Huyện Trìa Xử Án ❤️️ Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích ✅ Tổng Hợp Các Sơ Đồ Tư Duy, Chia Sẻ Cách Đọc Hiểu, Tóm Tắt Tác Phẩm.
NỘI DUNG CHÍNH
Nội Dung Trích Đoạn Huyện Trìa Xử Án
Đoạn trích kể lại một cảnh xử án ở huyện Đường, xoay quanh vụ án liên quan đến vụ kiện tụng giữa Thị Hến và vợ chồng Trùm Sò. Dưới đây là Nội Dung Trích Đoạn Huyện Trìa Xử Án, mời bạn cùng thưởng thức.
Trích Đoạn Huyện Trìa Xử Án
HUYỆN TRÌA: – Tri huyện Trìa là mỗ
Nội hạt tiếng khen khen ta:
Cầm đường ngày tháng vào ra,
Hoa nguyệt hôm mai thong thả.
Nhân rày nhàn hạ,
Rảnh việc bình dân;
Truyền chước bỉ chuý quăng?
Ngã hứng tình ngọc trắng”.
Ngẫm chuyện nhà quá ngán,
Giận mụ huyện hay ghen.
Ngồi lại đó tấc lòng buồn bực.
Cao tài tật túc”,
Tiên đắc hữu tiền”
Dân khen mỗ hữu nhân
Người đồn ta trị lí.
Luật không hay (thời ta) xử theo trí,
Thẳng tay một mực ăn tiền.
Đơn từ già, trẻ, lạ quen,
Nhắm mắt đánh đòn phát lạc .°
Chỗ nào nhắm tết tiền tốt bạc
Lễ phù lưu” hết mấy cũng lo,
Quan ở trên dù cú, hay cò
Đồ hành khiển!” nhiều mâm cũng đăng.
ĐỂ HẦU: (- Dạ, thưa quan bọn này)
“Trộm của Trùm Sò đêm trước
Vu cho Thị Hến hôm qua
Bắt tới chốn huyện nha,
Xin ngài ra xử đoán.
Vả chúng nó thiệt đoàn du đãng,
Nhà Trùm Sò nên đấng phú gia:
Tôi vu tang luật nọ khó tha
Nghiệm tình trạng lẽ không nên thứ.
HUYỆN TRÌA: – Đã biết mặt lão Đề hay nói bậy
Còn giơ hàm chú Lại nói cò cưa
Lưng cù chầy hình khéo bơ sờ,
Mồỗm xà cáng vinh râu ngoe ngoét!.
Thôi, đây đã biết,
Lựa đó phải thưa.
Đồi cả lũ vào đây
Đăng cho ta lược vấn”.
Lại nói – Nhìn đen trương lấn thần
Xem tình trạng lăng nhăng,
Việc lão Trùm khá nói, khá rằng
Nỗi Thị Hến bày ngay, bày thiệt, (nào!).
THỊ HẾN: – Nỗi ức oan khôn xiết,
Lời ngay thẳng thưa qua,
Việc làm ăn ngày tháng vào ra,
Phận goá bụa hôm mai côi cút.
Gẫm gia đình khó thốt
Nhờ quan lớn tỏ lòng.
Mua của chiên? việc ấy vến không
Vì ai giận nên khai rằng có.
TRÙM SÒ: (- Dạ dạ!)
Mồng một mất đồ hôm nọ,
Mông hai nhìn thấy đăng đây.
Đồ đạc nhìn đã không sai,
Mua chác đó xin ngài tra hỏi.
HUYỆN TRÌA: – Ngồi lâu thời mỏi,
Nó nói kéo đài,
Lão Đề lấy tờ khai,
Đặng ta toan làm án.
Cứ mực thẳng, cung cho ngay, bày cho thiệt
Kẻo hai đàng cua nói có, vọ nói không.
Để Thị Hến khai trước mới xong
Rồi lão Trùm cung sau thì rõ.
Này Thị Hến!
Việc phải, không, vốn ta chưa tó,
Thấy đơn côi chút chạnh lòng thương
(Em) Phải năng lên hầu gần quan
(Thời) Ai dám nói vu oan giao hoa.
Đầu thời đương lạ,
Lâu ắt phải quen.
Hãy xuống lên hầu hạ cho liên,
Phương lợi hại rồi ta sẽ tính.
THỊ HẾN: (- Dạ!)
Trông ơn quan lớn
Đoái xét phận hèn.
Phụ mẫu dân quyền quý ấy bề trên,
Tỉ tiện nữ đơn cô là phận dưới.
Như việc ấy nhờ ơn trên phân giải,
Thời duyên kia đành phận thiếp vương mang.
Xin ngài hãy thương,
Vốn tôi ưng dạ.
HUYỆN TRÌA: – Gẫm đó dây duyên nợ
Thật trời đất đẩy đưa,
Căn duyên khéo khéo tình cờ
(Mà) Nhơn ngãi khăng khăng vương vấn.
Khuyên mụ đừng trách phận,
Đây ta đã đành lòng.
Cứ đây mà khai báo cho xong,
Rồi ta sẽ xử phần thuận lí.
ĐỂ HẦU: (riêng) – Mụ đà nên tệ
Ông Huyện cũng xăng,
Phen này ông bày mặt thú lang
Huếch! với mục cắt râu trụi lủi.
Lại nói – Đòi Thị Hiến vào đây ta hói,
Nào tờ khai đem nạp tại đây.
Lão Trùm Sò ăn nói trầm trây,
Thị Hến oan, tình hình có rõ.
Tờ khai đó, đây đành có đó,
Lúc ra đây, rồi lại xủ đây.
(Hạ)
HUYỆN TRÌA: – Thế lão Lại đã bày,
Làm tờ khai cho nó,
Nguyên tang không phải đó,
Tình trạng nghiệm là phi.
Ý phú gia hống hách,
Hiếp quả phụ thân cô, € Lời phán quyết này của
Cứ lấy đúng pháp công, Huyện Trìa có dựa trên sự thật
“–
và có mang lại kết cục công
Tội cả vợ lẫn chồng, Đ bằng cho các bên: Vợ chồng
Trùm Sò và Thị Hến?
(Thôi) Ta thứ? liền ông, liền mụ.
VỢ CHỒNG TRÙM SÒ: – Trời cao kêu chẳng thấu,
Quan lớn dạy phải vâng,
Cúi đầu tạ dưới sân,
Xin lui về bổn quán.
(Hạ)
THỊ HẾN: – Trông ơn quan lớn
Cúi xét phận hèn
Ơn huyện đàng biết lấy chi đền?
Hồi gia nội sẽ toan báo đáp.
Tìm hiểu thêm tác phẩm 😍Tranh Đông Hồ 😍Nét Tinh Hoa Của Văn Hóa Dân Gian Việt Nam
Tóm Tắt Huyện Trìa Xử Án
Để giúp bạn đọc có thể nhanh chóng nắm bắt nội dung của vở tuồng thì Thohay.vn xin chia sẻ bản Tóm Tắt Huyện Trìa Xử Án sau đây.
Vợ chồng trùm sò bị mất đồ quý, nghi ngờ thị Hến ăn cắp đồ của gia đình mình nên quyết định kiện thị Hến ra quan trên xử phạt. Quan trên ở đây là huyện Trìa, một tên quan ham mê tiền bạc đút lót và sắc đẹp. Không ngờ, huyện Trìa lại say mê trước vẻ đẹp của thị Hến nên phán xử cho nàng vô tội cho dù sự việc chưa được nghiên cứu kĩ. Vợ chồng Trùm Sò đành phải ra về trong cay cú.
Về Tác Giả Huyện Trìa Xử Án
Về Tác Giả Huyện Trìa Xử Án, đây là một trích đoạn được trích từ vở tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến. Bởi vì có nhiều dị bản nên cho đến nay vẫn chưa xác định ai là tác giả chính thức của vở tuồng này. Tuy nhiên theo ghi chép thì có một phiên bản Nghêu, Sò, Ốc, Hến do Hoàng Châu Ký chỉnh lý (1957) gồm có tất cả ba hồi.
Chia sẻ các mẫu phân tích bài ❤️️Nam Quốc Sơn Hà ❤️️ Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích
Về Tác Phẩm Huyện Trìa Xử Án
Về Tác Phẩm Huyện Trìa Xử Án, đây là văn bản thuộc thể loại tuồng – một loại hình sân khấu truyền thống của dân tộc, ra đời từ xa xưa, do các tác giả dân gian sáng tác và được lưu truyền tới ngày nay.
Đoạn trích này kể lại một cảnh làm việc nơi huyện đường, xoay quanh cuộc kiện tụng liên quan đến vụ kiện giữa Thị Hến và vợ chồng Trùm Sò. Vợ chồng trùm sò kiện Thị Hến lên quan trên vì nghi ngờ ăn cắp đồ của gia đình mình. Tuy nhiên Huyện Trìa quan xử án lại là tên quan mê tiền bạc, sắc đẹp, nên Thị Hến đã thắng kiện.
Xuất Xứ Và Hoàn Cảnh Sáng Tác Huyện Trìa Xử Án
Xuất Xứ Và Hoàn Cảnh Sáng Tác Huyện Trìa Xử Án như thế nào? Như chúng tôi vừa chia sẻ thì văn bản này được trích từ vở tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến, là lớp XIII của vở tuồng, nhan đề do người biên soạn đặt. Văn bản in trong Tổng tập Văn học Việt Nam, tập 12, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, NXB Khoa học xã hội, năm 2000, trang 534 – 538.
Đừng bỏ qua bài phân tích tác phẩm🌷 Lính Đảo Hát Tình Ca Trên Đảo 🌷 Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích
Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm Huyện Trìa Xử Án
Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm Huyện Trìa Xử Án nói về nhân vật Huyện Trìa là một tên quan huyện ham mê tiền bạc và sắc đẹp. Hắn bị mê mệt trước nhan sắc của Thị Hến nên đã xử cho thị được tha bổng. Nhan đề này dùng để châm biếm sự tham ô, đam mê tửu sắc của những tên quan thối nát ngày xưa.
Bố Cục Tác Phẩm Huyện Trìa Xử Án
Bố Cục Tác Phẩm Huyện Trìa Xử Án được chia làm 2 phần:
- Phần 1: Từ đầu cho đến “bày thiệt nào”: giới thiệu nhân vật huyện Trìa và tính cách của hắn
- Phần 2: Còn lại: Cuộc xử án của Huyện Trìa với mâu thuẫn giữa Thị Hến và Trùm sò
Chia sẻ cho bạn đọc tác phẩm🍀Đăm Săn Đi Chinh Phục Nữ Thần Mặt Trời🍀Nội dung, nghệ thuật
Đọc Hiểu Tác Phẩm Huyện Trìa Xử Án
Các em học sinh có thể tham khảo phần Đọc Hiểu Tác Phẩm Huyện Trìa Xử Án sau đây để có thể nắm vững được ý nghĩa mà tác phẩm muốn truyền tải.
1. Nhân vật huyện Trìa
– “Tri huyện Trìa là mỗ
Nội hạt tiếng khen khen ra
Cầm Đường ngày tháng vào ra
Hoa nguyệt hôm nay thông thả”
=> Giới thiếu nhân vật huyện Trìa giữ chứ quan nội hạt. Hắn ta có thú vui hoa nguyệt, giữ chức vụ phán xử nhưng ngày ngày rảnh rỗi, không có việc gì làm.
– “Hễ đi mỗ cả tiếng run en
Ngồi lại đó tấc lòng buồn bực”
=> Run en là lớn tiếng làm người ta sợ. Nhân vật huyện Trìa thích ra oai, thích dọa nạt những người dân thường vô tội. Ngồi một chỗ cũng khiến lão buồn bực nên hay đi đe dọa người khác.
– “Quan ở trên dù cú hay cò
Đồ hành khiển nhiều mâm cũng đặng”
=> Hành khiển là đồ đút lót cho các quan. Ngã quan huyện Trìa này còn có thói quen nhận đồ đút lót của người dân bao nhiêu cũng được.
– “Em phải năng lên hầu quan
Thời ai dám nói vu họa”
=> Cách nhân vật huyện Trìa nói chuyện với Thị Hến thể hiện rõ bản chất tà dâm, đam mê sắc đẹp của Thị Hến nên đã nhắc khéo Thị Hến lên hầu mình ắt sự việc mới được hoàn thành
=> Tri huyện là một tay ham mê sắc ham mê hư danh, nên đã xử kiện cho Thị Hến thắng vụ kiện cũng chỉ vì nhan sắc của nàng.
2. Nhân vật Thị Hến
– Mặc dù không miêu tả ngoại hình nhân vật Thị Hến nhưng quá cách tác giả để huyện Trìa si mê nàng có thể cảm nhận vẻ đẹp của nhân vật này.
3. Kết quả phiên tòa
- Thị Hến được tha bổng trong khi Trùm Sò không lấy lại được của cải đã mất.
- Huyện Trìa xử án dựa vào tham mê, dục vọng với Thị Hến còn Trùm Sò chỉ biết than trời trong sự bất lực tuân theo phán quyết.
=>Một kết quả không hề có sự công bằng, liêm chính mà chỉ có ham mê, cảm tính, tự ý quyết định
4. Tiếng cười dân gian qua vở tuồng
Qua cách miêu tả sự việc, hành động của nhân vật và qua ngôn ngữ kịch có thể thấy tác giả dân gian thể hiện thái độ:
- Phơi bày bộ mặt xấu xa, thối nát của những kẻ quan lại tham ô, nhũng nhiễu dân chúng và đam mê tửu sắc.
- Cười cợt, phê phán phán những kẻ được coi là “cầm cân nảy mực” như Huyện Trìa, Đề Hầu nhưng xét xử không công bằng.
- Cảm thông, thương xót cho thân phận của những người dân thấp cổ bé họng, qua tiếng than của vợ chồng Trùm Sò.
Giá Trị Tác Phẩm Huyện Trìa Xử Án
Vậy chúng ra rút ra được giá trị gì từ tác phẩm Huyện Trìa xử án? Cùng xem ngay gợi ý dưới đây nhé!
Giá trị nội dung
- Phơi bày bộ mặt xấu xa thối nát của những kẻ quan lại, chức dịch tham ô, nhũng nhiễu dân chúng và đam mê tửu sắc
- Phơi bày những góc khuất đen tối, xấu xa của xã hội với những mặt trái, những điều tiêu cực còn tồn tại chốn cửa quan – nơi mà người ta tìm đến để đòi lại công bằng.
- Qua đó bộc lộ niềm cảm thông, thương xót cho thân phận của những người dân thấp cổ bé họng.
Giá trị nghệ thuật
- Nghệ thuật xây dựng tuyến nhân vật với những tính cách đa dạng thể hiện được mọi góc nhìn về xã hội đương thời
- Tình huống tuồng đắt giá giúp các nhân vật bộc lộ hết bản chất
- Thể hiện được những đặc trưng của tuồng: ngôn ngữ, nhân vật, lời thoại, cử chỉ, hành động.
- Nghệ thuật châm biếm hóm hỉnh.
- Ngôn từ dễ hiểu, mộc mạc.
Cập nhật cho bạn đọc ✨ Gặp Ka Díp Và Xi La ✨ Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật
Soạn Bài Huyện Trìa Xử Án
Hướng dẫn các em học sinh cách Soạn Bài Huyện Trìa Xử Án chi tiết.
👉Câu 1 trang 123 sgk Ngữ văn 10 tập 1 CTST
a. Nêu ví dụ về lời đối thoại, độc thoại, bàng thoại của nhân vật và lời chỉ dẫn sân khấu.
b. Cho biết nhân vật nào có số lượt lời nhiều nhất, giải thích lí do.
c. Chỉ ra một số dấu hiệu cho thấy các lời thoại của nhân vật trong văn bản trên mang đặc điểm của thơ hoặc văn vần.
d. Cho biết vì sao trong lời thoại của nhân vật, một số từ ngữ lại được tách riêng ra và đặt trong ngoặc đơn. Ví dụ: ĐỀ HẦU: (- Dạ, thưa quan bọn này!)
Đáp án:
a.
– Đối thoại:
Huyện Trìa: Này, Thị Hến!…
Thị Hến: (-Dạ!)
– Độc thoại:
Đề Hầu: – Mụ đà nên tệ
Ông Huyện cũng xằng,
Phen này ông bày mặt thú lang
Huếch với mụ ắt râu trụi lủi
– Bàng thoại:
Huyện Trìa: – Tri huyện Trìa là mỗ
Nội hạt tiếng khen khen ta
b. Nhân vật: Huyện Trìa:
=>Nguyên nhân: Vì đây là một vụ xử án.
c. Vần chân được sử dụng:
- Nội hạt tiếng khen khen ta
- Cầm đường ngày tháng vào ra
- Hoa nguyệt hôm mai thong thả
Đây là gieo vần ”a”. Cách gieo vần đặc trưng trong thơ ca.
d. Đây như đoạn đệm chuyển lời trong tuồng, nâng cảm xúc của nhân vật lên cao.
👉Câu 2: trang 123 sgk Ngữ văn 10 tập 1 CTST: Chỉ ra mâu thuẫn giữa các nhân vật trước và trong phiên tòa. Phân tích nguyên nhân làm nảy sinh, chuyển hóa mâu thuẫn đó.
Đáp án:
- Huyện Trìa và Đề Hầu: Đã biết mặt lão Đề hay nói bậy/ Mồm xà cáng vinh râu ngoe ngoét -> Từ trước, Huyện Trìa đã biết được tính cách của Đề Hầu: hay nói bậy, điêu toa, đáng ghét và đáng ngờ.
- Huyện Trìa và Thị Hến: Trước đó chỉ là phận bề trên kẻ dưới nhưng rồi: ”Thấy cô đơn chút chạnh lòng thương/ Phải nâng lên hầu gần quan/Ai dám nói vu oán giá họa” -> Huyện Trìa trong phiên tòa đã mủi lòng trước Thị Hến và có ý thiên vị, muốn phân xử thắng cho nàng.
👉Câu 3: trang 123 sgk Ngữ văn 10 tập 1 CTST Từ lời xưng danh (bàng thoại) của Huyện Trìa và lời ông ta đối thoại với các nhân vật trong phiên tòa, nhận xét về tính cách của nhân vật này.
Đáp án:
Nhận xét về tính cách của nhân vật Huyện Trìa: là một người ham hư vinh, bổng lộc, xét xử không công bằng, tính tự cao, luôn cho mình tài giỏi, nhưng đồng thời cũng sợ vợ
👉Câu 4: trang 123 sgk Ngữ văn 10 tập 1 CTST: Bạn có nhận xét thế nào về tình cảm, cảm xúc của tác giả thể hiện qua ngôn ngữ kịch trong Huyện Trìa xử án?
Đáp án:
Sau khi đọc văn bản, có thể thấy tác giả hầu hết tỏ thái độ mỉa mai, châm biếm trước những thói hư tật xấu, cách cư xử giữa các nhân vật.
👉Câu 5: trang 124 sgk Ngữ văn 10 tập 1 CTST: Xác định đề tài và nêu cảm hứng chủ đạo của văn bản Huyện Trìa xử án. Theo bạn, tích truyện của vở tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến được lấy từ đâu? Nêu một vài căn cứ giúp bạn nhận biết văn bản Huyện Trìa xử án (trong vở tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến) được sáng tác, lưu truyền theo phương thức truyền thống.
Đáp án:
- Đề tài là những câu chuyện trong cuộc sống đời thường của nhân dân, mang tính đả kích châm biếm những nhân vật có thói hư tật xấu thời phong kiến. Ở đây chính là lấy từ hình ảnh những quan lại không liêm chính ngày xưa xử án
- Cảm hứng chủ đạo: Cuộc sống của con người trong xã hội phong kiến tiểu nông
- Tích truyện của Nghêu, Sò, Ốc, Hến được lấy từ dân gian truyền miệng
- Văn bản Huyện Trìa xử án (trong vở tuồng Nghêu, Sò, Ốc,Hến) được sáng tác, lưu truyền theo phương thức truyền miệng vì nó có nhiều dị bản khác nhau. Hơn nữa, đoạn tích được trích từ một vở tuồng đồ – thường được xây dựng, lưu truyền dưới dạng truyền miệng.
👉Câu 6: trang 123 sgk Ngữ văn 10 tập 1 CTST: Từ lời phán cuối cùng của Huyện Trìa, lời than của Trùm Sò, lời tri ân của Thị Hến, bạn có nhận xét gì về kết quả của phiên tòa?
Đáp án:
Từ lời phán cuối cùng của Huyện Trìa, lời than của Trùm Sò, lời tri ân của Thị Hến, có thể thấy rằng kết quả mà Huyện Trìa đưa ra không công bằng với tất cả, mà có phần thiên vị cho Thị Hến. Bởi nếu như có sự công bằng thì vợ chồng Trùm Sò không phải than thở khi nghe quyết định của phiên tòa.
👉Câu 7: trang 123 sgk Ngữ văn 10 tập 1 CTST: Từ việc đọc hiểu văn bản trên, cho biết: khi đọc, phân tích một kịch bản tuồng nói riêng, văn bản kịch nói chung, ta cần lưu ý những điều gì?
Đáp án:
- Cần đọc kĩ từ 2-3 lần.
- Chú ý những từ ngữ, hình ảnh đặc biệt trong câu thoại của từng nhân vật.
- Xác định được đề tài, cảm hứng chủ đạo của văn bản.
- Hiểu được ý nghĩa, quan điểm mà tác giả muốn gửi gắm.
Giáo Án Huyện Trìa Xử Án
Thohay.vn chia sẻ cho các giáo viên cách soạn Giáo Án Huyện Trìa Xử Án chi tiết
I. MỤC TIÊU BÀI HỌC
1.Mức độ yêu cầu cần đạt:
- Nhận biết và phân tích được một số đặc điểm cơ bản của văn bản chèo hoặc tuồng như: đề tài, tính vô danh, tích truyện, nhân vật, lời thoại, phương thức lưu truyền.
- Phân tích và đánh giá được tình cảm, cảm xúc, cảm hứng chủ đạo mà người viết thể hiện qua văn bản. Phát hiện được các giá trị đạo đức, văn hoá từ văn bản; nhận biết và phân tích được bối cảnh lịch sử – văn hoá được thể hiện trong văn bản chèo/ tuồng.
- Nêu được ý nghĩa hay tác động của văn bản chèo/ tuống đối với quan niệm, cách nhìn, cách nghĩ và tình cảm của người đọc; thể hiện được cảm xúc và sự đánh giá của cá nhân về tác phẩm.
2. Năng lực
a. Năng lực chung: Năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tự quản bản thân, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác..
b. Năng lực riêng:
- Năng lực thu thập thông tin liên quan đến văn bản Huyện Trìa xử án.
- Năng lực trình bày suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về văn bản Huyện Trìa xử án.
- Năng lực hợp tác khi trao đổi, thảo luận về thành tựu nội dung, nghệ thuật, ý nghĩa văn bản;
- Năng lực phân tích, so sánh đặc điểm nghệ thuật của truyện với các văn bản khác có cùng chủ đề.
c. Phẩm chất: Giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc và ý thức vé trách nhiệm của công dân đối với đất nước.
II. THIẾT BỊ DẠY HỌC VÀ HỌC LIỆU
1.Chuẩn bị của giáo viên:
- Giáo án;
- Phiếu bài tập, trả lời câu hỏi;
- Bảng phân công nhiệm vụ cho học sinh hoạt động trên lớp;
- Bảng giao nhiệm vụ học tập cho học sinh ở nhà;
2. Chuẩn bị của HS: SGK, SBT Ngữ văn 10, soạn bài theo hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài, vở ghi.
III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
- Khởi động
- Mục tiêu: Thu hút sự chú ý, tạo hứng thú học tập; kết nối với những bài học trước đó; huy động tri thức nền và trải nghiệm của HS. Đồng thời qua đó, thực hiện nhiệm vụ học tập.
- Nội dung: Kiến thức, vốn sống của HS có liên quan đến bài học.
- Sản phẩm: Chia sẻ của HS về tên các nhân vật.
- Tổ chức thực hiện:
- Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ học tập
- GV cho HS quan sát hình ảnh các con vật và trả lời câu hỏi: Bạn biết gì về các con vật như nghêu, sò, ốc, hến, hà, hàu, trìa,…? Bạn nghĩ thế nào khi tên các con vật này được dùng để đặt tên cho các nhân vật trong tác phẩm văn học?
- Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ học tập
- HS nghe GV nêu yêu cầu và trả lời.
- Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động và thảo luận
- GV mời 2 – 3 HS chia sẻ trước lớp.
- Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ
- GV nhận xét, khen ngợi các HS đã tích cực trả lời câu hỏi
- Từ chia sẻ của HS, GV dẫn dắt vào bài học mới. Bài học hôm nay sẽ tìm hiểu về Huyện Trìa xử án.
HÌNH THÀNH KIẾN THỨC
- Mục tiêu: Giúp HS chuẩn bị các điều kiện cần thiết để đọc hiểu văn bản Huyện Trìa xử án một cách hiệu quả.
- Nội dung: Tìm hiểu tri thức có liên quan về văn bản Huyện Trìa xử án.
- Sản phẩm học tập: Câu trả lời của HS.
- Tổ chức thực hiện:
HOẠT ĐỘNG CỦA GV – HS | DỰ KIẾN SẢN PHẨM |
Nhiệm vụ 1: Đọc văn bản Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ học tập – GV yêu cầu HS nhớ lại kiến thức đã tìm hiểu về nghệ thuật tuồng và nhắc lại các đặc điểm của tuồng (đề tài, nhân vật, cốt truyện, tích truyện, lời thoại) – GV đặt câu hỏi: Dựa vào phần đọc và tìm hiểu ở nhà, hãy giới thiệu về vở tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến và đoạn trích Huyện Trìa xử án. Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ học tập – HS đọc bài, chú ý thức hiện những yêu cầu của GV. Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động và thảo luận – GV mời 2 HS trình bày trước lớp, yêu cầu cả lớp nghe Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ – GV đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ, chốt kiến thức. Nhiệm vụ 2: Đọc văn bản Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ học tập – GV phân vai và yêu cầu HS đọc theo nhân vật trong văn bản. Chú ý ngữ điệu, cử chỉ phù hợp với lời thoại của nhân vật. – GV mời HS chia sẻ những nội dung tiếp nhận được theo các chỉ dẫn đọc ở bên phải văn bản. – GV yêu cầu HS sau khi đọc, tóm tắt nội dung đoạn trích và chia bố cục văn bản. Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ học tập– HS đọc thông tin tác giả trong SGK, tóm tắt ý chính. Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động và thảo luận – GV mời 2 HS trình bày trước lớp, yêu cầu cả lớp nghe, nhận xét, bổ sung. Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ – GV đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ, chốt kiến thức. | I. Tìm hiểu chung 1. Tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến – Nghêu, Sò, Ốc, Hến thuộc loại tuồng đồ (tuồng hài), châm biếm sâu sắc nhiều thói hư tật xấu trong xã hội và lật tẩy bộ mặt xấu xa của một số kẻ thuộc bộ máy cai trị ở địa phương trong xã hội xưa. – Đây là tác phẩm tiêu biểu trong di sản tuồng truyền thống và là vở tuồng đồ thuộc loại đặc sắc nhất. – Tích tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến có một số dị bản, kể khác nhau ở một vài chỗ, trong đó có tình tiết đánh ghen cuối vở. – Văn bản Nghêu, Sò, Ốc, Hến do Hoàng Châu Ký chỉnh lý (1957) gồm có tất cả ba hồi. 2. Đoạn trích Huyện Trìa xử án a. Xuất xứ – Trích từ vở tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến, là lớp XIII của vở tuồng, nhan đề do người biên soạn đặt. – Văn bản in trong Tổng tập Văn học Việt Nam, tập 12, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, NXB Khoa học xã hội, năm 2000, trang 534 – 538. b. Thể loại: Tuồng đồ c. Bố cục: – Từ đầu … bày thiệt nào: Lời thoại nhân vật huyện Trìa. – Còn lại: Quá trình xử án. |
Tìm hiểu tác phẩm ❤️️ Cuộc Tu Bổ Lại Các Giống Vật ❤️️ Nội Dung, Nghệ Thuật
Sơ Đồ Tư Duy Huyện Trìa Xử Án
Cùng xem qua các Sơ Đồ Tư Duy Huyện Trìa Xử Án sau đây nhé!
3 Mẫu Phân Tích Huyện Trìa Xử Án Hay Nhất
Cùng tham khảo 3 Mẫu Phân Tích Huyện Trìa Xử Án Hay Nhất sau đây nhé!
Mẫu Phân Tích Huyện Trìa Xử Án Hay – Mẫu 1
“Huyện Trìa xử án” thuộc lớp XIII trong vở tuồng “Nghêu, Sò, Ốc, Hến” là một đoạn trích đặc sắc cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Thông qua văn bản, tác giả dân gian muốn tố cáo, phê phán bọn tham quan, ô lại trong xã hội phong kiến. Đoạn trích đã kể lại cảnh xử án của tên Huyện Trìa nơi công đường.
Để làm nổi bật chủ đề của văn bản, tác giả dân gian đã tập trung khắc họa các nhân vật. Trước hết, qua lời xưng danh, người đọc có được những hình dung ban đầu về tên Huyện Trìa. Hắn là kẻ đứng đầu chốn nha môn của một huyện. Mọi người vẫn thường khen hắn “Cầm đường ngày tháng vào ra,/ Hoa nguyệt hôm mai thong thả”. Thực chất, câu nói này là sự châm biếm, mỉa mai của dân làng đối với tên tri huyện.
Mặc dù giàu tiền bạc, uống rượu bằng chén tiện làm từ sừng tê giác nhưng cuộc sống hôn nhân của hắn với mụ huyện lại không hạnh phúc, tròn đầy. Vì tính hay ghen nên mụ thường lớn tiếng với chồng. Mỗi lần đi ra ngoài, Huyện Trìa lại rúm ró, sợ sệt. Ở nhà thì lòng bực tức không yên. Thật khác hẳn với một tri huyện đạo mạo, hống hách nơi công đường!
Không chỉ trăng hoa tên tri huyện còn là kẻ tham lam, hống hách, chuyên ức hiếp dân lành. Hắn vô cùng đề cao đồng tiền, luôn “Thẳng tay một mực ăn tiền”. Không kể gái, trai, già, trẻ, tên tri huyện đều xử phạt bằng đòn roi. Là người thực thi công lí nhưng hắn lại làm việc theo cảm tính, không đề cao pháp luật “Luật không hay (thời ta) xử theo trí” khiến lòng người không phục.
Thậm chí, hắn còn là một kẻ tráo trở, chuyên luồn cúi, nịnh hót quan trên. Chỗ nào “tốt tiền tốt bạc”, dù phải tốn nhiều công sức, của cải, hắn cũng sẵn lòng đi lo.
Bộ mặt xấu xa, đê tiện của tên quan huyện được thể hiện rõ nhất qua cảnh xử án. Hắn phân xử bừa bãi, làm việc thiếu nghiêm minh. Khi nghe Thị Hến trình bày về tình cảnh của bản thân, thói háo sắc liền trỗi dậy. Hắn động lòng thương xót, một mặt thì tỏ vẻ nghiêm nghị “Cứ mực thẳng, cung cho ngay, bày cho thiệt/ Kẻo hai đàng cua nói có, vọ nói không”, mặt khác lại tạo điều kiện cho Thị Hến thoát tội.
Biết được Thị Hến chấp thuận với lời đề nghị của mình, tên Huyện Trìa liền kêu Đề Hầu làm tờ khai cho Thị Hến. Cuộc xử án kết thúc bằng việc vợ chồng Trùm Sò nhận tội, “lui về bổn quán”. Hắn tuyên án xằng bậy, không đúng tội trạng dù vật chứng, tang chứng rõ rành rành. Người có tội trong phút chốc vô tội, còn kẻ kêu cầu bỗng trở thành phạm nhân.
Bên cạnh nhân vật Huyện Trìa, Đề Hầu cũng được khắc họa một cách sinh động, rõ nét. Hắn là tay sai, giúp sức cho Huyện Trìa thực hiện hành vi của mình. Qua lời miêu tả của Huyện Trìa, Đề Hầu hiện lên với tấm lưng dài cùng khuôn mặt đầy râu ria “Lưng cù chầy hình khéo bơ sờ,/Mồm xà cáng vinh râu ngoe ngoét.”. Ngoại hình của hắn vô cùng dị hợm, ghê gớm.
Chẳng thế, hắn cũng có thói xu nịnh không khác gì Huyện Trìa “Đã biết mặt lão Đề hay nói bậy/ Còn giơ hàm chú Lại nói cò cưa”. Trong lòng thì ghét Huyện Trìa, định bụng sẽ mách mụ huyện “Ông Huyện cũng xằng,/ Phen này ông bày mặt thú lang/ Huếch với mụ ắt râu trụi lủi” nhưng ngoài mặt lại đồng thuận với lời kết tội của lão “Lão Trùm Sò ăn nói trầm trây,/ Thị Hến oan, tình hình tỏ rõ”.
Trong cuộc xử án đầy bất công này, không thể không nhắc tới Thị Hến. Thị ta là người đàn bà góa bụa. Tính cách thì gian manh, chuyên “ăn không nói có”. Rõ ràng, Thị Hến đã tiêu thụ vật phẩm ăn trộm nhưng trước mặt Huyện Trìa lại chối bay chối biến “Mua của chiên việc ấy vốn không/ Vì ai giận nên khai rằng có”. Biết tên Huyện Trìa trước nay háo sắc, Thị Hến đã cố tình lấy lòng thương. Nghe hắn nói “phải năng lên hầu gần quan”, Thị Hến liền cảm ơn, đồng thuận.
Nếu như Huyện Trìa, Đề Hầu đại diện cho những kẻ thống trị, gian ác thì vợ chồng Trùm Sò lại đại diện cho những người dân “thấp cổ bé họng”. Mặc dù là người bị hại nhưng vợ chồng Trùm Sò không những không đòi được của đã mất mà còn bị kết tội ức hiếp quả phụ. Cuối cùng, họ không thể làm gì khác ngoài việc chấp nhận:
“Trời cao kêu chẳng thấu,
Quan lớn dạy phải vâng,
Cúi đầu tạ dưới sân,
Xin lui về bổn quán.”
Bằng việc khắc họa nhân vật thông qua lời nói hành động, nghệ thuật châm biếm đặc sắc kết hợp với ngôn từ giản dị, mộc mạc, tác giả dân gian đã thể hiện thái độ mỉa mai đối với những tên quan ô lại. Đồng thời, phê phán bọn đứng đầu bộ máy cai trị chuyên đi nhũng nhiễu, làm hại người dân.
Qua lớp tuồng này, ta càng thêm đồng cảm với nhân dân trong xã hội phong kiến. Vở tuồng “Nghêu, Sò, Ốc, Hến” sẽ mãi là tác phẩm tiêu biểu, đặc sắc trong nền nghệ thuật dân gian Việt Nam.
Mẫu Phân Tích Huyện Trìa Xử Án Ý Nghĩa – Mẫu 2
Nghệ thuật tựa như một dòng sông với những điều thiện lành, khi con người ta đắm mình vào dòng sông ấy luôn có cảm giác bản thân mình được thức tỉnh. Nghệ thuật dạy ta biết yêu, biết ghét, biết trân trọng cái đẹp, biết bài trừ cái ác, biết nuôi dưỡng điều thiện, biết tránh xa điều xấu.
Loại hình nghệ thuật nào cũng có sức mạnh kì diệu ấy và nghệ thuật Tuồng cũng vậy. Là một trong những hình thức nhạc kịch phổ biến và được yêu thích tại Việt Nam, Tuồng ngày càng khẳng định được sức ảnh hưởng và hơn hết là khẳng định được giá trị đối với đời sống. Thật thiếu sót khi ta bỏ lỡ vở Tuồng “Nghêu, Sò, Ốc, Hến” đặc biệt là phân đoạn “Huyện Trìa xử án” đã làm nổi bật lên giọng điệu mỉa mai, châm biếm đối với những điều xấu xa.
Tuỳ theo đề tài, nội dung, phạm vi lưu diễn, quy cách dàn dựng, tuồng được phân thành hai loại chính: tuồng pho và tuồng đồ. Tuồng đồ thiên về hài hước châm biếm, ngôn ngữ mộc mạc, bình dân; lối diễn tự do, ít khoa trương cách điệu, gần gũi với cuộc sống thường ngày và gần với kịch nói. Các vở tuổng đồ tiêu biểu như Trương Đồ Nhục; Trương Ngáo,…và “Nghêu, Sò, Ốc, Hến” là một điển hình. Nghêu, Sò, Ốc, Hến là vở tuồng đặc sắc về nội dung và nghệ thuật, đậm chất dân gian, tiêu biểu cho tuồng đồ.
Vở Tuồng là một chuỗi những sự việc dở khóc dở cười khi Trần Ốc, một gã kẻ trộm, nhờ thầy bói là Lữ Ngao gieo quẻ chỉ hướng vào ăn trộm nhà Trùm Sò – một trọc phú trong vùng. Ốc đem của trộm được bán cho Thị Hến, một gái goá trẻ đẹp, ma mãnh. Trùm Sò báo với lí trưởng, thuê phù thuỷ dùng bùa phép tìm kẻ gian.
Một tên gia định của Thị Hến, vì bất bình với cách đối xử cay nghiệt của Thị Hến, đã có lời nói hớ hênh, khiến tang vật do Ốc lấy cắp từ nhà Trùm Sò bị phát giác. Lí Hà giam giữ Thị Hến cùng tang vật. Đề Hầu xuất hiện, thấy Thị Hến xinh đẹp, có ý bênh vực thị. Sau đó, cả bọn bị giải lên huyện để quan xét xử. Thị Hến làm cho cả quan huyện lẫn Đề Hầu mê mệt nhan sắc của mình. Thị được tha bổng, Trùm Sò không lấy lại được tài sản mất cáp.
Kết thúc vở tuồng là màn kịch khôi hài do Thị Hến bày ra, lần lượt đưa Thầy Nghêu, Huyện Trìa, Đề Hầu vào tròng, lật tẩy bản chất của gã thầy tu và thầy trò hai tên chức dịch mê gái.
Phân đoạn “Huyện Trìa xử án” sáng lên với những câu chuyện trong đời sống thường nhật của nhân dân, tinh thần phê phán những thói hư tật cấu trong xã hội phong kiến thời xưa, đặc biệt là sự bất công trong vấn đề xử án của quan lại.
Ngay từ những câu thoại đầu tiên đã mang đến cho ta cái cảm giác ngập ngụa sự tự mãn của quan huyện “Nội hạt tiếng khen khen ta”. Một loạt những ghi danh của Huyện Trìa dài như tấu sớ để muốn tỏ ý khoe khoang tự cao tự đại. Những tưởng chỉ để “khoe khéo” bản thân Huyện Trìa đã ranh ma đến độ bật mí luôn cơ hội thắng kiện.
Mục đích xử kiện của Huyện Trìa qua lời danh xưng chính xác là xử kiện chỉ vì muốn được nhiều tiền của, những ai đút lót càng nhiều càng được quan xử thắng. Khi xưa dân gian từng có câu nói bất hủ, đi vào biết bao vở hài kịch: “Tốt khoe, xấu che” đằng này có lẽ Huyện Trìa cũng đã khoe được hết những gì của bản thân kể cả những tật xấu cũng lỡ làng trưng ra:
“Cao tài tật túc”
“Tiên đắc hữu tiền”
Gây ấn tượng bằng cách dùng tên các con vật để đặt tên cho các nhân vật trong tác phẩm văn học sẽ giúp mang đến những điều mới lạ, hấp dẫn cho người đọc và đậm chất văn học dân gian. Sau những lời tự mãn cha chẳng mấy tốt đẹp của quan huyện, hội đồng loã của quan cũng đã lên tiếng:
“ĐỀ HẦU:
Trộm của Trùm Sò đêm trước
Vu cho Thị Hến đêm qua
Bắt tới chốn huyện nha,
Xin ngài ra xử đoán.
– HUYỆN TRÌA:
Lão Đề lấy tờ khai,
Đặng ta toan làm án
Cứ mực thẳng, cung cho ngay, bày cho thiệt
Kẻo hai đàng của nói có, vợ nói không
– THỊ HẾN:
Trông ơn quan lớn
Đoái xét phận hèn
Phụ mẫu dân quyền quý ấy bề trên
Ti tiện nữ đơn cô là phận dưới.”
Chân dung những kẻ nịnh bợ giả nhân giả nghĩa trình bày trước quan huyện. Đề Hầu vốn là kẻ khiến Huyện Trìa “bằng mặt mà không bằng lòng”:
“Đã biết mặt lão Đề hay nói bậy
…
Mồm xà cáng vinh râu ngoe ngoét.”
Vốn Huyện Trìa đã biết được tính cách của Đề hầu từ trước: một người hay nói bật, điêu toa, không có thiện cảm. Nếu không có vụ này mối quan hệ của ông với hắn cũng chỉ là bề trên kẻ dưới. Phải công nhận Đề Hầu lanh lỏi “miệng lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”, chẳng những thế thưa hỏi lại đường hoàng câu từ lại đậm chất thơ:
“Trộm của Trùm Sò đêm trước
Vu cho Thị Hến đêm qua
Bắt tới chốn huyện nha,
Xin ngài ra xử đoán.”
Điệp vần “a” độc đáo tạo nét chấm phá cho tính cách của một nhân vật phản diện là quá phù hợp. Được đà Thị Hến lấn tới thưa ngay những lời thiệt thòi. Vốn xinh đẹp nên Thị Hến khiến cả Đề Hầu và cả Huyện Trìa phải lòng:
“Thấy cô đơn chút chạnh lòng thương
Phải nâng lên hầu gần quan
Ai dám nói vu oán giá họa.”
Phen này cả Huyện Trìa và Đề Hầu dường như lạc lối theo đúng cái bản chất lương tâm của chúng. Bị mù mờ, bản chất ham tiền háo sắc trỗi dậy. Có thể nói Nhân vật tiêu biểu cho các vai tuồng này thường mang tính ước lệ và tính cách không thay đổi, thể hiện chủ yếu qua lời thoại và hành động của mình. Khi xuất hiện lần đầu, các nhân vật chính thường có lời xưng danh. Tính cách, đặc điểm của nhân vật trong tuồng, một phần được biểu đạt qua cách hoá trang, nhất là qua các nét vẽ, màu sắc trên khuôn mặt diễn viên và đặc biệt là lời thoại.
Lời thoại trong tuồng cũng có vai trò, đặc điểm như lời thoại trong chèo đã nói ở phần trước. Lời thoại của nhân vật tuồng, chủ yếu là đối thoại có xen độc thoại hay bàng thoại, dưới hình thức nói, ngâm hoặc hát và chủ yếu là thơ vầ văn vần. Cho nên ta mới có cơ hội thấy những lời hót hay như sáo của Huyện Trìa, Đề Hầu và Thị Hến.
Có thể thấy rằng trong xã hội đầu rẫy những bất công ấy kẻ thấp cổ bé họng luôn là người ở dưới. Một loạt những lời nói giả dối được trình bày trước, cuối cùng những câu thoại được thốt lên từ người chịu nhiều bất công nhất:
“Mồng một mất đồ hôm nọ,
Mồng hai nhìn thấy đặng đây
Đồ đạc nhìn đã không sai
Mua chác đó xin người tra hỏi”
Một điều khá đặc biệt, một chi tiết rất nhỏ và khó phát hiện. Ta nhận thấy những lời của Trùm Sò chính xác là những lời khai báo ngay thẳng, không chút nịnh bợ. Điều đó khác hoàn toàn với những lời nịnh bợ, kể lể số phận để người khác của Thị Hến:
“Nỗi ức oan khôn xiết, Lời ngay thẳng thưa qua,
Việc làm ăn ngày tháng vào ra,
Phận goá bụa hôm mai côi cút.
Gẫm gia đình khó thốt Nhờ quan lớn tỏ lòng.
Mua của chiên việc ấy vốn không
Vì ai giận nên khai rằng có.”
Vốn là kẻ ham tiền háo sắc, nghe lời nịnh bợ của mỹ nhân Huyện Trìa thuận theo ngay. Những điều Trùm Sò-kẻ mất trộm khai báo ở đây, không được Huyện Trìa và Đề Hầu chú ý đến khi xét xử vì thái độ của hai người họ khá thờ ơ. Những lần Sò được nói rất ít như thể là người ngoài cuộc trong khi dó Sò phải là người được trình với quan nhiều nhất. Cả Huyện Trìa và Đề Hầu đều xét xử một cách không căn cứ, qua loa nếu không muốn gọi là “nói nhăng nói cuội”:
“Huyện Trìa:
Gẫm đó dây duyên nợ
Thật trời đất đẩy đưa,
Căn duyên khéo khéo tình cờ
Nhơn ngãi khăng khăng vương vấn.
Khuyên mụ đừng trách phận,
Đây ta đã đành lòng.
Cứ đây mà khai báo cho xong, Rồi ta sẽ xử phân thuận ly”
Đề Hầu chen giọng với lời độc thoại xéo sắc, “đổi trắng thay đen”:
“Đề Hầu”:
– Mụ đà nên tệ
Ông Huyền cũng xằng,
Phen này ông bày mặt thú lang
Huếch với mụ ất râu trụi lủi.
– Đòi Thị Hến vào đây ta hỏi,
Nào tờ khai đem nạp tại đây.
Lão Trùm Sò anh nói trầm trây,
Thị Hến oan, tình hình tỏ rõ.
Tờ khai đó, đâu đành có đó,
Ban đầu vốn là nghi phạm Thị Hến lại được tẩy trắng lộ liễu và bỗng dưng trở thành người bị hại sau lời phân xử của Huyện Trìa và Đề Hầu. Sau cùng lời phán xử cũng được Huyện Trìa đưa ra:
Lúc ra đây, rồi lại xử đây
– thế lão Lại đã bầy, Làm tờ khai cho nó,
Nguyên tang không phải đó,
Tình trạng nghiệm là phi.
Ỷ phú gia hống hách,
Hiếp quả phụ thân cô,
Cứ lấy đúng pháp công,
Tội cả vợ lẫn chồng,
Ta thứ liền ông, liền mụn.”
Cùng với đó là tiếng kêu oan của nhà Sò:
“- Trời cao kêu chẳng thấu,
Quan lớn dạy phải vâng,
Cúi đầu tạ dưới sân,
Xin lui về bốn quán”.
Từ lời phán cuối cùng của Huyện Trìa, lời than của Trùm Sò, lời tri ân của Thị Hến, có thể thấy rằng kết quả mà Huyện Trìa đưa ra không công bằng với tất cả mà có phần thiên vị cho Thị Hến. Bởi nếu như có sự công bằng thì vợ chồng Trùm Sò không phải than thở khi nghe quyết định của phiên tòa.
Nhà Trùm Sò vốn là một trọc phú trong vùng mà còn bị xử ép quá đáng bởi cái tật háo sắc ham tiền của bọn quan lại. Vậy thử hỏi nếu là những người dân không quyền hạn, nghèo khổ trong cái xã hội mà “đồng tiền lăn trên đáy mọi lương tâm” này sẽ ra sao?
“Nước non lận đận một mình,
Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay.
Ai làm cho bể kia đầy,
Cho ao kia cạn, cho gầy cò con?”
Những người nông dân trong xã hội xưa là những con người thấp cổ bé họng, bị đàn áp và đối xử bất công. Họ đều là những người nông dân hiền lành, chất phác, lương thiện và giàu tình yêu thương. Nhưng do bị nô dịch nên cái nghèo vẫn luôn đeo bám suốt cuộc đời của những người nông dân ấy.
Số phận của những người nông dân thấp cổ bé họng gần như rơi vào tuyệt vọng bởi sự chà đạp bất công của những tên “cai trị” hống hách, vô nhân tính. Tuy vậy thì họ vẫn giữu được những phẩm chất tốt đẹp nhất. Càng vậy ta càng thêm trân trọng những người nông dân mang những phẩm chất tốt đẹp dù trong bất kì hoàn cảnh nào. Đồng thời cũng xót xa cho số phận đau khổ của họ.
Tác phẩm là câu chuyện trong đời sống thường nhật của nhân dân, phê phán những thói hư tật cấu trong xã hội phong kiến thời xưa, đặc biệt là sự bất công trong vấn đề xử án của quan lại. Trong đó cảm hứng chủ đạo là cuộc sống con người trong xã hội cũ. Đoạn trích “Huyện Trìa xử án” là một vở tuồng mang tính châm biếm, mỉa mai xã hội bất công với người dân, một xã hội đầy rẫy những nhuốc nhơ ô hợp.
Cất lên từ tiếng nói của những người nông dân, nghệ thuật dân gian luôn gần gũi, dễ nghe, dễ hiểu, dễ đồng cảm. Đoạn trích “Huyện Trìa xử án” thực sự đã lắng đọng cái thần cốt trong lòng khán giả, gieo vào tâm hồn con người những hạt giống tốt đẹp. Như thể một dòng sông của những điều thiện lương, tác phẩm đã cho ta được đắm mình trong những giá trị nhân đạo sâu sắc, nuôi dưỡng tâm hồn ta luôn hướng về chân-thiện-mĩ.
Mẫu Phân Tích Huyện Trìa Xử Án Chọn Lọc – Mẫu 3
“Nghêu, Sò, Ốc, Hến” là một tác phẩm nổi tiếng của nghệ thuật tuồng Việt Nam. Vở tuồng đã tái hiện một cách đầy sống động bức tranh xã hội trong thời kì phong kiến. Điều này được thể hiện rõ nét qua đoạn trích “Huyện Trìa xử án”. Thông qua nhân vật Huyện Trìa, tác giả đã thể hiện thái độ, suy nghĩ về những kẻ đứng đầu bộ máy cai trị.
Ngay phần mở đầu trích đoạn, người đọc đã có được những hình dung tương đối cụ thể về nhân vật qua lời tự giới thiệu:
“Tri huyện Trìa là mỗ
Nội hạt tiếng khen khen ta:
Cầm đường ngày tháng vào ra,
Hoa nguyệt hôm mai thong thả.
[…] Đồ hành khiển nhiều mâm cũng đặng”.
Có thể thấy, nhân vật giữ chức vụ quan trọng trong bộ máy chính quyền. Trong lời khen của dân làng đã ẩn chứa sự mỉa mai, châm biếm đối với tên Huyện Trìa. Chuyện trai gái cũng thong thả, thư thái như việc làm quan. Chứng tỏ, tên tri huyện là một con người trăng hoa, phóng túng.
Chẳng những thế, hắn còn vô cùng tham lam, hống hách, chuyên nhận hối lộ của người dân. Luật pháp không hay thì hắn xử theo đồng tiền. Không kể già trẻ, gái trai, hắn đều nhắm mắt dùng đòn roi, gậy phạt.
Đặc biệt, hắn còn là một kẻ xu nịnh, chuyên luồn cúi để giữ được chức quan “Chỗ nào nhắm tốt tiền tốt bạc/ Lễ phù lưu hết mấy cũng lo/ Quan ở trên dù cú, hay cò/ Đồ hành khiển nhiều mâm cũng đặng”. Huyện Trìa luôn tìm cách để đút lót bề trên. Chỉ cần có cơ hội thăng quan tiến chức thì hết bao nhiêu tiền hắn cũng sẽ lo. Kẻ làm quan tưởng chừng phải học hành, thi đậu danh bảng. Đến bây giờ, trí tuệ cũng như không.
Nhân một ngày nhàn hạ, không vướng việc kiện tụng, Huyện Trìa mượn rượu giãi bày gia cảnh. Chi tiết rót rượu vào chén tiện bằng sừng tê giác đã cho ta thấy được sự giàu có, đủ đầy của tên tri huyện. Mặc dù khá giả nhưng gia đình hắn lại không hề hạnh phúc, ấm êm. Mỗi lần nghĩ đến chuyện nhà, Huyện Trìa đều thở dài ngao ngán, giận vợ tính hay ghen “Ngẫm chuyện nhà quá ngán,/ Giận mụ huyện hay ghen.”.
Ở ngoài công đường, hắn ngạo nghễ, hống hách bao nhiêu, về nhà, hắn lại trở nên hèn nhát, yếu đuối bấy nhiêu “Hễ đi mô cả tiếng run en,/ Ngồi lại đó tấc lòng buồn bực”. Đi ra ngoài thì hắn sợ vợ quát tháo, ngồi ở nhà thì lòng khó chịu, bực tức. Lúc này, tên tri huyện rơi vào cảnh “đi không được, ở không xong”. Như vậy, thông qua lời xưng danh, người đọc có được cái nhìn bao quát về nhân vật Huyện Trìa. Hắn không chỉ là một con người tham lam, xấu xa mà còn là kẻ nhát gan, sợ vợ.
Tính cách, đặc điểm của tên tri huyện càng được khắc họa rõ nét thông qua cảnh xử án. Mặc dù làm quan nhưng hắn lại phân xử thiếu công bằng. Mọi phán quyết đều dựa trên cảm tính, sắc dục. Buổi phân xử chỉ vừa mới bắt đầu, tên tri huyện đã than:
“Ngồi lâu thời mỏi,
Nó nói kéo dài,
Lão Đề lấy tờ khai,
Đặng ta toan làm án.”
Khi nghe những lời giãi bày của Thị Hến, Huyện Trìa đã động lòng thương. Ngoài mặt thì nói “Cứ mực thẳng, cung cho ngay, bày cho thiệt/ Kẻo hai đàng cua nói có, vọ nói không.” nhưng đằng sau, hắn lại cho người hỏi cung Thị Hến trước. Mục đích là bênh vực, giành phần có lợi cho thị. Hắn trơ trẽn nói trước quan đường:
“Việc phải, không, vốn ta chưa tỏ,
Thấy đơn cô chút chạnh lòng thương
Phải năng lên hầu gần quan
Ai dám nói vu oan gieo họa.”
Tên tri huyện bày đường trốn tội cho Thị Hến bằng cách lên hầu hạ hắn thường xuyên. Có như vậy, hắn mới tạo điều kiện cho. Nghe thấy Thị Hến ưng thuận, tên Huyện Trìa đồng ý phân xử thuận lí. Cuối cùng, hắn coi quyền hạn, chức vụ của mình như một trò đùa khi đã phán quyết hết sức bất công:
“Nguyên tang không phải đó,
Tình trạng nghiệm là phi.
Ỷ phú gia hống hách,
Hiếp quả phụ thân cô,
Cứ lấy đúng pháp công,
Tội cả vợ lẫn chồng,
Ta thứ liền ông, liền mụ.”
Rõ ràng, Thị Hến mới là người có tội vì đã tiêu thụ đồ ăn cắp. Tang chứng, vật chứng rành rành, vậy mà tên tri huyện lại kết tội hai vợ chồng Trùm Sò cậy nhà giàu có, ức hiếp quả phụ. Cuối cùng, kẻ có tội lại trốn thoát, người vô tội bỗng chốc trở thành phạm nhân.
Như vậy, Huyện Trìa đã hiện lên một cách chân thực với vẻ xấu xa, phóng đãng. Bằng việc khắc họa nhân vật thông qua lời nói, hành động, tác giả dân gian muốn thể hiện thái độ mỉa mai, châm biếm đối với những kẻ đứng đầu bộ máy cai trị. Đồng thời, vạch trần sự mục ruỗng, thối nát của xã hội phong kiến, bày tỏ sự đồng cảm, xót thương đối với những người dân “thấp cổ bé họng”.
Có thể nói, nhân vật tri huyện đã góp phần vào thành công toàn bộ đoạn trích “Huyện Trìa xử án” cũng như vở tuồng “Nghêu, Sò, Ốc, Hến”. Hiểu về nhân vật, ta càng đồng cảm với nỗi bất hạnh của những người dân trong chế độ xưa.
Phân tích tác phẩm 🌷 Ngôi Nhà Truyền Thống Của Người Ê Đê 🌷 Hay nhất