹp vừa thơ mộng vừa tràn đầy sức sống như thế ấy. Và phong cảnh lễ hội trong tiết thanh minh cũng nhộn nhộn nhịp không kém. Tấp nập người nô đùa qua lại góp phần cho tiết thanh minh không đơn độc lạnh lẽo như mọi người thường nghĩ.

“Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh
Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân”

Nhắc đến ngày tiết thanh minh không thể nào không nhắc đến hai lễ hội: “tảo mộ”,”đạp thanh”. Hai lễ hội thể hiện sự nghiêm trang long trọng của cảnh ngày xuân mà đặc biệt là tiết thanh minh. Nguyễn Du sử dụng những động từ tính từ để thể hiện hành động của những người đi chơi hội cũng rất náo nhiệt và tấp nập.

Bên cạnh đó Nguyễn Du còn sử dụng từ ngữ gợi tả “yến anh”-chỉ loài chim én, chim oanh về mùa xuân thường ríu rít bay từng đàn, đây là ngụ ý cảnh người người tấp nập đi chơi xuân. Làm nổi bật không khí rất rộn ràng nhộn nhịp và đông vui.

“Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm
Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay”

Ngày tết qua ngòi bút của Nguyễn Du là “dập dìu tài tử giai nhân”. Trai tài gái sắc yêu nhau chỉ mong đến ngày xuân để có dịp đi chơi cùng nhau. Đó cũng là lẽ thường tình. Ai ai cũng muốn sắm sửa quần áo thật đẹp thật lộng lẫy để đi trẩy hội mà chính vì thế Nguyễn Du sử dụng cụm từ gợi tả”áo quần như nêm”.

Người người đi lại tấp nập chật cứng như nêm. Lo sắm sửa bản thân nhưng cũng không quên thể hiện lòng thành đối với người đã khuất “thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay”. Đây là hành động tâm linh thể hiện tấm lòng đối với người đã khuất. Qua ngòi bút uyên bác của Nguyễn Du khung cảnh lễ hội trong tiết thanh minh rộn ràng nhộn nhịp, người người đông vui, thiên nhiên tươi sáng trong lành và bầu trời xanh cao.

Tiệc vui nào cũng đến lúc tàn, cảnh tàn tiệc ấy luôn gợi cho người ta cảm giác hụt hẫng và buồn bã. Phần cuối đoạn trích chính là cảnh chị em Thúy Kiều vui xuân trở về.

“Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dang tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.”

Việc dùng từ láy “tà tà” nhằm gợi tả và nhấn mạnh một buổi chiều tà. Buổi chiều ấy, đâu bao giờ để diễn tả niềm vui mà đặc biệt là lúc con người ta đang háo hức du xuân thế này. Đoạn cuối là đoạn thơ mà Nguyễn Du sử dụng rất nhiều từ láy như:” thanh thanh”,”nao nao”nho nhỏ”,… đó đều là những từ láy thể hiện tâm trạng cảm xúc thầm kín và sâu sắc của Thúy Kiều.

Chân trời cảnh sắc xuân mà lòng buồn mang mác. Hay đó là điềm dự báo trước mà Nguyễn Du đặc biệt ưu ái dành cho Thúy kiều. Dự cảm về một người con gái đẹp, tài năng nhưng bạc phận. Màu “thanh thanh” là một màu sắc trầm buồn mà ở đây Nguyễn Du đặc biệt miêu tả cũng rất ấn tượng.

“Nao nao dòng nước” cũng đầy tâm trạng, mượn cảnh tả tình là thế ấy, mượn cảnh thiên nhiên để nói lên cảm xúc con người. Khung cảnh lễ hội trong tiết thanh minh rộn ràng nhộn nhịp người qua lại. Nhưng đâu đó trong thâm tâm Thúy Kiều vẫn chất chứa nỗi tâm sự thầm kín về dự cảm số phận của bản thân nàng.

Qua đoạn trích “Cảnh ngày xuân” của Nguyễn Du đã cho thấy được tài năng miêu tả thiên nhiên và nội tâm nhân vật rất đặc sắc của nhà văn. Sử dụng nhiều từ láy, hình ảnh gợi tả giàu chất tạo hình làm nổi bật cảnh ngày xuân đầy màu sắc sinh động tươi mới. Từ đó thấy được bức tranh thiên nhiên và lễ hội mùa xuân tươi đẹp đầy sức sống mà cũng chất chứa nhiều tâm trạng mà Nguyễn Du thể hiện ở phần đầu tác phẩm Truyện Kiều.

Phân Tích Bài Thơ Cảnh Ngày Xuân Nổi Bật – Mẫu 2

Trong nền văn học Việt Nam, “Truyện Kiều” được biết đến là một tác phẩm xứng tầm kiệt tác. Điều này được tạo nên bởi ngòi bút điêu luyện của đại thi hào Nguyễn Du trong việc sử dụng ngôn ngữ.

Không chỉ được đánh giá cao ở mặt nội dung mà tác phẩm còn để lại nhiều dấu ấn trong lòng độc giả về mặt nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật miêu tả thiên nhiên. Nằm trong dòng chảy đó, trích đoạn “Cảnh ngày xuân” là một minh chứng tiêu biểu cho tài năng của tác giả trong việc miêu tả thiên nhiên.

Trước hết, tác giả đã miêu tả bức tranh thiên nhiên thông qua khung cảnh mùa xuân tươi đẹp và tràn trề sức sống:

“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”

Bút pháp miêu tả thiên nhiên dưới ngòi bút của nhà thơ lại hiện lên đậm chất tạo hình và hội họa với những hình ảnh, đường nét, màu sắc phối hợp tinh tế, nhẹ nhàng.

Khung cảnh mùa xuân quen thuộc được miêu tả thông qua hình ảnh những cánh én sải cánh chao liệng trên bầu trời cao rộng, gợi lên bước đi không ngừng nghỉ của dòng thời gian. Ánh nắng mùa xuân được miêu tả qua cụm từ “thiều quang” gợi sắc màu tươi mới, dịu nhẹ, vừa ấm áp vừa rực rỡ của tiết trời xuân.

Bức họa thiên nhiên tiếp tục được làm nổi bật bởi những gam màu mang đậm tính chất hội họa. Sắc xanh tươi của cỏ non trải dài đến tận cuối chân trời tạo nên một không gian bao la, rộng lớn ngút ngàn và khoáng đạt.

Sự xuất hiện của một vài bông hoa lê điểm xuyết sắc trắng trong sự kết hợp giữa biện pháp đảo ngữ, sử dụng cách nói “trắng điểm” thay cho “điểm trắng” để làm nổi bật màu sắc tinh khôi, sáng trong cùng bút pháp chấm phá quen thuộc trong thơ ca trung đại đã gợi liên tưởng đến những câu thơ cổ trong nền văn học Trung Quốc:

“Phương thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa”
(Cỏ thơm liền với trời xanh
Trên cành lê có mấy bông hoa)

Nếu trong những câu thơ trên, người viết miêu tả hình ảnh “cỏ thơm” gợi hương vị thì tác giả Nguyễn Du lại sử dụng màu sắc “Cỏ xanh” với sự non tươi mơn mởn để gợi lên sức xuân và sắc xuân tràn trề, đồng thời tạo nên sự hài hòa trong vẻ đẹp vừa tươi mới, vừa tinh khôi.

Và rồi sự chuyển động của thời gian cũng khiến cho lễ hội kết thúc, đồng thời ánh “thiều quang” không còn và thay vào đó là không gian buồn bã của bóng tà dương trong buổi xế chiều:

“Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dang tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”

Khung cảnh thiên nhiên vẫn mang vẻ đẹp dịu nhẹ của mùa xuân thông qua hình ảnh “bóng tả về tây” gợi ánh nắng nhạt dần và mặt trời đang lặn xuống cùng những chi tiết về khe nước nhỏ – nơi mà con người bước đi cùng sự chậm rãi, “thơ thẩn” và dòng nước uốn quanh “nao nao” để gợi lên không gian bé nhỏ, thân thuộc khác với không gian rộng lớn, bát ngát ở khổ thơ đầu.

Tác giả Nguyễn Du đã sử dụng hàng loạt từ láy giàu giá trị gợi hình, gợi cảm để miêu tả không gian tĩnh lặng trong tâm trạng buồn bã, bâng khuâng và tiếc nuối.

Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong đoạn thơ vô cùng đặc sắc thông qua việc tác giả đã sử dụng thành công hệ thống từ láy và bút pháp tả cảnh ngụ tình. Các từ láy thường được đảo lên đầu câu thơ để nhấn mạnh tâm trạng của con người – dụng ý của nhà thơ.

Đặc biệt, qua cách sử dụng từ láy “nao nao”, sắc thái của cảnh vật hiện lên qua vẻ đẹp lững lờ trôi xuôi của dòng nước trong bóng chiều tà; đồng thời đó còn là sự “nao nao” trong tâm trạng của con người. Đó là sự bâng khuâng, luyến tiếc, xao xuyến về một buổi du xuân trong cảm xúc của người con gái “đa sầu đa cảm” Thúy Kiều, đó còn là sự linh cảm về những điều sắp xảy ra – Kiều sẽ gặp nấm mộ Đạm Tiên, gặp Kim Trọng.

Như vậy, thông qua trích đoạn “Cảnh ngày xuân”, chúng ta có thể thấy được tài năng của tác giả Nguyễn Du trong việc miêu tả thiên nhiên. Để phác họa bức tranh mùa xuân tươi đẹp, sáng trong và bức tranh lặng lẽ buổi chiều tà, đại thi hào dân tộc đã lựa chọn những hình ảnh thơ đặc sắc và miêu tả trong sự hài hòa giữa màu sắc, đường nét và hình khối.

Đặc biệt, tác giả đã vận dụng thành công bút pháp “tả cảnh ngụ tình” để làm nổi bật dòng tâm trạng của con người ẩn chứa sau cảnh vật, thể hiện sự thống nhất giữa “cảnh” và “tình” giống như ông đã từng khẳng định:

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Phân Tích Bài Thơ Cảnh Ngày Xuân Đặc Sắc – Mẫu 3

Nếu như trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, người đọc thấy được tài năng nghệ thuật tả người của Nguyễn Du trong việc khắc họa bức chân dung duyên dáng, sắc tài toàn vẹn của hai chị em Vân – Kiều thì đến với đoạn trích “Cảnh ngày xuân”, người đọc một lần nữa lại thấy được nghệ thuật tả cảnh, tả tình độc đáo của Nguyễn Du trong bức tranh mùa xuân thấm đượm tâm hồn con người.

Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” nằm ngay sau đoạn tả tài, tả sắc của chị em Thúy Kiều. Qua đoạn thơ, Nguyễn Du dựng lên bức tranh thiên nhiên và lễ hội mùa xuân trong tiết Thanh minh thật tươi sáng, sống động. Đây là đoạn thơ tiền đề, dẫn dắt hoàn cảnh để rồi trong cuộc du xuân của Kiều, Kim – Kiều đã gặp nhau rồi tự do đính ước…

Trước hết, bốn câu thơ mở đầu, với nghệ thuật chấm phá độc đáo tả ít gợi nhiều, Nguyễn Du đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, giàu sức xuân:

“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”

Hai câu thơ đầu vừa có sức gợi về thời gian, lại vừa có sức gợi về không gian. Ngày xuân thấm thoát trôi qua thật nhanh như thoi đưa. Cả mùa xuân có chín mươi ngày thì nay đã qua tháng giêng, tháng hai và bước sang tháng thứ ba. Ánh sáng của ngày xuân nhẹ nhàng, trong veo, lan tỏa, trải dài khắp muôn nơi.

Trên nền trời cao là những đàn chim én mùa xuân đang chao nghiêng bay lượn. Dưới mặt đất là một thềm cỏ xanh non bất tận chạy ra xa tít tắp. Động từ “tận” làm cho không gian mùa xuân như đang giãn nở, ngày càng mở rộng ra biên độ và bao trùm cả không gian xuân là một màu xanh biếc của cỏ lá. Trên nền cỏ xanh tươi ấy là những bông hoa lê điểm vài sắc trắng gợi lên sự tinh khôi, mới mẻ.

Biện pháp đảo ngữ có tác dụng tô đậm thêm và làm nổi bật hơn sức trắng của hoa lê trên nền cỏ mùa xuân. Chỉ bằng bốn câu thơ ngắn gọn nhưng dưới ngòi bút và cách miêu tả thần tình, Nguyễn Du đã tạo nên một bức tranh xuân tinh khôi, trong trẻo, thanh khiết và giàu sức sống, mang đậm hơi thở của hồn xuân đất Việt.

Tám câu thơ tiếp theo, là khung cảnh lễ – hội trong tiết thanh minh mùa xuân. Ở hai câu thơ đầu, tác giả đã giới thiệu khái quát về hai hoạt động chính của mùa xuân: Lễ tảo mộ và hội đạp thanh trong tiết tháng ba mùa xuân.

Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh

Lễ tảo mộ là một nét đẹp văn hóa, biểu trưng cho đạo lí biết ơn, tri ân tiên tổ bằng việc sửa sang phần mộ của gia đình người thân đã khuất. Sau khi lễ hội tảo mộ diễn ra xong thì đây cũng là cơ hội cho những trai tài gái sắc được gặp gỡ, hẹn hò, giao duyên trong lễ hội đạp thanh. Không khí tưng bừng, nhộn nhịp và tấp nập trong những ngày lễ hội mùa xuân đã được Nguyễn Du miêu tả qua hệ thống những từ ngữ giàu tính tạo hình và biểu cảm:

“Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm”.

Từ ghép (gần xa, yến anh, chị em, ngựa xe, áo quần) kết hợp với các từ láy (nô nức, dập dìu, sắm sửa) có tác dụng gợi nên không khí hội xuân hết sức đông vui, rộn ràng. Hình ảnh ẩn dụ: “nô nức yến anh” gợi lên hình ảnh từng đoàn người nhộn nhịp đi du xuân như chim én, chim oanh xôn xao, náo nức, tình tứ.

Hình ảnh so sánh: “Ngựa xe như nước; áo quần như nêm” miêu tả những đoàn người trong hội xuân rất nhộn nhịp; từng đoàn, từng đoàn người chen vai ních cánh đi trẩy hội, đông vui, rộn ràng.

Tóm lại: Bằng việc sử dụng các biện pháp tu từ ẩn dụ, so sánh, kết hợp với hệ thống những từ ngữ giàu tính chất tạo hình và biểu cảm, nhà thơ đã gợi lên một không khí mùa xuân vừa đông vui, tấp nập; lại vừa tình tự và duyên dáng khi có sự góp mặt của các nam thanh nữ tú, trai tài, gái sắc. Trong ngày hội xuân ấy không chỉ có niềm vui mà còn có những khoảng lặng của lễ tảo mộ trong hai câu thơ:

Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay

Nếu Hội đạp thanh hiện lên với không khí hết sức tươi vui, rộn rã, náo nức thì Lễ tảo mộ lại gợi một chút đượm buồn và hướng tới đạo lí tốt đẹp ở đời qua hành động rắc thoi vàng và đốt vàng mã cho người đã khuất. Đó là truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” và lối sống ân nghĩa, thủy chung tốt đẹp của văn hóa dân tộc.

Qua tám câu thơ, tác giả đã khắc họa thành công truyền thống văn hóa lễ hội mùa xuân của dân tộc. Đồng thời, đây cũng là một dụng ý nghệ thuật sâu sắc của tác giả: mượn ngày hội lớn làm bối cảnh, tiền đề để miêu tả cuộc gặp gỡ đặc biệt giữa Thúy Kiều và Kim Trọng.

Đến sáu câu thơ cuối, bằng nghệ thuật “tả cảnh ngụ tình”, Nguyễn Du đã miêu tả thời điểm kết thúc của ngày hội xuân thấm đượm hồn người một chút buồn xao xuyến. Đó là khung cảnh chị em Kiều du xuân trở về:

“Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dang tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”

Cảnh vẫn mang cái dịu nhẹ, êm đềm của ngày xuân nhưng bóng dương đã “tà tà ngả về tây”. Khung cảnh náo nức, tưng bừng của ngày hội xuân cũng đã kết thúc. Trong lòng người xen lẫn những xúc cảm bâng khuâng xao xuyến. Cảnh vật không gian đã được co gọn lại trong bước chân của người ra về, của dòng nước tiểu khê và chiếc cầu nho nhỏ.

Những từ láy: “nao nao, tà tà, thơ thẩn, thanh thanh” không chỉ có tác dụng miêu tả trạng thái của cảnh vật mà còn biểu lộ tâm trạng của con người: lưu luyến, bịn rịn, bâng khuâng hoàn toàn đối lập với không khí với ngày lễ hội mùa xuân vào buổi sáng sớm.

Đồng thời gieo vào lòng người đọc những linh cảm về một điều sắp sửa xảy ra, như là sự dự báo trước cuộc gặp gỡ nấm mồ Đạm Tiên và sự gặp gỡ của hai con người trai tài gái sắc: Thúy Kiều – Kim Trọng.

Tóm lại, với bút pháp tả cảnh ngụ tình, kết hợp với việc sử dụng hệ thống những từ láy, hình ảnh giàu tính tạo hình và biểu cảm, tác giả đã khắc họa bức tranh chiều tà trong ngày hội xuân thấm đượm tâm trạng của con người nhân vật. Qua đó cho thấy được tài năng miêu tả tâm trạng con người của Nguyễn Du.

Nếu như trong “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân, tác giả chỉ có đúng một câu dẫn dắt “một hôm nhằm vào tiết Thanh minh…” để rồi sau đó kể về cuộc gặp gỡ nấm mồ Đạm Tiên và Kim Trọng nhưng Nguyễn Du đã dựa vào đó vẽ lên một bức tranh xuân thắm bằng thơ, với vẻ đẹp riêng, mang đậm cảnh xuân đất trời nước Việt.

Như vậy, qua đoạn trích “Cảnh ngày xuân”, chúng ta thấy được tài năng nghệ thuật “tả cảnh ngụ tình” hết sức độc đáo của Đại thi hào Nguyễn Du. Dưới ngòi bút sáng tạo thần tình, cùng những rung cảm nghệ thuật độc đáo về mùa xuân, Nguyễn Du đã phác họa thành công một bức tranh thiên nhiên, lễ hội mùa xuân tươi đẹp, trong sáng và sống động, thấm đượm lòng người.

Phân Tích Bài Thơ Cảnh Ngày Xuân Ấn Tượng – Mẫu 4

Nguyễn Du, đại thi hào dân tộc, người đã để lại cho nền văn học Việt Nam một khối lượng tác phẩm đồ sộ. Trong đó, truyện Kiều được coi là “thiên truyện”, kể về cuộc đời nàng Kiều hồng nhan bạc mệnh. Đoạn trích cảnh ngày xuân là một trong số những đoạn nổi bật nhất, vừa tả cảnh thiên nhiên đặc sắc, vừa mở ra những nốt thấp quan trọng trong cuộc đời Thúy Kiều.

Đoạn trích ở phần đầu của tác phẩm, sau khi giới thiệu gia cảnh và miêu tả vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân. Tác giả tả cảnh ngày xuân, chị em đi chơi hội và khung cảnh lễ hội tươi vui, náo nhiệt.

Bốn câu thơ đầu gợi tả khung cảnh thiên nhiên mùa xuân:

Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

Hai câu thơ đầu đề cập đến thời gian và không gian của mùa xuân. Hình ảnh “chim én đưa thoi” không chỉ muốn thể hiện tiết xuân ấm áp, muôn chim bay về mà còn muốn khắc họa thời gian trôi qua quá nhanh, như con thoi quay vòng khi dệt vải.

Mùa xuân có ba tháng, nay đã là tháng ba. Trong những ngày cuối cùng của mùa xuân, những cánh chim én vẫn dập dìu bay liệng giữa bầu trời cao rộng. Hai câu thơ sau là bức tranh tuyệt đẹp về cảnh sắc mùa xuân với những hình ảnh hài hòa.

Thảm cỏ non trải rộng đến tận chân trời làm nền cho bức tranh xuân tươi tắn bất tận. Trên cái nền màu xanh mát mắt đó, điểm xuyết nhẹ nhàng những bông hoa lấy chồng thanh khiết.

Tác giả sử dụng nghệ thuật đảo ngữ “trắng” lên trước động từ “điểm” nhầm khắc họa một cách nổi bật vẻ đẹp trắng muốt tinh khôi của hoa xuân. Cái hồn riêng của mùa xuân hiện ra trong một không gian bao la rộng lớn. Hoa cỏ vô tri vô giác, nhưng chữ “điểm” dùng đúng lúc làm cho cánh hoa lê trở nên có hồn, có tình.

Tám câu thơ tiếp theo là khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh Minh

Thanh Minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh
Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm
Ngổn ngang, gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay

Vào ngày Thanh Minh, tiết đầu tháng ba, mùa xuân khí trời mát mẻ, người ta đi tảo mộ để sửa sang lại phần mộ của người đã mất như một cách tri ân. Mùa xuân cũng là dịp để đi chơi, đi lễ hội mừng năm mới. Được gặp gỡ lẫn nhau sau một năm làm việc đã trở thành một tục lệ tốt của văn hóa Việt Nam. Sau phần lễ là tảo mộ sẽ đến phần hội, gọi là hội đạp thanh, là dịp gặp gỡ bạn bè, người thân.

Những câu thơ này của Nguyễn Du gợi tả một không khí lễ hội bằng hàng loạt những từ ngữ liên tiếp thể hiện sự đông đúc, vui tươi như “yến anh, chị em, tài tử giai nhân” cùng các tính từ “nô nức, sắm sửa, gần xa, dập dìu”. Hình ảnh những trai thanh gái lịch quần áo là lượt đi chơi hội xuân như những đàn chim ríu rít. Người ta thấy được sức sống, thấy được sự tươi mới, trẻ trung bao phủ lên toàn cảnh vật.

Cụm từ “nô nức yến anh” và “ngựa xe như nước, áo quần như nêm” giúp người đọc hình dung cảnh này hội vô cùng náo nhiệt người với người nối nhau như dòng nước bất tận, mặc những trang phục đẹp đẽ nhất. Trong lễ tảo mộ, người ta rắc những thỏi vàng, những xấp tiền giấy hàng mã để tưởng nhớ người đã khuất nên mới có cảnh “thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay”.

Sáu câu thơ cuối, tác giả tập trung gọi tả khung cảnh chị em Thúy Kiều chơi xuân:

Tà tà, bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn, dan tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang

Buổi chiều, mặt trời từ từ là bóng về Tây. Ngày lễ hội đã đi qua, chị em Thúy Kiều dắt tay nhau đi về. Cảnh chiều xuân được miêu tả một cách dịu dàng, thanh khiết: nắng về chiều tà tà, nhịp cầu nhỏ bắc ngang khe nước.

Mọi hoạt động cũng trở nên chậm rãi hơn như mặt trời tranh chấp nhà bóng, bước chân người trở nên thơ thẩn, ung dung. Cảnh vẫn đẹp, nhưng đã nhuộm màu tâm trạng, một tâm trạng bâng khuâng xao xuyến mà người ta vẫn thường có sau những buổi vui.

Nhưng đâu chỉ có thế, những từ này như tà tà, thanh thanh không chỉ béo đa sắc thái của cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng của con người. Từ láy “nao nao” gợi lên một nét buồn, nỗi buồn chỉ con người mới có thể cảm nhận được.

Dường như, câu thơ này là một dự cảm cho những sự việc tiếp theo, khi nàng Kiều gặp chàng Kim Trọng và những biến cố sắp ập đến cuộc đời nàng. Có lẽ vì vậy, chính bản thân tác giả cũng thấy nao lòng, tiếc thương cho một số phận hồng nhan bạc mệnh.

Với bút pháp nghệ thuật và khả năng tả cảnh đặc sắc, sử dụng những từ ngữ đắt giá, những từ láy đúng lúc đúng chỗ, Nguyễn Du đã gợi ra một bức tranh sinh động về cảnh sắc thiên nhiên mùa xuân, con người như hoà vào bức tranh tươi vui, náo nhiệt ấy. Người đọc có thể cảm nhận được cảnh ngày xuân hiện lên với vẻ đẹp trong sáng, tươi tắn, là sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên.

Phân Tích Bài Thơ Cảnh Ngày Xuân Tiêu Biểu – Mẫu 5

Nguyễn Du sinh năm 1820, là một người con của làng quê Tiên Điền, Hà Tĩnh. Vốn là con của một gia đình có truyền thống văn học qua bao đời nên Nguyễn Du được thừa hưởng khả năng văn học từ gia đình cùng với tấm lòng gắn bó, yêu thương với con người đã mang đến màu sắc nhân đạo đặc sắc trong thơ Nguyễn Du.

Sống trong thời kỳ xã hội loạn lạc, từng đến nhiều nơi và có trải nghiệm gắn bó với cuộc sống của người dân nên ông hiểu hơn ai hết những vất vả, khổ cực mà những người dân phải gánh chịu, vì lẽ đó là lòng ông luôn hướng về những người khốn khổ, thương cảm và dành họ họ sự yêu thương, cảm thông sâu sắc.

Truyện Kiều là kiệt tác của Nguyễn Du viết về cuộc đời và số phận của người con gái tài hoa bạc mệnh Thúy Kiều, không chỉ xuất sắc trong việc khắc họa chân dung, số phận của nàng Kiều mà Nguyễn Du còn có tài năng miêu tả thiên nhiên bậc thầy, ta có thể thấy rõ điều này qua đoạn trích Cảnh ngày xuân.

Không chỉ thành công trong việc khắc hoạ nhân vật, Nguyễn Du còn mang đến cho ta những câu thơ viết về thiên nhiên đầy gợi cảm, xinh đẹp và êm đềm. Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” là một trong những đoạn trích miêu tả cảnh thiên nhiên hay và mượt mà nhất của tác phẩm. “Cảnh ngày xuân” nằm sau đoạn miêu tả chị em Thúy Kiều, được mở đầu bằng bốn câu thơ mượt mà giới thiệu cảnh xuân:

“ Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”

Nếu hè đến có phượng thắm ve kêu, đông sang có tuyết rơi, bàng trơ trọi lá thì khi xuân về có cánh én chao nghiêng. Chim én chính là đại diện của mùa xuân, đại diện của đất trời ngày xuân. Lúc này đây, trời những áng mây trời xanh thẳm, có “thiều quang” – bầu ánh sáng diệu kỳ, đẹp tươi và ấm áp, có cánh én bay lượn giữa không gian.

Thời gian là thứ không bao giờ chờ đợi ai, mới ngày đầu năm mới đấy mà đã bước sang những ngày tháng ba “đã ngoài sáu mươi”. Đẹp đến thế khung cảnh đầy bình yên và sống động của mùa xuân khi tháng ba về:

” Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”

Những bãi cỏ non xanh kéo dài như những thảm, xa tít “chân trời” mở ra một không gian rộng lớn, màu xanh mang sức sống mới, mang cả niềm hy vọng của sự an bình, của may mắn và niềm thương.

Nếu trên mây trời có bóng dáng những nàng chim én yêu kiều thì dưới chân trời có những thảm cỏ xanh tươi, bát ngát. Và còn đây nữa cánh hoa lê trắng tinh khôi, được điểm xuyết tự nhiên mà hài hoà nên nền xanh của lá, sắc trắng hoa lê mang nét gợi cảm đầy hấp dẫn, thu hút.

Trong thơ cổ Trung Quốc cũng có những câu thơ miêu tả xuân tiết tháng ba bằng những câu thơ rất hay:

“Phương thảo niên bích
Lê chỉ số điểm hoa”

Nguyễn Du trong tác phẩm này cũng đã vận dụng một cách đầy sáng tạo để viết về nét xuân của dân tộc, nét xuân của Việt Nam, thiên nhiên mang cả hồn đất Việt.

Nếu câu thơ cổ gợi xuân bằng hương vị, đường nét, trong thơ Nguyễn Du không chỉ có màu sắc, đường nét và còn thấy cả cái nhịp vận động khẽ khàng nhưng đầy tinh tế của những cánh hoa lê qua nghệ thuật đảo ngữ, đẩy “trắng” lên trước từ “điểm”, khiến cho hoa lê như đang bừng nở trong không khí mùa xuân .

Có thể thấy, chỉ bốn câu thơ đầu ấy thôi, mà Nguyễn Du đã vẽ nên một bức hoạ , vừa khoáng đạt, thanh bình lại vừa sinh động, tươi vui. Dường như, lòng người cũng đang thư thái hạnh phúc xốn xang tận hưởng thứ thiên nhiên tuyệt diệu lúc này.

Mùa xuân là mùa của niềm vui sum họp, của những cuộc dạo chơi, những lễ hội vui tươi. Ở Việt Nam, vào tiết tháng ba âm lịch, có lễ hội đạp thanh, tảo mộ truyền thống. Nguyễn Du cũng đã tái hiện lại khung cảnh của lễ hội này qua những câu thơ:

“Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thành”

Hội đạp thanh là nơi diễn ra cuộc du xuân của mọi người, đặc biệt là những chàng trai, cô gái đang độ xuân thì, đó là những ngày vui mà người ta háo hức mong đợi nhất.

Lễ tảo mộ là dịp mà mọi người trong gia đình trở về, cùng nhau ra dọn dẹp mộ ông bà, thắp lên những ngôi mộ nén hương để tưởng nhớ những người quá cố như một sự biết ơn, tri ân sâu sắc. Nguyễn Du bằng sự cảm nhận tinh tế, đã tái hiện lại khung cảnh lễ hội này qua những câu thơ tiếp:

” Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm”

Nghệ thuật ngôn từ được sử dụng một cách tài tình qua sự kết hợp hệ thống các tính từ láy và danh từ ghép để vẽ nên khung cảnh đi hội thật vui tươi, phấn chấn, háo hức. ” Chị em” ai cũng sắm sửa cho mình những bộ cánh áo thật đẹp để dự hội, gần xa nô nức những” giai nhân, tài tử ” dắt tay nhau đi chơi, rủ nhau hò hẹn, trên đường là những “ngựa xe” đông đúc, trên những quần áo lộng lẫy, họ ríu rít như những đàn chim bay về nơi vui chơi tụ họp.

Và đâu đây, ta thấy có bóng hình chị em nàng Kiều tuyệt sắc trong đó, họ cũng đang hoà mình trong niềm vui, sức sống của tuổi trẻ, của những đẹp đẽ thanh xuân lúc này. Sau phần hội vui chơi là đến phần lễ đầy thiêng liêng, long trọng:

“Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay”

Đứng trước linh hồn của những người đã khuất, lòng người cũng không khỏi buồn thương, nhung nhớ, những ” ngổn ngang” sâu thẳm tâm hồn. Nhịp thơ chầm chậm buồn như để bày tỏ sự sẻ chia, nỗi niềm của người nơi chốn trần gian vẫn luôn cầu nguyện, mong những điều an ổn nhất gửi đến tổ tiên mình.

Rồi cuộc vui nào cũng đến lúc phải kết thúc, cuộc gặp gỡ nào cũng có lúc chia xa, mời vừa sớm bình minh còn vui chơi, cười nói thì giờ cũng đã thấm thoắt chiều tà, mọi người phải ra về trong niềm tiếc nuối, nỗi bâng khuâng:

“Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”

Khi ánh chiều buông cũng là lúc lòng người nhiều những tâm trạng ưu tư. Nếu không gian xuân ở những câu đầu được mở rộng, khoáng đạt thì lúc này đây, không gian dường như bị thu hẹp hơn, cảnh êm đềm có chút buồn vương nhè nhẹ. Chị em Kiều lòng “thơ thẩn” dắt nhau về mà lòng còn tiếc nuối cuộc vui.

Cảnh xuân khi chiều xuống nhẹ nhàng, yên ả nhưng không vui tươi và sinh động như trước. Những từ láy “nhỏ nhỏ” , ” hanh thanh” ,”nao nao” lại càng gợi cảm giác xuyến xao, lưu luyến. Trong đoạn cuối này, tác giả đã sử dụng nghệ thuật “tả cảnh ngụ tình” đầy độc đáo, cảnh mang màu của tâm trạng, gợi tâm trạng của người về lúc bấy giờ.

Thơ hay không chỉ đẹp thôi đâu mà nó còn có tình trong đó. Thơ hay đâu chỉ nói lên giấc mộng, nỗi lòng người thi sĩ mà còn nói lên khát khao, mơ ước của những người thưởng thức. Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” đã cho thấy một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế và tài năng xuất chúng của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.

Viết một bình luận