Nội Dung Tác Phẩm Tản Viên Từ Phán Sự Lục, Giá Trị, Phân Tích, Soạn Bài, Giáo Án. Chia Sẽ Về Hoàn Cảnh Sáng Tác, Bố Cục, Đọc Hiểu, Sơ Đồ Tư Duy.
NỘI DUNG CHÍNH
Giới Thiệu Tác Phẩm Tản Viên Từ Phán Sự Lục
“Tản Viên từ phán sự lục” là một trong những tác phẩm nổi bật của Nguyễn Dữ, nằm trong bộ “Truyền kỳ mạn lục”. Đây là một bộ sưu tập gồm 20 truyện ngắn, viết bằng chữ Hán, ghi chép lại những câu chuyện kỳ lạ được lưu truyền trong dân gian.
Nguyễn Dữ sống vào thế kỷ XVI, thời kỳ triều đình nhà Lê bắt đầu suy thoái. Ông là một nhà văn nổi tiếng với phong cách viết kết hợp giữa hiện thực và kỳ ảo, tạo nên những tác phẩm vừa mang tính giáo dục, vừa hấp dẫn người đọc.
“Tản Viên từ phán sự lục” kể về nhân vật Ngô Tử Văn, một người cương trực, dũng cảm, không sợ cường quyền. Câu chuyện được chia thành bốn phần chính:
- Giới thiệu nhân vật Ngô Tử Văn:
- Ngô Tử Văn là một người nổi tiếng cương trực, thấy điều bất bình thì không chịu được. Ông đã đốt đền của một tên tướng giặc đã chết nhưng vẫn tác oai tác quái.
- Ngô Tử Văn đốt đền và gặp hồn ma Bách hộ Thôi cùng Thổ thần:
- Sau khi đốt đền, Ngô Tử Văn gặp hồn ma của tên tướng giặc Bách hộ Thôi, người đã chiếm đền của Thổ thần. Thổ thần hiện ra và cảm ơn Tử Văn, đồng thời báo cho ông biết về việc sẽ bị hồn ma kiện lên Diêm Vương.
- Ngô Tử Văn và cuộc đối chất ở Minh ti trước Diêm Vương:
- Ngô Tử Văn bị hồn ma Bách hộ Thôi kiện lên Diêm Vương. Tại Minh ti, Tử Văn đã dũng cảm đối chất và vạch trần tội ác của tên tướng giặc. Diêm Vương sau đó đã xử lý công bằng, trừng phạt hồn ma Bách hộ Thôi và trả lại sự trong sạch cho Tử Văn.
- Ngô Tử Văn thắng lợi trở về, nhận chức Tản Viên:
- Sau khi thắng kiện, Ngô Tử Văn được Thổ thần đưa trở về dương gian và được phong làm Tản Viên từ phán sự, một chức quan coi sóc việc xử án ở vùng núi Tản Viên.
Giá trị nội dung và nghệ thuật
- Nội dung: Tác phẩm ca ngợi tinh thần cương trực, dũng cảm đấu tranh chống lại cái ác, bảo vệ công lý của Ngô Tử Văn. Đồng thời, nó cũng phản ánh niềm tin vào sự công bằng và chính trực trong xã hội.
- Nghệ thuật: Nguyễn Dữ đã khéo léo kết hợp giữa yếu tố hiện thực và kỳ ảo, sử dụng ngôn ngữ sinh động, giàu hình ảnh, tạo nên một câu chuyện hấp dẫn và đầy ý nghĩa.
Tác phẩm “Tản Viên từ phán sự lục” không chỉ là một câu chuyện kỳ ảo mà còn là một bài học về lòng dũng cảm và sự công bằng.
Nội Dung Truyện Tản Viên Từ Phán Sự Lục
Tác phẩm nổi tiếng nhất của Nguyễn Dữ là tập Truyền kì mạn lục, ngoài Chuyện người con gái Nam Xương đã được tiếp xúc từ cấp học dưới, thì trong tập truyện ấy cũng không thể không nhắc đến Chuyện chức phán sự đền Tản Viên. Sau đây là Nội Dung Truyện Tản Viên Từ Phán Sự Lục đầy đủ.
Ngô Tử Văn tên là Soạn, người huyện Yên Dũng, đất Lạng Giang. Chàng vốn khảng khái, nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng Bắc người ta vẫn khen là một người cương trực. Trong làng trước có một ngôi đền linh ứng lắm. Cuối đời nhà Hồ, quân Ngô sang lấn cướp, vùng ấy thành một nơi chiến trường. Bộ tướng của Mộc Thạnh có viên Bách hộ họ Thôi, tử trận ở gần đền, từ đấy làm yêu làm quái trong dân gian. Tử Văn rất tức giận, một hôm tắm gội sạch sẽ, khấn trời, rồi châm lửa đốt đền. Mọi người đều lắc đầu lè lưỡi, lo sợ thay cho Tử Văn, nhưng chàng vẫn vung tay không cần gì cả.
Đốt đền xong, chàng về nhà, thấy trong mình khó chịu, đầu lảo đảo và bụng run run, rồi nổi lên một cơn sốt nóng sốt rét. Trong khi sốt, chàng thấy một người khôi ngô, cao lớn, đầu đội mũ trụ đi đến, nói năng và quần áo rất giống người phương Bắc, tự xưng là cư sĩ, đến đòi làm trả lại ngôi đền như cũ và nói:
– Nhà ngươi đã theo nghiệp nho, đọc sách vở của thánh hiền, há không biết cái đức của quỷ thần sao, cớ gì lại dám khinh nhờn huỷ tượng, đốt đền, khiến cho hương lửa không có chỗ tựa nương, oai linh không có nơi hiển hiện, vậy bảo làm sao bây giờ? Biết điều thì dựng trả ngôi đền như cũ. Nếu không thì, vô cớ huỷ đền Lư Sơn, Cố Thiệu sẽ khó lòng tránh khỏi tai vạ.
Tử Văn mặc kệ, vẫn cứ ngồi ngất ngưởng tự nhiên. Người kia tức giận nói:
– Phong đô không xa xôi gì, ta tuy hèn, há lại không đem nổi nhà ngươi đến đấy. Không nghe lời ta thì rồi sẽ biết.
Nói rồi phất áo đi.
Chiều tối, lại có một ông già, áo vải mũ đen, phong độ nhàn nhã, thủng thỉnh đi vào đến trước thềm, vái chào mà rằng:
– Tôi là Thổ công ở đây, nghe thấy việc làm rất thú của nhà thầy, vậy xin đến để tỏ lời mừng.
Tử Văn ngạc nhiên nói:
– Thế người đội mũ trụ đến đây ban nãy, chẳng phải là Thổ công đấy ư? Sao mà nhiều thần quá vậy?
Ông già nói:
– Ô, đấy là viên tướng bại trận của Bắc triều, cái hồn bơ vơ ở Nam quốc, tranh chiếm miếu đền của tôi, giả mạo họ tên của tôi, quen dùng chước dối lừa, thích làm trò thảm ngược, Thượng Đế bị nó bưng bít, hạ dân bị nó quấy rầy, phàm những việc hưng yêu tác quái đều tự nó cả, chứ có phải tôi đâu. Xin kể đầu đuôi để nhà thầy nghe: “Tôi làm chức Ngự sử đại phu từ đời vua Lí Nam Đế, vì chết về việc cần vương mà được phong ở đây, giúp dân độ vật đã hơn một nghìn năm nay, khi nào lại làm việc gieo tai rắc vạ để kiếm miếng ăn như tên giặc giảo hoạt kia đã làm. Gần đây vì tôi thiếu sự đề phòng, bị nó đánh đuổi, nên phải đến nương tựa ở đền Tản Viên đã vài năm nay”.
Tử Văn nói:
– Việc xảy ra đến như thê, sao ngài không kiện ở Diêm Vương và tâu lên Thượng Đế, lại đi khinh bỏ chức vị, làm một người áo vải nhà quê?
Ông già chau mặt nói:
– Rễ ác mọc lan, khó lòng lay động. Tôi đã định thưa kiện, nhưng mà có nhiều nỗi ngăn trở: Những đền miếu gần quanh, vì tham của đút, đều bênh vực cho nó cả. Tôi chỉ giữ được một chút lòng thành, nhưng không làm thế nào để thông đạt được lên, cho nên đành tạm ẩn nhẫn mà ngồi xó một nơi.
Tử Văn nói:
– Hắn có thực là tay hung hãn, có thể gieo vạ cho tôi không?
– Hắn quyết chống chọi với nhà thầy, hiện đã kiện thầy ở Minh ti. Tôi nhân lúc hắn đi vắng lén đến đây báo cho nhà thầy biết để mà liệu kế, khỏi phải chết một cách oan uổng.
Ông già lại dặn Tử Văn:
– Hễ ở Minh ti có tra hỏi, thầy cứ khai ra những lời nói của tôi. Nếu hắn chối, thầy kêu xin tư giấy đến đền Tản Viên, tôi sẽ khai rõ thì nó phải đớ miệng. Nếu không như thế thì tôi đến vùi lấp trọn đời mà thầy cũng khó lòng thoát nạn.
Tử Văn vâng lời. Đến đêm, bệnh càng nặng thêm, rồi thấy hai tên quỷ sứ đến bắt đi rất gấp, kéo ra ngoài thành về phía đông. Đi độ nửa ngày đến một toà nhà rất lớn, xung quanh có thành sắt cao vọi đến mấy chục trượng. Hai tên quỷ đến nói với người canh cổng, người canh cổng đi vào một lúc rồi ra truyền chỉ rằng:
– Tội sâu ác nặng, không được dự vào hàng khoan giảm.
Nói rồi xua tay bảo đi ra phía bắc. Ở đó có một con sông lớn, trên sông bắc một cái cầu dài ước hơn nghìn thước, gió tanh sóng xám, hơi lạnh thấu xương. Hai bên cầu có mấy vạn quỷ Dạ Xoa đều mắt xanh tóc đỏ, hình dáng nanh ác. Hai con quỷ dùng gông dài, thừng lớn gông trói Tử Văn mà giải đi rất nhanh. Tử Văn kêu to:
– Ngô Soạn này là một kẻ sĩ ngay thẳng ở trần gian, có tội lỗi gì xin bảo cho, không nên bắt phải chết một cách oan uổng.
Chợt nghe trên điện có lời quát:
– Tên này bướng bỉnh ngoan cố, nếu không phán đoán cho rõ, chưa chắc nó đã chịu nhận tội.
Bèn sai dẫn Tử Văn vào cửa điện. Tử Văn vào đến nơi, thấy người đội mũ trụ đang kêu cầu ở trước sân.
Diêm Vương mắng Tử Văn rằng:
– Kẻ kia là một người cư sĩ, trung thuần lẫm liệt, có công với tiên triều, nên hoàng thiên cho được huyết thực ở một ngôi đền để đền công khó nhọc. Mày là một kẻ hàn sĩ, sao dám hỗn láo, tội ác tự mình làm ra, còn trốn đi đằng nào?
Tử Văn bèn tâu trình đầu đuôi như lời Thổ công đã nói, lời rất cứng cỏi, không chịu nhún nhường chút nào. Người đội mũ trụ nói:
– Ấy là ở trước vương phủ mà hắn còn ghê gớm như thế, mồm năm miệng mười, đơm đặt bịa tạc. Huống hồ ở một nơi đền miếu quạnh hiu hắn sợ gì mà không dám cho một mồi lửa.
Hai bên cãi cọ nhau mãi vẫn chưa phân phải trái, vì thế Diêm Vương sinh nghi. Tử Văn nói:
– Nếu nhà vua không tin lời tôi, xin đem tư giấy đến đền Tản Viên để hỏi. Không đúng như thế, tôi xin chịu thêm cái tội nói càn.
Bấy giờ người kia mới có vẻ sợ, quỳ xuống tâu rằng:
– Gã kia là học trò, thật là ngu bướng, quả đáng tội lắm. Nhưng đã trách mắng như vậy, cũng đủ răn đe rồi. Xin đại vương khoan dung tha cho hắn để tỏ cái đức rộng rãi. Chẳng cần đòi hỏi dây dưa. Nếu thẳng tay trị tội nó, sợ hại đến cái đức hiếu sinh.
Diêm Vương quát lớn rằng:
– Cứ như lời hắn thì nhà ngươi đáng tội chết. Điều luật trị tội lừa dối đã sẵn sàng đó. Cớ sao nhà ngươi dám làm sự lập lờ nhận tội như vậy?
Diêm Vương lập tức sai người đến đền Tản Viên để lấy chứng thực. Sai nhân về tâu, nhất nhất đúng với lời Tử Văn. Vương cả giận, bào các phán quan rằng:
– Lũ các ngươi chia toà sở, giữ chức sự, cầm lệnh chí công, làm phép chí công, thưởng thì xứng đáng mà không thiên vị, phạt thì đích xác mà không nghiệt ngã, vậy mà còn có sự dối trá càn bậy như thế; huống chi về đời nhà Hán, nhà Đường buôn quan bán ngục, thì những mối tệ còn nói sao hết được!
Liền sai lấy lồng sắt chụp vào đầu, khẩu gỗ nhét vào miệng, bỏ người ấy vào ngục Cửu U.
Vương nghĩ Tử Văn có công trừ hại, truyền cho vị thần đền kia, từ nay phần xôi lợn của dân cúng tế, nên chia cho Tử Văn một nửa và sai lính đưa Tử Văn về.
Chàng về đến nhà, té ra mình chết đã được hai ngày rồi. Nhân đem những việc đã qua kể cho mọi người nghe, ai cũng kinh hãi và không tin là thực. Sau đó họ đón một bà đồng về phụ bóng, đồng lên cũng nói đúng như lời Tử Văn. Người làng bèn mua gỗ, dựng lại một toà đền mới. Còn ngôi mộ của tên tướng giặc kia thì tự dưng thấy bị bật tung lên, hài cốt tan tành ra như cám vậy.
Sau đó một tháng, Tử Văn thấy Thổ công đến bảo:
– Lão phu đã trở về miếu, công của nhà thầy không biết lấy gì đền đáp được. Nay thấy ở đền Tản Viên khuyết một chân phán sự, lão đã vì nhà thầy hết sức tiến cử, được đức Thánh Tản ngài đã bằng lòng, vây xin lấy việc đó để đền ơn nghĩa. Người ta sống ở đời, xưa nay ai chẳng phải chết, miễn là chết đi còn được tiếng về sau. Nếu trùng trình độ nửa tháng, sợ sẽ về tay người khác mất. Nên cố gắng đi, đừng coi là việc thường.
Tử Văn vui vẻ nhận lời, bèn thu xếp việc nhà, rồi không bệnh mà mất.
Năm Giáp Ngọ, có người ở thành Đông Quan vốn quen biết với Tử Văn, một buổi sớm đi ra ngoài cửa tây vài dặm, trông thấy trong sương mù có xe ngựa đi đến ầm ầm, lại nghe tiếng quát:
– Người đi đường tránh xa, xe quan phán sự!
Người ấy ngẩng đầu trông thì thấy, người ngồi trên xe chính là Tử Văn. Song Tử Văn chỉ chắp tay thi lễ chứ không nói một lời nào, rồi thoắt đã cưỡi gió mà biến mất. Đến nay con cháu Tử Văn hãy còn, người ta truyền rằng đó là “nhà quan phán sự”!
Than ôi! Người ta thường nói: “Cứng quá thì gãy”. Kẻ sĩ chỉ lo không cứng cỏi được, còn gãy hay không là việc của trời. Sao lại đoán trước là sẽ gãy mà chịu đổi cứng ra mềm?
Ngô Tử Văn là một chàng áo vải. Vì cứng cỏi mà dám đốt cháy đền tà, chống lại yêu ma, làm một việc hơn cả thần và người. Bởi thế được nổi tiếng và được giữ chức vị ở Minh ti, thật là xứng đáng. Vậy kẻ sĩ, không nên kiêng sợ sự cứng cỏi.
Cập nhật thêm tác phẩm 💌 Nắng Đã Hanh Rồi 💌 Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích
Tóm Tắt Tản Viên Từ Phán Sự Lục Ngắn Gọn
Ngô Tử Văn, một kẻ sĩ nổi tiếng khẳng khái, chính trực vốn không chịu được sự tác yêu quái của hồn một tên tướng bại trận nên đã đốt đền của hắn, trừ hại cho dân. Tên hung thần đe dọa Tử Văn và kiện chàng ở âm phủ.
Tử Văn được thổ thần mách bảo về tung tích và tội ác của tên tướng giặc, đồng thời bày cho chàng cách đối phó với hắn. Tử Văn bị bắt giải xuống âm phủ. Đứng trước Diêm Vương, chàng đã không hề run sợ mà dũng cảm vạch trần mọi tội ác của tên hung thần. Có bằng chứng của thổ thần, mọi lời nói của Tử Văn được minh xác là sự thật.
Cuối cùng công lý được thực thi: tên tướng giặc và bọn phán sự vô trách nhiệm bị trừng trị, thổ thần được phục chức, Tử Văn được sống lại. Tiếp sau đó, nhờ thổ thần tiến cử Tử Văn được nhận chức phán sự đền Tản Viên chuyên trông coi việc xử án.
Về Tác Giả Nguyễn Dữ
- Nguyễn Dữ là người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân nay là xã Phạm Kha, huyện Thanh Miện, Hải Dương.
- Ông là con trai cả Tiến sĩ Nguyễn Tường Phiêu.
- Chưa rõ Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào.
- Tương truyền ông là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm và bạn học của Phùng Khắc Khoan, tức là vào khoảng thế kỷ XVI. Tuy nhiên mối quan hệ giữa ba người (mà phần lớn từ nguồn dân gian lưu truyền trong nhiều thế kỷ) ngày nay đang gặp phải sự bác bỏ của giới nghiên cứu văn học sử.
- Lúc nhỏ Nguyễn Dữ chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ôm ấp lý tưởng lấy văn chương nối nghiệp nhà.
- Sau khi đậu Hương tiến (tức cử nhân), ông làm quan dưới nhà Mạc, rồi về với nhà Lê làm Tri huyện Thanh Tuyền (nay là Bình Xuyên, Vĩnh Phúc); nhưng mới được một năm, vì bất mãn với thời cuộc, lấy cớ nuôi mẹ, xin về ở núi rừng Thanh Hóa. Từ đó trải ”mấy năm dư, chân không bước đến thị thành” rồi mất tại Thanh Hóa.
- Ông để lại tác phẩm nổi tiếng là Truyền kì mạn lục thể hiện rõ quan điểm sống và tấm lòng của ông với cuộc đời.
Đừng vội bỏ lỡ phân tích 🌸 Thơ Duyên [Xuân Diệu] 🌸 Sơ Đồ Tư Duy, Phân Tích, Dàn Ý
Hoàn Cảnh Sáng Tác Tản Viên Từ Phán Sự Lục
“Tản Viên từ phán sự lục” là một trong những truyện ngắn nổi tiếng trong tập “Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ. Tác phẩm này được sáng tác vào nửa đầu thế kỷ XVI, trong bối cảnh xã hội Việt Nam đang trải qua nhiều biến động lớn.
Hoàn cảnh sáng tác
- Thời kỳ lịch sử:
- Thế kỷ XVI là thời kỳ triều đình nhà Lê bắt đầu suy thoái, nội chiến liên miên giữa các thế lực phong kiến như nhà Mạc, Lê, Trịnh. Điều này đã tạo ra một xã hội đầy bất ổn và loạn lạc.
- Tác giả:
- Nguyễn Dữ là một nhà văn sống vào thế kỷ XVI, quê ở xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân (nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương). Ông là học trò của Tuyết Giang Phu Tử Nguyễn Bỉnh Khiêm, một nhà nho nổi tiếng thời bấy giờ.
- Nguyễn Dữ từng làm quan nhưng sau đó từ quan về ở ẩn, sống cuộc đời thanh bạch và sáng tác văn học. “Truyền kỳ mạn lục” là tác phẩm duy nhất của ông, gồm 20 truyện ngắn viết bằng chữ Hán
Chia sẻ cho bạn đọc tác phẩm 🌿 Bạch Đằng Hải Khẩu 🌿 Nội Dung, Nghệ Thuật
Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm Tản Viên Từ Phán Sự Lục
Nhan đề “Tản Viên từ phán sự lục” mang nhiều ý nghĩa sâu sắc, phản ánh nội dung và tinh thần của tác phẩm.
Ý nghĩa của nhan đề Tản Viên Từ Phán Sự Lục chi tiết:
- “Tản Viên”:
- Tản Viên là tên một ngọn núi nổi tiếng ở Việt Nam, gắn liền với truyền thuyết về Sơn Tinh, một vị thần trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Việc chọn tên Tản Viên làm nhan đề thể hiện sự liên kết với truyền thống văn hóa và lịch sử của dân tộc
- “Từ phán sự”:
- “Từ phán sự” là một chức quan trong hệ thống quan lại thời phong kiến, chuyên xử lý các vụ án và duy trì công lý. Chức danh này thể hiện vai trò của nhân vật chính Ngô Tử Văn trong việc đấu tranh chống lại cái ác và bảo vệ công lý.
- “Lục”:
- “Lục” có nghĩa là ghi chép, biên soạn. Từ này cho thấy tác phẩm là một câu chuyện được ghi chép lại, mang tính chất truyền kỳ, kết hợp giữa yếu tố hiện thực và kỳ ảo
Tổng thể nhan đề:
- Nhan đề “Tản Viên từ phán sự lục” không chỉ đơn thuần là tên của một câu chuyện mà còn gợi mở về nội dung và tinh thần của tác phẩm. Nó cho thấy câu chuyện về một người cương trực, dũng cảm, không sợ cường quyền, sẵn sàng đấu tranh để bảo vệ công lý và lẽ phải. Đồng thời, nhan đề cũng thể hiện sự kết hợp giữa yếu tố lịch sử, văn hóa và truyền kỳ, tạo nên một tác phẩm vừa mang tính giáo dục, vừa hấp dẫn người đọc.
Bố Cục Tản Viên Từ Phán Sự Lục
Tản Viên từ Phán sự lục có bố cục gồm 3 phần: mở đầu, nội dung và kết thúc.
- Mở đầu : Giới thiệu nhân vật Ngô Tử Văn.
- Nội dung: Chia làm 4 đoạn:
- Đoạn 1: Ngô Tử Văn và hành động đốt đền.
- Đoạn 2 (Đốt đền xong đến khó lòng thoát nạn.): Tử Văn gặp hồn ma tên Bách hộ Thôi và Thổ thần.
- Đoạn 3 (Tử Văn vâng lời đến không bệnh mà chết.): Tử Văn bị bắt và cuộc đối chất ở Minh ti trước Diêm Vương.
- Đoạn 4 (Phần còn lại): Tử Văn thắng lợi trở về, nhận chức Tản Viên.
- Kết thúc: Cuộc gặp gỡ giữa quan phán sự và người quen cũ.
Xem thêm về phân tích 💚 Dục Thúy Sơn [Nguyễn Trãi] 💚 Sơ đồ tư duy, phân tích hay nhất
Đọc Hiểu Tác Phẩm Tản Viên Từ Phán Sự Lục
1. Nhân vật Ngô Tử Văn – người đốt đền tà:
– Ngô Tử Văn tên là Soạn, người huyện Yên Dũng, đất Lạng.
– Tính cách: Khẳng khái, nóng nảy, cương trực.
⇒ Cách giới thiệu nhân vật: Theo phương pháp truyền thống của văn học trung đại, vừa cụ thể, ngắn gọn, vừa gây ấn tượng cho người đọc, tạo cảm giác “người thật, việc thật”. Đây là cách giới thiệu nhân vật phổ biến trong văn học trung đại.
2. Sự việc Ngô Tử Văn đốt đền:
– Nguyên nhân:
+ Tức giận, không chịu được yêu tà tác oai tác quái hại dân.
+ Đả phá sự mê tín thần linh của quần chúng nhân dân.
– Hành động: tấm gội sạch sẽ, khấn trời, châm lửa đốt đền.
→ Thể hiện sự khẳng khái, chính trực, dũng cảm và tinh thần dân tộc.
3. Sau khi đốt đền:
-Trạng thái cơ thể bất thường -> mở đầu cuộc giao tiếp với thế giới thần linh.
– Gặp hồn tên tướng bộ họ Thôi và vị thổ thần nước Việt.
+ Tên tướng bộ họ Thôi: đòi trả đền, mắng, đe dọa>< Tử Văn điềm nhiên.
+ Thổ công giúp đỡ, hứa làm chứng ở Minh Ti. Thể hiện tinh khảng khái, cương trực, cứng cỏi của Tử Văn.
Theo quan niệm dân gian, khi con người xâm phạm vào chốn linh thiêng sẽ bị trừng phạt. Lời kể của vị Thổ thần thực chất là lời tố cáo xã hội đương thời, phơi bày nỗi thống khổ của nhân dân, tố cáo nạn tham nhũng, ăn của đút của chính cõi trần để bênh vực, che đậy cái ác, cái xấu khiến người tốt bị oan khuất, vùi dập
– Quang cảnh nơi âm phủ:
+ Tòa nhà rất lớn, xung quanh có thành sắt cao vòi vọi…
+ Sông lớn, trên sông bắc một cây cầu dài hơn ngàn thước, gió tanh sóng xám, hơi lạnh thấu xương…
+ Hai bên cầu có mấy vạn quỷ dạ xoa, mắt xanh tóc đỏ, hình dáng nanh ác…
Thế giới âm phủ được miêu tả từ góc nhìn kỳ vĩ tạo ra ấn tượng hãi hùng về một thế giới khác, ở đó cái ác sẽ bị trừng trị nhằm thức tỉnh con người.
Cảnh xử kiện dưới âm phủ
– Ý nghĩa của việc trừng trị hồn ma: “Ngôi mộ bị bật tung lên, hài cốt tan tành ra như cám”. Người xưa quan niệm rằng, người chết luôn mong muốn mình có được “mồ yên mả đẹp”, không muốn ai đụng vào mồ mả của mình.Việc trừng trị này đã thể hiện sự nghiêm khắc đối với những kẻ làm điều xấu.
– Chiến thắng của Ngô Tử Văn có ý nghĩa:
+ Giải trừ tai họa, đem lại sự an lành cho dân.
+ Diệt trừ tận gốc thế lực bọn xâm lược tàn ác, giải oan cho thổ thần.
+ Được tiến cử vào chức phán sự đền Tản Viên đảm đương nhiệm vụ giữ gìn công lí.
+ Chiến thắng của Tử Văn có ý nghĩa khẳng định niềm tin vào chính nghĩa nhất định thắng gian tà.
⇒ Ngô Tử Văn là đại diện cho kẻ sĩ nước Việt, tác giả đề cao nhân vật này thể hiện tinh thần dân tộc mạnh mẽ, đấu tranh triệt để với cái xấu, cái ác để bảo vệ dân, bảo vệ chính nghĩa.
– Ý nghĩa của chức phán sự đền Tản Viên: Đền Tản Viên thờ đức thánh Tản người phán xử rõ mọi công đức, tội trạng của con người trần thế. Tử Văn nhậm chức phán sự – xem xét các vụ kiện tụng, giúp việc xử án cho đức Thánh Tản – góp phần thực hiện công lí chính nghĩa.
4. Ngụ ý phê phán:
– Hồn ma tên tướng giặc xảo quyệt, tham lam, hung ác.
– Hiện tượng oan trái, bất công từ cõi trần đến cõi âm: kẻ ác được bao che, người lương thiện chịu oan ức.
⇒ Hãy đấu tranh đến cùng chống cái ác cái xấu.
* Ý nghĩa:
+ Phê phán hồn ma tên tướng giặc xảo quyệt, giả mạo thổ thần, sống chết đều hung ác, tham lam, hại dân, đáng bị vạch mặt và trừng trị.
+ Hiện tượng oan trái, bất công từ cõi trần đến cõi âm: kẻ ác làm càn được bao che, người lương thiện chịu oan ức, thánh thần ở cõi âm cũng tham của đút bao che cho kẻ ác và cái ác lộng hành; Diêm Vương và các phán quan đại diện cho công lí cũng bị lấp tai che mắt. Đây là hình chiếu những bất công trong xã hội đương thời mà ở đó bọn tham quan ô lại đã tiếp tay cho kẻ xấu để gây nên bao nỗi khổ cho người dân lương thiện.
+ Thông điệp của nhà văn: Hãy đấu tranh đến cùng chống cái ác cái xấu; chỉ có đấu tranh dũng cảm mới đem lại phần thắng cho chính nghĩa.
Liên hệ thực tế:
– Qua câu chuyện về Ngô Tử Văn, em thấy trong cuộc sống hôm nay còn có nhiều người như Ngô Tử Văn không?
– Từ câu chuyện về các thánh thần tham của đút nên đã bênh vực cho tên họ Thôi, em suy nghĩ gì về tệ nạn tham nhũng ở nước ta hiện nay?
5. Nghệ thuật
a. Nghệ thuật kể chuyện: Nghệ thật kể chuyện đặc sắc, linh hoạt, sinh động và hấp dẫn
b. Vai trò của yếu tố kỳ ảo:
– Yếu tố kỳ ảo dày đặc ⇒ câu chuyện thêm hấp dẫn.
– Kỳ ảo là phương thức chuyên chở nội dung và cảm hứng hiện thực.
Chia sẻ cho bạn đọc 🌱 Bảo Kính Cảnh Giới [Nguyễn Trãi]🌱 Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật
Giá Trị Tác Phẩm Truyện Tản Viên Từ Phán Sự Lục
Tham khảo những Giá Trị Tác Phẩm Truyện Tản Viên Từ Phán Sự Lục bên dưới:
Giá trị nội dung
- “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” của Nguyễn Dữ có nhiều ý nghĩa nhưng chủ yếu là đề cao tinh thần khẳng khái, cương trực, dám đấu tranh chống lại cái ác trừ hại cho dân qua hình tượng Ngô Tử Văn- một trí thức yêu chính nghĩa, dũng cảm, cương trực.
- Truyện thể hiện khát vọng công lí, niềm tin công lí, chính nghĩa nhất định sẽ chiến thắng.
Giá trị nghệ thuật
- Bằng cách kể chuyện lôi cuốn với những tình tiết và cách xây dựng truyện giàu kịch tính, Nguyễn Dữ đã dựng nên bức chân dung của nhân vật Ngô Tử Văn một cách sắc nét và sinh động.
- Truyện sử dụng những chi tiết kì ảo, hoang đường khiến cho câu chuyện trở nên hấp dẫn, hứng thú với người đọc.
- Nhân vật được xây dựng sắc nét.
Soạn Bài Tản Viên Từ Phán Sự Lục Lớp 10
Chia sẻ gợi ý Soạn Bài Tản Viên Từ Phán Sự Lục ngắn nhất sách Kết nối tri thức:
Câu 1 (trang 20 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1):
– Người kể chuyện là tác giả Nguyễn Dữ
– Những lười kể giúp hình dung về tính cách của nhân vật Tử Văn: Chàng vốn khảng khái, nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng Bắc vẫn khen là một người cương trực.
Câu 2 (trang 20 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1):
– Các sự kiện chính:
+ Trong làng có ngôi đền bị hồn ma tác yêu tác quái, Tử Văn tức giận khấn trời và châm lửa đốt đền.
+ Tử Văn sốt mê man, mơ thấy tên hung thần đòi trả đền và đe doạ đưa xuống địa ngục
+ Tử Văn gặp Thổ Công và được nghe kể rõ câu chuyện về viên tướng ở đền, bất bình muốn kiện Diêm Vương.
+ Trước Diêm Vương, Tử Văn đã tố cáo tên hung thần, bắt hắn phải chịu tội, yêu cầu xin tư giấy đến đền Tản Viên để làm chứng.
+ Tên tướng bị Diêm Vương trừng phạt, Tử Văn được thưởng và trở về trần gian.
+ Tử Văn mất và nhận chức phán sự ở đền Tản Viên.
– Các sự kiện được kể theo trình tự thời gian.
Câu 3 (trang 20 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1):
– Diễn biến câu chuyện xử án: Tử Văn bị đưa xuống Âm Phủ, Diêm Vương xét xử định tội. Ngô Tử Văn và người đội mũ trụ cãi cọ mãi không phân phải trái. Vì vậy, Tử Văn yêu cầu xin giấy tư đền ở Tản Viên để làm chứng khiến tên đội mũ trụ sợ hãi, nói khéo tha tội Tử Văn. Diêm Vương sai người đến Tản Viên chứng thực, nhận ra viên tướng kia nói dối liền xử phạt, bỏ vào ngục Cửu U, còn Tử Văn được thưởng và trở về trần gian.
– Yếu tố đóng vai trò quyết định cho chiến thắng của Tử Văn: thái độ cương quyết, khẳng khái của Ngô Tử Văn khiến Diêm Vương phải sai người đến đền Tản Viên để lấy chứng thực.
Câu 4 (trang 20 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1):
– Nhân vật Tử Văn được khắc hoạ chủ yếu qua lời nói và hành động
+Tử Văn rất tức giận, một hôm tắm gội sạch sẽ, khấn trời rồi châm lửa đốt đền
=> Những hành động của Ngô Tử Văn rất cương quyết, có tính toán, chủ động, không phải sự bộc phát, cho thấy ý chí mạnh mẽ, quyết tâm diệt trừ cái xấu.
+ Khi nghe tên tướng đe doạ, Tử Văn ngồi ngất ngưởng tự nhiên => thái độ ngang tàng, bất khuất, không e sợ trước cái xấu, cái ác.
+ Câu nói: “Ngô Soạn này là một kẻ sĩ ngay thẳng ở trần gian, có tội lỗi gì xin bảo cho, không nên bắt phải chết một cách oan uổng” => Tinh thần khẳng khái, tự tin, dám làm dám chịu, không cúi đầu trước cái xấu cái ác của Ngô Tự Văn
– Nhân vật Ngô Tử Văn là một người dũng cảm, cương trực, khẳng khái, luôn sẵn sàng đấu tranh bảo vệ cái tốt và diệt trừ cái xấu.
Câu 5 (trang 20 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1):
– Tác giả nhấn mạnh người ở hiền gặp lành và sẽ được đền đáp xứng đáng. Ngô Tử Văn với việc làm chính nghĩa của mình đã nhận được phần thưởng xứng đáng, bất tử và để lại tiếng thơm muôn đời.
Câu 6 (trang 20 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1):
– Thế giới thần linh, ma quỷ trong câu chuyện đã thể hiện suy nghĩ của tác giả “trần sao âm vậy”, làm nổi bật giá trị hiện thực của tác phẩm. Những lời nói của Tử Văn với Thổ Công, lời nói của Diêm Vương đã phản ánh hiện thực chốn quan trường: những người có tài năng phải lánh đục về trong, còn những kẻ có chức có quyền thì cấu kết hại dân. Ngoài ra, tác phẩm còn phản ánh hiện thực cuộc sống đầy bất công, khổ cực đối với những con người thấp cổ bé họng trong xã hội.
Câu 7 (trang 20 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1):
– Quan niệm về kẻ sĩ: Kẻ sĩ không nên kiêng sợ sự cứng cỏi.
– Đồng tình với quan niệm đó. Vì kẻ sĩ là những người tri thức, có hiểu biết, vì vậy không nên vì bất cứ khó khăn gì mà nản lòng, bỏ cuộc. Câu nói đề cao phẩm chất kiên quyết hành động, con người cần phải bản lĩnh, dám nghĩ dám làm, dám đương đầu với khó khăn thử thách.
Xem thêm phân tích 🌼 Bình Ngô Đại Cáo 🌼 Nội Dung Bài Thơ, Nghệ Thuật, Phân Tích
Giáo Án Tản Viên Từ Phán Sự Lục Lớp 10
Xem thêm nội dung Giáo Án Tản Viên Từ Phán Sự Lục.
I. Mục tiêu bài học
1. Kiến thức
– Vẻ đẹp của nhân vật Ngô Tử Văn – đại diện cho người trí thức nước Việt dũng cảm, kiên cường, yêu chính nghĩa, trọng công lí và có tinh thần dân tộc mạnh mẽ.
– Niềm tin chính nghĩa luôn thắng gian tà và lời nhắn nhủ : phải đấu tranh đến cùng để tiêu diệt cái ác, cái xấu.
– Cốt truyện giàu kịch tính ; kết cấu truyện chặt chẽ, lô gích ; cách dẫn chuyện khéo léo, kể chuyện linh hoạt ; miêu tả sinh động, hấp dẫn.
2. Kĩ năng
– Kĩ năng tìm hiểu thể truyền kì: Đọc và tóm tắt một tác phẩm tự sự trung đại; Phân tích nhân vật trong truyện truyền kì
3. Thái độ, phẩm chất
– Giáo dục lòng yêu chính nghĩa và niềm tự hào về người trí thức nước Việt. Có thái độ kiên quyết chống lại các thế lực phi nghĩa, gian ác để bảo vệ lẽ phải và sự công bằng trong xã hội.
4. Định hướng phát triển năng lực
– Năng lực tự chủ và tự học, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực thẩm mỹ, năng lực tư duy; năng lực sử dụng ngôn ngữ.
II. Phương tiện
1. Giáo viên
SGK, SGV Ngữ văn 10, Tài liệu tham khảo, Thiết kế bài giảng
2. Học sinh
SGK, vở soạn, tài liệu tham khảo
III. Phương pháp thực hiện
Gv kết hợp phương pháp đọc sáng tạo, đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, tích hợp.
IV. Tiến trình dạy học
1. Ổn định tổ chức lớp
Sĩ số: …………………………
2. Kiểm tra bài cũ
– Vẻ đẹp nhân cách của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn và Thái sư Trần Thủ Độ qua hai đoạn trích đã học.
3. Bài mới
Hoạt động 1. Hoạt động khởi động
Trong chương trình Ngữ Văn lớp 9- THCS, các em đã được học tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương, là một trong hai mươi câu chuyện trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ.
Hôm nay, chúng ta lại cùng tìm hiểu về một câu chuyện nữa trong tập truyện kí đó của ông. Đó là Chuyện chức phán sự đền Tản Viên, một tác phẩm ca ngợi những nho sĩ, trí thức khảng khái, chính trực vì nghĩa lớn chống gian tà. Đồng thời qua lớp vỏ của yếu tố kì ảo, chúng ta cũng phần nào thấu hiểu được cốt lõi hiện thực lịch sử đương thời.
Hoạt động của GV và HS | Kiến thức cần đạt |
---|---|
Hoạt động 2: Hướng dẫn HS tìm hiểu tiểu dẫn. Thao tác 1: Tìm hiểu tác giảGV: Yêu cầu HS đọc Tiểu dẫn trong SGK .HS: Đọc bài | I. Tìm hiểu chung |
GV: Em hãy nêu các nét chính về tác giả Nguyễn Dữ? HS: Suy nghĩ trả lời | 1. Tác giả – Nguyễn Dữ (?-?). Sống vào thế kỉ XVI – Quê ở xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. – Xuất thân trong gia đình khoa bảng (cha đỗ Tiến sĩ đời Lê Thánh Tông) – Là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm (Từng thi và đỗ hương tiến sĩ, ra làm quan nhưng ít lâu sau từ quan về ở ẩn.) – Tác phẩm nổi tiếng “ Truyền kì mạn lục” được viết vào nửa đầu thế kỉ XVI |
Thao tác 2: Tìm hiểu tác phẩm GV: Bằng việc soạn bài ở nhà, đọc phần tiểu dẫn em hãy nêu những hiểu biết của mình về thể loại truyền kì? HS: Suy nghĩ và trả lời | 2. Tác phẩm a. Thể loại truyền kì – Là thể loại văn xuôi tự sự thời trung đại, phản ánh hiện thực qua những yếu tố kì lạ, hoang đường. – Thế giới con người gần với thế giới cõi âm có sự tương giao. ⇒ Đó chính là yếu tố tạo nên sự hấp dẫn đặc biệt của thể loại. |
GV: Em hiểu thế nào là “Truyền kì mạn lục”? HS: Suy nghĩ trả lời | b. Tác phẩm “ Truyền kì mạn lục” – Nhan đề: Truyền kì mạn lục ( truyền kì: loại truyện có yếu tố li kì, hoang đường; mạn: tản mạn; lục: sao lục, ghi chép) : ghi chép các truyện li kì tản mạn của dân chúng. – Truyền kì mạn lục là tác phẩm viết bằng chữ Hán, gồm 20 truyện, ra đời vào nửa đầu thế kỉ XVI. |
GV:Em hãy nêu ngắn gọn về tác phẩm “ Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ? HS: Trả lời | – Nội dung: + Hiện thực xã hội đương thời + Số phận con người + Tinh thần dân tộc – Nghệ thuật: Có sự tham gia của yếu tố hoang đường, kì ảo. ⇒ Truyền kì mạn lục vừa có giá trị hiện thực, vừa có giá trị nhân đạo → là Thiên cổ tuỳ bút, được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài |
GV: Nhận xét, chốt ý GV nhấn mạnh lại: – Truyền kì mạn lục gồm 20 truyện, chịu ảnh hưởng lối kể chuyện của Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu (thời Tống) nhưng cốt truyện hầu hết ở thời Lí Trần, Hồ và Lê Sơ hoặc từ văn học dân gian. – Truyền kì mạn lục thể hiện tinh thần dân tộc, niềm tự hào về văn hiến Đại Việt, đề cao đạo đức, nhân hậu, thủy chung, khẳng định quan điểm sống ẩn dật của tầng lớp trí thức đương thời. Có giá trị hiện thực và nhân đạo cao, tác phẩm được Vũ Khâm Lân (thế kỉ XVII) khen tặng là “thiên cổ kì bút” và được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài. | |
Thao tác 3: Đọc, tóm tắt và chia bố cục GV: Mời một HS trình bày về cách đọc. HS: suy nghĩ trả lời GV: Yêu cầu HS đọc một đoạn thể hiện đúng cách đọc đó. HS: Đọc GV: Có thể cho HS xem video về đoạn trích. | 5. Chuyện chức phán sự đền Tản Viên a. Đọc, tóm tắt * Đọc |
GV: Qua việc đọc bài, em hãy tóm tắt tác phẩm? | * Tóm tắt – Ngô Tử Văn, một kẻ sĩ khảng khái, chính trực đã đốt đền của một tên hung thần vốn là tướng giặc xâm lược, trừ hại cho dân – Tên hung thần đe dọa nhưng tử Văn đã được Thổ thần mách bảo về tung tích và tội ác của hắn, đồng thời chỉ dẫn cách đối phó. – Ngô Tử Văn bị quỷ sứ bắt xuống âm phủ. Trước mặt Diêm Vương, Ngô Tử Văn đã dũng cảm tố cáo tội ác của tên hung thần với đầy đủ chứng cớ. Cuối cùng công lí được khôi phục, kẻ ác bị trừng trị, Thổ thần được phục chức, Tử Văn được sống lại – Ngô Tử Văn được Thổ thần tiến cử giữ chức phán sự đền Tản Viên. |
GV: Theo em đoạn trích nên chia thành mấy đoạn? Nội dung từng đoạn là gì? HS: Suy nghĩ, trả lời. | b. Bố cục Chia làm 4 đoạn Đoạn 1: Từ đầu đến “ không cần gì cả”→Ngô Tử Văn và hành động đốt đền Đoạn 2: “ Đốt đền xong” đến “ khó lòng thoát nạn”. →Tử Văn gặp hồn ma tên Bách hộ Thôi và Thổ Thần. Đoạn 3: “Tử văn vâng lời” đến “ không bệnh mà chết” →Tử Văn bị bắt và cuộc đối chất ở Minh Ti Đoạn 4: Còn lại: →Tử Văn thắng lợi trở về và nhận chức Tản Viên. |
Hoạt động 3: GV định hướng HS tìm hiểu phần II. đọc – hiểu VB Thao tác 1: Tìm hiểu nhân vật chính Ngô Tử Văn | II. Đọc – hiểu văn bản 1. Nhân vật Ngô Tử Văn |
GV: Ngay từ đầu truyện, tác giả đã giới thiệu Ngô Tử Văn là người như thế nào?HS: Suy nghĩ, trả lời. | a. Giới thiệu nhân vật Ngô Tử Văn – Lai lịch: Tên là Soạn, người huyện Yên Dũng, đất Lạng Giang, là một trí thức nước Việt. – Tính cách: Khảng khái, nóng nảy, thấy gian tà là không chịu được, vùng Bắc người ta vẫn khen là một người cương trực. |
GV: Em có nhận xét gì về cách dùng từ và giới thiệu của tác giả? HS: Suy nghĩ, trả lời | → Từ ngữ mang tính khẳng định. Cách giới thiệu trực tiếp, ngắn gọn theo phương pháp truyền thống của văn học trung đại → Gây sự chú ý của ngưới đọc. |
GV: Tính cách đã chi phối tới hành động nào của Ngô Tử Văn? | b. Hành động của Ngô Tử Văn – Tức giận trước việc “ hưng yêu tác quái” của tên Bách hộ họ Thôi, nên đã đốt đền trừ hại cho dân. |
Chàng đã làm việc đó như thế nào? | – Diễn biến: + Tắm gội sạch sẽ. + Khấn trời đất. + Châm lửa đốt đền. + Không hề lo sợ hậu quả. |
Ý nghĩa của hành động đó? | → Cẩn trọng, công khai, đàng hoàng, quyết liệt. |
HS thảo luận, phát biểu. GV nhận xét, bổ sung: → Chàng đã làm việc ghê gớm khiến mọi người “lắc đầu, lè lưỡi, lo sợ thay cho chàng” vừa cẩn trọng, công khai, đàng hoàng, quyết liệt. Chàng tự tin vào hành động chính nghĩa của mình. Tỏ thái độ chân thành, trong sạch của mình mong được trời đồng tình, ủng hộ. | |
GV: Việc đốt đền của Ngô Tử Văn có ý nghĩa gì? HS: Trả lời | – Ý nghĩa của việc đốt đền + Thể hiện tính khảng khái, cương trực, dũng cảm của kẻ sĩ vì dân trừ hại. Đồng thời tỏ rõ quan điểm và thái độ của người trí thức muốn đả phá sự mê tín thần linh của quần chúng nhân dân. + Thể hiện tinh thần dân tộc mạnh mẽ qua việc diệt trừ hồn tên tướng giặc xâm lược hung bạo, bảo vệ Thổ thần nước Việt. |
GV: Việc đốt đền khiến Ngô Tử Văn chịu những hậu quả nào?HS: Trả lời | – Hậu quả: + Tử Văn bị “sốt nóng sốt rét”. + Bị hồn ma tên tướng giặc mắng mỏ, đe dọa + Bị chết xuống âm ti gặp diêm vương |
GV: Ngoài hành động đốt đền, tính cách cương trực thẳn thắng và ghét sự gian tà đã dẫn đến những hành động, thái độ nào khác của Ngô Tử Văn? HS: Suy nghĩ trả lời. | 5. Các hành động và thái độ của Ngô Tử văn + Điềm nhiên không khiếp sợ trước những lời đe dọa của tên hung thần + Sự gan dạ trước bọn quỷ Dạ Xoa nanh ác và quang cảnh đáng sợ nơi cõi âm. + Thái độ cứng cỏi, bất khuất trước Diêm Vương đầy quyền lực. + Lời nói: Vẫn một mực kêu oan, đòi phán xét minh bạch, công khai |
GV: Em có nhận xét gì về chiến thắng của Ngô Tử Văn?HS: trả lời | 5. Sự chiến thắng của Ngô Tử Văn + Giải trừ được tai họa, đem lại an lành cho dân. + Diệt trừ tận gốc thế lực xâm lược tàn ác, làm sáng tỏ nỗi oan khuất và phục hồi danh vị cho Thổ thần nước Việt + Được tiến cử vào chức phán sự đền Tản Viên, đảm đương nhiệm vụ giữ gìn công lí |
GV: Theo em sự chiến thắng của Ngô Tử Văn mang ý nghĩa gì? HS: trả lời. | – Ý nghĩa của sự chiến thắng. + Khẳng định niềm tin chính nhất định thắng tà + Thể hiện tinh thần dân tộc mạnh mẽ, sự đấu tranh triệt để với cái xấu, cái ác để bảo vệ dân bảo vệ chính nghĩa. |
GV: nhận xét và mở rộng + Khẳng định niềm tin chính nhất định thắng tà + Ngô Tử Văn là đại diện cho kẻ sĩ nước Việt, tên hung thần vốn là một tướng giặc Minh xâm lược bị bại trận bỏ xác tại nước ta, nhưng cái hồn tham lam vẫn quấy nhiễu nhân dân. Việc đề cao Ngô Tử Văn còn giúp chuyện mang ý nghĩa thể hiện tinh thần dân tộc mạnh mẽ, sự đấu tranh triệt để với cái xấu, cái ác để bảo vệ dân bảo vệ chính nghĩa. | |
Thao tác 2 : Tìm hiểu ý nghĩa của truyện. | 2. Ngụ ý của tác phẩm |
GV: Tác phẩm có những ngụ ý gì?(Qua TP, tg muốn lên án, phê phán và nhắn nhủ điều gì?) HS: suy nghĩ trả lời | – Vạch trần bản chất xảo quyệt, hung ác của hồn ma tướng giặc họ Thôi. Mạo danh thổ thần, sống là giặc xâm lược, chết cũng không từ bỏ dã tâm. Bản chất tham lam, hung ác đáng bị trừng trị – Phơi bày thực trạng bất công từ cõi trần đến cõi âm,. Kẻ ác được sung sướng, người thiện chịu oan ức, thánh thần cũng bao che cho cái ác lộng hành, diêm vương và ác quan đại diện cho công lý thì bị lấp tai, che mắt. Phơi bày thực trạng bất công, thối nát của XH đương thời, tham quan ô lại làm khổ người dân lương thiện. – Nhắn nhủ hãy đấu tranh đến cùng để chống lại cái ác, cái xấu. |
GV: Qua câu chuyện này các em rút ra được bài học nào cho bản thân mình? HS: trả lời GV: nhận xét, chốt ý | – Bài học : + Nhìn nhận cách sống: Công bằng và hạnh phúc chỉ đến khi người chính trực biết đấu tranh với cái xấu, cái ác, sự gian tà. + Niềm tin vào lẽ phải: Chính bao giờ cũng thắng tà. → Lẽ phải, công lí không lệ thuộc vào số lượng người hai phái chính – tà. Bè cánh xấu xa chỉ tồn tại nhất thời. Chính nghĩa tất thắng. Miễn là người quân tử phải có ý chí và không ngại sự thiệt hại đến bản thân mình. |
Thao tác 4: Tìm hiểu nghệ thuật kể chuyện | 5. Nghệ thuật kể chuyện: |
GV: Em có nhận xét gì về nghệ thuật kể chuyện được Nguyễn Dữ sử dụng trong bài? HS: trả lời. | – Nghệ thuật kể chuyện rất hấp dẫn, sử dụng yếu tố kì ảo dày đặc, xen lẫn chuyện người, chuyện thần, chuyện ma, thế giới thực – ảo, trần thế – địa ngục, việc chết đi – sống lại, người trần bên cạnh quỷ sứ, Thổ công, Diêm Vương,… → Tăng tính li kì, hấp dẫn. → Là phương thức đặc biệt để chuyên chở nội dung và cảm hứng hiện thực (là cách phản ánh hiện thực thâm thúy, sâu sắc) – Giàu kịch tính: + Phần trình bày (mở đầu): giới thiệu nhân vật (tên, quê quán, tính cách, phẩm chất). + Khai đoạn (thắt nút): hành động đốt đền tà của Tử Văn. + Phát triển: Tử Văn lên cơn sốt, gặp tên tướng giặc và Thổ thần, bị bắt xuống âm phủ trị tội. + Đỉnh điểm (cao trào): Diêm Vương chấp nhận yêu cầu đối chất của Tử Văn. + Kết thúc (mở nút): tên tướng giặc bị trị tội, Tử Văn được ban thưởng. |
Hoạt động 4: GV giúp HS tổng kết kiến thức về nội dung và nghệ thuật. | III. TỔNG KẾT |
GV: Em hãy đọc phần ghi nhớ SGK trang 61 HS: đọc GV củng cố và chốt kiến thức | 1. Nội dung – Ca ngợi tinh thần khảng khái, cương trực, dám đấu tranh chống lại cái ác trừ hại cho dân của Ngô Tử Văn, một người trí thức nước Việt. – Bài học nhân sinh về chính – tà, thiện – ác 2. Nghệ thuật – Xây dựng cốt truyện giàu kịch tính, kết cấu chặt chẽ. – Dẫn dắt khéo léo, nhiều chi tiết gây sự chú ý, hấp dẫn. – Cách kể chuyện và miêu tả sinh động, hấp dẫn.- Sử dụng nhiều yếu tố kì ảo, nhưng vẫn mang nét hiện thực. – Sử dụng kiểu kết thúc có hậu, ở hiền gặp lành, ác giả ác báo của văn học dân gian. |
Hoạt động 5. Hoạt động bổ sung
4. Củng cố
– Thể loại truyền kì.
– Phẩm chất của nhân vật Ngô Tử Văn qua những việc làm của chàng trên trần thế.
5. Dặn dò
– Học bài cũ. Tìm đọc thêm các tác phẩm trong “Truyền kì mạn lục”.
– Chuẩn bị tiết tiếp theo của bài này.
Đừng bỏ lỡ tác phẩm 🍀Mùa Xuân Chín [Hàn Mặc Tử]🍀 Sơ Đồ Tư Duy, Các Mẫu Phân Tích Hay
Sơ Đồ Tư Duy Tản Viên Từ Phán Sự Lục
Mời bạn đọc tham khảo các Sơ Đồ Tư Duy Tản Viên Từ Phán Sự Lục.
Tham khảo về tác phẩm 🔻 Thu Hứng [Đỗ Phủ] 🔻 Sơ Đồ Tư Duy, Các Mẫu Phân Tích Hay
5+ Mẫu Phân Tích Tản Viên Từ Phán Sự Lục Hay Nhất
Nhất định đừng bỏ qua 5 Mẫu Phân Tích Tản Viên Từ Phán Sự Lục Hay Nhất sau đây.
Văn Mẫu Phân Tích Tản Viên Từ Phán Sự Lục
Người xưa từng răn dạy rằng “cây ngay không sợ chết đứng”, “ở hiền thì gặp lành”. Những người chính trực, ngay thẳng thì sẽ nhận được những điều tốt đẹp. Tiếp thu tinh thần ấy, với nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, trí tưởng tượng vô cùng phong phú, Nguyễn Dữ đã viết Chuyện chức phán sự đền Tản Viên.
Sự xuất hiện của Truyền kì mạn lục cùng với các tập truyện truyền kì khác như Thánh Tông di thảo (Lê Thánh Tông), Truyền kì tân phả (Đoàn Thị Điểm), Lan Trì kiến văn lục (Vũ Trinh)… đã mang đến cho văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam một bước phát triển mới, rất đáng tự hào. Chuyện chức phán sự đền Tản Viên kể chuyện Ngô Tử Văn đốt đền, qua đó thể hiện những nội dung tư tưởng sâu sắc.
Sự xen lẫn các yếu tố hiện thực và yếu tố kì ảo đã mang đến cho truyện một sức hấp dẫn riêng. Ngô Tử Văn là nhân vật chính của tác phẩm, được tác giả giới thiệu theo cách kể chuyện quen thuộc của văn học trung đại, bao gồm tên tuổi, quê quán và tính cách.
Tử Văn là người khảng khái, nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng Bắc vẫn khen là một người cương phương. Tính tình cương trực của Tử Văn đã nổi tiếng cả vùng Bắc, và chính tính cách là mấu chốt của câu chuyện. Tử Văn đã dám làm việc mà mọi người đều kính sợ, không ai dám làm, đó là đốt đền.
Theo quan niệm của dân gian, đốt đền là một chuyện động trời, là động đến thần thánh. Tử Văn cũng biết đều đó nhưng chàng không sợ. Hành động của Tử Văn xuất phát từ tính cách “vốn ghét sự gian tà”. Chàng đốt đền bởi hồn ma tên tướng giặc trong đền đã “hưng yêu tác quái”, đã làm hại dân lành. Hành động này của Tử Văn khẳng định tính tình ngay thẳng và quyết tâm trừ gian tà của chàng.
Để trừ gian tà, chàng đã dám làm việc động trời như vậy. Hành động của chàng không phải là hành động ngang ngược của một kẻ vô đạo. Tử Văn là người đọc sách thánh hiền nên chàng hiểu rõ việc mình làm, Tử Văn “tắm gội sạch sẽ, khấn trời, rồi châm lửa đốt đền”. Những hành động tiếp theo của Tử Văn đều chứng tỏ chàng là một người ngay thẳng, không chịu khuất phục tà gian.
Trước những lời đe dọa của hồn ma tên tướng giặc, Tử Văn “vẫn cứ ngồi ngất ngưởng tự nhiên”, trước không khí đáng sợ ở âm phủ, trước lời mắng chửi và đe dọa của Diêm vương, Tử Văn vẫn bình tĩnh khẳng định “Ngô Soạn này là một kẻ sĩ ngay thẳng ở trần gian”.
Tính tình cương trực đã giúp Tử Văn chiến thắng kẻ ác, chàng đã vạch trần được tội ác của hồn ma lưu vong, đã lấy lại được ngôi đền cho Thổ thần, và trở thành một viên quan phán sự ở Minh ti. Đối lập với sự ngay thẳng của Tử Văn là sự gian trá, xảo quyệt của viên Bách hộ họ Thôi, một tên tướng giặc bại trận phải bỏ thân nơi đất khách.
Không nơi nương tựa, không người cúng tế, hồn ma lưu vong của tên tướng giặc đã cướp ngôi đền của Thổ thần lại còn tác oai tác quái, gây hoạ cho dân lành. Hắn còn xảo trá tới mức đút lót, dọa nạt những thần xung quanh. Khi Tử Văn đốt đền, hắn dùng lí lẽ đạo Nho để buộc tội, lấy oai linh quỷ thần để dọa nạt. Tử Văn không sợ thì hắn xuống tận Diêm Vương để cầu cứu.
Sự nham hiểm của kẻ xâm lược, bản chất của kẻ cướp nước còn được thể hiện rõ hơn ở hành động và lời buộc tội Tử Văn trước Diêm Vương. Khi có nguy cơ bị vạch mặt thì hắn giở trò lấp liếm. Nếu như Tử Văn là đại diện của chính nghĩa, của lẽ phải, của tinh thần quật cường không chịu khuất phục trước uy quyền dù chàng chỉ là một hàn sĩ áo vải thì viên tướng giặc họ Thôi là điểm hội tụ bản chất xấu xa của kẻ xâm lược.
Mặc dù truyện được viết từ thế kỉ XVI, khi văn xuôi tự sự Việt Nam chưa có nhiều thành tựu đáng kể, nhưng nhân vật của truyện đã được xây dựng với những nét tính cách nhất quán và trở thành những hình tượng nghệ thuật tiêu biểu cho những loại người khác nhau.
Qua hai nhân vật này tác giả đã thể hiện tư tưởng yêu nước sâu sắc: ca ngợi tinh thần yêu chính nghĩa của con người Việt Nam, vạch trần và phê phán bản chất xấu xa của bọn cướp nước. Người chính trực dù chết vẫn chính trực, kẻ tiểu nhân khi về cõi âm vẫn xảo trá đê tiện.
Đặc điểm nổi bật của truyện truyền kì là ẩn đằng sau những yếu tố kì ảo hoang đường, những yếu tố phi hiện thực là cái nhìn, quan điểm, thái độ của nhà văn về hiện thực. Chuyện chức phán sự đền Tản Viên tuy chủ yếu nói về chuyện thần thánh ma quỷ đầy vẻ hoang đường nhưng lại thể hiện những nội dung hiện thực rất rõ ràng.
Nội dung hiện thực được thể hiện ở lai lịch của nhân vật, bối cảnh thời gian và không gian của câu chuyện. Chính những yếu tố này làm tăng sức thuyết phục cho câu chuyện, khiến cho câu chuyện đáng tin hơn. Ngô Tử Văn có tên tuổi, quê quán rõ ràng.
Thời gian, tình tiết câu chuyện cũng rất cụ thể, “Năm Giáp Ngọ, có người ở thành Đông Quan…” đã trông thấy Tử Văn ngồi trên xe quan phán sự và “đến nay con cháu Tử Văn hãy còn, người ta truyền rằng đó là “nhà quan phán sự””.
Lai lịch của viên Thổ quan và tên tướng giặc họ Thôi cũng gắn với những yếu tố thực của lịch sử. Thổ công là người “làm chức Ngự sử đại phu từ đời vua Lí Nam Đế, vì chết về việc cần vương mà được phong ở đây…”, còn tên tướng giặc họ Thôi là “viên tướng bại trận của Bắc triều, cái hồn bơ vơ ở Nam quốc”, là viên bộ tướng của Mộc Thạnh…
Sử dụng xen kẽ các yếu tố hiện thực và các yếu tố hư cấu một cách tự nhiên với giọng kể khách quan đã tạo nên sức hấp dẫn rất riêng của truyện truyền kì, đồng thời làm toát lên giá trị hiện thực của tác phẩm. Nguyễn Dữ viết Truyền kì mạn lục vào khoảng thế kỉ XVI, thời điểm không mấy sáng sủa của hiện thực Việt Nam.
Nhà Lê suy tàn, chính quyền rơi vào tay nhà Mạc nhưng cũng chẳng được bao lâu, nội chiến liên miên, xã hội xảy ra rất nhiều vấn đề. Và bóng dáng của xã hội ấy đã được thể hiện trong một số lời đối thoại của nhân vật.
Đoạn đối thoại giữa viên Thổ công với Tử Văn: “sao ngài không kiện… lại đi khinh bỏ chức vị, làm một người áo vải nhà quê?”. Thế kỉ XVI, đã có rất nhiều người có tài, có nhân cách, bất lực trước hiện thực mà chọn cuộc sống ẩn dật nơi thôn dã, trong đó có Nguyễn Dữ.
Câu trả lời của viên Thổ quan không phải không có yếu tố hiện thực. “Trần sao âm vậy”, cõi âm trong tác phẩm là cõi dương thời ấy: “Rễ ác mọc lan, khó lòng lay động. Tôi đã định thưa kiện, nhưng mà có nhiều nỗi ngăn trở: Những đền miếu gần quanh, vì tham của đút, đều bênh vực cho nó cả…”. Chỉ một chi tiết nhỏ, tác giả đã phê phán được thói đời, những kẻ có chức, có quyền cấu kết với nhau để hại dân lành, người hiền.
Lời nói của Diêm Vương cũng ẩn chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc, vừa vạch trần sự dối trá của những kẻ cầm cân nảy mực, vừa thể hiện thái độ đối với giặc xâm lược: “Lũ các ngươi chia toà sở, giữ chức sự, cầm lệnh chí công, làm phép chí công, thưởng thì xứng đáng mà không thiên vị, phạt thì đích xác mà không nghiệt ngã, vậy mà còn có sự dối trá càn bậy như thế; huống chi về đời nhà Hán, nhà Đường buôn quan bán ngục, thì những mối tệ còn nói sao xiết được!”.
Những chi tiết nhỏ tưởng như vô tình đan cài vào câu chuyện nhưng lại chứa đựng giá trị hiện thực rất quan trọng. Đó chính là sự khéo léo và công phu của người kể chuyện. Sức hấp dẫn của câu chuyện còn được thể hiện ở nghệ thuật xây dựng cốt truyện đầy kịch tính.
Những tình tiết của truyện được dẫn dắt khéo léo và tạo nên nhiều bất ngờ thú vị. Nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngôn ngữ đối thoại, phát triển tình tiết… đều thể hiện một trình độ kể chuyện rất hiện đại, khéo léo, vượt xa trình độ văn xuôi trung đại.
Chủ đề nổi bật của truyện vẫn là ca ngợi sự chính trực ngay thẳng. Ngô Tử Văn là tấm gương tiêu biểu cho những người trí thức nước Việt khảng khái, cương trực, dũng cảm chống lại cái ác để trừ hại cho dân.
Sự chiến thắng của Tử Văn là sự chiến thắng của lẽ phải, của công lí, thể hiện niềm tin của nhân dân lao động vào lẽ phải. Ngô Tử Văn tuy không được sống lâu nhưng đã bất tử cùng với câu chuyện, đã để lại tiếng thơm muôn đời và trở thành quan phán sự ngự ở đền Tản Viên.
Chủ đề ấy còn được thể hiện rõ ở lời bình cuối truyện. Người kể chuyện muốn khẳng định rằng, người chính trực như Ngô Tử Văn mới xứng đáng là người cầm cân nảy mực. Đó cũng là ước muốn chung của nhân dân trong thời buổi xã hội đầy những chuyện ngang tai trái mắt. Bên cạnh đó, tác phẩm còn chĩa mũi nhọn phê phán vào bọn xâm lược và vạch trần mặt trái của xã hội.
Giá trị của Truyền kì mạn lục là ở nội dung hiện thực sâu sắc và cảm hứng ca ngợi những giá trị đạo đức truyền thống. Những con người có bản tính tốt đẹp như Vũ Thị Thiết, như Ngô Tử Văn đều được trở về sống ở thế giới thần thánh, họ đã được thưởng xứng đáng cho phẩm cách tốt đẹp của mình.
Tập truyện đã thể hiện một niềm tin mãnh liệt của nhân dân lao động xưa, niềm tin vào chân lí bất diệt của sự sống “ở hiền gặp lành”.
Phân Tích Nghệ Thuật Tản Viên Từ Phán Sự Lục
Trong kho tàng truyện đặc sắc của dân tộc ta, không hiếm những tác phẩm có nội dung với những yếu tố ly kỳ, biến ảo để vừa tăng thêm tính hấp dẫn cho câu chuyện vừa biểu thị ước mơ về công lý, công bằng của người dân. Trong số đó, tác phẩm “Truyền kỳ mạn lục” của tác giả Nguyễn Dữ là một trong những tác phẩm khá tiêu biểu có mang yếu tố thần kì này.
Các tác phẩm trong “Truyền kì mạn lục” đều được ghi nhận từ các câu chuyện lưu truyền trong dân gian và được Nguyễn Dữ thêm vào đó tính hiện thực của xã hội đương thời cùng tấm lòng nhân đạo của mình, ước mơ công lý của người dân lương thiện. Trong đó phải kể đến tác phẩm “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” – một câu chuyện mà khi nhắc tới người ta luôn phải tấm tắc ngợi khen.
Truyền kì là áng văn xuôi tự sự thời trung đại, kể những câu chuyện phản ánh hiện thực thông qua những yếu tố hoang đường, nơi mà thần, quỷ, người giao hòa tương giao với nhau. Và ẩn sau mỗi yếu tố li kì ấy là tấm lòng của tác giả, quan niệm, niềm tin, ước mơ, khát vọng của họ trước cuộc đời.
“Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” kể về chàng trai tên Ngô Tử Văn và hành động đốt đền của tên tướng bại trận phương Bắc họ Thôi đang tác quái trong dân gian, gây họa cho dân lành.
Sau hành động liều lĩnh ấy, Tử Văn bị hắn đe dọa và kiện ở Minh ti. Sau này, nhờ Thổ công mách bảo, Tử Văn đã vạch trần tên tướng giặc và tội ác của hắn. Tên tướng bị trừng phạt còn Tử Văn lại trở về dương gian. Cuối cùng, nhờ sự tiến cử của Thổ thần, Tử Văn được nhận chức Phán sự ở đền Tản Viên, dưới trướng của Đức Thánh Tản rồi “không bệnh mà mất”.
Qua câu chuyện, Nguyễn Dữ muốn phản ánh niềm tin muôn đời của người dân lao động về công lý, về việc “ở hiền gặp lành, ác giả ác báo” và về sự chính trực, công minh, dám đứng lên bảo vệ lẽ phải của con người sẽ được đền đáp.
Ngô Tử Văn – nhân vật chính của tác phẩm là người ở huyện Yên Dũng, đất Lang Giang, tên là Soạn, họ Ngô. Ngay từ khi vào tác phẩm, Ngô Tử Văn đã được tác giả giới thiệu là một người khẳng khái, cương trực, nóng nảy, “thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng bắc người ta vẫn khen là một người cương phương”.
Lời giới thiệu trực tiếp, ngắn gọn, súc tích của tác giả vừa là sự khẳng định gây chú ý cho người đọc, lại vừa thể hiện sự ngợi khen, ngợi ca trước tính cách, phẩm chất của Ngô Tử Văn, định hướng cách nhìn nhận cho người đọc về hành động có phần ngang ngược của chàng sau này.
Gần nhà Ngô Tử Văn có ngôi đền thờ Thổ thần, vậy mà tên Bách hộ họ Thôi phương Bắc, tử trận ở gần đó dám chiếm đền rồi “làm yêu làm quái trong dân gian”, lộng hành, hống hách, làm hại tới dân chúng, khiến cho Tử Văn hết sức tức giận.
Thánh thần vốn là những điều thiêng liêng trong tâm linh của người Việt từ xưa, vậy nên chẳng có ai dám mạo phạm vào đền đài, miếu mạo, chùa chiền. Vậy nên, đền bị tên tướng giặc chiếm nhưng chẳng ai dám đứng lên mà phản kháng, chỉ biết sống trong sợ hãi, “dốc hết của cải” để cúng cầu.
Trong khi tất cả mọi người đều lo sợ, cầu cúng đến “gia sản khánh kiệt”, “lắc đầu lè lưỡi” thì Tử Văn lại khác, chàng lại “tắm gội chay sạch, khấn trời rồi châm lửa đốt đền”.
Hành động của chàng dường như đã được tính toán, chuẩn bị với mục đích rất rõ ràng. Chàng rất cẩn trọng, tắm rửa “khấn trời” rồi mới đốt khiến cho người đọc cảm nhận được hành động đó của Tử Văn không phải là hành động bộc phát tức thời.
Ngay cả lúc đốt đền, Tử Văn cũng rất quyết liệt, không hề do dự một phần mà công khai, vô cùng dũng cảm. Sau khi châm lửa đốt đền xong, trong khi “mọi người lắc đầu lè lưỡi, họ lo sợ thay cho Tử Văn” còn chàng thì lại “vung tay không cần gì cả”.
Hành động đó thể hiện sự khẳng khái trong tính cách của chàng như đã nêu ở đầu câu chuyện, vừa ngạo nghễ, vừa dũng cảm, thể hiện sự “cương phương” của một con người chính trực một lòng muốn tiêu diệt cái ác mang lại bình yên cho người dân, bộc lộ ý chí, ý thức dân tộc vô cùng mạnh mẽ khi dang tay bảo vệ ngôi đền của dân tộc mình mà diệt trừ hồn ma tên tướng giặc bại trận đang làm loạn nhân gian.
Những tưởng đốt xong là hết, nhưng không, “đốt xong về nhà, chàng thấy trong mình khó chịu, đầu lảo đảo và bụng run run, rồi nổi lên một cơn sốt nóng sốt rét”. Trong cơn mơ màng, chàng gặp một người “khôi ngô dõng dạc, đầu đội mũ trụ đi đến, nói năng, quần áo, rất giống người phương Bắc, tự xưng là cư sĩ”.
Kẻ giống cư sĩ kia, tưởng rằng nói năng phải kính trên nhường dưới, biết trước biết sau thế nhưng lời nói lại chẳng giống như vẻ bề ngoài, hắn nói năng với đầy lời mắng mỏ, đe dọa, đòi Tử Văn phải trả lại đền “biết điều thì dựng trả tòa đền như cũ”, “Phong Đô không xa xôi gì, ta tuy hèn, há lại không đem nổi nhà ngươi đến đấy. Không nghe lời ta thì rồi sẽ biết”.
Hồn ma tên tướng giặc kia ngoại hình thì sáng lạn, nói lời đầy đạo lý nhưng thực chất lại là một kẻ ranh ma, xảo quyệt, tham lam, độc ác, xảo trá.
Hắn theo chân Mộc Thạnh sang cướp nước ta, làm điều ác bá, chết đi lại gây họa, cướp đền, tác quái trong dân chúng, đe dọa kẻ sĩ trong dân gian, còn dọa nạt sẽ bắt kiện chàng. Nhưng đối lập với thái độ đe dọa, tức giận của tên tướng bại trận, Tử Văn lại “mặc kệ, vẫn cứ ngồi ngất ngưởng tự nhiên”, thái độ vừa bình thản, vừa ung dung, ngạo nghễ. Bởi chàng tin việc làm của mình là chính nghĩa, là hành động mang tới lợi ích cho muôn dân, đúng như lời dạy trong kinh sách.
Thế rồi, tên tướng giặc “phất áo bỏ đi”, Tử Văn vẫn mê man trên giường thì chiều tối “lại có một ông già, áo vải mũ đen, phong độ nhàn nhã, thủng thỉnh di vài đến trước thềm, vái chào”. Khác với tên tướng giặc quần là áo lượt, Thổ thần đến gặp Tử Văn chỉ với “áo vải mũ đen”, giản dị, thanh bạch.
Không chỉ vậy, lời nói, cử chỉ còn nhẹ nhàng, đúng với tư chất của một vị thần cai quản cả một vùng. Tuy là Thổ thần, thế nhưng đến gặp Tử Văn, ông vẫn cung kính, “vái chào” rồi thưa chuyện cảm ơn, hết sức coi trọng Tử Văn.
Thổ thần khi gặp Tử Văn đã kể cho chàng nghe hết thảy những việc làm của tên tướng họ Thôi “chanh chiếm miếu đền, giả mạo tên tuổi, quen dùng chước dối lừa, thích làm trò thảm ngược, Thượng đế bị nó bưng bít, hạ dân bị nó quấy rầy, phàm những việc hưng yêu tác quái đều tự nó cả”, nhờ vậy mà chàng càng thêm hiểu rõ về sự xảo trá, gian manh và độc ác của hắn.
Không chỉ vậy, Thổ thần còn lo lắng cho Tử Văn, rặn chàng phải cẩn trọng bởi tên tướng giặc đã kiện chàng ở Minh ty.
Vậy là chàng đã hiểu hết mọi chuyện, chàng trách Thổ thần đã quá nhu nhược, sao lại để hắn lộng hành, hống hách đến như vậy?
Nhưng Thổ thần tuy là thần tiên, thấu hiểu đạo nghĩa, hiểu rõ mọi chuyện, căm hận kẻ cướp đền của mình nhưng vẫn phải cam chịu số phận, chấp nhận bị đánh đuổi khỏi đền của mình, không dám đứng lên đấu tranh “kiện ở Diêm vương và tâu lên Thượng đế” bởi chẳng có ai làm chứng “những đền miếu gần quanh, vì tham của đút, đều bênh vực nó cả”.
Ở đây phải chăng Nguyễn Dữ đã đưa vào trong câu chuyện hoang đường của mình hình ảnh hiện thực trong xã hội phong kiến đương thời thối nát khi mà dân lành phải chịu hà hiếp bởi những tên quan sai độc ác, gian trá, những vị quan hiền lành, lương thiện thì bị hãm hại, không dám đấu tranh, những kẻ làm quan khác thì tham lam, ích kỉ, tham tiền đút lót mà không màng tới nỗi khổ của người dân?
Biết trước sự việc Tử Văn phải đi về chốn Minh ty là điều không tránh khỏi, Thổ thần đã bày cách để kẻ sĩ chính nghĩa như chàng “khỏi phải chết một cách oan uổng”. Câu chuyện được Nguyễn Dữ phát triển vô cùng logic, đúng với niềm tin của con người rằng kẻ làm việc chính nghĩa, thuận theo ý muôn dân thì bao giờ cũng được thần tiên giúp sức.
Đúng như lời Thổ công dự đoán, đến chừng nửa đêm, Tử Văn bị hai tên quỷ sứ bắt xuống Minh ti, khép chân vào “tội ác sâu nặng, không được dự vào hàng khoan giảm”.
Minh ty dưới địa ngục là một nơi đáng sợ tới ghê rợn, ai bước xuống cũng không khỏi khiếp hoảng khi “gió tanh sóng xám, hơi lạnh thấu xương”, “hai bên tả hữu cầu, có đến mấy vạn quỷ Dạ Xoa, đều mắt xanh tóc đỏ hình dáng nanh ác”.
Thế nhưng, Tử Văn đâu phải người thường, đến đền chàng còn dám đốt, vậy nên những nơi như thế chẳng làm chàng khiếp sợ mà còn khiến chàng cứng cỏi hơn bội phần. Chàng không hề nao núng mà kêu to, bày tỏ sự oan uổng của mình để được vời vào điện mà đối chất với tên tướng giặc và Diêm vương.
Đến trước Minh ty, chàng đã thấy tên tướng giặc đội mũ trụ đang kêu cầu trước sân. Hắn buộc tội Tử Văn, cho rằng chàng “bướng bỉnh gân guốc”, không chịu phục.
Tên tướng giặc khép nép, tỏ ra là một kẻ bị hại đáng thương, một mực kêu oan với Diêm vương, bằng những lời lẽ xàm tấu của mình, Diêm vương đã bị hắn phỉnh lừa mà trách tội Tử Văn rằng “Kẻ kia là cư sĩ, trung thuần khích liệt, có công với tiền triều, nên Hoàng thiên cho được huyết thực ở một tòa đền để đền công khó nhọc. Mày là kẻ hàn sĩ, sao dám hỗn láo…?”
Lời trách tội của Diêm vương đanh thép là thế, thế nhưng, Tử Văn – người biết được sự thật thì điềm nhiên, chẳng hề kinh hãi, chàng một mực kêu oan, “tâu trình đầu đuôi như lời ông cụ già đã nói, lời rất cương chính, không chịu chùn chụt chút nào”.
Tên tướng giặc nghe vậy, buộc tội chàng “mồm năm miệng mười, đơm đặt bịa tặc”, cuộc cãi vã diễn ra ngay trước mắt của Diêm vương. Thế nhưng, chính sự điềm tĩnh, tự tin, cứng cỏi của Tử Văn đã làm cho Diêm vương sinh nghi về thực hư câu chuyện, thấy vậy, Tử Văn liền quả quyết rằng: “nếu nhà vua không tin lời tôi, xin đem giấy đến đền Tản Viên để hỏi hư thực; không có thực như thế, tôi xin chịu thêm cái tội nói càn”.
Lời nói đanh như thép của Tử Văn đã chạm đến nỗi sợ hãi của tên tướng họ Thôi, hắn bèn giả giọng nhân nghĩa, bề trên, mà nói đỡ cho Tử Văn “gã kia là một kẻ học trò, thật là ngu bướng, quả đáng tội lắm, Nhưng đã trách mắng như vậy, cũng đủ trừng giới. Xin đại vương khoan tha cho hắn để tỏ cái đức rộng rãi. Bất tất đòi hỏi dây dưa và thẳng tay trị tội, sợ có hại cho cái đức hiếu sinh”.
Hắn vờ vịt xin giảm án cho Tử Văn chẳng qua không muốn để Diêm vương biết được thân phận thực sự của hắn. Cứ tưởng hắn có lòng tốt, thương người, nhưng thực chất, hắn chỉ muốn bao biện, bênh vực cho chính bản thân mình mà thôi. Thế nhưng, chính thái độ mâu thuẫn của hắn và sự cứng cỏi của Tử Văn đã khiến Diêm vương nghi ngờ, cho người tra xét tường tận. Cuối cùng, mọi sự đều “nhất nhất đúng với lời Tử Văn”.
Thấy vậy Diêm vương vô cùng giận dữ, trách mắng các phán quan làm việc không giữ được sự chí công vô tư, làm ra sự “dối trá càn bậy”. Còn tên tướng giặc, Ngài cho người “lấy lồng sắt chụp vào đầu, khẩu gỗ nhét vào miệng, bỏ người ấy vào ngục Cửu u”. Vậy là chàng Ngô Tử Văn đã thắng kiện và được đưa trở lại dương gian.
Đúng như nhân dân ta vẫn tin “ở hiền thì gặp lành”, chính nghĩa sẽ luôn thắng gian tà, đó là ước mơ muôn đời của nhân dân ta. Câu chuyện khép lại với cái kết vô cùng thỏa mãn, Tử Văn được sống lại, đền được xây mới, Thổ thần được trở về, còn một tên tướng giặc bị “bật tung lên, hài cốt tan tành như cát”. Đây như là lời răn dạy cho những kẻ làm việc ác ở đời, sống gây tội ác thì đến chết cũng sẽ bị trừng phạt.
Cuộc tranh đấu dưới Minh ty quả là vô cùng gay cấn, thế nhưng, Ngô Tử Văn đã bộc lộ được khí phách của một kẻ sĩ, với sự can đảm, cứng cỏi và thông minh của mình đã buộc tên tướng giặc xảo trá phải nhận hình phạt thích đáng cho tội lỗi của mình. Bằng những chi tiết li kỳ, huyền ảo, Nguyễn Dữ đã lồng vào trong câu chuyện ước mơ ngàn đời của người dân ta là có được công lý công bằng giữa xã hội.
Câu chuyện khép lại khi Thổ thần trở lại cảm ơn Tử Văn vì sự giúp đỡ của chàng. Để trả ơn chàng, ông đã xin với Đức Thánh Tản cho chàng được nhận chức phán sự tại đền. Tử Văn đã vui vẻ nhận lời rồi “thu xếp việc nhà rồi không bệnh mà mất”. Đây là một món quà, một phần thưởng to lớn cho hành động trượng nghĩa của chàng, cho sự khẳng khái, cương trực, gan dạ, thông minh của chàng văn sĩ họ Ngô.
Những xung đột được khép lại bằng hình ảnh năm Giáp Ngọ, người quen của Tử Văn có việc ra ngoài cửa tây buổi sớm, trong sương mù, thấy xe ngựa ầm ầm đi tới, lại nghe tiếng quát tránh đường cho xe quan Phán sự, “người ấy ngẩng đầu trông về phía trước, người ngồi trên xe chính là Tử Văn”.
Hình ảnh kết thúc câu chuyện càng khiến cho dư âm của câu chuyện âm vang mãi trong lòng người đọc chúng ta. Đó là lời truyền đời rằng kẻ tốt, làm việc thiện sẽ được báo đáp, vinh danh, còn kẻ xấu, tất sẽ phải chịu sự trừng phạt thích đáng.
Hành động của Tử Văn biểu hiện cho sự diệt trừ cái ác đến tận gốc, lấy lại danh dự cho Thổ thần, phơi bày nguyên nhân khiến cho chàng có hành động đốt đền ngang ngược. Lời truyền đời rằng “nhà quan Phán sự” là niềm tin về một vị quan thanh liêm, chính trực, được muôn dân yêu kính.
Sau câu chuyện, chúng ta rút ra được những ý nghĩa và bài học mà tác giả Nguyễn Dữ muốn gửi gắm thông qua Chuyện chức phán sự đền Tản Viên. Về phần ý nghĩa, ông muốn phản ánh cái xã hội phong kiến đương thời đang rơi vào thối nát, phản ánh sự giả tạo, xảo trá của một bộ phận con người trong xã hội cùng với những nỗi oan trái, bất công không thể tỏ bày.
Ông còn đề cập tới nạn tham quan, lộng quyền, nhận hối lộ, làm việc không chí công vô tư của đám quan lại đương thời cũng như phê phán sự hèn nhát, nhu nhược, không dám đứng lên đòi lại quyền lợi, bảo vệ lẽ phải của một bộ phận quan lại và đa số người dân. Ông cũng ca ngợi sự dũng cảm, chính trực, ngay thẳng của những người dân bình thường trong xã hội.
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên dạy chúng ta bài học về lòng cương trực, dũng cảm, sự gan dạ khi đứng lên đấu tranh bảo vệ công lý về lẽ phải. Làm được điều đó, chúng ta chắc chắn sẽ có được sự đền đáp xứng đáng. Ngoài ra, câu chuyện còn là niềm tin vào lẽ phải, công lý công bằng ở đời, niềm tin vào sự “ở hiền gặp lành”. Tác phẩm viết ra nhằm đề cao tính cương trực, nghĩa khí của kẻ sĩ trong xã hội, đây là tư tưởng chủ đề xuyên suốt tác phẩm.
Qua đó mà ta thấy được hệ tư tưởng mới mẻ, tích cực và tiến bộ mà Nguyễn Dữ mang đến qua câu chuyện về chức phán sự bằng việc kết hợp yếu tố kì ảo vào một cốt truyện hấp dẫn, mượn sự kì ảo đó để nói lên hiện thực và khát vọng của con người, đây là điểm đột phá mang tính thời đại mà Nguyễn Dữ đã làm được trong tác phẩm của mình.
Câu chuyện với cốt truyện li kì, đủ để hấp dẫn người đọc với những cao trào, logic cực kì hợp lý, kèm với đó là lời văn giản dị, không hề trau chuốt, mang tới sự tự nhiên, gần gũi với người đọc.
Qua câu chuyện Chuyện chức phán sự đền Tản Viên, Nguyễn Dữ muốn ca ngợi tinh thần khẳng khái, cương trực, biết đứng lên bảo vệ lẽ phải Ngô Tử Văn. Chàng mặc dù chỉ là một kẻ học trò nghèo, một người bình thường trong xã hội bấy giờ nhưng lại dám đứng lên chống lại cái ác và chiến thắng. Qua đó, Nguyễn Dữ muốn khẳng định lại lần nữa niềm tin của ông vào công lý trong xã hội, và niềm tin ấy sẽ còn giá trị đến tận mai sau.
Phân Tích Bài Tản Viên Từ Phán Sự Lục Hay
Nguyễn Dữ là một nhà Nho sống vào khoảng nửa đầu thế kỷ XVI, xuất thân trong một gia đình có truyền thống khoa bảng. Ông là tác giả của bộ Truyền kỳ mạn lục lưu truyền trong dân gian từ thời Lý cho tới thời Lê sơ. Bộ truyện “Truyền kì mạn lục” được sáng tác vào khoảng thế kỉ XVI, lúc xã hội phong kiến Việt Nam rơi vào suy thoái, khủng hoảng nhằm phơi bày và lên án. Nổi bật hơn cả trong số đó là Chuyện chức phán sự đền Tản Viên.
Ngô Tử Văn với chân dung và hành động là nhân vật tiền đề dẫn vào câu chuyện. Nhiều lần chứng kiến đến mức không chịu được sự quái đản của hồn ma tên tướng giặc nên anh đã suy nghĩ, tính toán và kết quả là đốt đền thờ của hắn nhằm mục đích cao cả muốn vì dân diệt bạo.
Khi tất cả đều e dè, sợ hãi thì Tử Văn cương quyết, công khai, đường hoàng, ung dung hành động điều mà không ai dám làm, đó là đốt đền. Và đó cũng là hành động châm ngòi nổ cho một cuộc chiến giữa chàng và hồn ma tên tướng giặc bại trận, tên hung thần nổi giận rồi uy hiếp sẽ kiện Tử Văn dưới âm phủ. Thế nhưng, người tốt thì có quý nhân phù trợ, Tử Văn được ân trên giúp đỡ để biết tội ác và có được cách để trừng trị tên hung bạo này.
Tại phiên tòa dưới âm phủ, Tử Văn đã kiên quyết, dũng cảm luận tội, vạch trần tội lỗi của kẻ hung thần mà không hề e dè, sợ hãi. Dù mặt đối mặt với Diêm vương trong tình thế đuối lí vẫn giữ giọng điệu rất đanh thép vững vàng. Cuối cùng, bằng tinh thần đấu tranh quyết liệt Tử Văn đã chiến thắng, cái thiện cuối cùng cũng chiến thắng, còn cái ác ắt phải bị trừng trị.
Kết thúc Tử Văn được tín nhiệm và phong chức phán sự đền Tản Viên, chịu trách nhiệm giữ gìn và bảo vệ công lý. Đó là cái giá, là kết cục cho sự bạc nhược của hồn ma tướng giặc xảo trá. Từ đó, tác giả Nguyễn Dữ đã khẳng định niềm tin đấu tranh triệt để với cái xấu cái ác.
Những yếu tố li kì đã tạo hiệu ứng thu hút sự chú ý của bạn đọc theo dõi diễn biến câu chuyện. Qua việc sử dụng yếu tố hoang đường, kì ảo, Nguyễn Dữ cũng thể hiện quan điểm rằng miền trần gian cũng như miền địa ngục, cõi âm cũng hòa với cõi trần, cõi âm ấy chính là chiếc bóng của hiện thực đời sống.
“Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” vì thế đã vẽ lên bức tranh hiện thực của xã hội đương thời, nơi cái xấu, cái ác trở nên lẫn lộn khi người đại diện cho lẽ phải lại mang bộ mặt tráo trở, đáng khinh, bất lương, vô nhân đạo. Không chỉ vậy, truyện còn là tiếng ca cho những anh hùng gan góc, kiên cường, dám nghĩ, dám làm, sẵn sàng đấu tranh vì lí tưởng bảo vệ lẽ phải qua hình tượng nhân vật Ngô Tử Văn.
Kết thúc tác phẩm là chiến thắng của Ngô Tử Văn hay chính là sự vẻ vang khi cái thiện đã đẩy lùi cái xấu, cái ác. Điều này chứng tỏ Nguyễn Dữ đã tìm về nguồn cội “truyền thống nhân đạo và yêu nước” của dân tộc Việt Nam để khẳng định “chính nghĩa thắng gian tà, tinh thần dân tộc thắng ngoại xâm”.
Phân Tích Tản Viên Từ Phán Sự Lục Nâng Cao
Nguyễn Dữ ông là người huyện Trường Tân (nay thuộc tỉnh Hải Dương) ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống văn học, cha ông là Tiến sĩ Nguyễn Tường Phiêu, ông là một người rất am hiểu văn học thơ ca của nước nhà. “Truyền kì mạn lục” của ông được viết vào thế kỉ XVI gồm hai mươi bài.
Các câu chuyện của “Truyền kì mạn lục” tuy có hoang đường, phần hư ảo nhưng nó đã phơi bày tình hình xã hội trong thời kỳ được coi là đen tối trong lịch sử Việt Nam. Câu chuyện “Chức phán sự đền Tản Viên” là câu chuyện rất hay đề cao khát vọng của con người đó là chính nghĩa luôn chiến thắng cái ác, đề cao tính dân tộc và tình yêu nước của tác giả.
“Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” được dựa trên một truyền thuyết của Trung Quốc, câu chuyện thịnh hành vào thời nhà Đường thời. Câu chuyện được tác giả Nguyễn Dữ đưa vào nhiều yếu tố kì ảo hoang đường nhưng đằng sau yếu tố kì là giá trị hiện thực sâu sắc, nó phản ánh được đời sống xã hội dưới chế độ phong kiến đen tối, nhiều xảo trá, bất công.
Ngô Tử Văn bằng sự ngay thẳng, chính nghĩa của mình đã diệt trừ vong hồn của tên tướng giặc Minh, trả lại bình yên cho dân chúng.
Bất bình trước cái ác hoành hành, Ngô Tử Văn đã dũng cảm đứng lên chống lại tên giặc họ Thôi, vạch trần bộ mặt xảo trá, bất nhân của hắn trước mặt Diêm Vương, đòi lại chính nghĩa, buộc kẻ có tội phải chấp nhận hình phạt thích đáng. Chi tiết chuyện rất lôi cuốn kết hợp với yếu tố kì ảo không chỉ mang đến sức hấp dẫn cho câu chuyện mà còn giúp người đọc cảm nhận được tình yêu quê hương đất nước của kẻ sĩ đất Việt.
Ngay từ đầu Ngô Tử Văn được giới thiệu là một người chính trực, kiên cường, thẳng thắn khảng khái và đặc biệt là ghét cái ác. Hành động đốt đền đã khẳng định rõ được những tính cách trên.
Khi tên tướng giặc họ Thôi kia đánh bại Thổ công của ngôi đền và chiếm dữ ngôi đền, hắn đã đút lót những thần miếu bên cạnh để bịt miệng họ để hắn có thể tác oai, tác quái ở ngôi làng của Ngô Tử Văn, mọi người trong làng không dám chống cự họ đành để cho tên giặc kia hoành hành phá phách.
Chỉ có Tử Văn một mình đứng dậy chống lại tên giăc đó anh kiên quyết đốt đền để cho tên giặc kia không còn chỗ dung thân nữa. Trước khi đốt đền anh đã tắm rửa sạch sẽ làm nghi thức để báo cáo trời đất châm lửa đốt đền. Hành động đốt đền của Tử Văn không phải là báng bổ thần kinh mà thể hiện sự bất bình của mình, và Tử Văn đã tuyên chiến với những thế lực đen tối, một con người nhỏ bé đã đứng lên kháng lại ác thần.
Hành động đốt đền đã bộc lộ rõ tính cách kiên cường, dũng cảm, chính trực làm điều tốt cho dân chúng thể hiện cho câu “Thấy sự gian tà không chịu được”. Tử Văn tin việc đốt đền của mình là thuận theo ý trời nhưng nó lại đi ngược lại với ý nghĩ của Tử Văn. Sau khi đốt đền về Tử Văn thấy người khó chịu lên cơn sốt sốt nóng, sốt rét.
Trong cơn miên man Tử Văn thấy một người “khôi ngô, cao lớn, đầu đội mũ trụ, nói năng, quần áo giống người phương Bắc” đến trách mắng Tử Văn.
Hắn dùng những lời lẽ của nho giáo để trách mắng Tử Văn hắn nói Tử Văn “không biết cái đức của quỷ thần” đã không kính trọng thần linh lại còn “dám khinh nhờn hủy tượng, đốt đền” và bắt Tử Văn dựng trả ngôi đền như cũ nếu không sẽ “khó tránh khỏi tai vạ” trước lời đe dọa của tên ác thần đó Tử Văn vẫn không nao núng vẫn cứ tiếp tục giữ ý chí kiên định của mình.
Từ những chi tiết trên cho ta thấy Tử Văn là một con người mạnh mẽ, cứng rắn, dũng cảm bỏ ngoài tai những lời hăm dọa của tên ác thần kia anh vẫn giữ vững thái độ kiên quyết ấy dù có chết cũng không từ bỏ. Tử Văn sẵn sàng đương đầu với mọi khó khăn gian khổ.
Và rồi anh đã bị bọn quỷ sứ bắt và dẫn tới một nơi đáng sợ đi qua một con sông lớn con sông với song tanh và song xám một nơi như là địa ngục của thế gian nơi có quỷ dạ xoa mắt xanh tóc đỏ vô cùng hung ác nhưng Tử Văn vẫn hiên ngang đi không hề nao núng sợ hãi một tí nào anh hùng hồn nói “Ngô Soạn này là một kẻ sĩ ngay thẳng ở trần gian”.
Trước điện của Diêm Vương không khí âm phủ rùng rợn tên họ thôi vu cáo cho Tử Văn. Tử Văn vẫn không hề nao núng anh đã tâu với Diêm Vương “Nếu nhà vua không tin lời tôi, xin tư giấy đến đền Tản Viên để hỏi, không đúng như thể tôi xin chịu thêm cái tội nói càn”. Thấy Tử Văn cứng cỏi, tên bách hộ họ Thôi đã lập lờ nhận tội.
Chứng cứ của Tử Văn vô cùng đanh thép và đã khiến cho tên họ Thôi kia phải chịu tội bị giam vào ngục tù phải chịu trách nhiệm cho những gì mà hắn đã gây ra. Với bản lĩnh cứng cỏi với sự thông minh nhanh trí của mình Tử Văn đã giúp Thô thần đòi lại đền của mình.
Mượn sự tích cổ nó mang sự kì ảo, hoang đường nhưng câu truyện đề cao tình yêu quê hương lòng dũng cảm, chính luôn thắng tà, kết của câu truyện Tử Văn được sống lại trở lại làm người và Tử Văn trở thành phán sử của đền Tản Viên. Truyện có kết cấu chặt chẽ xây dựng tình huống chuyện hấp dẫn kể và tả sinh động hấp dẫn lôi cuốn người đọc.
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên đề cao tinh thần cương trực, dám đứng lên chống lại cái ác trừ hại bảo vệ nhân dân ta cũng nêu cao tính đoàn kết và chính nghĩa tuyệt đối luôn thắng cái ác. Sự dũng cảm cứng cỏi thông minh của Tử Văn rất cần cho giới trẻ chúng hiện nay cần có chứng kiến luôn sẵn sàng đứng lên bảo tổ quốc bảo vệ nhân dân.
Phân Tích Tản Viên Từ Phán Sự Lục Ngắn Gọn
Nguyễn Dữ là con trai cả Nguyễn Tường Phiêu, Tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496), người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc Thanh Miện, Hải Dương. Thuộc dòng dõi khoa hoạn, từng ôm ấp lý tưởng hành đạo, đã đi thi và có thể đã ra làm quan. Sau vì bất mãn với thời cuộc, lui về ẩn cư ở núi rừng Thanh Hóa, từ đó “trải mấy mươi sương, chân không bước đến thị thành”.
Ông đã viết tập truyện chữ Hán nổi tiếng trong cuộc sống lâm tuyền suốt quãng đời còn lại. Truyền kỳ mạn lục – một tác phẩm được đánh giá là “thiên cổ kỳ bút”. Truyện được Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính và Nguyễn Thế Nghi sống cùng thời dịch ra chữ Nôm.
“Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ là tác phẩm viết bằng chữ Hán gồm 20 truyện, ra đời vào nửa đầu thế kỉ XVI. Lục là sách, mạn là ghi chép tản mạn, truyền kì là chuyện lạ kì lưu truyền trong dân gian. Truyền kì mạn lục là sách ghi chép lại những mẩu chuyện lạ trong dân gian. Tác phẩm thực sự là một sáng tác văn học với sự gia công, hư cấu, sáng tạo, trau chuốt, gọt giũa của Nguyễn Dữ chứ không phải chỉ là một công trình ghi chép đơn thuần.
Trong Truyền kỳ mạn lục Nguyễn Dữ viết về các nhân vật, các sự việc kỳ lạ xảy ra thời Lý, Trần, Hồ và thời Lê sơ. Bằng trí tưởng tượng phong phú và bằng một bút pháp linh hoạt, tác giả Truyền kỳ mạn lục đưa người đọc vào một thế giới huyền bí vừa có người, vừa có thần, vừa hư, vừa thật nhưng xuyên qua các lớp mù linh ảo, ly kỳ được thêu dệt ra một cách tài giỏi ấy vẫn hiện rõ một thế giới thật của cuộc đời mà ở đó nhan nhản những kẻ có quyền thế độc ác, đồi bại.
Tuy nhiên, bên cạnh sự tung hoành của cái xấu cái ác, tác giả Truyền kỳ mạn lục vẫn nhìn thấy những phẩm cách lương thiện, trung thực, những tâm hồn thanh cao, những tình người tình yêu của nhân dân, của cái thiện vĩnh hằng và Nguyễn Dữ đã mô tả nó thật đẹp đẽ, mỹ lệ.
Trong số đó có tác phẩm “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” đã đề cao tinh thần khẳng khái, cương trực, dám đấu tranh chống lại cái ác, trừ hại cho dân của Ngô Tử Văn; đồng thời thể hiện niềm tin công lí, chính nghĩa nhất định sẽ chiến thắng gian tà.
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên kể về Ngô Tử Văn – người vốn khảng khái, nóng nảy, thấy sự gian tà thì không thể chịu được. Mọi người vẫn thường khen Văn là người cương trực. Ở làng Tử Văn sống trước có một ngôi đền linh ứng nhưng giờ đã thành ngôi đền có hồn của tên giặc xâm lược tử trận gần đó làm yêu quái trong dân gian.
Trước sự việc ngôi đền bị uế tạp và yêu quái có thể làm hại dân, “Tử Văn rất tức giận, một hôm tắm gội sạch sẽ, khấn trời rồi châm lửa đốt đền”. Sự khẳng khái, nóng nảy của Tử Văn đã dẫn đến một hành động dũng cảm vì dân trừ hại. Sự tức giận của Tử Văn không phải là sự tức giận cho riêng mình mà là sự tức giận cho mọi người dân đang bị yêu quái quấy nhiễu. Vì thế mà việc làm của Tử Văn là đáng ca ngợi.
Sau khi đốt ngôi đền, Tử Văn ốm nặng rồi “thấy hai tên quỷ sứ đến bắt đi rất gấp, kéo ra ngoài thành vế phía đông”. Lúc ở chốn âm cung, do chỉ nghe bên nguyên, Diêm Vương – vị quan tòa xử kiện – người cầm cán cân công lí – cũng đã có lúc tỏ ra mơ hồ. Khi đứng trước công đường Ngô Tử Văn càng tỏ ra mình là người có khí phách.
Chàng không chỉ khẳng định: “Ngô Soạn này là một kẻ sĩ ngay thẳng ở trần gian” mà còn dũng cảm vạch mặt tên bại tướng gian tà với lời lẽ “rất cứng cỏi, không chịu nhún nhường chút nào”. Chàng chiến đấu đến cùng vì lẽ phải. Từng bước, từng bước Ngô Tử Văn đã đánh lui tất cả sự phản công, kháng cự của kẻ thù, cuối cùng đã hoàn toàn đánh gục tên tướng giặc.
Sau khi được minh oan ở minh ti, Tử Văn trở về nhà chưa được 1 tháng thì Thổ công đến bảo Tử Văn nên nhậm chức phán sự ở đền Tản Viên. Thổ công nói: “người ta sống ở đời, xưa nay ai chẳng phải chết, miễn là chết đi còn được tiếng về sau” và khuyên Văn nên nhận. Thế là Văn vui vẻ nhận lời.
Việc được nhận chức ở đền Tản Viên đã nói lên thắng lợi của chàng trong cuộc đấu tranh với tên hung thần xảo quyệt. Sự thắng lợi này đã khẳng định chàng là người tốt, chính nghĩa, dám đấu tranh để thực hiện công lí. Con người của chính nghĩa đã được đứng ra để thực hiện công lý là một thắng lợi có ý nghĩa sâu sắc, khẳng định niềm tin chính nghĩa nhất định thắng gian tà.
Trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên, tác giả đã vạch trần bộ mặt gian tà của không ít kẻ đương quyền “quen dùng chước dối lừa, thích làm trò thảm ngược”. Ngòi bút của Nguyễn Dữ không chỉ lên án một số quan lại mà còn tố cáo mạnh mẽ hiện thực “rễ ác mọc lan, khó lòng lay động” mà bênh vực cho kẻ gian tà.
Trong câu nói buột miệng của Tử Văn “Sao mà nhiều thần quá vậy?” cũng cho ta thấy một hiện thực của xã hội phong kiến lúc bấy giờ: xã hội có quá nhiều kẻ hữu danh vô thực, lợi dụng địa vị, quyền thế làm điều bất chính. Kết thúc có hậu của câu chuyện thể hiện đúng truyền thống nhân đạo của dân ta: chính nghĩa nhất định thắng gian tà.
Viết Chuyện chức phán sự đền Tản Viên Nguyễn Dữ đã kết hợp thành công yếu tố ảo và thực. Câu chuyện diễn ra đầy tính chất li kì bởi sự xuất hiện của thế giới âm cùng với những hồn ma, bóng quỷ với những việc khác thường: người chết đi sống lại từ dương gian xuống địa phủ, từ cõi âm lại về cõi dương.
Nhưng chuyện lạ có vẻ như rất thật bởi cách dẫn người khác, dẫn việc cụ thể đến cả họ tên, quê quán và thời gian, địa điểm diễn ra sự việc. Yếu tố kì ảo giúp câu chuyện thêm phần li kì, hấp dẫn. Yếu tố thực làm tăng tính xác thực, làm câu chuyện có ý nghĩa xã hội sâu sắc.
Câu chuyện đề cao nhân vật Ngô Tử Văn – đại diện cho tầng lớp trí thức nước Việt giàu tinh thần dân tộc, chuộng chính nghĩa, dũng cảm, cương trực, dám đấu tranh chống lại cái ác trừ hại cho dân. Truyện còn thể hiện niềm tin công lý, chính nghĩa nhất định sẽ thắng gian tà.