Huyện Trìa, Đê Hầu, Thầy Nghêu Mắc Lỡm Thị Hến ❤️️ Nội Dung ✅Chia Sẻ Cho Bạn Đọc Về Hoàn Cảnh Sáng Tác, Bố Cục, Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm.
NỘI DUNG CHÍNH
Nội Dung Vở Tuồng Hài Huyện Trìa, Đê Hầu, Thầy Nghêu Mắc Lỡm Thị Hến
Đoạn trích tuồng hài huyện Trìa, Đê Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến kể lại cảnh Thị Hến lừa huyện Trìa, đề Hầu và thầy Nghêu đến nhà mình để vạch trần bản chất ham mê sắc đẹp, ý đồ bất chính và dung tục của những kẻ này. Dưới đây là nội dung chính của vở tuồng.
Trích đoạn Huyện Trài, Đê Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến
(Lược dẫn: Sau khi được Huyện Trìa tha bổng ở huyện đường, Thị Hến bị Sư Nghêu, một gã thầy tu phá giới trong vùng đến gạ gẫm chuyện ái ân. Thị bày ra một kế nhằm chấm dứt mọi sự quấy nhiễu của Sư Nghêu cùng bọn chúc sắc, nhằm “Giữ tiết hạnh một đường cho toại”. Thị cho mời cả ba gã đàn ông mê gái là Sư Nghêu, Đê Hâu, Huyện Trìa – cùng đến nhà mình và cả ba cùng sập bẫy. Dưới đây là lớp XIX, cũng là lớp kết thúc ở Nghêu, Sò, Ốc, Hến. Nhan đề do người biên soạn đặt).
THỊ HẾN: – Từ sai người tới đó
Sao chưa thấy tới đây?
Ông Huyện Trìa bị mụ Huyện trói tay,
Thầy Đề Lại mắc cô Đề buộc cổ.
Còn lão sãi trọc văng tới nhà mà múa mỏ,
Hay là ta may hết thói lăng nhăng?
Dốc thờ chồng suối bạc cho toàn,
Lại bị quỷ nhà cháy tới phá.
SƯ NGHÊU: – Trời tăm tối đi hầu bổ ngửa,
Cây bụi bờ rờ chẳng ra đường.
(Này! Này, Thím ơi! Mỗ đã sang. Mở cửa mình vào với!)
THỊ HẾN: – Chào thầy mới tới
Trà nước vội vàng.
Đành lòng đây đó giao duyên
(Nhưng) Sợ nỗi thế gian đàm tiếu (thôi.)
SƯ NGHÊU: – Vốn đà trước liệu
Lọ phải sau lo
Kê kinh chuông mõ trả cho chùa
Cày, cấy, đâm, xay đành phận mỗ.
(Này này!) Khuyên cùng với đó,
Chớ khá phụ đây,
Tuy làm vẫy cũng tiếng ông thầy,
Ở như vậy uống tài bà goá.
(Tiếng Đề Hâu kêu cửa)
THỊ HẾN: (- ỦaI)
Tiếng ai kêu chỉ lạ
Hay là thầy Lại đến đây?
(Này! Này! Mô Phật!)
Đi Ra kẻo tội với thầy,
Ở đó ắt tai trước mắt! (Chớ chẳng chơi đâu!).
SƯ NGHÊU: ( Phật Phật! Trời Trời!)
Lão Để Lại làm chi quá ngặt,
Khiến thầy tu chạy đã hầu điên.
(Thím ơi! Thím!)
Trên chỗ nào khác chỉ cho min!
(Chớ) Ra cửa có thảy Đề đứng đói!
THỊ HẾN: – Dưới phản ngựa thầy mau xuống đó.
(Để tôi) – Ra ngõ mời người đặng vào đây,
Dầu chuyện chỉ chịu khó một giây,
(Để) Người về đã, sẽ vầy hai mặt.
(Sư Nghêu chui xuống gầm phản, Đề Hâu nào)
Lại nói – Thưa thầy!
Nghe kêu lật đật,
Mở cửa vội vàng,
Thỉnh lại gia trang”,
Sẽ bày tình tự.
ĐỀ HẦU: – Ơn mỗ cứu cho bữa trước
Nay nường còn nhớ chưa quên?
Sao đã cùng ông Huyện kết duyên,
Mà vội phụ thầy Đề tình ngãi, (hử?)
THỊ HẾN: – Xin thầy hãy nghĩ lại
Quan huyện dạy (tôi) phải vâng,
Đành đôi ta là cái duyên hằng?
(Thế mà) Không nghe đó, sao cho nên việc, (thưa thầy?)
ĐỀ HẦU: – Phải lắm! Thế mới biết
Đèn không khêu không tó,
Chuông không đánh không kêu.
(Ta nói thiệt)
Đó không thương đây cũng quyết liều,
(Chữ) Duyên đã khẳn? nàng tua! giữ dạ.
THỊ HẾN: – Ái ân việc còn thong thả,
Rượu trà xin hãy vui chơi
Chẳng mấy khi đặng hiệp một nơi
Bây giờ đã gặp nhau hai mặt
(Chừ có việc này)
Tôi xin hỏi thiệt, thầy khá tỏ bày!
Thầy hằng xem luật lệ xưa nay,
Tu (mà) phá giới tội chỉ khinh trọng, (thưa thầy?)
ĐỂ HẦU: – Lễ tai nghe quá chướng
Trong luật lệ rất to,
Hễ phá giới tức hành trảm quyết!
(Huyện Trìa tới)
HUYỆN TRÌA: (nói ngoài cửa)
– Viên ngoại diêu văn tế thuyết
Môn tiền hữu ngã quan nhon?
Mở cửa ra! Mau tiếp đại tân?!
Ớ mụn Kếp kíp ra mời quan Huyện, (nào!)
ĐỀ HẦU: ( Chui chao!)
Văn ngôn sắc biến! Sắc biến!
Thính thuyết hồn kinh! Hôn kinh!”
Nếu mà ông Huyện tri tình,
Chắc hẳn thầy Đề mang khổi
(Thâu Đê trốn, ông Huyện nào)
HUYỆN TRÌA: – Việc thuế má, án từ quá gấp
Đêm tối tăm đường xá (lại) khó đi!
Tưởng mu đà tới lúc ngủ khi
Làm mỗ chạy ướt hầu bổ sấp.
Khi sớm, tối đợi mình khổ lắm
Từ rày xin tới mụ cho liên
Gẫm đà phải nợ phải duyên,
Thôi chớ làm hòn, làm giận, (nữa mài)
THỊ HẾN: – Nghĩ mà tủi phận
Đâu dám trách ai
(Nhưng tôi nghĩ lại, như ông)
Vợ còn, còn sẵn, thiếu chỉ
(Mà buộc tôi không đặng?)
Trai quá gái không thường lệ
(Tôi cũng) Cam phận thiếp muối trường cơm tẻ.
(Nhưng mà tôi)
E chánh thê cả tiếng nhiều lời (đó thôi!)
(Cho nên tôi)
Lánh một xóc, lọ một nơi
Khó chối thầy, giàu ai chẳng luy!
HUYỆN TRÌA: (Ui chao! Chừ)
Ta nghỉ ngơi kẻo mệt,
Nói dài lắm cũng buồn
Khuyên khuyên đừng chớ làm tuồng,
Bót bớt xin đừng nói bợm!
THỊ HẾN: – Sợ gan ruột đàn ông nhiều lớp
Việc nợ duyên dễ thiếp mấy nơi?
Rượu trà hãy xin mời,
Ái ân rỗi có đó.
(Bây giờ tôi xin nhờ quan)
Vốn tôi chưa rõ,
Xin hỏi một lời:
Người từng xem luật lệ nơi nơi
Có một việc ở đời lạ lạ.
Rầy có chú thầy tu rất chạ
Hay đến nhà mà ve bà goá;
Đã xuất gia phá giới làm vợ,
Thời luật pháp xử chỉ cho rố?
HUYỆN TRÌA: ( Quẩy!)
Nói làm chỉ việc rối
Ai có tiếc làm chi.
Phàm tu hành mà đã xuất gia,
Có phá giới đánh đòn phát lạc”!
SU NGHÊU: (Từ gầm giường bò ra)
‘. Đánh đòn phát lạc: đánh đòn trị tội bằng roi.
– Tâm khoái lạc! Tâm khoái lạc!!
Thiện xử phân! Thiện xử phân!?
(Bẩm quan lớn, lời quan dạy rất mình, chứ thầy Đề ngồi trong
thúng mơ kia nói mới ức chế! Bẩm quan lớn!)
Chon vi phụ mẫu chi dân”.
(Chữ thầy Đề)
Chỉ thị đâm ô chỉ loại!?
Như thầy tu phá giới,
Thời bất quá đánh đòn,
Còn thầy Lại phạm giam
Thật ắt là tội chết!
ĐỀ HẦU: (Lôm côm bò ra)
– Đầu đuôi tại mụ Hến,
Mưu mẹo bởi lão thầy tu.
Rày quan Huyện trớ trêu,
Mắc đàn bà quá tội.
Tôi cam chịu lỗi
Ai biết mà chê
Trong nha môn từ Huyện đến Đề
Còn tạo lệ không mời luôn thể
HUYỆN TRÌA: – Thầy Lại làm nên quá tệ,
Như nhà sư bắt chước cố trêu.
Mắc cỡ lêu lêu!
Lêu lêu mắc cðI
Rất nên quái gở,
Làm việc lăng nhăng!
Hễ miếng to bây quyết kiếm ăn,
Còn đồ vật bay làm sạch trụi.
Thầy Tu khá lui về cho khỏi
Tâm khoái lạc! Tâm khoái lạc! lòng vui sướng! Lòng vui sướng!
Thiện xử phân! Thiện xử phân! khéo phán xử! khéo phán xử!
Chơn vi phụ mẫu chỉ dân: là cha mẹ dân đích thực.
Chỉ thị dâm ô chỉ loại: đó tật là loại dâm ô.
Đề Lại mau cõng mỗ về nhà.
Dặn lòng thôi chớ ngứa nghề,
Giữ đạ đừng tham của lạ.
(Hạ)
THỊ HẾN: – Tâm khoái đã! Tâm khoái dã!”
Kế hoan nhiên! Kế hoan nhiên!?
Thế thầy tu hết tới ngõ nói điên,
Rày quan huyện hết đến nhà làm bậy.
Giữ tiết hạnh một đường cho toại
Nỗi nhon duyên đôi chữ không màng.
(Hạ)
Phân tích thêm tác phẩm ❤️️Xã Trưởng Mẹ Đốp ❤️️ Nội Dung, Giá Trị Nghệ Thuật
Tóm Tắt Huyện Trìa, Đê Hầu, Thầy Nghêu Mắc Lỡm Thị Hến
Để có thể nhanh chóng tiếp thu nội dung của đoạn trích thì bạn nên xem phần tóm tắt Huyện Trìa, Đê Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến mà Thohay.vn chia sẻ sau đây.
Ba người Nghêu, Đề Hầu, huyện Trìa đều muốn có được Thị Hến. Trời tối Thị Hến hẹn Nghều đến đến nhà, nhưng Nghêu không biết được Thị Hến mời luôn cả hai người kia đến. Nghêu đến đầu tiên, khi đang ngồi ngồi tán tán tỉnh Thị Hến thì Đề Hầu gõ cửa vào khiến Nghêu phải chui vào gầm phản trốn.
Khi Hầu Đề vào nhà chưa được ấm chỗ thì Huyện Trìa đến, Đề Hầu vội tìm chỗ trốn. Khi đủ cả ba người trong nhà, Thị Hến liền bày mưu để cho Nghêu từ gầm giường bò ra, Đề Hầu ngồi trong thúng chui ra. Tất cả cùng xuất đầu lộ diện và bị một phen bẽ mặt.
Về Tác Giả Huyện Trìa, Đê Hầu, Thầy Nghêu Mắc Lỡm Thị Hến
Về tác giả Huyện Trìa, Đê Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến, đoạn trích này được trích trong vở tuồng nổi tiếng “Nghêu, Sò, Ốc, Hến” nổi tiếng.
Tích tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến có nhiều dị bản, kể khác nhau ở một vài chỗ vì vậy chưa xác định được ai là tác giả gốc của tích. Tuy nhiên văn bản Nghêu, Sò, Ốc, Hến được lưu hành hiện nay là do Hoàng Châu Ký chỉnh lí (1957) gồm có tất cả ba hồi.
Đón đọc thêm 🌸Huyện Trìa Xử Án 🌸Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích
Về Tác Phẩm Huyện Trìa, Đê Hầu, Thầy Nghêu Mắc Lỡm Thị Hến
Về tác phẩm Huyện Trìa, Đê Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến, đây là một tác phẩm thuộc thể loại tuồng hài – một loại hình sân khấu truyền thống của dân tộc, ra đời từ xa xưa, do các tác giả dân gian sáng tác và được lưu truyền tới ngày nay.
Nội dung chính của đoạn trích này nói về ba nhân vật Huyện Trìa, Đê Hầu và thầy Nghêu. Bởi vì quan huyện và thầy Đề u mê trước vẻ đẹp của nàng nên đã tha bổng cho Thị Hến. Nghêu là một thầy tu phá giới, sa đọa cũng có ý với Hến. Hến cho mời cả ba đến nhà vào một buổi tối và đã dùng mưu, tại đây đã diễn ra một cuộc hội ngộ đầy bẽ bàng và nhục nhã.
Hoàn Cảnh Sáng Tác Huyện Trìa, Đê Hầu, Thầy Nghêu Mắc Lỡm Thị Hến
Hoàn cảnh sáng tác huyện Trìa, Đê Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến như thế nào? Như đã chia sẻ thì đoạn trích này được trích từ vở tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến, là lớp XIII của vở tuồng. Văn bản in trong Tổng tập Văn học Việt Nam trọn bộ 42 tập, tập 12, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, NXB Khoa học xã hội, năm 2000, trang 544 – 548
Chia sẻ thêm các mẫu phân tích❤️️ Thị Mầu Lên Chùa ❤️️Nội Dung, Giá Trị, Phân Tích
Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm Huyện Trìa, Đê Hầu, Thầy Nghêu Mắc Lỡm Thị Hến
Ý nghĩa nhan đề tác phẩm Huyện Trìa, Đê Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến đã nói rõ nội dung của đoạn trích, nhằm phê phán, châm biếm thói hư tật xấu, những dục vọng tầm thường của ba người đàn ông là Huyện Trìa, Đê Hầu, Thầy Nghêu.
Bố Cục Huyện Trìa, Đê Hầu, Thầy Nghêu Mắc Lỡm Thị Hến
Bố cục Huyện Trìa, Đê Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến chia làm 4 phần như sau:
- Phần 1: Từ đầu … Sẽ bày tình tự: Cuộc nói chuyện giữa Thị Hến và Sư Nghêu
- Phần 2: Tiếp theo …. đến thầy Đề mang khổi: Cuộc nói chuyện giữa Thị Hến và Đê Hầu
- Phần 3: Tiếp theo đến đánh đòn phát lạc: Cuộc nói chuyện giữa Thị Hến và Huyện Trìa
- Phần 4: Phần còn lại: Cả ba người bị mặt trước Thị Hến
Chia sẻ thêm tác phẩm 😍Tranh Đông Hồ 😍Nét Tinh Hoa Của Văn Hóa Dân Gian Việt Nam
Đọc Hiểu Tác Phẩm Huyện Trìa, Đê Hầu, Thầy Nghêu Mắc Lỡm Thị Hến
Cùng Thohay.vn dọc hiểu tác phẩm Huyện Trìa, Đê Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến sau đây nhé!
1. Đặc điểm của tuồng thể hiện qua văn bản
- Đề tài: Lấy đề tài trong cuộc sống đời thường. Ở đây chính là việc ba nhân vật Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu ham mê nữ sắc để rồi phải tự gánh hậu.
- Nhân vật: Các nhân vật chính thường có danh xưng nghề nghiệp Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu. Tính cách nhân vật không thay đổi xuyên suốt cả đoạn tuồng
- Lời thoại: Có cả đối thoại, độc thoại, bàng thoại.
2. Bối cảnh đoạn trích
- Thời gian: Buổi tối, trời tối tăm
- Không gian: ở nhà Thị Hến
- Hoàn cảnh câu chuyện: Nghêu đến gõ cửa vào nhà Thị Hến và bày tỏ niềm mến ngộ đã lâu. Trong lúc cả hai đang mặn nồng thì Đề Hầu đến, Thị Hến liền bảo Nghêu chui xuống phản để trốn trước. Đề Hầu vào, Thị Hến dùng lời lẽ ngon ngọt thể hiện tình cảm sâu đậm và sau đó hỏi về chuyện tu phá giới. Đang lúc đó, Huyện Trìa xuất hiện, Đề Hầu nhanh chóng tìm chỗ trốn. Huyện Trìa vào, bày tỏ tình cảm của mình với Thị Hến, cùng lúc đó Nghêu chui ra và Đề Hầu cũng bò ra. Ba người nhìn nhau vừa giận, vừa xấu hổ mà bỏ về.
3. Yếu tố tạo nên tiếng cười
- Tình huống tạo ra tiếng cười trong đoạn trích: bất ngờ, giàu kịch tính, khiến các đối tượng đáng cười tự “vạch áo cho người xem lưng”.
- Tiếng cười trong đoạn trích được thể hiện qua ngôn ngữ, hành động của các nhân vật
- Ngôn ngữ đậm sắc thái trào phúng trong lời nói của các nhân vật.
=> Ngôn ngữ và hành động đã giúp người đọc hình dung ra hình ảnh, bộ điệu của các nhân vật, cho thấy nỗi sợ hãi, cuống quýt, tức cười khi việc làm xấu bị “lột mặt nạ”, tạo ra sự đối lập giữa tình thế trước và sau khi bị phát giác.
=> Tác giả đã rất thành công trong việc dùng ngôn ngữ, hành động để tại nên tiếng cười.
Các chỉ dẫn sân khấu đều được để trong ngoặc đơn của văn bản tuồng:
- Các chỉ dẫn sân khấu in nghiêng, được trình bày trước lời thoại của nhân vật à người đọc biết diễn biến của các sự việc, chi tiết trong văn bản tuồng, giúp hình dung ra bối cảnh, sự xuất hiện của các nhân vật, hành động của nhân vật trên sân khấu tuồng.
- Các chỉ dẫn được đưa vào ngoặc đơn, không in nghiêng, trong lời của nhân vật à Người đọc biết đó là những tiếng đưa đẩy, tiếng đế thêm của nhân vật, dùng để lưu ý diễn viên lên giọng hoặc xuống giọng khi diễn. Do đó, giúp người đọc hình dung rõ hơn giọng điệu, cử chỉ, nét mặt… của nhân vật trên sân khấu.
4. Đặc điểm các nhân vật
- Tác giả dân gian đã thể hiện thái độ đồng tình với nhân vật Thị Hến, phê phán thói “tham của lạ” của Nghêu, Đề Hầu, Huyện Trìa
- Thị Hến là người phụ nữ khôn khéo, sắc sảo, thông minh, khiến cho những kẻ sa đọa, hám của lạ bị mắc mưu cứ thế mà tự vạch tội, tố cáo nhau, tự “hạ màn” kẻ nào về nhà nấy, vừa làm cho những kẻ nhòm ngó, ve vãn, gây khó dễ với mình bị một phen bẽ mặt, hết “làm bậy”, vừa giữ đươc “tiết hạnh một niềm cho toại”,…
=>Nhận xét:
- Thể hiện thái độ phê phán, châm biếm với các nhân vật qua các hành động, ngôn ngữ.
- Tác giả phơi bày cho ta thấy những thói hư tật xấu, bộ mặt tham lam giả dối, hèn nhát với những dục vọng tầm thường của tầng lớp cường hào ác bá phong kiến.
=> Tất cả đã được tác giả dân gian khắc họa đầy đủ diện mạo bức tranh làng quê phong kiến buổi suy tàn.
Giá Trị Tuồng Đồ Huyện Trìa, Đê Hầu, Thầy Nghêu Mắc Lỡm Thị Hến
Dưới đây là phần tổng kết giá trị tuồng đồ Huyện Trìa, Đê Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến cho bạn tham khảo.
Giá trị nội dung
- Thị Hến là đại diện cho hình ảnh người phụ nữ Việt Nam hiện đại, mưu trí, ứng biến mọi tình huống rất tinh tế và vô cùng khôn khéo.
- Thầy Để, Nghêu, Quan Huyện: tác giả phơi bày cho ta thấy những thói hư tật xấu, bộ mặt tham lam giả dối, hèn nhát với những dục vọng tầm thường của tầng lớp cường hào ác bá phong kiến.
- Đưa ra bài học cảnh tỉnh, răn đe đối với mọi người, không nên sa đọa vào cái đẹp mà đánh mất đi lý trí
Giá trị nghệ thuật
- Thể hiện đặc trưng của sân khấu chèo qua nhân vật, tình huống, lời thoại, cử chỉ
- Giọng điệu mỉa mai, châm biếm
- Ngôn từ thuần Việt, dung dị, dễ hiểu
Nhất định đừng bỏ lỡ tác phẩm ❤️️Nam Quốc Sơn Hà ❤️️ Nội Dung, Nghệ Thuật
Soạn Bài Huyện Trìa, Đê Hầu, Thầy Nghêu Mắc Lỡm Thị Hến
Tìm hiểu cách soạn bài Huyện Trìa, Đê Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến chi tiết nhất sau đây.
👉Câu 1 (trang 139 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Nêu các đặc điểm của tuồng đồ được thể hiện qua văn bản Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến.
Đáp án:
Giới nghiên cứu nói chung quan niệm tuồng đồ là loại tuồng hài (tuồng gây cười), được xây dựng trên cảm hứng hài kịch, thiên về châm biếm, đả kích, không bị ràng buộc vào những điển luật nghiêm ngặt
- Đề tài: Lấy đề tài trong cuộc sống đời thường. Ở đây chính là việc 3 nhân vật Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu ham mê nữ sắc để rồi phải tự gánh hậu quả
- Nhân vật : Các nhân vật chính thường có danh xưng nghề nghiệp Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu . Tính cách nhân vật không thay đổi. xuyên suốt cả đoạn tuồng
- Lời thoại : có cả đối thoại, độc thoại, bàng thoại.
👉Câu 2 (trang 139 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Phân tích nguyên nhân làm nảy sinh, phát triển mâu thuẫn giữa các nhân vật và cách giải quyết mâu thuẫn trong văn bản trên.
Đáp án:
- Nguyên nhân: cùng ham mê nhan sắc Thị Hến
- Các giải quyết: cả 3 nhân vật đều bị Thị Hến lừa vào tròng, tự mình phán xử, tự mình nhận tội
👉Câu 3 (trang 139 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Phân tích tính cách của nhân vật Thị Hến trong lớp tuồng XIX.
Đáp án:
- Một người phụ nữ góa chồng thông minh, ma mãnh: ”Kế hoan nhiên! Kế hoan nhiên”, lừa được cả 3 tên đàn ông vào bẫy và khiến chúng tự cúi mình nhận tội. Một người phụ nữ có bản lĩnh
- Thị Hến còn là một người biết gìn giữ phẩm hạnh :”Giữ tiết hạnh một đường cho toại/ Nỗi nhân duyên đôi chữ không màng”
👉Câu 4 (trang 139 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Bình luận về tiếng cười toát ra từ tình huống mắc lỡm của các nhân vật Thầy Nghêu, Đề Hầu, Huyện Trìa trong lớp tuồng này.
Đáp án:
Tiếng cười phát ra từ tình huống mắc lỡm của 3 người này là tiếng cười đầy mỉa mai, châm biếm. Chỉ vì thói đam mê nữ sắc mà tự mình nhận lấy một kết quả đáng xấu hổ. 3 người lần lượt tự nhìn thấy tội lỗi của mình trong khi cả 3 mang danh Thầy, Đề, Huyện Trìa. những người có danh, có quyền nhưng hành xử không hề phù hợp với thuần phong mỹ tục
👉Câu 5 (trang 139 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Ở một số dị bản khác, nhân vật Thầy Nghêu được thay bằng nhân vật lí tưởng (Lí Hà), vở tuồng kết thúc trong cảnh các bà vợ của Huyện Trìa, Đề Hầu, Lí Hà bất ngờ xuất hiện và sỉ vả các ông chồng dại gái. Sự khác biệt giữa các dị bản giúp bạn hiểu thêm gì về đặc điểm của tuồng đồ?
Đáp án:
Có thể thấy đặc điểm của tuồng đồ chính là phương thức truyền miệng. Mỗi vở tuồng lại được truyền miệng, tạo ra nhiều dị bản khác nhau, có thể thay đổi hoặc thêm thắt nhân vật nhưng nội dung cốt lõi vẫn được bảo toàn
👉Câu 6 (trang 139 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Có người cho rằng trong Nghêu, Sò, Ốc, Hến có đến hai cảnh xử án, cảnh thứ nhất do Huyện Trìa xét xử ở lớp XIII, cảnh thứ hai, do Thị Hến và Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu xử lẫn nhau. Cho biết ý kiến của bạn về nhận định trên.
Đáp án:
Đây là một nhận định khá đúng đắn. Trước đó là ta thấy được cảnh Huyện Trìa xét xử vụ án giữa Thị Hến và vợ chồng Trùm Sò. Mặc dù là xử án nhưng rốt cục cũng chả có phân minh tội lỗi rõ ràng, đúng đắn. tất cả là do cảm tính và ham muốn của Huyện Trìa. Còn đến lớp cuối, đây là đúng khoảnh khắc xét tội. Tự phạm nhận nhận ra lỗi của mình, tự mình chấp nhận hình phạt
Giáo Án Huyện Trìa, Đê Hầu, Thầy Nghêu Mắc Lỡm Thị Hến
Gợi ý cho các thầy cô giáo cách soạn giáo án Huyện Trìa, Đê Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến đơn giản.
I. MỤC TIÊU BÀI HỌC
1.Mức độ yêu cầu cần đạt: HS nắm được một số đặc điểm của tuồng dân gian thể hiện qua đoạn trích trên các phương diện: đề tài, tích truyện, nhân vật, lời thoại.
2. Năng lực
a. Năng lực chung: Năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tự quản bản thân, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác…
b. Năng lực riêng:
- Năng lực thu thập thông tin liên quan đến văn bản Huyện Trìa, Đề Hầu, thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến.
- Năng lực trình bày suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về văn bản Huyện Trìa, Đề Hầu, thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến.
- Năng lực hợp tác khi trao đổi, thảo luận về thành tựu nội dung, nghệ thuật, ý nghĩa văn bản;
- Năng lực phân tích, so sánh đặc điểm nghệ thuật của truyện với các văn bản khác có cùng chủ đề.
c. Phẩm chất: Giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc và ý thức vé trách nhiệm của công dân đối với đất nước.
II. THIẾT BỊ DẠY HỌC VÀ HỌC LIỆU
1.Chuẩn bị của giáo viên:
- Giáo án;
- Phiếu bài tập, trả lời câu hỏi;
- Bảng phân công nhiệm vụ cho học sinh hoạt động trên lớp;
- Bảng giao nhiệm vụ học tập cho học sinh ở nhà;
2. Chuẩn bị của HS: SGK, SBT Ngữ văn 10, soạn bài theo hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài, vở ghi.
III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
- Khởi động
- Mục tiêu: Thu hút sự chú ý, tạo hứng thú học tập; kết nối với những bài học trước đó; huy động tri thức nền và trải nghiệm của HS. Đồng thời qua đó, thực hiện nhiệm vụ học tập.
- Nội dung: Kiến thức, vốn sống của HS có liên quan đến bài học.
- Sản phẩm: Chia sẻ của HS về tiếng cười trong cuộc sống.
- Tổ chức thực hiện:
- Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ học tập
- GV đặt câu hỏi, huy động kiến thức đã có của HS: Em nghĩ gì về “tiếng cười” trong cuộc sống? Hãy lắng nghe bài hát Nụ cười(nhạc Nga) để cảm nhận ý nghĩa của nụ cười.
- Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ học tập
- HS nghe GV nêu yêu cầu và trả lời.
- Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động và thảo luận
- GV mời 2 – 3 HS chia sẻ trước lớp.
- Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ
- GV nhận xét, khen ngợi các HS đã tích cực trả lời câu hỏi
- Từ chia sẻ của HS, GV dẫn dắt vào bài học mới: Tiếng cười là bạn đường tháng năm không thể nào xoá nhoà . Tiếng cười không chỉ là người bạn của ỗii cá nhân, không chỉ là bạn đường của thời niên thiếu. Tiếng cười còn là bạn đường của con người nói chung trong suốt cuộc đời. Bài học hôm nay cùng tìm hiểu về trích đoạn tuồng hài Huyện Trìa, Đề Hầu, thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến sẽ mang đến cho chúng ta tiếng cười nhẹ nhàng, châm biếm.
HÌNH THÀNH KIẾN THỨC
- Mục tiêu: Giúp HS chuẩn bị các điều kiện cần thiết để đọc hiểu văn bản Huyện Trìa, Đề Hầu, thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến một cách hiệu quả.
- Nội dung: Tìm hiểu tri thức có liên quan về văn bản Huyện Trìa, Đề Hầu, thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến.
- Sản phẩm học tập: Câu trả lời của HS.
- Tổ chức thực hiện:
HOẠT ĐỘNG CỦA GV – HS | DỰ KIẾN SẢN PHẨM |
Nhiệm vụ 1: Tìm hiểu nghệ thuật tuồng Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ học tập – GV gọi một số HS nhắc lại đặc điểm của nghệ thuật tuồng đã học. – GV hướng dẫn HS một số lưu ý khi học văn bản tuồng. – GV gọi 1-2 HS trình bày phần chuẩn bị ở nhà tìm hiểu về xuất xứ, nội dung văn bản. Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ học tập – HS đọc bài, chú ý thực hiện những yêu cầu của GV. Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động và thảo luận – GV mời 2 HS trình bày trước lớp, yêu cầu cả lớp nghe Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ – GV đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ, chốt kiến thức. Nhiệm vụ 2: Đọc văn bản Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ học tập – GV gọi 2-3 HS đọc văn bản, có thể phân vai đọc theo nhân vật trong văn bản. – GV mời HS chia sẻ những nội dung tiếp nhận được theo các chỉ dẫn đọc ở bên phải văn bản. Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ học tập – HS đọc thông tin tác giả trong SGK, tóm tắt ý chính. Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động và thảo luận – GV mời 2 HS trình bày trước lớp, yêu cầu cả lớp nghe, nhận xét, bổ sung. Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ – GV đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ, chốt kiến thức. – GV bổ sung kiến thức về tuồng hài: Tuồng hài viết về các đề tài sinh hoạt, lấy tiếng cười để phản ánh hiện thực xã hội, có cốt truyện phong phú, gần gũi với cuộc sống của người bình dân xưa. | II. Tìm hiểu chung 1. Tác phẩm – Văn bản trích trong vở tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến do Hoàng Châu Kỳ chỉnh lí (1957) gồm có tất cả 3 hồi. – Nghêu, Sò, Ốc, Hến thuộc loại tuồng đồ (tuồng hài), châm biếm sâu sắc nhiều thói tật trong xã hội và lật tẩy bộ mặt xấu xa của một số kẻ thuộc bộ máy cai trị ở địa phương trong xã hội xưa. – Đây là tác phẩm tiêu biểu nhất trong di sản tuồng truyền thống và là vở tuồng đồ thuộc loại đặc sắc nhất. – Nội dung: Thị Hến đã hẹn Nghêu tối đến nhà, nhưng lại cho mời cả Huyện Trìa và Đề Hầu cùng đến. Thị Hến dùng mưu dụ cả ba cùng xuất đầu lộ diện và bị một phen bẽ mặt. 3. Đọc văn bản – Thể loại: Tuồng hài |
Đọc ngay tác phẩm HOT 🌿 Tản Viên Từ Phán Sự Lục 🌿Tìm Hiểu Nội Dung, Nghệ Thuật
Sơ Đồ Tư Duy Huyện Trìa, Đê Hầu, Thầy Nghêu Mắc Lỡm Thị Hến
Thay vì học vẹt thì các em học sinh có thể học bài thông qua các sơ đồ tư duy của tác phẩm Huyện Trìa, Đê Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến sau đây.
4 Mẫu Phân Tích Huyện Trìa, Đê Hầu, Thầy Nghêu Mắc Lỡm Thị Hến Hay Nhất
Chia sẻ ngay cho các em học sinh 4 mẫu phân tích Huyện Trìa, Đê Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến hay nhất dưới đây.
Mẫu Phân Tích Huyện Trìa, Đê Hầu, Thầy Nghêu Mắc Lỡm Thị Hến Hay Đặc Sắc – Mẫu 1
Trong nền nghệ thuật dân gian Việt Nam, tuồng đồ là một loại hình biểu diễn nghệ thuật đặc sắc. Mặc dù ra đời đã lâu nhưng vở tuồng “Nghêu, Sò, Ốc, Hến” cho đến nay vẫn giữ được vị trí quan trọng trong lòng khán giả Việt Nam. Thuộc lớp XIX, cũng là lớp cuối cùng của tác phẩm, đoạn trích “Huyện Trìa, Đề Hầu, Sư Nghêu mắc lỡm Thị Hến” đã phơi bày những thói hư tật xấu của một số hạng người trong xã hội xưa.
Trích đoạn “Huyện Trìa, Đề Hầu, Sư Nghêu mắc lỡm Thị Hến” xoay quanh việc Sư Nghêu, Đề Hầu, Huyện Trìa đến nhà Thị Hến vào ban đêm để tư tình với thị. Lợi dụng thói háo sắc, Thị Hến tính cách để ba tên chạm mặt, chấm dứt mọi sự quấy nhiễu, phiền hà.
Ngay từ ban đầu, qua lời nói của Thị Hến, ta có thể hình dung được bối cảnh câu chuyện và tình huống sắp diễn ra. Sư Nghêu là tên sãi trọc phá giới. Vì quá khó chịu, bực tức với Huyện Trìa, Sư Nghêu, Đề Hầu, Thị Hến suy nghĩ về việc chơi ba người một vố thật đau nhằm “giữ tiết hạnh một đường cho toại”.
Trời đã về đêm, đường sá nhá nhem, tên Sư Nghêu vẫn lần mò đến nhà Thị Hến. Đến cửa thì gọi với vào trong “Này! Này, Thím ơi! Mỗ đã sang. Mở cửa mình vào với!”. Thị Hến đon đả, mời nước tìm cách trì hoãn. Thầy Nghêu đam mê sắc dục, đi ngược lại đạo đức, phẩm hạnh của kẻ tu hành nên quyết “Kệ kinh chuông mõ trả cho cho chùa”, khuyên lơn Thị Hến không nên phụ tấm lòng của hắn mà giao duyên kết đôi.
Tà dâm, háo sắc là điều cấm kị đối với người tu hành. Vậy mà thầy Nghêu lại bất chấp lí lẽ, phá giới để đi theo quả phụ. Vừa mới nói dứt câu thì có tiếng Đề Hầu kêu cửa, thầy Nghêu lộ bộ mặt hèn nhát. Sợ mọi việc bị bại lộ, hắn bảo Thị Hến chỉ cho mình chỗ trốn. Thị Hến cũng chẳng ngần ngại chỉ “Dưới phản ngựa thầy mau xuống đó”, rồi hứa hẹn “Người về đã, sẽ vầy hai mặt”. Ngay lập tức, hắn chui xuống gầm phản.
Tên Đề Hầu vừa vào nhà, hắn liền buông lời trách móc:
“Ơn mỗ cứu cho bữa trước
Nay nường còn nhớ chưa quên?
Sao đã cùng ông Huyện kết duyên,
Mà vội phụ thầy Đề tình ngãi, (hử?)”
Đề Hầu nhắc cho Thị Hến nhớ lại việc mình đã giúp thị trong buổi xử án lần trước. Rõ là Thị Hến chưa quên ân cũ, vậy mà đã nhanh chóng kết duyên với ông Huyện, phụ lòng của thầy Đề. Thị Hến khôn khéo đáp lại, lấy cớ Huyện Trìa ra lệnh nên buộc lòng nghe theo. Tên Đề Hầu mặc dù đã có vợ nhưng vẫn trơ trẽn tán tỉnh người phụ nữ khác. Ngay cả khi người ta không ưng thuận thì cũng quyết liều “Đó không thương đây cũng quyết liều”.
Hắn còn không quên dặn Thị Hến phải nên giữ dạ, chung thủy một lòng. Thị Hến nhanh trí, đánh lạc hướng sự tập trung của Đề Hầu bằng cách dỗ ngọt “Ái ân việc còn thong thả,/ Rượu trà xin hãy vui chơi”. Đồng thời, không quên tìm cách châm chọc tên Sư Nghêu nằm dưới phản “Tôi xin hỏi thiệt, thầy khá tỏ bày! Thầy hằng xem luật lệ xưa nay,/ Tu (mà) phá giới tội chi khinh trọng, (thưa thầy?)”.
Mặc dù làm người trợ giúp Huyện Trìa công việc chốn quan đường nhưng hắn lại đưa ra lời xằng bậy “Trong luật lệ rất to/ Hễ phá giới túc hành trảm quyết!”. Chắc hẳn nghe tới đây, tên Sư Nghêu phải toát mồ hôi hột.
Khác hẳn với vẻ cứng rắn lúc hắn tuyên bố xử trảm người tu hành phá giới, lúc nghe tiếng Huyện Trìa ngoài cửa, hắn trở nên thất kinh “Văn ngôn sắc biến! Sắc biến!/ Thính thuyết hồn kinh! Hồn kinh!”. Vì quá sợ việc xấu bị phát hiện, hắn liền chạy đi trốn.
Mang tiếng làm quan lớn nhưng tên Huyện Trìa chẳng khác Đề Hầu với Sư Nghêu là bao. Vừa vào nhà Thị Hến, hắn đã trình bày lí do bản thân tới muộn. Huyện Trìa lấy cớ việc thuế má, án từ lại cộng thêm đường sá tối tắm để lập liếm cho việc hắn bị mụ Huyện giữ ở nhà. Sau đôi lời tỏ bày, Thị Hến lại dùng cách cũ với tên Huyện Trìa. Thị ta hỏi “Rầy có chú thầy tu rất chạ/ Hay đến nhà mà ve bà góa/ Đã xuất gia phá giới làm vơ,/ Thời luật pháp xử chi cho rõ?”.
Không giống với lời phán của Đề Hầu, bản án đối với kẻ tu hành phá giới qua lời nói của Huyện Trìa lại nhẹ hơn rất nhiều – đánh đòn trị tội bằng roi. Điều này khiến thầy Nghêu mừng rỡ bò ra khỏi gầm giường. Hắn trưng bộ mặt giả dối, nịnh nọt Huyện Trìa. Hắn cho rằng Huyện Trìa là cha mẹ dân đích thực còn tên Đề Hầu là kẻ dâm ô, chuyên nói lời xằng bậy.
Đề Hầu nghe đến đây biết mình đã mắc mưu Thị Hến, lồm cồm bò ra ngoài nhận lỗi. Cuối cùng, cả ba chạm mặt nhau, xấu hổ bẽ bàng khi bị mụ đàn bà chơi xỏ. Huyện Trìa lúc này phân bua chẳng khác gì đứng trước chốn công đường, phán quyết ai về nhà nấy, dặn lòng từ nay về sau không “tham của lạ”.
Kết cục, cả ba người Huyện Trìa, Đề Hầu, Sư Nghêu phải chịu thua trước trí thông minh và sự sắc sảo của Thị Hến. Có thể thấy, Huyện Trìa, Đề Hầu, Sư Nghêu dù giữ vai trò, vị trí quan trọng trong xã hội nhưng chúng đều có chung bản chất xấu xa, háo sắc.
Với các tình tiết gây cười cùng ngôn từ giản dị, gần gũi với đời sống sinh hoạt của nhân dân, tác giả dân gian đã đả kích, châm biếm thói hư tật xấu của một số hạng người trong xã hội xưa. Đồng thời, đề cao vẻ đẹp phẩm chất của người phụ nữ.
Thông qua vở tuồng “Nghêu, Sò, Ốc, Hến”, ta có thêm hiểu biết về đời sống của nhân dân trong xã hội xưa. Những tiếng cười sâu cay mà đoạn trích “Huyện Trìa, Đề Hầu, Sư Nghêu mắc lỡm Thị Hến” mang lại chắc chắn sẽ trở thành “món ăn tinh thần” không thể thiếu đối với mỗi người dân Việt Nam.
Mẫu Phân Tích Huyện Trìa, Đê Hầu, Thầy Nghêu Mắc Lỡm Thị Hến Hay – Mẫu 2
Đoạn trích Huyện Trìa, Đê Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến Thị Hến đã khắc hoạ thành công nhân vật Thị Hến – một người phụ nữ góa chồng, thông minh và nhiều mưu mẹo, bản lĩnh. Khi biết cả ba người đàn ông Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu đều mê mẩn minh, cô đã tìm cách lừa cả ba ông và khiến cho ba ông tự xử lỗi lầm của mình. (Kế hoan nhiên! Kế hoan nhiên).
Các tác giả dân gian đã thể hiện thái độ phê phán, châm biếm với các nhân vật qua các hành động, ngôn ngữ. Tác giả phơi bày cho ta thấy những thói hư tật xấu, bộ mặt tham lam giả dối, hèn nhát với những dục vọng tầm thường của tầng lớp cường hào ác bá phong kiến
Còn đối với Hến – người đàn bà góa ta lại thấy trong cô có sự khao khát được hạnh phúc, được bảo vệ, Hến trẻ trung, thông minh có, xinh đẹp nhưng trong mắt mọi người nàng lại lẳng lơ, điêu ngoa. Tất cả đã được tác giả dân gian khắc họa đầy đủ diện mạo bức tranh làng quê phong kiến buổi suy tàn.
Yếu tố gây cười của tác phẩm được thể hiện ở cách xây dựng tình huống truyện độc đáo và phản ứng của mỗi nhân vật. Từ Nghêu – một thầy tu mù, đến nhà Thị Hến nhằm tán tỉnh thị, không ngờ gặp phải Đề Hầu cũng đến nhà Thị Hến. Nghêu đành chui xuống gậm phản để trốn. Rồi Huyện Trìa cùng đến khiến Đề Hầu phải trốn.
Khi nghe Huyện Trìa nói sẽ trừng phạt những kẻ tu mà phá giới, Nghêu chui ra và dùng lời nói tốt đẹp để lấy lòng quan lớn, tránh khỏi bị phạt. Rồi Đề Hầu cũng xuất hiện, ba người nhìn nhau mà vừa thấy tức giận, vừa thấy xấu hổ.
Em ấn tượng nhất với chi tiết cuối cùng của Thị Hến sau khi Nghêu, Đề Hầu, Huyện Trìa tức giận rời khỏi nhà Thị Hến. Bởi vì hình ảnh này cho ta thấy được trí tuệ của người phụ nữ Việt Nam, cả ba người đều là người có chức, có quyền mà lại bị mắc mưu của một người đàn bà góa, người phụ nữ chân yếu tay mềm. Mưu kế đã thành công vang dội, còn dạy dỗ cho đám người đấy hết thói làm càn như “tới ngõ nói điêu”, “đến nhà làm bậy”,..
Tiếng cười toát ra từ tình huống mắc lỡm của ba nhân vật Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu là ba tiếng cười châm biếm, mỉa mai khi vì quá ham mê sắc đẹp mà tự mình làm hại mình. Tiếng cười ấy còn là sự chế giễu khi ba người chức cao vọng trọng, đứng đầu một huyện lại có những hành vi vi phạm thuần phong mĩ tục.
Bời vì đây là vở tuồng hài dân gian, tiếng cười trong vở tuồng này có ý nghĩa vô cùng to lớn, không chỉ giúp ta sảng khoái tinh thần sau cả ngày làm việc mệt nhọc mà nó còn là những bài học thâm thúy để ta đáng suy ngẫm rất nhiều.
Tiếng cười ở đoạn trích Mắc mưu Thị Hến vẫn mang đậm ý nghĩa trong cuộc sống ngày nay. Đó là tiếng cười trước một nét đẹp truyền thống văn hóa dân gian của dân tộc. Một vở tuồng mang hơi thở của sự cổ kính, xa xưa, khiến người nghe không chỉ cười sảng khoái mà còn mang trong mình những suy nghĩ về một thời kì trong xã hội phong kiến thối nát khi con người trở nên ngày càng sa đọa, đồi bại.
Mẫu Phân Tích Huyện Trìa, Đê Hầu, Thầy Nghêu Mắc Lỡm Thị Hến Chọn Lọc – Mẫu 3
Khi nhắc tới các vở tuồng hài nổi tiếng, chúng ta không thể bỏ qua “Nghêu, Sò, Ốc, Hến”. Trong đó, trích đoạn “Huyện Trìa, Đề Hầu, Sư Nghêu mắc lỡm Thị Hến” thuộc lớp XIX của vở tuồng đã mang đến những tiếng cười sâu cay, trào phúng về hiện thực xã hội xưa. Thông qua nhân vật Thị Hến, tác giả dân gian cũng khéo léo bày tỏ thái độ đề cao, trân trọng người phụ nữ sắc sảo, thông minh.
Ngay ở phần mở đầu đoạn trích, người đọc đã có hình dung rõ nét về hoàn cảnh nhân vật Thị Hến:
“Dốc thờ chồng suối bạc cho toàn,
Lại bị quỷ nhà chay tới phá.”
Có thể thấy, Thị Hến sống trong cảnh “chăn đơn gối chiếc”. Thị ở vậy một mình và dốc lòng thờ cúng chồng nơi suối bạc. Thế nhưng, cuộc sống lại chẳng hề bình yên vì có những kẻ bỉ ổi, suy đồi nhân cách tìm đến quấy rầy. Sau khi được tha bổng ở huyện đường, Thị Hến lại bị Sư Nghêu mò tới tán tỉnh. Nhân dịp này, Thị mời cả hai tên chức dịch mê gái là Đề Hầu và Huyện Trìa đến nhà. Bằng sự mưu trí của mình, Thị đã khiến ba kẻ ham sắc bẽ mặt.
Trước hết, Thị Hến vô cùng thông minh, nhanh trí khi tạo ra “cuộc hội ngộ” giữa Sư Nghêu, Đề Hầu và Huyện Trìa. Cuộc hội ngộ này chính là âm mưu của Thị – khiến ba nhân vật sập bẫy, chịu một phen nhục nhã ê chề.
Trong lúc trò chuyện cùng Sư Nghêu, nghe thấy tiếng gọi ngoài cửa, dẫu đã biết là Đề Hầu nhưng Thị Hến vẫn tỏ ra ngạc nhiên “(Ủa) Tiếng ai kêu chi lạ? Hay thầy Lại tới đây”. Thậm chí, Thị còn khéo léo rủ Sư Nghêu ra chào hỏi để kẻo mắc tội với thầy Đề. Việc này càng làm Sư Nghêu thêm lo lắng mà hỏi chỗ trốn. Đây cũng chính là điều mà Thị Hến dự tính.
Vì thế, dựa theo âm mưu ban đầu, Thị đã mách nước cho hắn chui xuống gầm phản “Dưới phản ngựa thầy mau xuống đó”. Thực chất, Thị Hến muốn dùng cách bao che này để tiến hành những hành động tiếp theo.
Đón Đề Hầu vào nhà, Thị dùng lời nói hết sức ngon ngọt “Đành đôi ta là cái duyên hằng/ (Thế mà) Không nghe đó, sao cho nên việc, (thưa thầy)”. Thị đon đả chào hỏi thầy Đề như một vị khách quý. Trong khi Đề Hầu vội vã đề cập tới chuyện ái ân, giao duyên thì Thị lại tỏ ra hết sức bình tĩnh “Ái ân việc còn thong thả,/ Rượu trà xin hãy vui chơi”. Tiếp đến, Thị còn ẩn ý hỏi thăm về tội phá giới của thầy tu “Tu (mà) phá giới tội chi trọng khinh (thưa thầy?)”.
Thấy người đẹp thắc mắc , Đề Hầu không ngại trình bày “Trong luật lệ rất to,/ Hễ phá giới tức hành trảm quyết!”. Tưởng như đây chỉ là cuộc hội thoại đơn thuần kẻ hỏi người đáp nhưng chính nó đã mở ra hiềm khích, mâu thuẫn giữa hai nhân vật Sư Nghêu và thầy Đề. Như vậy, một phần kế hoạch, mưu mô của Thị đã diễn ra chính xác, thuận lợi.
Sự thông minh, khôn khéo ở Thị Hến tiếp tục được khắc họa trong phân cảnh Huyện Trìa đến nhà. Cũng giống như Đề Hầu, Thị dùng lời lẽ nhẹ nhàng để mời chào tên quan tham lam, dối trá “Rượu trà hãy xin mời,/ Ái ân rồi có đó.”. Thị vờ như chưa biết mà hỏi về tội của thầy tu phá giới. Để rồi, câu trả lời đến từ Huyện Trìa đã thành công khiến thầy Nghêu sợ hãi chui ra khỏi gầm giường.
Với bản chất hèn nhát, ham sống sợ chết ăn sâu trong máu, gã thầy tu sa đọa sẵn sàng tố cáo tội trạng của Đề Hầu “…chớ thầy Đề ngồi trong thúng mơ nói mới ức chớ!”, “(Chứ thầy Đề)/ Chỉ thị dâm ô chi loại!”. Giờ đây, âm mưu mà Thị Hến bày ra đã thành công. Thầy Đề phải lồm cồm bò ra, ba tên hám sắc cùng xuất đầu lộ diện.
Sau khi khiến thầy tu phá giới và hai tên chức dịch đồi bại nhân cách – Huyện Trìa, Đề Hầu mắc mưu và bẽ mặt ê chề, Thị Hến vô cùng vui mừng. Thị cảm thấy hạnh phúc, sung sướng vì mưu kế đã thành “Kế hoan nhiên! Kế hoan nhiên!”. Từ đây, không còn ai đến nhà Thị quấy rối, làm bậy nữa “Thế thầy tu hết tới ngõ nói điên/ Rày quan huyện hết đến nhà làm bậy”. Sau tất cả, Thị vẫn giữ vững tiết hạnh, phẩm chất đáng quý của người phụ nữ.
Bằng việc xây dựng nhân vật thông qua lời nói và hành động, tác giả dân gian đã khắc họa rõ nét nhân vật Thị Hến – một người thông minh, sắc sảo. Từ đó, bày tỏ thái độ đề cao, trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Ngoài ra, tác giả dân gian cũng phê phán, mỉa mai hiện thực xã hội đương thời với sự suy đồi, biến chất về nhân cách, đạo đức.
Có thể nói, Thị Hến trong đoạn trích “Huyện Trìa, Đề Hầu, Sư Nghêu mắc lỡm Thị Hến” quả là người khôn khéo, sáng suốt. Đứng trước cái dung tục, tầm thường, Thị đã dũng cảm vạch trần, khiến bọn hám sắc thêm nhục nhã, bẽ mặt.
Mẫu Phân Tích Huyện Trìa, Đê Hầu, Thầy Nghêu Mắc Lỡm Thị Hến Ngắn Hay – Mẫu 4
Tuồng là một bộ môn nghệ thuật sân khấu điển hình, tập hợp đủ các yếu tố từ văn học cho tới âm nhạc, múa hát,… cùng kết hợp. Trong số đó, vở tuồng Mắc mưu Thị Hến trong tác phẩm nổi tiếng “Ngao, Sò, Ốc, Hến” đã khiến người xem vừa cảm nhận được những nét đặc sắc kết hợp, vừa có cả những chi tiết gây cười thú vị. Và đoạn trích Huyện Trìa, Đê Hầu, Thầy Nghêu Mắc Lỡm Thị Hến là một đoạn trích được trích trong vở tuồng nổi tiếng “Ngao, Sò, Ốc, Hến” đó.
Thị Hến là một người phụ nữ xinh đẹp nhưng cũng không kém phần thông minh, tài hoa. Sau khi biết được vị quan lớn có ý với mình, nàng đã bày cách để họ gặp nhau, gây nên tình cảnh bẽ mặt của những kẻ chỉ biết đến sắc đẹp.
Thông qua tình huống này, tác giả đã khéo léo thể hiện sự ngợi ca với người phụ nữ đa mưu túc trí, cũng ngầm phê phán hành động của Thầy Đề, thầy Nghêu, Quan Huyện – đại diện cho những thói hư tật xấu, tham lam và đam mê sắc đẹp trong xã hội xưa. Đây cũng là yếu tố tạo nên những tiếng cười cho khán giả trong vở tuồng.
Đoạn trích chủ yếu nói về ba nhân vật Thầy Đề, Nghêu, Quan Huyện. Nghêu là một thầy bói mù, nổi lòng tham trước sắc đẹp của Thị Hến nên đến nhà để tán tỉnh nàng. Tuy nhiên, vừa đến cửa thì cũng bắt gặp vị Đế Hầu đến gõ cửa nhà Thị Hến. Bấy giờ, lão mới sốt ruột và lo lắng kiếm chỗ để trốn, và chui luôn xuống gầm phản nhà Hến. Qua hành động này, ta thấy được nhân vật Nghêu là một kẻ không chỉ tham sắc mà còn là một kẻ nhát gan, nhút nhát.
Đến khi quan huyện thừa tới, nói rằng “Phàm tu hành mà đã xuất gia/ Có phá giới đánh đòn phát lạc” thì hắn ta vội chui từ gầm phản ra để khen ngợi, lấy lòng. Khác với vẻ sợ sệt trốn chui trốn lủi khi Đế Hầu tới, với Huyện Trìa Nghêu thể hiện ý tứ lấy lòng rõ ràng.
Ba người họ đều là những người có tiếng nói, có địa vị trong huyện nhưng lòng lại mang ý xấu. Đến khi ba người gặp nhau, ai nấy đều bẽ mặt, xấu hổ khi gặp những người khác.
Từ những hình ảnh đến ngôn ngữ, lời ví von, tác giả đã để cho ba kẻ không ra gì nói đạo lý với nhau. Từ đây, tác giả tạo được một tính huống truyện thú vị gây nên tiếng cười cho người nghe.
Mời bạn tham khảo ✨ Thần Trụ Trời ✨ Nội Dung, Giá Trị Nghệ Thuật