Thị Mầu Lên Chùa: Nội Dung Tác Phẩm + Giá Trị + Phân Tích

Thị Mầu Lên Chùa ❤️️ Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích ✅ Tìm Hiểu Chi Tiết Về Tác Giả, Tác Phẩm, Cách Lập Dàn Ý Và Phân Tích.

Nội Dung Vở Chèo Thị Mầu Lên Chùa

Vở chèo Thị Mầu Lên Chùa kể về việc một cô nàng có tên Thị Mầu lên chùa để tán tình, trêu đùa với Tiểu Kính với thái độ trơ trẽn điệu bộ lẳng lơ. Dưới đây là Nội Dung Vở Chèo Thị Mầu Lên Chùa.

Thị Mầu lên chùa
Chủ biên: Hà Văn Cầu

THỊ MẦU: Này chị em ơi
Nay mười tư mai đã là rằm
Ai muốn ăn oản thì năng lên chùa.
Chị em lên chùa từ bao giờ nhỉ?
TIẾNG ĐẾ: Mười tư, rằm!
THỊ MẦU: Thế mà Thị Mầu tôi mang tiếng lẳng lơ
Đò đưa cấm giá! tôi lên chùa từ mười ba.
Mười ba,
Tôi lên chùa thấy tiểu mười ba
Thấy sư mười bốn, vãi già mười lăm
Tôi muốn cho một tháng đôi rằm
Trước vào lễ Phật, sau thăm vãi già
Tôi bước vào lễ Phật Thích Ca
Lễ đức Tam Thế, vua cha Ngọc Hoàng!.
(xưng danh) Tôi Thị Mẫu con gái phú ông
Thầy mẹ tôi tôn kính một lòng
Tiền cùng gạo lên chùa tiến cúng.
Bạch nhà sư trong ấy, cho chú tiểu ra nhận lễ, cho tôi còn về nào.
KÍNH TÂM: A di đà Phật! Chào cô lên chùa!
THỊ MẦU: A di đà Phật!
KÍNH TÂM: A di đà Phật 
Tam Bảo Như Lai 
Của ai phúc nấy 
A di đà Phật! Cô cho biết tên để tôi vào lòng sớ
THỊ MẦU: Tên em ấy à?
Là Thị Mầu, con gái phú ông
Tuổi vừa đôi tám, chưa chồng đấy thầy tiểu ơi!
Chưa chồng đấy nhá!
KÍNH TÂM: A di đà Phật!
Khấn nguyện thập phương
Kính trình Tam Bảo!
Lòng người có đạo
Đêm của cúng dường?
Một nén cũng biên
Một đồng cũng kể
Tuy vân bạc lễ
Đãn kiến thành tâm?
Phật tổ giám lâm
Quý thần soi xét!
A di đà Phật! Tôi đã đèn nhang xong, mời cô vào lễ Phật.
THỊ MẦU: Người đâu mà đẹp như sao băng thế nhỉ? 
TIẾNG ĐẾ: Ai lại đi khen chú tiểu thế cô Mầu ơi! 
THỊ MẪU: Đẹp thì người ta khen chứ sao 
Này chị em oi, 
Người đâu đến ở chùa này
Ấy mấy thầy tiểu ơi!
KÍNH TÂM: Nam mô A di đà Phật!
THỊ MẪU: Ấy mấy thầy tiểu ơi
TIẾNG ĐẾ: Mẫu ơi mất bò rồi!
THỊ MẪU: Nhà tao còn ối trâu!
Này thầy tiểu ơi!
Thầy như táo rụng sân đình
Em như gái rở!, đi rình của chua.
Ấy mấy thầy tiểu ơi!
KÍNH TÂM: Nam mô A di đà Phật.
TIẾNG ĐẾ: Mẫu ơi nhà mày có mấy chị em? Có ai như mày không?
THỊ MẪU: Nhà tao có chín chị em, chỉ có mình tao là chín chắn nhấtđấy!
TIẾNG ĐẾ: Dơ lắm! Mầu ơi
THỊ MẪU: Kệ tao! Này thầy tiểu ơi, ăn với em miếng trầu đã nào, rồi để mõ đấy em đánh chol
KÍNH TÂM: Nam mô A di đà Phật!
THỊ MẪU: Ấy mấy thầy tiểu ơi!
(hát ghẹo tiểu)
Song đứng trước cửa chùa 
Tôi vào tôi gọi, thầy tiểu chẳng thưa, tôi buồn
Ấy mấy thầy tiểu ơi!
Một cành tre, năm bảy cành tre
Phải duyên thì lấy, chớ nghe họ hàng
Ấy mấy thầy tiểu ơi!
Mẫu đơn giống cảnh nhà thờ
Đôi ta chỉ quyết đợi chờ lấy nhau
Ấy mấy thầy tiểu ơi!
Muốn cho có thiếp có chàng.
Ba sáu mười tám, cơm hàng có canh
Ấy mấy thầy tiểu ơi!
Trúc xinh trúc mọc sân đình
Em xinh em đứng một mình chẳng xinh!
(Nói) Bỏ mõ em đánh chỗ nào! Người đâu thấy gái mà lại chạy hết
(Kính Tâm bỏ chạy)
Chẳng trăm năm cũng một ngày
Gương kia còn đó, tấm áo này còn hơi
Chị em ơi, tôi lấy hơi thầy tiêu xem, chị em nhé!
À, kinh mõ của chú tiểu còn bỏ đó, thế nào cũng phải ra đây.
Tôi tìm chỗ nấp, thế nào tôi cũng nắm tận tay chú tiểu thì tôi mới nghe!
(nấp)
KÍNH TÂM: (ra, nói) Ngẫm oan trái nhiều phen muốn khóc
Thấy nhân duyên nghĩ lại nực cười
Hẳn vô tình thế mới trêu ngươi
Vì hữu ý nên rằng hoảng mắt
Chứ có biết đâu mình cũng chỉ là…
THỊ MẪU: (xông ra, nắm tay Kính Tâm) Đây rồi nhé!
KÍNH TÂM: Mô Phật!
THỊ MẪU: Bó mô Phật đi!
KÍNH TÂM: Cô buông ra để tôi quét chùa kẻo sư phụ người quở chết!
THỊ MẪU: Đưa chối đây em quét rồi em nói chuyện này cho mà nghel
Này chú tiểu oil
Mong cho chú tiểu quét sân
Xích lại cho gần, cằm chổi quét thay
Lá tình không gió mà bay!
Nào, ăn với em miếng giấu! đã nào! (Kính Tâm bỏ chạy)
Phải gió ở đâu! Chạy từ bao giờ rồi!
Ới này thầy tiểu ơi!
Muốn rằng cây cải cho xanh
Thài lài, rau dệu? tám thành bờ tre
Lắng tai tôi nói cho mà nghe
Tri Âm chẳng tỏ tri ân
Để tôi thương vụng nhớ thầm sầu riêng!
TIẾNG ĐẾ: Sao lẳng lơ thế, cô Mầu ơi!
THỊ MẦU: Lẳng lơ đây cũng chẳng mòn
Chính chuyên cũng chẳng sơn son để thòi

Xem thêm tác phẩm ❤️️Gặp Ka Díp Và Xi La ❤️️ Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích

Tóm Tắt Trích Đoạn Thị Mầu Lên Chùa

Để dễ nắm bắt tác phẩm thì bạn có thể đọc Tóm Tắt Trích Đoạn Thị Mầu Lên Chùa sau đây.

Sau nỗi oan khuất của bản thân. Thị Kính – nàng nghĩ thương thân xót phận đành thay dạng nam nhi, xin vào chùa đi tu, được Sư Cụ nhận lời, đặt cho hiệu là Kính Tâm.Thị Mầu con gái phú ông vốn lẳng lơ trong làng thấy Kính Tâm Tâm đẹp người tốt nết, liền tìm mọi cách dụ Kính Tâm nhưng bị cự tuyệt.

Về Tác Giả Trích Đoạn Chèo Thị Mầu Lên Chùa

Về Tác Giả Trích Đoạn Chèo Thị Mầu Lên Chùa, đây là văn bản cho GS Hà Văn Cầu làm chủ biên.

  • GS Hà Văn Cầu sinh năm 1927 tại Thái Bình, ông đã có nhiều đóng góp cho nghệ thuật chèo truyền thống ngay từ thập niên 1950. Ông là một trong những người thành lập đoàn chèo Cổ Phong (tiền thân của đoàn chèo Hà Tây), và trực tiếp đứng ra nghiên cứu,sưu tầm về mảng tri thức chèo cổ trong dân gian.
  • Trong gần 60 năm tiếp theo đó, nhiều công trình của ông đã được sử dụng làm tư liệu nghiên cứu, giáo trình giảng dạy cho sinh viên trường Đại học Sân khấu điện ảnh Hà Nội. Một số công trình này từng được giới thiệu tại các nền sân khấu của Đức, Pháp, Nhật Bản… và được đánh giá cao.
  • GS Hà Văn Cầu là tác giả của hơn 30 kịch bản sân khấu như Giấc mơ của ông Cò, Nên vợ nên chồng, Sang sông, Người công dân số 1….Đặc biệt trong số này phải kể tới 2 kịch bản nổi tiếng Tống Trân – Cúc Hoa (1961) và Từ Thức (1990) được ông viết lại trên cơ sở các truyện nôm và tích trò sân khấu dân gian.
  • Năm 2001, ông được  trao tặng Giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật.

Đọc thêm các mẫu phân tích🌱Chiến Thắng Mtao Mxây🌱 Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích

Về Tác Phẩm Chèo Thị Mầu Lên Chùa

Về Tác Phẩm Chèo Thị Mầu Lên Chùa, đây có thể nói là đoạn trích chèo nổi tiếng hàng đầu Việt Nam, được viết theo phương thức tự sự và biểu cảm. Đoạn trích này thuật lại sự việc Thị Mầu lên chùa để tán tỉnh, trêu ghẹo với Tiểu Kính cùng thái độ trơ trẽn và điệu bộ lẳng lơ. Tuy nhiên Tiểu Kính vẫn liêm chính, không quan tâm và giữ khoảng cách với Thị Mầu.

Hoàn Cảnh Sáng Tác Thị Mầu Lên Chùa

Hoàn Cảnh Sáng Tác Thị Mầu Lên Chùa như thế nào? Thực tế đoạn trích Thị Mầu lên chùa được trích từ vở chèo Quan Âm Thị Kính do Hà Văn Cầu chủ biên, Hà Văn Cầu – Hà Văn Trụ cùng biên soạn.

Còn đối với vở chèo cổ Quan Âm Thị Kính kể về việc Thị Mầu lên chùa ve vãn tiểu Kính Tâm thì được ra đời vào khoảng thế kỷ 17, với phương pháp sân khấu tự sự, ước lệ, nghệ thuật múa hát chỉ dừng lại ở cấp độ trang trí minh họa, đạo cụ diễn được giản lược tới mức tối đa. Đến thế kỷ 20, vở chèo này đã có sự thay đổi mạnh mẽ về cấu trúc, nội dung, tư tưởng, hình thức nghệ thuật.

Chia sẻ thêm tác phẩm❤️️ Cuộc Tu Bổ Lại Các Giống Vật ❤️️ Nội Dung, Nghệ Thuật 

Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm Thị Mầu Lên Chùa

Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm Thị Mầu Lên Chùa nói về một cô nàng đỏng đảnh, lẳng lơ, đi ngược với đạo lí, lễ nghĩa ngày xưa nhưng lại thích đi chùa vì muốn treo ghẹo và tán tỉnh Tiểu Kính. Nhan đề này đã góp phần gây ấn tượng không nhỏ đến những người biết đến vở chèo cổ này.

Bố Cục Thị Mầu Lên Chùa

Bố Cục Thị Mầu Lên Chùa được chia làm 2 phần chính như sau:

  • Phần 1: ( từ đầu… có ai như mày không): Thị Mầu đi lên chùa
  • Phần 2: (còn lại): Nhân vật Thị Kính

Khám phá các bài văn phân tích 🔻 Đi San Mặt Đất 🔻 Sơ Đồ Tư Duy Ngắn Gọn

Đọc Hiểu Tác Phẩm Thị Mầu Lên Chùa

Các bạn học sinh có thể tham khảo phần Đọc Hiểu Tác Phẩm Thị Mầu Lên Chùa mà Thohay.vn chia sẻ sau đây để có thể dễ dàng nắm bắt bài học khi lên lớp.

1. Nhân vật Thị Mầu

* Lời nói:

  • Đây rồi nhé
  • Phải gió ở đâu! Chạy từ bao giờ rồi!
  • Lẳng lơ đây cũng chẳng mòn
  • Phóng khoáng, táo bạo, khác biệt với hình ảnh người phụ nữ truyền thống xưa

* Quan niệm về tình yêu: Qua lời thoại của Thị Mầu, có thể thấy nhân vật này khá phóng khoáng, tự do suy nghĩ về tình yêu. Thị Mầu nghĩ rằng chỉ cần là mong nhớ, tương tư về người ta là mình có thể tư do đến bên người đó, không ngại quy giáo, lễ nghĩa. Là duyên thì mình đén ”Phải duyên thời lấy/ Chớ nghe họ hàng”

* Nét đặc sắc, nổi bật

  • Nhân vật này có thể nói là mang một nét mới lạ so với hình ảnh người phụ nữ truyền thống.
  • Thị Mầu đi ngược hăn với đạo lí, lễ nghĩa ngày xưa, thể hiện cái tôi rất mạnh.
  • Điều này đã gây ấn tượng không nhỏ đến những người biết đến vở chèo

2. Nhân vật chú tiểu

* Ngoại hình:

  • Đẹp như sao băng
  • Cổ cao ba ngấn, lông mày nét ngang

* Lời nói:

  • A di đà Phật! Cô cho tôi biết tên để ghi vào lòng sớ
  • A di đà Phật
    Một nén cũng biên
    Một đồng cũng kể
  • Ngẫm oan trái nhiều phen muốn khóc..
  • Trầm ổn, dịu dàng, mang mác buồn, hình ảnh đậm vẻ truyền thống của người phụ nữ thời phong kiến dù đã quy y cửa Phật

* Tính cách: Kiệm lời, không muốn nói chuyện nhiều với Thị Mầu, luôn tránh né.

Giá Trị Tác Phẩm Chèo Thị Mầu Lên Chùa

Bạn có thể tham khảo Giá Trị Tác Phẩm Chèo Thị Mầu Lên Chùa sau đây.

Giá trị nội dung

  • Thị Mầu như đại diện cho bao nỗi khát vọng của người phụ nữ xưa. Tuy những hành động của Mầu trong chùa là điều không nên làm nhưng bởi sự hối thúc, khao khát của tình yêu mà lý trí bị lu mờ.
  • Phê phán, hơn nữa, bóc trần cái đạo đức giả của đạo đức quan phong kiến.

Giá trị nghệ thuật

  • Xây dựng tuyến nhân vật đặc sắc với những tình huống rất đắt giá làm toát lên tính cách nổi bật của nhân vật
  • Ngôn ngữ, hành động, lời thoại thể hiện đặc sắc trong vở chèo
  • Những câu hát tập trung thể hiện tính cách nhân vật

Nhất định đừng bỏ qua tác phẩm 🌸 Prô Mê Tê Và Loài Người 🌸 Sơ Đồ Tư Duy, Phân Tích, Dàn Ý

Soạn Bài Thị Mầu Lên Chùa

Tham khảo gợi ý Soạn Bài Thị Mầu Lên Chùa sau đây bạn nhé!

👉Câu 1: (trang 75 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Chú ý ngôn ngữ, hình ảnh của các nhân vật và chỉ dẫn sân khấu.

Đáp án:

– Chỉ dẫn sân khấu:  

  • (Thị Mầu: ra nói; đế; hát; xưng danh; đế; đế; đế; đê; hát ghẹo tiểu; nói; Tiểu Kính bỏ chạy; nấp; xông ra, nắm tay tiểu kính; Tiểu Kính bỏ chạy; đế; hát; hạ
  • Tiểu Kính: tụng kinh; ra, nói)

– Hành động của Thị Mầu: xông ra nắm tay chú tiểu

– Ngôn ngữ thể hiện Thị Mầu: của người lẳng lơ, thấy chú tiểu đẹp thì mê, mà mê thì ghẹo, mà ghẹo thì ghẹo tới nơi tới chốn. Thị mầu ghẹo tiểu được diễn tả bằng chính hai điệu hát “Cấm giá” và “Bình thảo”

  • “Cấm giá” vì Thị Mầu mới ve vãn nên câu thơ còn e ấp tế nhị:

“Tôi lên chùa thấy tiểu mười ba
Thấy sư mười bốn vãi già mười lăm
Tôi muốn cho một tháng đôi rằm”

  • “Bình thảo” khi mà sự ve vãn bên ngoài không có kết quả, khi mà Thị Mầu đã bốc lửa, Thị Mầu muốn đốt cháy với chú tiểu thì lời ca trong điệu hát không còn ngọt ngào:

“Người đâu ở chùa này
Cổ cao ba ngấn, lông mày nét ngang
Ấy mấy thầy tiểu ơi”
Thầy như táo rụng sân đình
Em như gái rở, đi rình của chua                        

– Ngôn ngữ, hành động của Tiểu Kính: Giữ khoảng cách, tìm cách từ chối, lẩn tránh, lúc nào cũng tụng kinh “Niệm Nam mô A Di Đà Phật!”

👉Câu 2 (trang 76 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1)

  • Thị Mầu lên chùa có gì khác với lệ thường?
  • Chú ý các con số trong lời nói và câu hát của Thị Mầu. 

Đáp án:

  • Thị Mầu lên chùa khác với lệ thường là: Người ta lên chùa vào mười tư, rằm; còn Thị Mầu lên chùa mười ba.
  • Các con số trong lời nói và câu hát của Thị Mầu là: mười ba, mười bốn, mười lăm.

👉Câu 3: (trang 76 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Trong lời giới thiệu với chú tiểu, Thị Mầu đặc biệt nhấn mạnh thông tin gì?

Đáp án:

– Trong lời giới thiệu với chú tiểu, Thị Mầu đặc biệt nhấn mạnh thông tin “chưa chồng”:

“Tuổi vừa đôi tám, chưa chồng đấy thầy tiểu ơi!
Chưa chồng đây nhá!”

👉Câu 4: (trang 77 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1)

  • Thị Mầu có quan tâm đến việc vào lễ Phật không?
  • Chú ý hành động, ngôn ngữ bày tỏ tình cảm của Thị Mầu.

Đáp án:

  • Thị Mầu không quan tâm đến việc vào lễ Phật.
  • Hành động, ngôn ngữ bày tỏ tình cảm của Thị Mầu được thể hiện qua câu:

“Người đâu ở chùa này
Cổ cao ba ngấn, lông mày nét ngang
Ấy mấy thầy tiểu ơi”
“Thầy như táo rụng sân đình
Em như gái rở, đi rình của chua”.

👉Câu 5: (trang 77 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Phép so sánh trong lời của Thị Mầu có gì độc đáo?

Đáp án: Lối nói ví von so sánh thể hiện khát khao yêu đương của Thị Mầu.

“Thầy như táo rụng sân đình
Em như gái rở, đi rình của chua”

  • Cây táo mọc ở sân đình thường cao, sau mùa xuân chín rụng. Vì ít được chăm sóc lại già cỗi nên táo vừa chua, vừa chát.
  • Còn người phụ nữ nghén, người đời gọi là gái rở, thường thèm của chua, thèm đến xót lòng.

=> Người đàn bà ăn dở mà gặp quả táo, hơn nữa lại là rụng mà rụng ở sân đình thì nỗi khát khao thèm muốn càng tăng thêm gấp bội. Nhặt quả táo lên chắc người con gái ăn dở ấy phải nhai nuốt ngấu nghiến.

=> Việc Thị Mầu ví mình như gái rở, ví tiểu Kính như táo rụng sân đình thì hình ảnh vừa thật vừa rõ nét mà vừa dễ hiểu cho người xem.

👉Câu 6: (trang 78 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1)

  • Những câu hát trong phần này đều tập trung thể hiện điều gì? 
  • Câu “Trúc xinh […] chẳng xinh!” có gì khác với ca dao

Đáp án:

  • Những câu hát trong phần này tập trung thể hiện nỗi lòng, khát khao hạn phúc của Thị Mầu nhưng lại bị chú tiểu ngó lơ.
  • Câu ca dao:

“Trúc xinh trúc mọc đầu đinh
Em xinh em đứng một mình cũng xinh.”

=> So sánh hình dáng cây trúc với người phụ nữa Việt Nam trẻ trung, mong manh và xinh đẹp cho dù đứng ở đâu, dù ở góc độ nào vẫn xinh.

  • Trong vở chèo Thị Mầu lên chùa

“Trúc xinh trúc mọc sân đình
Em xinh em đứng một mình chẳng xinh.”

=> Ở trong câu ca dao người phụ nữ đứng một mình, dù đứng ở đâu, góc độ nào vẫn xinh; còn trong vở chèo Thị Mầu thì nó được biến tấu đi, nhằm ghẹo chú tiểu, ẩn ý người phụ nữ xinh đẹp cần phải có đôi có cặp mới xinh, còn đứng một mình sẽ không xinh.

👉Câu 7: (trang 79 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Đoạn trích có những chỉ dẫn sân khấu nào? Tác dụng của các chỉ dẫn đó với người đọc là gì?

Đáp án:

  • Thị Mầu: ra nói; đế; hát; xưng danh; đế; đế; đế; đê; hát ghẹo tiểu; nói; Tiểu Kính bỏ chạy; nấp; xông ra, nắm tay tiểu kính; Tiểu Kính bỏ chạy; đế; hát; hạ
  • Tiểu Kính: tụng kinh; ra, nói

– Hành động của Thị Mầu: xông ra nắm tay chú tiểu

– Ngôn ngữ thể hiện Thị Mầu: của người lẳng lơ, thấy chú tiểu đẹp thì mê, mà mê thì ghẹo, mà ghẹo thì ghẹo tới nơi tới chốn. Thị mầu ghẹo tiểu được diễn tả bằng chính hai điệu hát “Cấm giá” và “Bình thảo”

  • “Cấm giá” vì Thị Mầu mới ve vãn nên câu thơ còn e ấp tế nhị:

“Tôi lên chùa thấy tiểu mười ba
Thấy sư mười bốn vãi già mười lăm
Tôi muốn cho một tháng đôi rằm”

  • “Bình thảo” khi mà sự ve vãn bên ngoài không có kết quả, khi mà Thị Mầu đã bốc lửa, Thị Mầu muốn đốt cháy với chú tiểu thì lời ca trong điệu hát không còn ngọt ngào:

“Người đâu ở chùa này
Cổ cao ba ngấn, lông mày nét ngang
Ấy mấy thầy tiểu ơi”
“Thầy như táo rụng sân đình
Em như gái rở, đi rình của chua                   

– Tác dụng: Giúp người đọc hiểu đựơc nghĩa của các từ mới, giúp người đọc hiểu được cách thức, cũng như trình tự trình diễn của các nhân vật, từ đó theo dõi và hiểu được nội dung toàn bộ vở chèo.

Giáo Án Thị Mầu Lên Chùa

Dưới đây là gợi ý Giáo Án Thị Mầu Lên Chùa cho các giáo viên.

IMỤC TIÊU

1.Mức độ yêu cầu cần đạt:  Củng cố kĩ năng đọc hiểu văn bản chèo đã được hình thành qua bài học trước đó.

2. Năng lực

a. Năng lực chung: Năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tự học, giao tiếp, hợp tác, giải quyết vấn đề và sáng tạo, thẩm mĩ.

b. Năng lực riêng:

  • Năng lực phân tích và đánh giá được một số yếu tố về nội dung, đề tài, tích truyện, nhân vật, lời thoại, chủ đề….
  • Năng lực cảm nhận, phân tích được bối cảnh lịch sử – văn hóa thể hiện trong kịch bản chèo.

c. Phẩm chất: Trân trọng văn hóa truyền thống dân tộc

II. THIẾT BỊ DẠY HỌC VÀ HỌC LIỆU

1.Chuẩn bị của giáo viên:

  • Giáo án;
  • Phiếu bài tập, trả lời câu hỏi;
  • Bảng phân công nhiệm vụ cho học sinh hoạt động trên lớp;
  • Bảng giao nhiệm vụ học tập cho học sinh ở nhà;

2.Chuẩn bị của HS: SGK, SBT Ngữ văn 10, soạn bài theo hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài, vở ghi.

III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC

  1. Khởi động
  2. Mục tiêu: Thu hút sự chú ý, tạo hứng thú học tập, kết nối những bài học trước đó huy động tri thức nền và trải nghiệm của HS.
  3. Nội dung: Kiến thức, vốn sống của HS có liên quan bài học.
  4. Sản phẩm: Chia sẻ của HS cảm nhận về Thị Mầu.
  5. Tổ chức thực hiện:
  • Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ học tập
    • GV trình chiếu hình ảnh minh họa vai Thị Màu trong trích ddoanj chèo Thị Mầu lên chùa và nêu yêu cầu chia sẻ: Quan sát hình ảnh Thị Mầu lên chùa trong bức ảnh trên, em thấy có gì đặc biệt?
    • Gv khơi gợi để HS mô tả lại bức ảnh, đối chiếu những điều mình vừa quan sát về cách ăn mặc, đi đứng khi lên chùa… từ đó nhận xét dự đoán về tính cách nhân vật.
  • Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ học tập
    • HS nghe GV nêu yêu cầu, nhớ lại kiến thức và trả lời.
  • Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động và thảo luận
    • GV mời 2 – 3 HS chia sẻ trước lớp về những hiểu biết, cảm nhận của bản thân.
  • Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ
    • GV nhận xét, khen ngợi HS.
    • GV củng cố kiến thức:
    • Từ chia sẻ của HS, GV dẫn dắt vào bài học mới: Trong tiết học hôm nay, chúng ta cùng tìm hiểu một trích đoạn nội tiếng trong vở chèo Quan Âm Thị Kính, đó là Thị Mầu lên chùa.

HÌNH THÀNH KIẾN THỨC

Hoạt động 1: Đọc và tìm hiểu chung

  1. Mục tiêu: Giúp HS chuẩn bị các điều kiện cần thiết để đọc hiểu văn bản một cách hiệu quả.
  2. Nội dung: Tìm hiểu các tri thức có liên và huy động trải nghiệm, vốn sống của HS.
  3. Sản phẩm học tập: HS tiếp thu kiến thức chung về nội dung bài học.
  4. Tổ chức thực hiện:
HOẠT ĐỘNG CỦA GV – HSDỰ KIẾN SẢN PHẨM
Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ học tập
– GV gọi một số HS đọc văn bản.
– Yêu cầu HS chia sẻ những kết quả đọc ban đầu theo các chỉ dẫn của SGK ở bên phải văn bản.
– GV yêu cầu HS: xác định thể loại, bố cục, xuất xứ của văn bản.
– GV đặt câu hỏi: Đoạn trích kể về sự việc gì?– HS tiếp nhận nhiệm vụ
Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ học tập
– HS đọc thông tin tác giả trong SGK, tóm tắt ý chính.
Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động và thảo luận
– GV gọi 3 – 4 HS chia sẻ kết quả.
Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ
– GV đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ, chốt kiến thức.
I. Đọc và tìm hiểu chung

1. Đọc văn bản

– Xuất xứ: Đoạn trích Thị Mầu lên chùa được trích từ vở chèo Quan Âm Thị Kính.  

– Thể loại: chèo

– Bố cục:
+ Phần 1: (từ đầu… có ai như mày không): Thị Mầu đi lên chùa.
+ Phần 2: (còn lại): Tính cách, đặc điểm Thị Kính. 

– Nội dung đoạn trích: Đoạn trích thuật lại sự việc Thị Mầu lên chùa để tán tình, trêu đùa với Tiểu Kính với thái độ trơ trẽn điệu bộ lẳng lơ. Tuy nhiên, Tiểu Kính vẫn liêm chính, không quan tâm và giữ khoảng cá

Hoạt động 2: Tổ chức đọc hiểu văn bản

  1. Mục tiêu: Giúp HS khám phá nội dung, ý nghĩa và đặc sắc về hình thức của văn bản, hiểu được các khái niệm công cụ, rèn luyện các chiến thuật đọc. Từ đó, GV giúp HS luyện tập, thực hành, vận dụng kiến thức về văn học chèo vào thực tiễn cuộc sống.
  2. Nội dung: HS sử dụng SGK, chắt lọc kiến thức để tiến hành trả lời câu hỏi về văn bản.
  3. Sản phẩm học tập: Câu trả lời của HS.
  4. Tổ chức thực hiện:
HOẠT ĐỘNG CỦA GV – HSDỰ KIẾN SẢN PHẨM
Nhiệm vụ 1: Tìm hiểu về nhân vật Thị Mầu

Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ học tập

– GV yêu cầu HS theo dõi lại văn bản và thảo luận theo cặp:
●     Tìm hiểu về lời nói, ngoại hình, hành động của Thị Mầu. Từ đó, nhận xét tính cách nhân vật này.
●     Mục đích của Thị Mầu lên chùa để làm gì?
●     Từ lời nói, hành động, nhận xét về diễn biến tâm trạng Thị Mầu
●     Tiếng gọi “thầy tiểu ơi” lặp lại nhiều lần có tác dụng gì trong việc biểu lộ nỗi lòng Thị Mầu?
●    Em có nhận xét gì về nhân vật này?
– Các nhóm thảo luận và trao đổi nội dung.

Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ học tập
– HS đọc lại đoạn văn và suy nghĩ để trả lời câu hỏi.

Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động và thảo luận
– GV mời đại diện HS trình bày trước lớp, yêu cầu cả lớp nghe, nhận xét, góp ý, bổ sung.
Dự kiến sản phẩm:

Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ
– GV Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ, chốt kiến thức Ghi lên bảng.
– Gv bổ sung:
+ Đó là lời nói với Tiểu Kính (đối thoại), ví dụ: “Tên em ấy à? / […] Chưa chồng đấy nhá!’’; lời nói với chính minh (độc thoại), ví dụ: “Phải gió ở đâu! Chạy từ bao giờ rồi!”; lời nói với khán giả (bàng thoại), ví dụ: “Đẹp thì người ta khen chứ sao!’’.
+ Qua lời thoại của Thị Mầu, có thể thấy nhân vật này khá phóng khoáng, tự do suy nghĩ về tình yêu. Thị Mầu nghĩ rằng chỉ cần là mong nhớ, tương tư về người ta là mình có thể tự do đến bên người đó, không ngại quy giáo, lễ nghĩa. Là duyên thì mình đến ”Phải duyên thời lấy/ Chớ nghe họ hàng” 
II. Đọc hiểu văn bản
1. Nhân vật Thị Mầu
– Thị Mầu sử dụng lời nói, lời hát (hát ghẹo tiểu, hát) để tỏ bày tình cảm: Đó là lời nói với Tiểu Kính (đối thoại); lời nói với chính minh (độc thoại); lời nói với khán giả (bàng thoại).
+ Lời nói, hát là hành động của Thị Mầu biểu thị các hành động: giới thiệu thông tin về bản thân với chú tiểu, khen chú tiểu, mời chú tiểu ăn giầu, ghẹo tiểu, thách thức, bất chấp sự chê trách, phê phán của người đời (thể hiện qua tiếng đế),… Bên cạnh hành động thể hiện qua ngôn ngữ, còn là các hành động trực tiếp đi kèm với lời nói, hát (được thể hiện thông qua chỉ dẫn sân khấu): nấp; xông ra nắm tay Tiểu Kinh;…
– Mục đích: Thị Mầu lên chùa, mang tiền cùng gạo của cha mẹ tiến cúng chỉ là cái cớ. Mối quan tâm duy nhất của Thị Mầu là bày tỏ tình cảm với chú tiểu. Thị Mầu tranh thủ mọi cơ hội để bộc lộ lòng mình.
– Tiếng gọi “thầy tiểu ơi” trở đi trở lại nhiều lần, cùng với những tiếng gọi ấy là nỗi lòng, khát khao hạnh phúc được Thị Mầu thẳng thắn, táo bạo tỏ bày. Sự điệp đi nhấn lại cho thấy mối quan tâm duy nhất của Thị Mầu khi lên chùa là thầy tiểu. 
Tác dụng:
+ Tiếng gọi ấy như buộc đối tượng phải quan tâm đến mình, làm cho mọi lời nói, tiếng hát trở thành tiếng giãi bày chỉ mong đối tượng thấu hiểu, trờ thành những “bủa vây” bay vờn, xoắn xuýt bám riết lấy đối tượng giao duyên, quyết thực hiện bằng được khao khát tỏ bày tình cảm của mình.
+ Tiếng gọi như muốn bộc bạch tất cả sự mê đắm, bật ra tất cả nỗi nhớ nhung, niềm khao khát.
+ Tiếng gọi hòa với giọng hát, ánh mắt sóng sánh đa tình, nhịp bước “tung toé”, sắc áo rực rỡ, những đường nét xuân thì bung toả của cơ thể thiếu nữ trẻ trung,… tạo thành một Thị Mầu sẵn sàng bật tung mọi khuôn thước để sống đúng với tình càm tự nhiên của trái tim thiếu nữ,… 
– Diễn biến tâm trạng Thị Mầu:
Theo lời nói, lời hát, hành động của nhân vật, người đọc nhận ra diễn biến tâm trạng của Thị Mầu:
– Từ rộn ràng, tươi vui, náo nức khi lên chùa đến choáng váng, đắm đuối, si mê táo bạo tỏ bày tình cảm và quyết liệt “tấn công” đối tượng bằng tất cả sự “bùng nổ” của dòng nham thạch đầy sức sống. 
– Buồn bã, thất vọng khi không được đáp lại, để rồi như gồng mình lên, bất chấp, thách thức mọi khuôn khổ, phép tắc, định kiến giáo điều của quan niệm phong kiến trong tình yêu.
– Nhận xét: Nhân vật Thị Mầu mang một nét mới lạ so với hình ảnh người phụ nữ truyền thống, Thị Mầu đi ngược hẳn với đạo lí, lễ nghĩa ngày xưa, thể hiện cái tôi rất mạnh.

Chia sẻ thêm tác phẩm 🌱Nam Quốc Sơn Hà 🌱 Nội Dung Bài Thơ, Nghệ Thuật, Phân Tích

Sơ Đồ Tư Duy Thị Mầu Lên Chùa

Tham khảo các mẫu Sơ Đồ Tư Duy Thị Mầu Lên Chùa sau đây để có thể nhanh nhớ nội dung bài học.

Sơ Đồ Tư Duy Thị Mầu Lên Chùa Ngắn Gọn
Sơ Đồ Tư Duy Thị Mầu Lên Chùa Ngắn Gọn
Sơ Đồ Tư Duy Thị Mầu Lên Chùa
Sơ Đồ Tư Duy Thị Mầu Lên Chùa
Sơ Đồ Tư Duy Thị Mầu Lên Chùa Chi Tiết
Sơ Đồ Tư Duy Thị Mầu Lên Chùa Chi Tiết

5 Mẫu Phân Tích Thị Mầu Lên Chùa Hay Nhất

Dưới đây là 5 Mẫu Phân Tích Thị Mầu Lên Chùa Hay Nhất, mời bạn cùng đọc.

Mẫu Phân Tích Thị Mầu Lên Chùa Hay – Mẫu 1

Bên cạnh những vở chèo nổi tiếng như “Trương Viên”, “Chu Mãi Thần”, “Kim Nham”, “Lưu Bình – Dương Lễ”, “Quan Âm Thị Kính” cũng là một trong số những tác phẩm kinh điển của nền chèo cổ Việt Nam. Nổi bật trong vở chèo là đoạn trích “Thị Mầu lên chùa”. Trích đoạn đã cho thấy cách nhìn nhận của tác giả dân gian về những người phụ nữ trong xã hội xưa.

Văn bản “Thị Mầu lên chùa” kể về việc Thị Mầu lên chùa cúng tiến, nhìn thấy Kính Tâm liền đem lòng si mê và dùng lời lẽ ngon ngọt để tán tỉnh chú tiểu. Đoạn trích khắc họa sự tương phản về phẩm chất giữa hai tuyến nhân vật là Thị Mầu và Kính Tâm.

Trước hết, Thị Mầu có xuất thân cao quý, là con gái của phú ông trong làng. Tuy nhiên, ở Mầu lại toát ra vẻ lẳng lơ, phóng túng. Mọi người thường lên chùa vào ngày rằm còn Mầu lên chùa từ mười ba. Bởi vậy mới bị “mang tiếng lẳng lơ”:

“Thế mà Thị Mầu tôi mang tiếng lẳng lơ
Đò đưa cấm giá tôi lên chùa từ mười ba.
Mười ba,
Tôi lên chùa thấy tiểu mười ba
Thấy sư mười bốn, vãi già mười lăm
Tôi muốn cho một tháng đôi rằm
Trước vào lễ Phật, sau thăm vãi già
Tôi bước vào lễ Phật Thích Ca
Lễ đức Tam Thế, vua cha Ngọc Hoàng.”

Lời mời gọi, kể lể của Mầu đã cho ta những hình dung ban đầu về tính cách, đặc điểm của nhân vật. Số từ “mười ba” được lặp lại nhiều lần đã nhấn mạnh ngày Mầu lên chùa tiến cúng. Mầu lên chùa cả ba ngày mười ba, mười bốn, mười lăm để thỏa lòng mong ước được gặp gỡ người nhà chùa.

Vừa mới nhìn thấy chú tiểu đẹp, Thị Mầu đã dùng những lời lẽ ngon ngọt, ve vãn. Khi được Kính Tâm yêu cầu cho biết tên tuổi để ghi vào lòng sớ, Thị Mầu đã cố tình khai thừa thông tin về bản thân. Nàng liên tục nhắc về việc mình chưa có chồng. Đồng thời, thể hiện mong muốn kết đôi.

Niềm mong ước giao duyên của Mầu còn được bộc lộ qua câu nói:

“Này thầy tiểu ơi!
Thầy như táo rụng sân đình
Em như gái rở, đi rình của chua.”

Táo ở sân đình thường chín và rụng sau mùa xuân. Vì không ai chăm sóc lại già cỗi nên vừa chua vừa chát. Còn cái rở là gái có mang, lúc nào cũng thèm ăn của chua, thức lạ. Mầu ví mình như gái rở còn chú tiểu như táo rụng sân đình nhằm bày tỏ mong muốn được sánh đôi cùng chú tiểu.

Mầu lên chùa bái lễ nhưng chẳng thèm để ý đến thần Phật, chỉ chăm chăm vào trêu ghẹo chú tiểu. Nghe nhà mất bò, Mầu chanh chua đáp lại “Nhà tao còn ối trâu!”. Đối đáp với những lời trách móc, phê phán, Mầu vẫn tự nhận mình là người chín chắn nhất trong nhà “Nhà tao có chín chị em, chỉ có mình tao là chín chắn nhất đấy!”.

Không dừng ở những lời ngon ngọt, Thị Mầu còn cố tình trêu ghẹo chú tiểu thông qua lời hát:

“Song đứng trước cửa chùa
Tôi vào tôi gọi, thầy tiểu chẳng thưa, tôi buồn
Ấy mấy thầy tiểu ơi!
Một cành tre, năm bảy cành tre
Phải duyên thời lấy, chớ nghe họ hàng
[…] Ấy mấy thầy tiểu ơi!
Trúc xinh trúc mọc sân đình
Em xinh em đứng một mình chẳng xinh!”

Trong đoạn này, Mầu dùng rất nhiều hình ảnh trong ca dao dân ca như “cành tre”, “mẫu đơn”, “nhà thờ”, “thiếp”, “chàng”, “cơm hàng có canh”, “trúc mọc đầu đình” vừa là để bộc lộ tình cảm vừa là tán tỉnh Kính Tâm. Đặc biệt, đoạn hát còn cho thấy được quan niệm về tình yêu của Thị Mầu. Tình yêu trong suy nghĩ của nàng là sự tự do, thoải mái, vượt lên mọi rào cản của xã hội.

Thị Mầu không hề quan tâm đến định kiến mà chỉ tập trung vào cảm xúc cá nhân “Phải duyên thời lấy, chớ nghe họ hàng”. Mầu “muốn cho có thiếp có chàng/ Ba sáu mười tám, cơm hàng có canh”. Mầu sẽ cảm thấy mình bớt xinh nếu như không có đôi có cặp “Em xinh em đứng một mình chẳng xinh!”. Thậm chí, Mầu còn táo bạo tới mức muốn “lấy hơi của thầy tiểu”, nói cho mọi người nghe về kế hoạch tiếp theo của mình: “Tôi tìm chỗ nấp, thế nào tôi cũng nắm tận tay chú tiểu thì tôi mới nghe!”.

Càng về cuối lớp chèo, mức độ trong lời nói của Mầu càng được gia tăng. Đỉnh điểm là sự sỗ sàng, bỗ bã trước chốn cửa chùa “Bỏ mô Phật đi!”. Lúc này, Mầu hoàn toàn không còn có ý niệm gì về việc bái lễ nữa mà chỉ tập trung vào chú tiểu. Câu nói ấy đã cho thấy sự thất lễ, thiếu tôn trọng với những tăng ni trong chùa. Làm mọi cách mà Kính Tâm không để ý, tâm trạng của Thị Mầu không còn vui tươi, hồ hởi như khi mới vào chùa mà trở nên rầu rĩ, man mác buồn:

“Muốn rằng cây cải cho xanh
Thài lài, rau dệu tám thành bờ tre
Lắng tai tôi nói cho mà nghe
Tri âm chẳng tỏ tri âm
Để tôi thương vụng nhớ thầm sầu riêng!”

Ngoài lời nói, tính cách của nhân vật còn được bộc lộ qua hành động. Vượt qua mọi khuôn phép, chuẩn mực, Thị Mầu có những cử chỉ mạnh bạo, bất chấp. Đó là xông ra nắm tay, nhận quét sân thay Tiểu Kính. Có thể nói, mọi ngôn ngữ, hành động của Thị Mầu đều cho ta thấy được sự lẳng lơ, phóng khoáng trong con người thị.

Đối lập với đào lẳng là nhân vật Thị Mầu, đào chính – Kính Tâm lại mang trong mình những vẻ đẹp, phẩm chất đáng quý.

Khác với Thị Mầu, Thị Kính sinh ra trong một gia đình nông dân, sau được gả vào gia đình khá giả. Do hiểu lầm, nàng phải bỏ nhà ra đi, cắt tóc giả trai xin vào tu hành ở chùa Vân. Mặc dù ẩn mình dưới thân phận của một chú tiểu nhưng Kính Tâm vẫn toát lên sự trang nghiêm. Qua lời nhận xét, ngợi ca của Thị Mầu, ta có thể hình dung ra được nét đẹp đoan trang, thanh khiết ở Kính Tâm.

Trước những lời tán tỉnh và hành động sỗ sàng của Thị Mầu, Kính Tâm luôn giữ thái độ, lời nói, cử chỉ mực thước:

“Khấn nguyện thập phương
Kính trình Tam Bảo
Lòng người có đạo
Đem của cúng dàng
[…] A di đà Phật! Tôi đã đèn nhang xong, mời cô vào lễ Phật.”

Đây quả là ngôn ngữ của một bậc chân tu. Từng câu chữ đều tuân theo quy tắc, giáo lí nhà Phật. Mỗi lần nghe Thị Mầu nói, Kính Tâm đều nhẹ nhàng niệm “Nam mô A Di Đà Phật!” như một cách từ chối. Chứng kiến sự mù quáng của Thị Mầu, Kính Tâm bày tỏ nỗi niềm trong lời độc thoại:

“Ngẫm oan trái nhiều phen muốn khóc
Thấy nhân duyên nghĩ lại nực cười
Hẳn vô tình thế mới trêu ngươi
Vì hữu ý nên rằng hoảng mắt
Chứ có biết đâu mình cũng chỉ là…”

Đây là những lời đúc kết, suy ngẫm của một con người đã trải qua không ít đau khổ, truân chuyên. Đi qua nhiều chuyện trên đời tới mức phải cắt tóc đi tu, Kính Tâm thấy nực cười trước mối nhân duyên ngang trái. Có những sự vô tình khiến con người rơi vào cảnh trớ trêu.

Thật giống với tình cảnh của Thị Mầu lúc này. Vì Thị Mầu có tình ý nên mới nhìn nhầm, chứ có biết đâu Kính Tâm cũng chỉ là gái giả trai. Lúc Thị Mầu xông ra nắm tay, Kính Tâm chỉ nhẹ nhàng nói: “Cô buông ra để tôi quét chùa kẻo sư phụ người quở chết!”. Có những lúc vì quá hoảng sợ trước sự tấn công đầy táo bạo của Thị Mầu, Kính Tâm phải bỏ chạy, tìm cách từ chối. Đây là biểu hiện của một con người đường hoàng, ngay thẳng.

Có thể nói, Thị Mầu đại diện cho những người phụ nữ nổi loạn còn Kính Tâm lại tượng trưng cho người phụ nữ đức hạnh trong xã hội phong kiến. Qua đoạn trích, tác giả dân gian muốn ca ngợi những người phụ nữ trung trinh và phê phán những người lẳng lơ, phóng túng.

Để làm nổi bật sự mâu thuẫn, đối lập giữa hai nhân vật, tác giả đã tập trung khắc họa thông qua lời nói, hành động. Đồng thời, sử dụng các biện pháp tu từ độc đáo như so sánh “Thầy như táo rụng sân đình/ Em như gái rở, đi rình của chùa”, điệp ngữ “Ấy mấy thầy tiểu ơi!”, “chưa chồng đấy” và chất liệu ca dao, dân ca truyền thống.

Đoạn trích “Thị Mầu lên chùa” đã thể hiện cách nhìn nhận của tác giả dân gian về những người phụ nữ trong xã hội xưa. Văn bản “Thị Mầu lên chùa” nói riêng và vở chèo “Quan Âm Thị Kính” nói chung sẽ mãi lưu dấu trong lòng người Việt Nam bởi những giá trị nhân văn, ý nghĩa.

Mẫu Phân Tích Thị Mầu Lên Chùa Chọn Lọc – Mẫu 2

Chèo là một loại hình nghệ thuật sân khấu của Việt Nam, mang tính quần chúng và được coi là một nét đặc sắc trong văn hoá người Việt với cách nói ví von giàu tính tự sự, trữ tình. Thị Mầu lên chùa là một tác phẩm đặc sắc trong số đó, là một trích đoạn trong tác phẩm nổi tiếng Quan Âm Thị Kính. Đây là đoạn trích kể lại đoạn Thị Mầu lên chùa và gặp Kính Tâm và ve vãn tiểu Kính Tâm.

Trong tác phẩm, Thị Mầu được miêu tả là một người con gái xinh đẹp, lẳng lơ, tuy lên chùa lễ phật nhưng lại không có sự thành tâm. Mầu là một người nếu nói hay thì là sống với khao khát của bản thân, nhưng nếu nói dở thì là người không tuân phép tắc xã hội.

Nàng lên chùa và bắt gặp Kính Tâm do Thị Kính giả trang, đem lòng yêu đương rồi ve vãn. Thị Mầu thực sự đã yêu thương một chú tiểu trong chùa, yêu đến mức mù quáng mà không phân rõ thời thế, thân phận. Vậy nên, cái kết buồn đã xảy ra cho cô gái. 

Sự táo bạo, lẳng lơ của Thị Mầu được tác giả khắc họa rõ nét qua cả lời nói và hành động của cô. Đó là những câu nói phóng khoáng và táo bạo hiếm thấy của con gái đương thời, và cũng bị coi là tục tĩu khi đang ở nơi cửa Phật. 

“Tuổi vừa đôi tám, chưa chồng đấy thầy tiểu ơi!
Chưa chồng đây nhá!”
“Thầy như táo rụng sân đình
Em như gái rở, đi rình của chua”
“Tôi lên chùa thấy tiểu mười ba
Thấy sư mười bốn vãi già mười lăm
Tôi muốn cho một tháng đôi rằm”

Những câu nói trên đều thể hiện cái sự ngả ngớn, táo bạo của một người con gái xinh đẹp đáng lẽ phải e thẹn. Nhưng không, những câu nói Thị Mầu nói ra thật khiến người ta đỏ mặt, không hề hợp với thân phận và địa điểm nói chuyện lúc bấy giờ. Nhờ những câu nói đó, ta lại thấy được quan điểm về một tình yêu tự do của Thị Mầu.

Nàng không chịu nghe theo tư tưởng “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” đương thời, mà tân tiến hơn ở chỗ tự đi tìm hạnh phúc của mình. Nhưng trong thời đó, sự khát cầu ấy của Mầu lại bị coi là sự thô tục, là thứ phẩm hạnh không đoan. 

Trái ngược với tạo hình nhân vật của Thị Mầu, cùng là con gái nhưng Thị Kính lại được miêu tả bằng những nét bút nhu hoà hơn. Ngoại hình của nàng được Thị Mầu đánh giá là “Đẹp như sao sa” và “Cổ cao ba ngấn, lông mày nét ngang” ngay trong lần gặp đầu tiên. Đây là những nét đẹp truyền thống và đoan chính. Nàng thẳng thừng từ chối những lời nói ngọt của Thị Mầu, biết giữ khoảng cách và giữ gìn khuôn phép giữa hai người. 

A di đà Phật! Cô cho tôi biết tên để ghi vào lòng sớ”
“Một nén cũng biên”
“Một đồng cũng kể”
“Ngẫm oan trái nhiều phen muốn khóc”

Qua cả lời nói và hành động, ta nhận thấy rằng trái ngược với Mầu, Kính Tâm là một người trầm ổn, tuy bị làm phiền nhưng không tỏ ra khó chịu. Nàng chính là đại diện cho người phụ nữ truyền thống, vừa mang nét đẹp đoan trang, vừa có tính cách dịu dàng, chịu khó. 

Hai nhân vật được xây dựng khác nhau về tính cách, nhưng giữa hai người lại có sự liên hệ nhất định. Đó chính là số phận thảm thương của họ, hai số phận bị phong kiến đày đọa và chèn ép trong cái lồng giam chật hẹp. Đó còn là tiền đề để cao trào câu chuyện xảy ra.

Thị Mầu ăn nằm với tôi tớ trong nhà, có thai nên bị làng phạt vạ. Nàng liền đổ tội cho Thị Kính, rồi khi sinh con xong cũng đưa cho Kính nuôi. Không thể biện bạch, Kính Tâm nuôi con của Mầu, đến khi ra đi mới viết thư để tỏ rõ nội tình. Vậy là, mọi oan khiên của nàng đều được làm rõ, nhưng những lời tiếc thương đến giờ chẳng thể làm gì được nữa, bởi Thị Kính đã ra đi. 

Hình ảnh Thị Mầu đem con lên chùa bỏ như một lời kêu cứu của người phụ nữ đối với đáng thần phật trên cao. Bởi trong thời đại đó, nếu không chồng mà chửa, người con gái bị phạt tội rất nặng. Dù hành động của Thị Mầu là không đúng, nhưng cái thứ được gọi là phép tắc của xã hội bấy giờ quá lớn. Xuất phát từ sự từ bi và thương cảm với những sinh linh nhỏ, Thị Kính phải gánh tiếng oan này. 

Vở chèo Thị Mầu lên chùa là một câu chuyện có đủ cao trào và kết thúc. Tuy trong câu chuyện đó, người phụ nữ đều có cái kết buồn, nhưng vẻ đẹp của họ lại không có gì làm lu mờ được. Thị Mầu là người xinh đẹp, nhưng lại có tư duy vượt thời đại, vậy nên bị chính thứ khao khát về tình yêu và dục vọng đó hại. Thị Kính là người đại diện cho phụ nữ truyền thống, cũng bị lễ giáo truyền thống đó đè nặng cả cuộc đời. 

Mẫu Phân Tích Thị Mầu Lên Chùa Ý Nghĩa – Mẫu 3

Thị Mầu lên chùa là một trích đoạn trong vở chèo nổi tiếng Quan Âm Thị Kính. Trong tác phẩm, hình ảnh hai nhân vật chính Thị Mầu và Thị Kính được tác giả dân gian khắc hoạ rất rõ nét, qua đó cũng thể hiện được sự đối lập trong tính cách, cũng là sự đối lập của các xã hội khác nhau.

Trong tác phẩm, Thị Mầu được miêu tả là một người phụ nữ xinh đẹp nhưng lại lẳng lơ, hiểu được dục vọng và khát khao của mình. Tư tưởng của nàng không đồng nhất với những người phụ nữ thời bấy giờ, vậy nên mới nổi bật khi đặt cùng một người phụ nữ truyền thống như Thị Kính.

Trái ngược với Mầu, Thị Kính không chỉ mang những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ, mà tính cách của nàng cũng có những điểm đặc trưng như dịu dàng, chăm chỉ.

Thị Mầu phải lòng tiểu Kính Tâm, ve vãn nhưng không thành. Bởi nàng đâu có biết, vị sư tiểu ấy thực chất lại là một người con gái. Từ những hiểu lầm trớ trêu ấy, số phận người phụ nữ trong xã hội càng được làm rõ.

Thị Mầu chửa hoang, bị làng phạt vạ, Thị Kính lại nhận lấy cái tội thông dâm oan uổng, bị vạn ánh mắt coi khinh. Đây đều là những ngang trái của người phụ nữ xưa. Họ không thể chống lại được cả một xã hội phong kiến đã tồn tại lâu đời.

Trong hai người, không ai đáng trách. Chỉ trách Thị Mầu sinh ra sai thời, Thị Kính không thể chống lại quan điểm cổ hủ xấu xa.

Mẫu Phân Tích Thị Mầu Lên Chùa Sâu Sắc – Mẫu 4

Có một vở chèo kinh điển mà cho đến ngày nay chiều sâu tư tưởng và câu hỏi mà vở chèo đặt ra là vấn đề mà mọi thời đại đều hướng đến. Đó là vở chèo Quan âm thị kính. Đoạn trích Thị mầu lên chùa sẽ cho ta hiểu hơn về xã hội, về con người lúc bấy giờ.

Lễ chùa cúng vái có lẽ là một nét đẹp trong phong tục của người Việt, là truyền thống mà mọi nhà đều gìn giữ. Và thị mầu cũng lễ chùa để khấn vái. Được biết đến là một cô gái lẳng lơ, hình ảnh Thị Mầu lên gợi cho ta ấn tượng về một cô gái xinh đẹp, lả lướt có phần lẳng lơ, thiếu sự thành tâm, nghiêm túc nơi cửa chùa. Thị Mầu lên chùa khác với lệ thường là: Người ta lên chùa vào mười tư, rằm; còn Thị Mầu lên chùa mười ba. 

Bởi vì ngay từ đầu Thị Mầu đã được xây dụng là người con gái lẳng lơ, không phải là người con gái theo quan niệm “tam tòng tứ đức” của thời xưa vậy nên, qua lời đề thì những cái dở, cái xấu của Mầu được bộc lộ rõ ràng hơn. Cái dở đó chỉ duy nhất là sự mù quáng, mà đã yêu đương say đắm và dữ dội đến như thế, thì có mù quáng cũng là dễ hiểu, do đó dễ thông cảm, và hơn nữa, dễ thương mà thôi.

Cái mù quáng của Thị Mầu là ở chỗ cô không nhận biết – đối tượng của mình… Thầy Tiểu mà cô mê thực ra là Thị Kính giả trai. Sự mù quáng của Thị Mầu cùng với cơn yêu đương. Hành động của Thị Mầu như là xông ra nắm tay chú tiểu, với những lời nói của người lẳng lơ, thấy chú tiểu đẹp thì mê, mà mê thì ghẹo, mà ghẹo thì ghẹo tới nơi tới chốn.

Những ngôn ngữ, hành động của Thị Mầu khi bày tỏ tình cảm với chú tiểu: khi gặp Mầu đã khen “đẹp như sao băng”, đôi mắt sắc như dao bổ cau liếc đi, liếc lại, đôi môi đỏ mọng lúc nào cũng cười nở như hoa và nhất là lời bóng gió, ẩn ý đầy chất dân gian để “đánh” đi những lượng tin cần thiết mà da diết về phía chú tiểu, táo bạo hơn nữa, lời nói chưa đủ làm Tiểu Kính rung động, Thị Mầu tiến tới hành động: đợi cơ hội Tiểu Kính ra và nắm tay Tiểu Kính, đòi quét chùa thay Tiểu Kính, lại còn mời mọc. Ta thấy sự táo bạo, mãnh liệt, quyết tâm; không e thẹn, do dự, ngại ngùng.

 Trong lời giới thiệu với chú tiểu, Thị Mầu đặc biệt nhấn mạnh thông tin “chưa chồng”

“Tuổi vừa đôi tám, chưa chồng đấy thầy tiểu ơi!
Chưa chồng đây nhá!”

Đi lễ chùa nhưng có lẽ Thị Mầu đã tìm thấy thứ thu hút mình ngay từ cái nhìn đầu tiên, không quan tâm đến việc vào lễ Phật.

Thị mầu ghẹo tiểu được diễn tả bằng chính hai điệu hát “Cấm giá” và “Bình thảo”. “Cấm giá” vì Thị Mầu mới ve vãn nên câu thơ còn e ấp tế nhị:

“Tôi lên chùa thấy tiểu mười ba
Thấy sư mười bốn vãi già mười lăm
Tôi muốn cho một tháng đôi rằm”

“Bình thảo” khi mà sự ve vãn bên ngoài không có kết quả, khi mà Thị Mầu đã bốc lửa, Thị Mầu muốn đốt cháy với chú tiểu thì lời ca trong điệu hát không còn ngọt ngào:

“Người đâu ở chùa này
Cổ cao ba ngấn, lông mày nét ngang
Ấy mấy thầy tiểu ơi”
“Thầy như táo rụng sân đình
Em như gái rở, đi rình của chua

Phải nói rằng phép so sánh ở đoạn này thật độc đáo đến lạ, Lối nói ví von so sánh thể hiện khát khao yêu đương của Thị Mầu. “Thầy như táo rụng sân đình / Em như gái rở, đi rình của chua”. Cây táo mọc ở sân đình thường cao, sau mùa xuân chín rụng. Vì ít được chăm sóc lại già cỗi nên táo vừa chua, vừa chát. Còn người phụ nữ nghén, người đời gọi là gái rở, thường thèm của chua, thèm đến xót lòng.

Người đàn bà ăn dở mà gặp quả táo, hơn nữa lại là rụng mà rụng ở sân đình thì nỗi khát khao thèm muốn càng tăng thêm gấp bội. Nhặt quả táo lên chắc người con gái ăn dở ấy phải nhai nuốt ngấu nghiến. Việc Thị Mầu ví mình như gái rở, ví tiểu Kính như táo rụng sân đình thì hình ảnh vừa thật vừa rõ nét mà vừa dễ hiểu cho người xem. Những câu hát trong phần này tập trung thể hiện nỗi lòng, khát khao hạnh phúc của Thị Mầu nhưng lại bị chú tiểu ngó lơ.

Những lời đế ấy không chỉ giúp Mầu thể hiện rõ bản thân của mình mà còn khiến giá trị của những yếu tố trong vở chèo dân gian là cách dùng gậy ông lại đập lưng ông mà văn học dân gian rất thiện nghệ để phê phán, hơn nữa, bóc trần cái đạo đức giả của đạo đức  phong kiến.

Đối diện với những lời mời mọc đầy mật ngọt của Thị Mầu thì Thị kính giữ khoảng cách, tìm cách từ chối, lẩn tránh, lúc nào cũng tụng kinh “Niệm Nam mô A Di Đà Phật!”. Bên cạnh nét giai điệu phóng túng, du dương là nét nhạc trầm lắng cùng với tiếng gõ mõ tụng kinh đều đều. Hai thái cực âm nhạc đối nhau, hai tâm trạng khác nhau, hai nỗi niềm khác nhau tạo nên một màn trò độc đáo. 

Hai người con gái, hai hoàn cảnh, hai tính cách, hai số phận, hai cách lựa chọn… nhưng đều chịu sự trói buộc của lễ giáo phong kiến… Là một người phụ nữ với nhiều phẩm chất tốt đẹp, đáng ra Thị Kính phải có một cuộc sống êm ấm, hạnh phúc và vui vẻ, thế nhưng người phụ nữ ấy lại có một số phận đầy đau khổ và bất hạnh.

Vì muốn cắt cái râu mọc người cho chồng, Thiện Sĩ tỉnh giấc khi chưa hiểu rõ ngọn ngành đã hét lớn, cho rằng Thị Kính muốn giết mình. Trước sự việc ấy, Sùng bà – mẹ của Thiện Sĩ đã dùng những lời lẽ cay độc, tàn nhẫn để mắng chửi, sỉ nhục và thậm chí còn đẩy ngã Thị Kính. Tuy nhiên, trước những lời nói và hành động của mẹ chồng, Thị Kính vẫn rất hòa nhã, nàng phân bua, hết lần này đến lần khác kêu oan nhưng tất cả đều trở nên vô nghĩa.

Thị Kính bị đuổi ra khỏi nhà với nỗi oan khuất không thể lí giải còn cha của nàng thì bị đẩy ngã. Chắc hẳn sẽ chẳng có nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau của Thị Kính lúc này – hôn nhân, gia đình tan vỡ, mất lòng tin ở chính những người thân trong gia đình và hơn thế nữa đó chính là việc nàng đã phải chứng kiến cảnh cha mình bị làm nhục.

Tận cùng của nỗi đau và sự bất lực và có lẽ cũng không còn sự lựa chọn nào khác, Thị Kính quyết định ra đi. Sự lựa chọn ấy của Thị Kính như một lẽ tất yếu, bởi lẽ nàng đã bị đuổi khỏi nhà chồng, càng không thể trở về nhà cha mẹ đẻ bởi đó là điều lễ giáo phong kiến không cho phép.

Nàng giả trai đi tu, nương nhờ cửa Phật với mong mỏi sẽ có được cuộc sống yên bình và nơi thanh tịnh ấy sẽ chứng minh cho sự trong sạch của nàng. Nhưng đồng thời, sự lựa chọn ấy của nàng cũng cho thấy sự sự bế tắc của nàng nói riêng, của người phụ nữ trong xã hội cũ nói chung bởi đấy là sự lựa chọn thụ động trước sự nghiệt ngã, xô đẩy của hoàn cảnh.

Tiếng gọi “thầy tiểu ơi” lặp đi lặp lại nhiều lần đã bộc lộ nỗi lòng say mê, yêu thương tha thiết của Thị Mầu. Mầu khao khát được yêu, được đáp lại tình yêu chân thành, Mầu dám phơi bày ruột gan tình cảm của mình ra trước mặt mọi người, dám thổ lộ, dám tấn công. Em ấn tượng nhất vời tỏ tình của Thị Mầu là:

“Một cành tre, năm bảy cành tre
Phải duyên thời lấy, chớ nghe họ hàng
Ấy mấy thầy tiểu ơi!…
Mẫu đơn giồng cạnh nhà thờ
Đôi ta chỉ quyết đợi chờ lấy nhau”

Bởi lời tỏ tình ấy da diết làm sao, nó chứa chan mong ước về tự do yêu đương, tự do lựa chọn hôn nhân. Dám yêu, dám lên tiếng vì tình yêu – giữa xã hội phong kiến chỉ duy nhất một Thị Mầu. 

Một thì Mầu khác biệt với Thị Kính. Thị kính nhẫn nhịn, thị Kính chịu đựng bao nhiêu thì thị Mầu lại bùng nổ bấy nhiều. Thị Mầu dám  cất lên tiếng nói nữ quyền để lật đổ thành trì lễ giáo cũ kĩ đã trở thành giáo điều, đạp đổ những lệ làng, những đạo đức giả, những quan niệm cổ hủ chà đạp lên thân phận và tước đoạt hạnh phúc con người. Trong dòng nghĩ suy qua lời hát ghẹo của Thị Mầu đã ẩn chứa khát khao chung tình – khao khát chính đáng trong tình yêu. 

Đối lập hoàn toàn với Thị Kính là Thị Mầu, Thị Mầu lẳng lơ, sàm sỡ, táo bạo. Thị Mầu đáng giận, đáng trách. Vì Thị Mầu mà Thị Kính bị oan, phải nuôi con trong chốn thiền môn. Từ chuyện tích này, dân gian có thành ngữ “oan Thị Kính” để so sánh với những nỗi oan khuất cùng cực mà không sao giãi bày được.

Từ thành ngữ nói trên, đã hình thành một thành ngữ phái sinh là “oan Thị Mầu” để nói đến việc đã rõ ràng mười mươi là do mình gây ra nhưng vẫn cứ kêu oan, như Thị Màu bị dân làng bắt vạ vì không chồng mà chửa mà vẫn cho rằng mình… oan! 

Thực ra, Thị Mầu đáng thương hơn đáng trách, đáng giận, có khi còn quá xót xa, thông cảm cho nhân vật này. Bởi vì người phụ nữ có quyền yêu nhưng không được yêu, có quyền được làm mẹ nhưng lạ không thể kàm mẹ.

Thị Mầu yêu say đắm Kính Tâm nhưng không được đáp trả, nàng vốn có tính lẵng lơ nên đã tư thông với tên người hầu để phải chửa. Nàng chửa, rồi đổ vạ cho Kính Tâm khiến cho Kính Tâm phải chịu oan. Nhưng rồi tới khi sinh con cũng không được cha cho nuôi, bắt đem đứa con ấy đến chùa.

Xót xa thay! Tình máu mủ đâu có thể nói bỏ là bỏ được. Chín tháng mười ngày mang nặng đẻ đau rồi phải mang đứa con mình ra trước cổng chùa, để phó mặc nó sống sao thì sống, ai mà không xót xa, thương cảm cho được. Như vậy, chẳng phải Thị Màu đã trở thành một kẻ đáng thương rồi sao?

Chiếu chèo sân đình tái hiện lại một Thị Mầu thực dám sống, dám yêu và dám làm những điều chống lại xiềng xích của chế độ cũ – chế độ không cho người phụ nữ được thể hiện mình, chôn vùi cuộc đời họ bằng nhiều hình thức. Xét cho cũng, dù Thị Mầu là con nhà Phú ông, là người có nhiều tính xấu nhưng số phận cũng gống như Thị Kính và những người phụ nữ khác, số phận đều bế tắc, không có lối thoát!

Thị Mầu là người con gái có cá tính riêng, dám vượt qua khuôn khổ vốn có của Nho Giáo để bày tỏ và thể hiện mình, Thị Mầu như đại diện cho bao nỗi khát vọng của người phụ nữ xưa. Tuy những hành động của Mầu trong chùa là điều không nên làm nhưng bởi sự hối thúc, khao khát của tình yêu mà lí trí bị lu mờ.

Nhân vật Thị Mầu trong chèo cổ biểu hiện cho một phẩm chất khác của người phụ nữ Việt Nam đó là khát khao yêu đương. Đây là quyền cơ bản của người phụ nữ nói riêng và con người nói chung. Khi lớn lên phải được tự do tìm hiểu, yêu đương và phải lấy người mình yêu.

Nhưng đối lập với quyền ấy trong xã hội phong kiến là một lớp sơn đạo đức giả tạo của chế độ hà khắc để trói buộc bao người phụ nữ phải tuân theo “tam tòng”, “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” chứ không được lựa chọn tình yêu và hạnh phúc của riêng mình. Cô ý thức tự do trong tình yêu bộc lộ ở lời nhủ mình và khuyên chị em chớ nghe họ hàng. Thị Mầu là con người của nghệ thuật.

Mẫu Phân Tích Thị Mầu Lên Chùa Hay Đặc Sắc – Mẫu 5

Trong thời đại ngự trị của xã hội phong kiến đầy rẫy những bất công, nơi nhân quyền được xem là rẻ rách thì thân phận nữ quyền cũng không đáng bằng cắc bạc. Dù “ tài hoa bạc mệnh “ như vậy, nhưng người phụ nữ xưa vẫn làm tròn  bổn phận “ công dung ngôn hạnh” của mình, đẹp thướt tha dịu dàng,và có thể ví thành “ Bàn bàn nhập họa “,“Băng thanh ngọc khiết “ tức là vừa đẹp như tranh vẽ vừa thuần khiết trong sáng như băng. 

Nhưng không thể đánh đồng tất cả bởi vì làm quan còn có người tốt kẻ tham, làm vật còn có giống cái giống đực, thì làm người mấy ai được như bụt trong truyện, như cô tiên trên trời, và người phụ nữ cũng vậy, ngoài cái vẻ đẹp ở thể xác và tâm hồn như nhân vật nàng Thị Kính thì người ta còn nhắc về những cô gái đi trái lại với “ quan điểm về cái đẹp “ đó là lẳng lơ, buông thả mình, thể hiện qua nhân vật Thị Mầu. Tất cả những tiêu biểu nhất đã được khắc họa qua đoạn trích “ Thị Mầu Lên chùa “ trích “ Quan âm Thị Kính”

 “ Này chị em
….
Chính chuyên cũng chẳng son để thờ”

Qua “ Quan âm Thị kính “ đức khí phúc hậu, cốt đức nhẫn nhịn đáng nể phục của nàng Thị Kính được thể hiện rõ nhất qua đoạn trích” Thị Mầu lên chùa “.Trước cuộc gặp gỡ đầy bi oai nành đã mang cái oan nghiệt ngã được gọi là “ Oan Thị Kính “ đúng thật là:

“ Phận người con gái chỉ đẹp nhất lúc chưa chồng… “ 

Nàng Thị kính một người con gái vừa tài sắc vừa nết na, nàng được gả cho một thư sinh tên Thiện Sỹ con nhà họ Sùng. Hai vợ chồng ăn ở với nhau rất hòa thuận.

Một hôm chồng ngồi đọc sách vợ ngồi khâu bên cạnh,lúc sau vì mệt chàng tựa vào bên ngủ thiếp đi. Nàng nhìn thấy trên cầm chồng có một sợi râu mọc ngược, sẵn dao trên tay nàng toan cắt sợi râu đi. Bổng chàng giật mình tỉnh dậy, tưởng vợ có ý định hại mình nên bèn hô tri lên, ba mẹ chồng đến một mực đổ lỗi cho nàng có tình ý giết chồng, rồi kêu Mãng Ông đến trả lại con gái.

Sau khi bị oan không tài nào có thể xóa bỏ hiềm ác trông mắt người khác còn mang tiếng “ Tình Lý gian ngay “ nổi thống khổ không biết kể cùng ai, nàng bèn quyết tâm đi tu, trước là báo đáp ơn nghĩa sâu nặng của cha mẹ, sau là giải tỏa phần nào nổi oan khiêm.

Đang trong đêm, nàng cắt tóc giả thành nam nhân và trốn khỏi nhà. Một lần nữa, nàng lại mắc vào cái oan bị cho là đã bỏ nhà theo trai. Nhưng nàng vào chùa là để tìm khoảng bình yên trong lòng, nàng muốn tránh những nhiễm khích, mưu toan, chật vật, khốn khó của đời với phận nữ nhi. Vậy mà cớ sự nào có bao giờ được như ý.

Vào Chùa cũng là nơi nàng gặp người con gái Thị Mầu với những tính cách đi ngược lại với quan niệm về người phụ nữ xưa nay đó là làm con gái phải đi nhẹ nói khẽ, lễ phép, lịch sự, nhu mì là ấn tượng đầu tiên người ta đánh giá về mình. Hơn nữa chính là biết “ cầm kỳ thi họa “ và phải “ tề gia nội trợ “. Bởi vậy, ngay cái nhìn đầu tiên qua lời nói, cách ăn mặc, phép hành xử ta cũng có thể thấy được sự đối lập giữa hai nhân vật Thị Mầu và Thị Kính. 

Giữa một không gian yên tĩnh, linh thiêng, thanh tịnh của nhà chùa, bỗng bị phá tan bởi sự náo loạn trong ngồn ngộp sắc màu “ vẽ đẹp phàm tục” của Thị Mầu, những tà áo dài cánh sen cùng yếm thắm, chiếc khăn xanh rực rỡ tung bay uốn lượn theo những vòng múa cuồng nhiệt, thể hiện cho sự khát khao tình yêu mãnh liệt, đam mê cháy bỏng, trong thời khắc căng tràn sức sống của Thị Mầu.

Nhưng cũng kèm theo đó là những tiếng hò chẳng mấy giữ phép tắc khi ở nơi chùa Linh Thiêng, nơi được cho là yên tịnh, nhẹ nhàng như thế này không phù hợp với sự năng động, xốc xáo của nàng “. 

Trái ngược với Thị Mầu, Kính Tâm như người con đã quy y vào cửa phật, nàng lễ phép trong lời nói, trước môi hở ra lời đều “ A Di Đà Phật “ chính nàng sống như Phật ở trong mình thể hiện lên đây là con người “ có tâm đức hiền lành,  tin vào phật pháp, tin vào nhân quả trong đời “ bởi vì thế nên không ham mê vật chất phàm trần, nàng ăn mặc giản dị với trang phục nâu sồng, dáng vẻ bình lặng vô vị, nàng nương cửa Phật “ nhất tâm thiền định “ rũ bỏ mọi ảo vọng của cuộc sống trầm luân. 

Hai nhân vật mang hai hình tượng đối lập không chỉ được xếp cạnh nhau mà còn đan xen vào nhau, có chỗ đan xen vào nhau thật là tài tình thủ pháp, bộc lộ được tính cách giữa hiền đức nhu mì của Thị Kính và Sự lơ lẳng,buông thả trong con người Thị Mầu 

Cuộc gặp gỡ của hai người không chỉ là một cuộc đối thoại mà còn là sự nảy nở tình duyên từ một phía của Thị Mầu, cũng là nghiệp duyên oan ức của Thị Kính. Từ đây con người của Mầu càng được bộc lộ rõ nét.

Kính Tâm vẫn luôn thể hiện cô là một người con gái không chỉ đẹp nết, đẹp lẫn người, mà còn thấu hiểu phật pháp, vừa thông minh vừa lễ độ, Kính Tâm luôn ghi nhớ công đức, lễ nghĩa của người khác, không bàn đến vật nhỏ hay lớn đều xuất phát từ tâm thì đó cũng chính là ân phúc Chùa nhận được, cô còn cầu nguyện cho họ nhờ phật tổ chứng giám cả lòng thành.

Bởi lẽ vì tâm hồn thanh cao đức độ như vậy nên dù cô có giả làm nam nhân khuôn mặt vẫn toát nên sắc đẹp khiến Thị Mầu rung động. Đúng như câu ông cha ta thường nói “ Tâm sinh tướng “ bên trong ra sao bên ngoài sẽ thể hiện như vậy.

Nàng nghiêm nghị trước Thị Mầu, không để những sắc dục phàm trần làm mờ mắt, một phần nữa bời lẽ nàng cũng là nữ nhi nên đôi phần không có hứng thú. Phần lớn hơn chính là nàng đã bước vào cửa phật, phải giữ lấy luật lệ làm đầu, ranh giới của thánh thiện và tội lỗi rất dễ mắt phải, nhất là qua xác thịt. 

Trong lời thoại của hai nhân vật, ta thấy Thị Mầu là người nhiều lời thoại hơn Kính Tâm. Từ đó đã cho thấy, Kính Tâm là người ít nói, kiệm lời, nàng dường như không muốn tiếp xúc với thị Mầu. Còn Thị Mầu lại trái ngược lại, Thị nhiều chuyện, nói không có điểm dừng, vui vẻ khi đạt được mục đích của mình. 

“ Đưa chổi đây em quét, rồi em nói chuyện này cho mà nghe “ 

Quan niệm về tình yêu đối với Thị Mầu rất đơn giản, chỉ cần thấy thích là có thể tiến tới. Nhất là nàng lại hám sắc, say mê cái đẹp thì hạnh phúc đơn giản chính là yêu cái đẹp, nàng bỏ qua sự rào cản về lễ nghĩa, giáo lý, gia đình để có thể làm điều mình thích.

Suy xét lại Thị Mầu cũng là người con gái mạnh mẽ, dám nghĩ dám làm, dám bộc lộ cái tôi nói lên quan điểm, nhận xét của mình. Tính cách của Thị như một làn gió mới cho hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong xã hội Phong Kiến. 

Còn đối với Kính Tâm, người con gái bị gia đình chồng vu oan, một nổi oan nghiêm cả đời không thể rửa. Đối với nàng tình yêu nam nữ không còn quan trọng nữa, thay vào đó nàng đi yêu những nổi khổ đau của nhân loại hơn, nhất là những móc xích còng chặt thân phận người phụ nữ không có tiếng nói, không được giải bày tâm sự nổi thống khổ trong lòng, vì thế nàng đến với Phật. 

Đón đọc phân tích🔻 Một Thời Đại Trong Thi Ca 🔻 Hay nhất

Viết một bình luận