Bảo Kính Cảnh Giới [Nguyễn Trãi] – Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích

Bảo Kính Cảnh Giới [Nguyễn Trãi] ❤️️ Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích ✅ Tổng Hợp Các Sơ Đồ Tư Duy, Hướng Dẫn Soạn Bài, Giáo Án.

Nội Dung Bài Thơ Bảo Kính Cảnh Giới

Với lập luận sắc bén, ngồi bút tài hoa Nguyễn Trãi đã thể hiện phong cách thoải mái trong những tựa thơ thường ngày rõ trong Bảo kính cảnh giới, tác phẩm trữ tình tâm đặc hiếm có của ông. Cùng đọc hết Nội Dung Bài Thơ Bảo Kính Cảnh Giới sau đây.

Bảo Kính Cảnh Giới Bài 43
Tác giả: Nguyễn Trãi

Rồi hóng mát thuở ngày trường,
Hoè lục đùn đùn tán rợp trương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tịn mùi hương.
Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.
Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương.

Tham khảo về tác phẩm 🌼 Bình Ngô Đại Cáo 🌼 Nội Dung Bài Thơ, Nghệ Thuật, Phân Tích 

Về Nhà Thơ Nguyễn Trãi

Chia sẻ bạn đọc những nét chính Về Nhà Thơ Nguyễn Trãi.

  • Nguyễn Trãi sinh năm 1380, mất năm 1442, hiệu là Ức Trai, quê ở làng Chi Ngại (Chi Linh, Hải Dương) sau rời về Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây, nay thuộc Hà Nội)
  • Gia đình: Nguyễn Trãi sinh ra trong một gia đình cả bên nội và bên ngoại đều có hai truyền thống lớn là yêu nước và văn hóa, văn học. Chính điều này đã tạo điều kiện cho Nguyễn Trãi được tiếp xúc và thấu hiểu tư tưởng chính trị của Nho giáo.
  • Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận kiệt xuất, những tác phẩm văn chính luận của ông có luận điểm vững chắc, lập luận chặt chẽ với giọng điệu linh hoạt
  • Sự nghiệp sáng tác: Nguyễn Trãi là tác giả xuất sắc về nhiều thể loại văn học, bao gồm cả chữ Hán và chữ Nôm
  • Các tác phẩm chính:
    • Văn chính luận: Quân trung từ mệnh tập,…
    • Thơ chữ Hán: Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác, Chu trung ngẫu thành, Tự thán, Thần Phù khải khẩu,…
    • Thơ chữ Nôm: Quốc âm thi tập,…

Xem trọn bộ 👉 Thơ Nguyễn Trãi: Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ Hay

Xem thêm các bài thơ Bảo Kính Cảnh Giới Của Nguyễn Trãi:

Về Tác Phẩm Bảo Kính Cảnh Giới

Về Tác Phẩm Bảo Kính Cảnh Giới, bài thơ được viết theo thể thơ Nôm Đường luật, có xen câu lục ngôn với câu thất ngôn. Bài thơ miêu tả vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên ngày hè qua đó thể hiện tâm hồn chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân, đất nước tha thiết của tác giả.

Nhà thơ tìm những nét vui trong cảnh vật mùa hè theo con mắt biết nhìn và con tim nhạy cảm. Hơn nữa, con người lo toan việc dân, việc nước ấy luôn luôn ước mong nhân dân được ấm no, giàu có.

Tặng Bạn ❤️️ Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Trãi ❤️️ Tập Thơ Nôm Nổi Tiếng Nhất

Hoàn Cảnh Sáng Tác Bảo Kính Cảnh Giới

Tiết lộ bạn đọc Hoàn Cảnh Sáng Tác Bảo Kính Cảnh Giới.

  • Là bài thứ 43 thuộc phần “Bảo kính cảnh giới” (gương báu răn mình), ở phần vô đề của tập thơ “Quốc âm thi tập”.
  • Bài thơ được sáng tác khoảng những năm 1438 – 1439 khi tác giả về ở ẩn tại Côn Sơn. Trong những năm Nguyễn Trãi là nhàn quan, không được vua tin dùng như trước.

Ý Nghĩa Nhan Đề Bảo Kính Cảnh Giới

Sau đây là Ý Nghĩa Nhan Đề Bảo Kính Cảnh Giới.

“Bảo kính cảnh giới” là gương soi, lời răn, không phải để nói với riêng mình. Trong một vài bài tác giả khuyên “chúng bay” hay “huynh đệ bay” tức là khuyên con. Đó là thơ gia huấn, khuyên con cháu về cách xử thế của con người bình thưởng trong hoàn cách xã hội bình thường.

Cái tên của bài thơ mang tính chất giáo huấn (Gương báu răn mình) nhưng thực chất đây lại là một bài thơ trữ tình về cảnh, về người. Qua bài thơ có thể thấy được một tâm hồn nghệ sĩ rất giàu cảm xúc trước thiên nhiên tạo vật nhưng cũng tràn đầy những ước mơ bình dị mà cao đẹp về cuộc sống của nhân dân.

XEM THÊM BÀI THƠ NỔI TIẾNG 👉 Thủ Vĩ Ngâm [Nguyễn Trãi]

Giá Trị Tác Phẩm Bảo Kính Cảnh Giới

Sau đây là những Giá Trị Tác Phẩm Bảo Kính Cảnh Giới.

Giá trị nội dung

  • Vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên ngày hè
  • Tâm hồn chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân, đất nước tha thiết của tác giả.

Giá trị nghệ thuật

  • Từ ngữ giản dị, giàu sức biểu cảm
  • Hình ảnh thơ gần gũi, bình dị.
  • Sử dụng câu thơ lục ngôn tạo nên sự thay đổi âm điệu, có hiệu quả to lớn trong việc thể hiện cảm xúc, mong ước của tác giả.
  • Tả cảnh ngụ tình.

Bố Cục Bài Thơ Bảo Kính Cảnh Giới

Bố Cục Bài Thơ Bảo Kính Cảnh Giới gồm 2 phần chính:

  • Phần 1 (6 câu thơ đầu): bức tranh thiên nhiên ngày hè.
  • Phần 2 (2 câu thơ cuối): tấm lòng của Nguyễn Trãi.

XEM THÊM BÀI THƠ NỔI TIẾNG 👉 Côn Sơn Ca [Nguyễn Trãi]

Dàn Ý Bảo Kính Cảnh Giới

Xem thêm Dàn Ý Bảo Kính Cảnh Giới đầy đủ.

I. Mở bài: Giới thiệu tác phẩm Cảnh ngày hè – Bảo Kính Cảnh Giới.

Ví dụ: Việt Nam ta có rất nhiều nhà văn nhà thơ và họ nỗi tiếng với các tác phẩm, các đứa con tinh thần của mình. Trong những nhà thơ có một nhà thơ rất nỗi tiếng từ rất xa xưa đó là Nguyễn Trãi.

Nguyễn Trãi từng là một vị qua triều đình nhưng vì chán ngán cuộc sống phù du, lừa lọc ông đã về ở ẩn. Nguyễn Trãi có những tác phẩm thơ rất nổi tiếng, một trong những tác phẩm ấy là Cảnh ngày hè. Bài thơ miêu tả cảnh ngày hè hết sức đặc sắc và nổi bật. Chúng ta cùng đi tìm hiểu bài thơ.

II. Thân bài:

1.Bức tranh thiên nhiên và con người vào ngày hè

  • Tâm thế của con người rất yêu thiên nhiên, sống với thiên nhiên và muốn hòa mình vào thiên nhiên
  • Tâm thế của con người rất an nhàn
  • Bức tranh thiên nhiên mùa hè rất rực rỡ
  • Cảnh thiên thiên mùa hè rực rỡ, tràn đầy sức sống
  • Đời sống của người rất thanh bình và êm ấm

2.Niềm khát khao cao đẹp của tác giả

  • Tác giả đắm chìm trong vẻ đẹp của thiên nhiên ngày hè
  • Tác giả khao khát muốn đem tài trí của mình để cống hiến cho đất nước, cho dân tộc
  • Khao khát lớn lao của tác giả thể hiện rất sâu sắc và chân thật

III. Kết bài: Nêu cảm nghĩ của em về bài thơ Cảnh ngày hè – Bảo Kính Cảnh Giới.

Ví dụ: Bài thơ Cảnh ngày hè thể hiện một bức tranh thiên nhiên ngày hè hết sức đẹp đẽ và rực rỡ. bên cạnh đó, bài thơ còn thể hiện sự khao khát cống hiến sức mình tài trí của mình cho đất nước, cho dân tộc.

XEM BÀI THƠ 🔻Gia Huấn Ca [Nguyễn Trãi]🔻

Soạn Bài Bảo Kính Cảnh Giới

Chia sẻ bạn đọc gợi ý Soạn Bài Bảo Kính Cảnh Giới.

Câu 1: Phân tích một số từ ngữ, hình ảnh được tác giả sử dụng để miêu tả cảnh sắc mùa hè. Từ đó, chỉ ra những nét đặc sắc trong cách cảm nhận thiên nhiên và bút pháp tả cảnh của tác giả.

Lời giải:

Một số từ ngữ được tác giả sử dụng để miêu tả cảnh sắc mùa hè: Sử dụng từ láy: đùn đùn, lao xao, dắng dỏi.

* Một số hình ảnh được tác giả sử dụng để miêu tả cảnh sắc mùa hè:

– Tán lá cây hòe che rợp một góc

– Hoa lựu nở đỏ rực

– Hoa sen ngát hương

– Tiếng ve dắng dỏi vang đến lầu cao

=> Những nét đặc sắc trong cách cảm nhận thiên nhiên và bút pháp tả cảnh của tác giả:

– Cách cảm nhận thiên nhiên: cảm nhận bằng thị giác, thính giác, khứu giác.

– Bút pháp tả cảnh của tác giả: không sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình mà khắc họa hình ảnh thiên nhiên một cách chân thực và sinh động.

Câu 2: Đọc bài thơ, bạn cảm nhận được điều gì vể vẻ đẹp tâm hồn, tư tưởng của tác giả?

Lời giải:

Vẻ đẹp tâm hồn: Tác giả là một người có tấm lòng yêu nước thương dân, ngay cả khi về ở ẩn vẫn lo lắng, nhàn thân chứ không nhàn tâm.

Câu 3: Cuộc sống của con người được nhà thơ tái hiện qua những âm thanh, hình ảnh nào? Phân tích mối liên hệ giữa khung cảnh ấy với ước nguyện của nhân vật trữ tình trong hai câu thơ cuối.

Lời giải:

– Cuộc sống của con người được nhà thơ tái hiện qua những âm thanh, hình ảnh: Hình ảnh cuộc sống quen thuộc: chợ cá, làng ngư phủ, lầu tịch dương; Âm thanh: Tiếng lao xao của chợ cá, tiếng ve kêu dắng dỏi. Đó là những âm thanh của một cuộc sống nhộn nhịp, vui tươi, sôi nổi, tấp nập.

– Mối liên hệ giữa khung cảnh ấy với ước nguyện của nhân vật trữ tình: Nhân vật trữ tình bộc lộ ước muốn về một cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Câu 4: Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) phân tích yếu tố “phá cách” trong Bảo kính cảnh giới

Lời giải:

Đoạn văn tham khảo:

Điều đặc biệt trong bài thơ của Nguyễn Trãi đó là câu đầu và câu kết sử dụng lục ngôn. Đó không chỉ là ý thơ dồn nén cảm xúc mà còn là một nét phá cách độc đáo trong thơ Nguyễn Trãi. Bằng cách sử dụng chữ Nôm, đan xen câu lục ngôn và thất ngôn, Nguyễn Trãi đã Việt hóa thể Đường luật, khiến bài thơ đậm đà tính dân tộc.

Nếu câu thơ đầu: “Rồi hóng mát thuở ngày trường” vẽ nên một thi nhân hướng về tạo vật thì câu thơ kết: “Dân giàu đủ khắp đòi phương” đã làm nổi bật một nhà tư tưởng, nhà chính trị, nhà nhân đạo hướng về phía nhân dân. Câu thơ kết đã thể hiện tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi.

Đừng bỏ lỡ tác phẩm 👉 Tự Thán [Nguyễn Trãi]

Giáo Án Bảo Kính Cảnh Giới

Tham khảo thêm về Giáo Án Bảo Kính Cảnh Giới.

I . MỤC TIÊU

 Sau bài học này, học sinh cần:

– Kiến thức: Cảm nhận được vẻ đẹp của bức tranh ngày hè và vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi. Nhận thức được đặc điểm của thô Noâm Nguyeãn Traõi.

– Kĩ năng: Đọc- hiểu một bài thơ Nôm Đường luật theo đặc trưng thể loại.

– Thái độ: Biết tôn trọng, yêu thương, bồi dưỡng cho mình một nhân cách sống.

II. CHUẨN BỊ

– Thầy: Đọc tài liệu tham khảo, SGK, SGV, bài tập cho học sinh.

– Trò: Đọc SGK, học bài cũ, soạn bài mới.

III. HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC

– Ổn định tổ chức (1 phút): Kiểm tra sĩ số học sinh.

– Kiểm tra bài cũ (4 phút): Đọc thuộc bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão, phân tích hào khí Đông A được thể hiện trong bài thơ?

HOẠT ĐỘNG CỦA GV – HSDỰ KIẾN SẢN PHẨM
Nhiệm vụ 1: Đọc văn bản

Bước 1: GV chuyên giao nhiệm vụ học tập

–  GV yêu cầu HS dựa vào phần đã đọc ở nhà hãy trả lời câu hỏi

Tác phẩm Bảo kính cảnh giới thuộc tập thơ nào?
+ Bố cục gồm có mấy phần? Nội dung chính của mỗi phần là gì?
+ Bảo kính cảnh giới thuộc thể loại thơ  nào?

–  HS tiếp nhận nhiệm vụ

Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ học tập

– Các nhóm thảo luận vấn đề

Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động và thảo luận

– GV mời đại diện 1 nhóm lên bảng và trả lời các nhóm khác nhận xét và bổ sung, góp ý

Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập

–   GV nhận xét chốt kiến thức
I. Đọc văn bản

–   Bảo kính cảnh giới là chùm thơ được rút ra từ tập Quốc âm thi tập bao gồm có 61 bài thơ trong tổng số 254 bài.

–   Bố cục bài thơ này gồm có 2 phần chính:

+ Phần 1: 6 câu đầu: nói về vẻ đẹp bức tranh ngày hè
+ Phần 2: 2 câu cuối: niềm tha thiết lớn của nhà thơ với đời

–  Bảo kính cảnh giới được viết theo thể loại  thơ Nôm Đường luật. Tức là viết bằng chữ Nôm và thể Đường luật. Đây được xem là một lối thơ riêng  do tác giả trung đại Việt Nam sáng tác dựa trên thể loại thơ Đường luật.

Nên xem 👉 Bài Thơ Dạy Vợ Con Của Nguyễn Trãi

Sơ Đồ Tư Duy Bảo Kính Cảnh Giới

Lưu lại ngay các Sơ Đồ Tư Duy Bảo Kính Cảnh Giới.

Sơ Đồ Tư Duy Bảo Kính Cảnh Giới Chi Tiết
Sơ Đồ Tư Duy Bảo Kính Cảnh Giới Chi Tiết
Sơ Đồ Tư Duy Bảo Kính Cảnh Giới Dễ Hiểu
Sơ Đồ Tư Duy Bảo Kính Cảnh Giới Dễ Hiểu
Sơ Đồ Tư Duy Bài Cảnh Ngày Hè Bảo Kính Cảnh Giới Đầy Đủ
Sơ Đồ Tư Duy Bài Cảnh Ngày Hè Bảo Kính Cảnh Giới Đầy Đủ

5+ Mẫu Phân Tích Bảo Kính Cảnh Giới Hay Nhất

Tặng bạn đọc 5 Mẫu Phân Tích Bảo Kính Cảnh Giới Hay Nhất.

Phân Tích Bảo Kính Cảnh Giới Nổi Bật

Nguyễn Trãi (1380- 1442) là đại thi hào dân tộc, người anh hùng cứu quốc thuở “bình Ngô”, danh nhân văn hóa Đại Việt. Thơ chữ Hán cũng như thơ chữ Nôm của Nguyễn Trãi đẹp đẽ, sâu sắc, biểu tượng cao quý của nền văn hiến Việt Nam.

“Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi hiện còn 254 bài thơ, được chia nhiều loại, nhiều thể tài khác nhau: Ngôn chí (21 bài), Thuật hứng (25 bài), Bảo kính cảnh giới (61 bài)…

Phần lớn các bài thơ trong “Quốc âm thi tập ” không có nhan đề. Đây là bài thơ 43 trong “Bảo kính cảnh giới”. Các bài thơ trong “Bảo kính cảnh giới ” hàm chứa nội dung giáo huấn trực tiếp, những bài thơ này rất đậm đà chất trữ tình, cho ta nhiều thú vị.

Đề tài mùa hè, cảnh hè được nói nhiều trong thơ văn cổ dân tộc. “Quốc âm thi tập”, “Hồng Đức quốc âm thi tập”, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến… đều có một số bài thơ viết về mùa hè rất hay. Bài thơ này là một thi phẩm khá tiêu biểu cho ngôn ngữ thi ca Ức Trai, đậm đà dấu ấn thời đại, thời Lê, thế kỷ XV nói lên cảnh sắc mùa hè làng quê và nỗi ước mong của nhà thơ.

Câu 1 (lục ngôn) nói lên một cách sống của thi nhân. Câu thơ bình dị như một lời nói vui vẻ, thoải mái, hồn nhiên:

“Rồi bóng mát thuở ngày trường”

Đằng sau vần thơ là hình ảnh một cụ già, tay cầm quạt giấy “Hài cỏ đẹp chân đi đủng đỉnh – Áo bô đen cật vận xềnh xoàng” đang đi dạo mát. Lúc bấy giờ, Ức Trai không bị ràng buộc bởi “áng mận đào ”, vòng “danh lợi ” nữa, mà đã được vui thú nơi vườn ruộng, làm bạn với cây cỏ, hoa lá nơi quê nhà.

“Ngày trường” là ngày dài. “Rồi” là tiếng cổ, nghĩa là rỗi rãi, nhàn hạ, cả trong công việc lẫn tâm hồn. Câu thơ phản ánh một nếp sống sinh hoạt nhàn nhã: trong buổi ngày rỗi rãi, lấy việc hóng mát làm niềm vui di dưỡng tinh thần. Ta có thể phán đoán Ức Trai viết về bài thơ này khi ông đã lui về Côn Sơn ở ẩn.

Năm câu thơ tiếp theo tả cảnh làng quê Việt Nam xa xưa. Các câu 2, 3, 4 nói về cảnh sắc, hai câu 5, 6 tả âm thanh chiều hè.

Cảnh sắc hè trước hết là bóng hoè, màu hoè. Lá hoè xanh thẫm, xanh lục. Cành hoè sum sê, um tùm, lá “đùn đùn ” lên thành chùm, thành đám xanh tươi, tràn đầy sức sống:

“Hoè lục đùn đùn tán rợp trương”

Tán hoè toả bóng mát, che rợp sân, ngõ, vườn nhà, “trương” lên như chiếc ô, chiếc lọng căng tròn. Mỗi từ ngữ là một nét vẽ màu sắc tạo hình, gợi tả sức sống của cảnh vật đồng quê trong những ngày hè: lục, đùn đùn, tán, rợp trương. Ngôn ngữ thơ bình dị, hàm súc và ấn tượng.

Cây hoè vốn được trồng nhiều ở làng quê; vừa làm cảnh, vừa cho bóng mát. Hoè nở hoa vào mùa hè, màu vàng, làm dược liệu, làm chè giải nhiệt. Trong văn học, cây hoè thường gắn liền với điển tích “giấc hòe” (giấc mộng đẹp), “sân hoè” (chỉ nơi cha mẹ ở).

Truyện Kiều có câu: “Sân hòe đôi chút thơ ngây – Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình Trong thơ Ức Trai, Lê Thánh Tông… hình ảnh cây hoè xuất hiện nhiều lần được miêu tả bằng một thứ ngôn ngữ trau chuốt, đậm đà:

“Lại có hoa hoè chen bóng lục”

(“Cảnh hè” – Ức Trai)

“Có thuở ngày hè trương tán lục,
Đùn đùn bóng rợp cửa tam công”

(“Hoè” – Ức Trai)

“Đằng đẵng ngày chầy rương rán nắng,
Đùn đùn bóng rợp phủ màn hoè ”

(“Vịnh cảnh mùa hè” – “Hồng Đức quốc âm thi tập”).

“Rợp rợp màn hoè bóng mới xây,
Choi chói hoa vàng đưa gió
Đùn đùn tán lục gương mây’’.

(“Màn hoè” – Lê Thánh Tông)

Câu 3 nói về khóm thạch lựu ở hiên nhà trổ hoa rực rỡ: “Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ”. “Thức” là tiếng cổ chỉ màu vẻ, dáng vẻ. Trong cành lá xanh biếc, những đoá hoa lựu như chiếc đèn lồng bé tí phóng ra, chiếu ra, “phun ” ra những tia lửa đỏ chói, đỏ rực. Chữ “phim ” được dùng rất hình tượng và thần tình. Lê Thánh Tông viết về hoa lựu:

“Ngoài hiên lửa lựu luống thè be ”

(“Mùa hè”)

“Truyện Kiều ” cũng có câu: “Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông” – Từ hoa lựu “phun thức đỏ”, “lửa lựu luống thè be” đến hình ảnh “đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông ” là cả một quá trình sáng tạo ngôn ngữ thi ca của các thế hệ thi sĩ dân tộc qua 5 thế kỷ từ “Quốc âm thi tập ” đến “Truyện Kiều vẻ đẹp ngôn ngữ thi ca được trau chuốt như ngọc quý sẽ ánh lên màu sắc huyền diệu là như thế đó!.

Câu 4 nói về sen: “Hồng liên trì đã rịn mùi hương”. “Tin ” là hết (tiếng cổ). Sen hồng vẫn nở thắm ao làng, nhưng hương đã nhạt, đã dần phai. Sen là biểu tượng cho cảnh sắc mùa hè làng quê ta. Khi sen trong ao làng đã “tịch mùi hương” tức là đã cuối hè.

Nguyễn Trãi đã chọn hoè, thạch lựu, sen hồng (hồng liên) để tả và đưa vào thơ. Cảnh sắc ấy vô cùng xinh đẹp và bình dị. Nhà thơ đã gắn tâm hồn mình với cảnh vật mùa hè bằng một tình quê đẹp. Thiên nhiên trong thơ Ức Trai rất hữu tình và thân thuộc, cỏ cây gần gũi, mến yêu:

“Tá lòng thanh vị núc nác,
Vun đất ải lãnh mồng tơi”

(Ngôn chí – số 9)

“Ao cạn vớt bèo cấy muống,
Đìa thanh phát cỏ ương sen”

(“Thuật hứng” – số 24)

Hè rất đẹp, rộn ràng trong khúc nhạc làng quê. Ngoài tiếng cuốc, tiếng chim tu hú, tiếng sáo diều còn có tiếng ve, tiếng cười nói “lao xao ” của đời thường:

“Lao xao chợ cá làng ngư phù,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”.

Sau khi tả hoè màu “lục”, lựu “phun thức đỏ”, sen hồng đã “tịch mùi hương”, nhà thơ nói đến âm thanh mùa hè, khúc nhạc đồng quê. Tiếng “lao xao” từ một chợ cá làng chài xa vọng đến, đó là tín hiệu cuộc đời dân dã đầy muối mặn và mồ hôi. Nhà thơ lắng nghe nhịp sống đời thường ấy với bao niềm vui.

“Lao xao” là từ láy tượng thanh gợi tả sự ồn ào, nhộn nhịp. Hòa nhịp với tiếng lao xao chợ cá là tiếng ve-vang lên rộn rã, nhịp nhàng. “Cầm ve”, hình ảnh ẩn dụ, tả âm thanh tiếng ve kêu như tiếng đàn cầm. “Dắng Dỏi ” nghĩa là inh ỏi, âm sắc tiếng ve trầm bổng, ngân dài vang xa.

Ngôi lầu buổi xế chiều trở nên náo động, rộn ràng. Nhà thơ lấy tiếng ve để đặc tả khung cảnh một chiều hè làng quê lúc hoàng hôn buông dần xuống mái lầu (lầu tịch dương) là một nét vẽ tinh tế đầy chất thơ làm nổi bật cái không khí êm ả một chiều hè nơi thôn dã:

“Dắng dỏi cầm ve //lầu tịch dương”

Và đây, là tiếng chim cuốc, tiếng ve ngày hè nơi đồng quê được nói đến trong thơ “Hội Tao Đàn” dưới triều vua Lê Thánh Tông:

“Tường nọ nhặt khoan vang tiếng cuốc,
Cành kia dắng dỏi gảy cầm ve

(Vịnh cảnh mùa hè).

Trở về “Côn Sơn quê cũ”, Ức Trai đã từng bồi hồi “trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn ”, giờ đây ông lại thả hồn mình trong khúc ca dân dã “cầm ve ” buổi chiều tà cuối hè. Tiếng ve lúc hoàng hôn thường gợi nhiều bâng khuâng, vì ngày tàn, màn đêm đang dần dần buông xuống. Nhưng với Ức Trai, nó đã trở thành “cầm ve” nhặt khoan trầm bổng, dắng dỏi vang xa, làm cho khung cảnh làng quê một buổi chiều tà bỗng rộn lên bao niềm vui cuộc đời.

Hai câu kết diễn tả ước mong nhà thơ:

“Dễ có Nạn cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương’’.

“Dễ có ” nghĩa là hãy để (cho ta) có; học giả Đào Duy Anh ghi chú là “Lẽ có” và giải thích “Đáng lẽ có… Ngu cầm là cây đàn thần của vua Thuấn (Nghiêu Thuấn là hai ông vua thời cổ đại Trung Quốc – triều đại lí tưởng: nhân dân được sống trong hạnh phúc, thanh bình).

Câu kết, cảm xúc trữ tình được diễn tả bằng một điển tích phản ánh khát vọng cao đẹp của nhà thơ. Ức Trai chân thành bày tỏ: Hãy để cho ta cây đàn thần của vua Thuấn, ta sẽ gảy lên khúc ‘‘Nam phong”, cầu mong cho mọi nhà, mọi chốn, khắp các phương trời (đòi phương) được ấm no, giàu có.

Hai câu kết toát lên một tình yêu lớn. Con người Ức Trai lúc nào cũng hướng về nhân dân, mong ước cho nhân dân được ấm no và nguyện hi sinh phấn đấu cho hòa bình, hạnh phúc của dân tộc.

Trong thơ Ức Trai, hai câu kết luôn luôn là sự hội tụ bừng sáng của những tư tưởng tình cảm cao cả, đẹp đẽ. Vì thế mà câu kết đã để lại trong tâm hồn người đọc những ấn tượng vô cùng mạnh mẽ:

“Cảnh thanh dường ấy chẳng về nghỉ,
Lẩn thẩn làm chi áng mận đào “

(Mạn thuật – số 13)

“Bui một tấc lòng ưu ái cũ,
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông”.

(“Thuật hứng” – số 5)

Bài thơ Nôm ra đời gần 600 năm về trước miêu tả cảnh tình mùa hè nơi đồng quê, đã đem đến cho chúng ta nhiều thú vị văn chương. Một giọng thơ thâm trầm, hồn hậu đáng yêu. Nhiều tiếng cổ, cấu trúc câu thơ thất ngôn xen lục ngôn. Phép đối ở phần thực và phần luận khá chặt chẽ về ngôn từ, thanh điệu, hình ảnh và ý tưởng.

Cảnh sắc và âm thanh mùa hè quê ta xa xưa như sống dậy qua những vần thơ nhuần nhị đầy cá tính sáng tạo. Ức Trai đã gửi gắm một tình yêu thiên nhiên nồng hậu, một tấm lòng thiết tha với cuộc sống, một niềm ước mong tốt đẹp cho hạnh phúc của nhân dân. Vĩ đại thay Ức Trai. Bài học thương yêu nhân dân mà ông nói đến lúc nào cũng mới mẻ và đậm đà.

Xem thêm 👉 Bài Thơ Ghẹo Cô Hàng Chiếu

Phân Tích Bảo Kính Cảnh Giới Tiêu Biểu

Nguyễn Trãi không chỉ biết đến với tác phẩm nổi tiếng, một áng thiên cổ hùng văn bình ngô đại cáo mà còn được biết đến vơi những bài thơ thiên nhiên và con người như Côn Sơn Ca, Cây Chuối… một trong những tác phẩm thiên nhiên và con người ấy còn phải kể đến bài thơ bảo kính cảnh giới 43 của ông. Đó là bài thơ cảnh ngày hè với những thiên nhiên con người và tâm trạng của Nguyễn Trãi.

Trong những bài thơ về tình yêu thiên nhiên CÔn Sơn chính là nơi dừng chân của Nguyễn Trải trong những ngày tháng buồn bã mệt mỏi nơi quan trường.

Sự ung dung nhàn hạ ấy được thể hiện trong câu thơ đầu tiên:

Rồi hóng mát thuở ngày trường

Câu thơ như mở ra những ngày tháng thảnh thơi, hóng mát những ngày dài, những hình ảnh dài của những ngày tháng ấy dần được mở ra ở những câu sau. Những ngày tháng ấy là những ngày tháng an nhàn khi gác lại chuyện chính sự sang một bên, khiến cho không chỉ tâm hồn mà thể xác cũng rất nhàn hạ.

Cuộc sống với ông chỉ cần thế mùa hè đến ông không cảm nhận thấy cái nóng của đát trời mà ông chỉ cảm nhận được gió mát. Thiên nhiên nơi chốn quê hương chính là nguồn cảm hứng vô tân cho tác giả. àm cho ông cảm thây vui vẻ phần nào trong cuộc sống ở quê.

“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

Đây là những câu thơ đặc tả những cảnh đẹp mùa hè nơi chốn quê hương ông, là hương sắc mùa hè rất sinh động và hấp dẫn. Hình ảnh của mùa hè hiển ra với những gam màu nóng:màu đỏ của hoa hòe, màu lựu đỏ, màu hồng của cánh sen và chúng được kết hợp với những động từ mạnh như “ đùn đùn”, “ phun”, “ tiễn” cho thấy một bức tranh quê hương với màu sắc và hương vị đặc trưng và sự sinh sôi nảy nở manh mẽ trong mùa hè.

Bức họa đồn quê hiện ra với biết bao nhiêu màu sắc bao nhiêu thay đổi đẹp đẽ, và đó còn là sự sinh trưởng mạnh mẽ của hoa cỏ cây cối. nó mang tới cho chúng ta những cảm giác thật yên bình, không những thế ta còn cảm nhận được cái hương vị của mùa hè qua động từ “tiễn”.

Không những thế mùa hè còn mang đến cho tác giả những những phiên chợ những làng ngư phủ. Cuộc sống thôn dã hiện ra với vẻ tấp nập hiếm có của con người nơi đây. Chính chợ phản ánh cuộc sống của con người có no đủ, giàu có hay không

“Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

Cuộc sống thật sự náo nhiệt, những phiên chợ của những ngư dân vùng biển, hình ảnh ảnh những con người lao động hiện lên thật đẹp với phiên chợ vui vẻ của những lưới cá bội thu.

Dân giàu đủ khắp đòi phương”.

Cất lên một khúc đàn của cây đàn vua Ngu Thuấn mang lại cho nhân dân cuộc sống âm no hạnh phúc. MƯợn được hình ảnh vua Ngu Thuấn cây cầm ấy để làm cho nhân dân ta giàu mạnh khắp phương. Dù đã trở về với cuộc sống nơi thôn dã nhưng ông luôn luô giữ tình yêu thương và lòng mong mỏi một cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân tram họ.

Bài thơ là những dòng chảy cảm xúc về thiên nhiên cũng như nối khát khao mong mỏi và tấm lòng yêu nước nồng nhiệt của Nguyễn Trãi. Bìa thơ tuy ngắn nhưng để lại cho người đọc nhiều ấn tượng mạnh. Kết thúc bài thơ là tinh thần nhân nghĩa cao cả và tình yêu nhân dân vô bờ bến của ông.

Xem thêm 👉 Cây Chuối Của Nguyễn Trãi [Nội Dung Bài Thơ + Phân Tích]

Phân Tích Bảo Kính Cảnh Giới Hay Nhất

Nguyễn Trãi là đại thi hào dân tộc, là danh nhân văn hóa của Đại Việt, đồng thời ông còn là tác giả áng thiên cổ hùng văn “Bình ngô đại cáo”.

Ngoài ngòi bút sắc bén, lập luận đanh thép với dẫn chứng thuyết phục trong những áng văn chính luận, ta còn bắt gặp một Nguyễn Trãi với phong thái nhàn tản, giao cảm hòa hợp cùng thiên nhiên trong “Bảo kính cảnh giới 43”. Không chỉ mang chất trữ tình sâu sắc, bài thơ chứa đựng cả nội dung mang tính giáo huấn người đời, ngời sáng tâm hồn lí tưởng của bậc thi sĩ lớn Ức Trai.

Trước hết, bài thơ thể hiện tình yêu cũng như tâm hồn tinh tế và sự giao cảm mạnh mẽ đối với thiên nhiên của tác giả Nguyễn Trãi. Nhân vật trữ tình xuất hiện trong phong thái ung dung tự tại: “Rồi hóng mát thuở ngày trường”.

Như chúng ta đã biết, Nguyễn Trãi là nhà thơ nặng lòng với thiên nhiên và luôn mở lòng với thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh, nhưng khoảnh khắc rảnh rỗi vào một ngày khí trời mát mẻ, trong lành thì quả là hiếm hoi. Nếu người xưa thường thiên về vịnh cảnh thì Nguyễn Trãi lại vận dụng bút pháp tả. Và rồi bằng sự quan sát tinh tế của nhân vật trữ tình, bức tranh thiên nhiên đầy sức sống đã hiện lên:

“Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

Những sắc màu của cảnh vật hiện lên trong sự giao hòa: Màu lục của lá hòe cùng màu đỏ của hoa thạch lựu đan cài vào nhau trong ánh mặt trời buổi chiều. Đặc biệt hơn, cảnh vật được miêu tả trong sự chuyển động tạo nên một bức tranh căng tràn sức sống.

Tác giả đã sử dụng những động từ mạnh: “đùn đùn”, “trương”, “phun” gợi nên sự tràn đầy và sức sống từ nội tại đang ứa căng và không kìm lại được và phải bộc phát ra bên ngoài. Đại thi hào Nguyễn Du cũng đã từng miêu tả cảnh sắc mùa hè bằng sắc hoa lựu: “Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông” (trích “Truyện Kiều”).

Với từ “lập lòe”, tác giả Nguyễn Du đã tạo nên sự độc đáo trong việc tạo hình sắc, còn Nguyễn Trãi lại nhấn mạnh sức sống của cảnh vật, thể hiện rõ cái nhìn tinh tế đối với cảnh vật của hai thi sĩ tài ba. Thi nhân đã vận dụng nhiều giác quan: thị giác, thính giác và khứu giác kết hợp cùng trí tưởng tượng phong phú để đón nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, cho thấy sự giao cảm mạnh mẽ nhưng vô cùng tinh tế của Ức Trai đối với cảnh vật.

Không chỉ dừng lại ở đó, bên cạnh màu sắc tác giả còn tô điểm cho bức tranh thiên nhiên âm thanh, đường nét hệt như một người họa sĩ tài ba tạo nên một kiệt tác có hồn của tạo vật. “Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ” với sự kết hợp của động từ “phun” và “thức”- màu vẻ, dáng vẻ, câu thơ đã diễn tả thành công cái hồn và thần thái của cảnh vật.

Cảnh vật mùa hè còn được miêu tả qua hình ảnh rất đặc trưng: Đóa sen trong ao đã tỏa hương thơm ngát, tạo nên một bức tranh hài hòa về màu sắc và hương vị.

Bài thơ còn khắc họa bức chân dung của một con người luôn hết lòng vì dân, vì nước. Mặc dù đang hòa mình đắm say trong vẻ đẹp sinh động, đáng yêu và tràn trề sức sống của thiên nhiên nhưng tác giả vẫn hướng đôi mắt quan sát của mình đến cuộc sống của con người:

“Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

Bức tranh mùa hè được bổ sung thêm những nét vẽ về cuộc sống của con người với thanh âm của “lao xao” của chợ cá tại một làng chài ven sông cùng tiếng dắng dỏi của cầm ve. Cuộc sống yên vui, no đủ của người dân đã gợi lên trong lòng tác giả một mong ước hết sức cao đẹp:

“Dẽ có Ngu Cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ, khắp đòi phương”

Tác giả mong ước có được chiếc đàn của vua Thuấn để gảy nên khúc Nam Phong ca ngợi đời sống ấm no hạnh phúc của nhân dân. Câu thơ kết thúc bài được kiến tạo theo cách ngắt nhịp 3/3, thể hiện rõ sự rồn nén cảm xúc của bài thơ.

Mở đầu bằng bức tranh thiên nhiên giàu hình ảnh, màu sắc, hình khối, đường nét nhưng kết thúc bằng câu thơ nói về con người cho thấy điểm kết mà tác giả muốn hướng đến không phải ở thiên nhiên tạo vật mà chính ở con người. Điều này đã thể hiện rõ tâm hồn hết sức cao cả và vĩ đại của Nguyễn Trãi- vị anh hùng dân tộc luôn mong muốn cho dân được ấm no, hạnh phúc.

Như vậy, thông qua bài thơ, chúng ta có thể thấy được tình yêu cùng sự giao hòa đối với thiên nhiên của tác giả, giống như ông đã từng bộc bạch: “Non nước cùng ta đã có duyên” (“Tự thán”- bài 4). Là một thi sĩ, ông đến với thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh nhưng cuối cùng, tâm hồn của ông vẫn hướng đến nhân dân, đến đất nước.

Qua lời tâm sự và mong ước về cuộc sống của nhân dân, độc giả có thể thấy được tâm hồn và lí tưởng cao đẹp của tác giả Nguyễn Trãi. Tình yêu thiên nhiên, tạo vật đã quyện hòa và làm ngời sáng hơn nữa tình yêu đối với đất nước, nhân dân.

Xem bài thơ hay 👉 Cảnh Ngày Hè của Nguyễn Trãi (Nội Dung, Phân Tích Bài Thơ)

Cảnh Ngày Hè Nguyễn Trãi
Cảnh Ngày Hè Nguyễn Trãi

Phân Tích Bảo Kính Cảnh Giới Đặc Sắc

Trong số 254 bài thơ của Quốc âm thi tập, có tới 61 bài thuộc nhóm thơ Bảo kính cảnh giới (Gương báu rắn mình). Riêng về mặt số lượng – chiếm gần một phần tư – Bảo kính cảnh giới đã có vị trí quan trọng trong thi tập. Tuy nhiên, điều đáng nói là thơ Bảo kính cảnh giới của Nguyễn Trãi không chỉ giáo huấn, khuyên răn, triết lí.

Bảo kính cảnh giới trước hết là thơ rất hay, thơ đích thực thể hiện tâm hồn thi sĩ. Bài Bảo kính cảnh giới số 43 là tấm “gương báu răn mình” nhưng qua đó lại thấy đậm nét hơn cả là cuộc sống, tâm sự tác giả, thấy ngôi sáng hơn cả là tâm hồn và lí tưởng của thi sĩ Ức Trai.

Trước hết, bài thơ cho ta thấy sự giao cảm với thiên nhiên tạo vật của hồn thơ Nguyễn Trãi.

Ức Trai là nhà thơ của thiên nhiên: “Non nước cùng ta đã có duyên” (Tự thán – Bài 4). Ông đến với thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh: thời chiến, thời bình, lúc buồn, khi vui, lúc bận rộn, khi thư giãn… Trong hoàn cảnh nào tâm hồn nhà thơ cũng rộng mở đón nhận thiên nhiên: “Túi thơ chứa hết mọi giang san” (Tự thán – Bài 2)

Thật hiếm hoi và có phần đặc biệt khi ta gặp trong thơ Ức Trai một hoàn cảnh:

Rồi hóng mát thuở ngày trường.

Thời gian rảnh rỗi, tâm hồn thư thái, thanh thản, khí trời mát mẻ, trong lành… Một ngày như thế trong đời Nguyễn Trãi đâu nhiều. Ông là người “thân” không nhàn mà “tâm” cũng không nhàn. “Một phút thanh nhàn trong thuở ấy” với Ức Trai đáng quý biết bao. Quả hiếm hoi mới có một hoàn cảnh lí tưởng đến thế – cả khách quan và chủ quan – để làm thơ, để yêu say cảnh đẹp.

Thi nhân xưa đến với thiên nhiên thường bằng bút pháp vịnh, ở đây Nguyễn Trãi lại thiên về bút pháp tả. Hiện lên trước mắt người đọc là một bức tranh cuối mùa hè rất sinh động và đầy sức sống.

Tính sinh động của bức tranh được tạo nên bởi sự kết hợp giữa đường nét, màu sắc, âm thanh, con người và cảnh vật: màu lục của lá hòe làm nổi bật màu đỏ của hoa thạch lựu và ánh mặt trời buổi chiều như dát vàng lên những tán học xanh. Tiếng ve inh ỏi – âm thanh đặc trưng của mùa hè, hòa cùng tiếng “lao xao chợ cá” – âm thanh đặc trưng của làng chài.

Về thời gian, cảnh vật đang ở vào khi cuối: cuối mùa (“Hồng liên trì đã tin mùi hương” – Hoa sen tàn đã hết hương thơm), cuối ngày (“tịch dương” – mặt trời sắp lặn). Nhưng sự sống thì không dừng lại. Hãy lưu ý cách tác giả dùng các động từ “đùn đùn”, “giương”, “phun”. Có một cái gì thôi thúc tự bên trong, đang ứa căng, đang tràn đầy, không kìm lại được, phải “giương” lên, phải “phun” ra, hết lớp này đến lớp khác.

So sánh câu thơ tả cảnh cuối hè của Nguyễn Trãi: “Thạch lựu hiện còn phun thức đỏ” với câu thơ tả cảnh mùa hè của Nguyễn Du: “Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông” (Truyện Kiều) ta thấy cả hai thi sĩ tài ba đều có cái nhìn tinh tế đối với cảnh vật. Với từ “lập lòe”, Nguyễn Du thiên về tạo hình sắc. Với từ “phun”, Nguyễn Trãi lại thiên về tả sức sống.

Cảnh vật cuối hè được miêu tả với hình ảnh rất đặc trưng: sen tàn đã hết mùi hương. Thêm vào đó là cách ngắt nhịp 3/4 – cách ngắt không theo nhịp 4/3 của thơ luật Đường hoàn chỉnh – đã tập trung được sự chú ý của người đọc, làm nổi bật hơn cảnh vật vào thời điểm cuối hè.

Thạch lựu hiên / còn phun thức đỏ
Hồng liên trì / đã tiễn mùi hương.  

Qua bức tranh thiên nhiên sinh động và đầy sức sống, chúng ta thấy được sự giao cảm mạnh mẽ nhưng tinh tế của nhà thơ đối với cảnh vật. Thi nhân đã đón nhận cảnh vật với nhiều giác quan: thị giác, thính giác, khứu giác và cả sự liên tưởng nữa.

Sự giao cảm mạnh mẽ không làm mất đi vẻ tinh tế của hồn thơ Ức Trai, Cùng viết về cảnh mùa hè, cũng với sự giao cảm mạnh mẽ nhưng bộc trực, các tác giả thời Hồng Đức đem đến cho người đọc một bức tranh với vẻ đẹp mộc mạc và có phần thô ráp:

Nước nồng sừng sực đầu rô trỗi     
Ngày nắng chang chang lưỡi chó lè
                           (Lại vịnh nắng mùa hè – bài 3)

Nguyễn Trãi không thế. Ông biết hòa màu sắc, âm thanh, đường nét theo quy luật của cái đẹp trong hội họa, trong âm nhạc, làm cho bức tranh thiên nhiên vừa có hình, vừa có hồn, vừa gợi tả, vừa sâu lắng.

Khi nhà thơ viết: Thạch lựu hiện / còn phun thức đỏ (theo nghĩa là màu vẻ, dáng vẻ chứ không chỉ là màu sắc đơn thuần) thì câu thơ lại nghiêng về diễn tả trạng thái tinh thần của cảnh vật. Nguyễn Trãi giao cảm với thiên nhiên mạnh mẽ nhưng tinh tế và sâu sắc là thế.

Thiên nhiên qua cảm xúc của thi sĩ trở nên sinh động, đáng yêu và đầy sức sống. Tất cả đều có cội nguồn sâu xa là lòng thiết tha yêu đời, yêu cuộc sống của tác giả. Cảnh vật thanh bình, yên vui bởi sự thanh thản đang xâm chiếm tâm hồn nhà thơ. Âm thanh “lao xao chợ cá” dội tới từ phía làng chài hay chính tác giả đang rộn rã niềm vui trước cảnh “dân giàu đủ”? Và tiếng cầm ve gắng dỏi phải chăng là khúc nhạc lòng đang được tấu lên?

Nguyễn Trãi yêu thiên nhiên, nhưng trên hết vẫn là tấm lòng của ông tha thiết với con người, với dân, với nước. Như trên đã nói, thật hiếm hoi khi thấy Nguyễn Trãi có được những phút giây thanh thản.

Ở đây ông có cả một “ngày trường” thưởng thức thiên nhiên với một tâm trạng lâng lâng, sảng khoái. Ức Trai tự dành cho mình quyền “Rồi hóng mát thuở ngày trường” bởi niềm mơ ước, bởi nỗi trăn trở giày vò, mục đích lớn nhất của đời ông được thực hiện: dân ấm vào hạnh phúc.

Nhìn cảnh sống của dân, đặc biệt là người lao động. Những dân chài lam lũ – được yên vui, no đủ, Nguyễn Trãi ước có được chiếc đàn của vua Thuấn để gảy khúc Nam phong ca ngợi cảnh:

Dân giàu đủ khắp đòi phương.

Câu kết của bài thơ là một câu sáu chữ ngắn gọn, thể hiện sự dồn nén cảm xúc của cả bài, Điểm kết tụ của hồn thơ Ức Trai không phải ở thiên nhiên, tạo vật mà chính là ở con người, ở người dân. Nguyễn Trãi mong cho dân được ấm no, hạnh phúc: “dân giàu đủ”. Nhưng đó không phải là hạnh phúc cho tất cả mọi người, mọi nơi: “khắp đòi phương”.

Thông thường mỗi khi nói tới người dân, thơ Nguyễn Trãi vẫn được một nỗi lo âu, trở trăn, dằn vặt. Bởi lẽ, với Ức Trai, “dân” là món nợ cuộc đời ông chưa trả được. Chỉ trong hai trường hợp ông nói đến dân với tất cả niềm hân hoan mãn nguyện: khi chiến thắng kẻ thù xâm lược, nhân dân được yên vui no đủ.

Niềm vui của Nguyễn Trãi thể hiện trong bài thơ là thuộc trường hợp thứ hai. Với Nguyễn Trãi, vui hay buồn, lo âu hay thanh thản, tất cả đều xuất phát từ cuộc sống của nhân dân. Dù ở cung bậc và sắc thái tình cảm nào thì tấm lòng Ức Trai với nước, với dân chỉ là một:

Sách một hai phiên làm bầu bạn     
Rượu năm ba chén đổi công danh   
Ngoài chưng phận ấy cần đâu nữa?
Cầu một: ngồi coi đời thái bình.      
                                (Tự thân – Bài 10)

Bài thơ Bảo kính cảnh giới số 43 tuy thuộc nhóm thơ “Gương báu răn mình” nhưng lại giàu cảm xúc, giàu chất thơ. Biết làm sao được khi Nguyễn Trãi dùng tiếng nói của thời ông. Những từ ấy có phần nào hạn chế nhận thức và cảm xúc của chúng ta. Nhưng đó không phải là nhược điểm.

Và thực ra, đọc bài thơ, chúng ta hầu như không cảm thấy sự ngăn cách bởi “hàng rào ngôn ngữ. Tiếng Việt trong thơ Nguyễn Trãi cách ta 600 năm rồi mà có câu nghe vẫn mới, vẫn hiện đại: “Lao xao chợ cá làng ngư phủ”. Vả lại, làm nên vẻ đẹp của ngôn từ, cái gốc vẫn là ở tấm lòng, ở trái tim, Lý tưởng “Dân giàu đủ khắp đòi phương” của Nguyễn Trãi với ngày hôm nay vẫn mang ý nghĩa thẩm mỹ và nhân văn.

Xem bài thơ hay 👉 Bài Thơ Tiếc Cảnh (Nội Dung + Nghệ Thuật + Phân Tích)

Cảnh Ngày Hè Nguyễn Trãi

Phân Tích Bảo Kính Cảnh Giới Ấn Tượng

Nguyễn Trãi là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc song ông cũng là một nhà chính trị tài ba, lỗi lạc. Dưới thời nhà Lê ông là một vị hiền thần, đã có nhiều kế sách đúng đắn, sáng suốt giúp cho nhà Lê phát triển triều đình, ổn định phát triển cuộc sống của dân chúng.

Tuy nhiên, vì bản lĩnh cứng cỏi, lại liêm khiết, quyết không chịu bắt tay với bọn nịnh thần nên Nguyễn Trãi đã trở thành đối tượng và chúng công kích và tìm mọi cách để hãm hại. Ông đã nhiều lần bị bắt vào ngục vì những trò tiểu nhân của chúng.

Sau những thăng trầm chốn quan trường, ông đã quyết định từ chốn quan trường để trở về quê sống cuộc sống ẩn dật, giản dị của một Nho sĩ. Và ở quê nhà Côn Sơn, Chí Linh, Nguyễn Trãi đã cho ra đời rất nhiều những sáng tác hay, viết về cuộc sống dân dã nhưng đầy niềm vui và ý nghĩa. Bài thơ bảo kính cảnh giới số 43 cũng được sáng tác trong thời gian Nguyễn Trãi lui về ở ẩn đấy.

Bài thơ bảo kính cảnh giới số 43 viết về cuộc sống bình dị nơi thôn dã của Nguyễn Trãi, cũng thể hiện được tác phong ung dung, bình tĩnh, tự tại của nhà thơ trước những nhịp sống, nhịp vận động của thiên nhiên, đất trời. Bài thơ vừa thể hiện được những nét đẹp trong tâm hồn của nhà thơ, đó là một thi nhân đầy nhạy cảm với tình yêu thiên nhiên da diết.

Song đó cũng là một con người nhập thế, bởi dù đã trở về ở ẩn nơi núi rừng Côn Sơn thì Nguyễn Trãi vẫn một lòng hướng về thế sự, một lòng mong mỏi người dân có cuộc sống bình yên, êm ấm, no đủ. Ở câu thơ đầu tiên, nhà thơ Nguyễn Trãi đã vẽ ra khung cảnh bình yên, tươi đẹp của cuộc sống dân dã, đồng thời cũng cho thấy được tâm trạng cũng như tư thế tự tại của nhà thơ trong khung cảnh tươi đẹp đó:

“Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”

Ở trong hai câu thơ này phần nào đã hé mở bức tranh ngày hè đầy rực rỡ và tâm hồn đầy thư thái của thi nhân. Từ “rồi” mà Nguyễn Trãi sử dụng ở đây không phải từ chỉ thời gian sau này, không phải sự dự báo cuộc sống an nhàn, thảnh thơi của mình sau đó.

Bởi lúc này thì Nguyễn Trãi đã từ quan, bỏ lại nơi bát nháo, thị phi của chốn quan trường mà trở về ở ẩn, sống dung dị với thiên nhiên, cuộc sống giản dị nơi thôn dã. Bởi vậy mà từ “rồi” ở đây ta có thể hiểu theo nghĩa là sự rảnh rỗi, thời gian đầy tự do mà không vướng phải những công chuyện trần thế, chỉ an tâm thưởng ngoạn khung cảnh của thiên nhiên.

“Rồi bóng mát thuở ngày trường” câu thơ đã thể hiện được tư thế đầy tự do, tự tại của nhà thơ Nguyễn Trãi khi đang an nhàn mà đón nhận “bóng mát” của những ngày thường, đó chính là sự tươi mát, dịu nhẹ nơi tâm hồn, khác hẳn với cái nóng nực, bức bối đầy khó chịu nơi thị thi như chốn quan trường.

Câu thơ vừa thể hiện được những đặc điểm về thời tiết, đó là sự mát mẻ nơi núi rừng, song đó cũng chính là sự thanh mát nơi tâm hồn, khi nhà thơ không còn vướng bận chuyện chính sự. Trong cái không gian thoáng và mát mẻ ấy, nhà thơ có điều kiện quan sát những cảnh vật, sự sống xung quanh mình “Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”.

“Hòe lục” là sắc xanh của những chiếc lá hòe. “Đùn đùn” vừa diễn tả được cái um tùm, xum xuê của tán lá, nhưng đồng thời cũng thể hiện được chiều vận động của những chiếc lá này. Trong sự quan sát và cảm nhận của nhà thơ Nguyễn Trãi thì những chiếc lá hòe này dường như đang bảo nhau mà đùn lên xanh tốt, bóng của cây hòe cũng phủ bóng râm cho cả một vùng không gian “Tán rợp giương”.

Và màu sắc tươi mới, rực rỡ của ngày hè không chỉ dừng lại ở cái sắc xanh của lá, nó còn được điểm xuyết bởi sắc đỏ của những bông hoa thạch lựu, sự điểm xuyết này càng làm cho bức tranh ngày hè thêm tươi đẹp, tràn trề sức sống và thêm thu hút đối với cảm nhận về thị giác của độc giả:

“ Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

Ta có thể thấy, đây là những câu thơ đẹp nhất trong bài khi miêu tả về khung cảnh ngày hè đầy rực rỡ, tươi đẹp. “Thạch lựu” là một loại hoa thường nở vào những ngày hè, vì vậy mà nhắc đến hoa thạch lựu thì người ta hay liên tưởng đến những ngày hè đầy tươi đẹp.

“Hiên” ở đây là từ chỉ địa điểm, hiên cũng tức là hiên nhà, xét ý nghĩa toàn câu thơ ta sẽ thấy được những bông hoa thạch lựu đỏ rực ngay trước hiên nhà. Cũng như câu thơ trên, nhà thơ Nguyễn Trãi đã sử dụng những động từ đầy sức biểu cảm, “phun” thể hiện sự lan tỏa, khuếch trương của sắc đỏ ấy trong không gian.

Trong cách mô tả này ta có thể cảm nhận được dường như sắc đỏ rực của những bông hoa thạch lựu không hề tồn tại cố hữu ở một địa điểm mà nó nở, mà có xu hướng làm lan tỏa màu sắc rực rỡ ấy vào không gian, vào tâm hồn người thi nhân, tạo ra những cảm giác vấn vương, rạo rực.

“Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”. Như vậy không chỉ có màu sắc xanh lục của lá hòa, sắc đỏ thắm của những bông hoa thạch lựu mà bức tranh ngày hè càng trở nên sống động và chân thực hơn nữa khi nhà thơ miêu tả hương thơm thoang thoảng của ao sẽ. Vẫn là những động từ dùng để chỉ sự vận động “tiễn” và đối tượng đó chính là hương sen.

Chính việc sử dụng các động từ để chỉ sự vận động của cảnh sắc, mùi hương này đã đem đến cho người đọc những cảm nhận chân thực và sống động nhất khung cảnh ngày hè tươi đẹp mà nhà văn đã thể hiện qua bài thơ.

“Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm vè lầu tịch dương”

Nhà thơ Nguyễn Trãi không chỉ đắm mình trong khung cảnh thiên nhiên đầy tươi đẹp mà ông còn vui với những niềm vui thuộc về cuộc sống lao động. Nếu ở những câu thơ trên nói về vẻ đẹp của cảnh sắc ngày hè thì đến câu thơ này, Nguyễn Trãi lại hướng đến vẻ đẹp của cuộc sống lao động của người dân.

“Lao xao” diễn tả hành động khẩn trương, tấp nập, và cái đối tượng của sự tấp nập, huyên náo đó chính là “chợ cá làng ngư phủ, đây cũng là âm thanh đặc trưng của cuộc cuộc sống vui tươi, thanh bình.

Ở hai câu thơ này nhà văn không chỉ gợi tả đến hình ảnh mà còn rất chú trọng đến âm thanh, đó chính là “Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”, đó chính là tiếng đàn được phát ra từ tự nhiên, “cầm ve” tiếng động, âm thanh của những tiếng ve. Đây cũng là âm thanh đặc trưng của ngày hè, làm cho bức tranh ngày hè thêm sinh động.

“Rẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”

Nếu như những câu thơ trên thể hiện được cảnh sắc của ngày hè thì hai câu thơ cuối cùng của bài thơ lại thể hiện được mong muốn, khát khao của nhà thơ về một cuộc sống đầy tươi đẹp của nhân dân. “Ngu cầm” là đàn của vua Nghiêu Thuấn, vị vua tài giỏi, nhân đức của Trung Hoa, dưới sự trị vì của ông thì dân chúng có cuộc sống no ấm, đủ đầy.

Ở đây nhà thơ Nguyễn Trãi đã mượn điển tích ngu cầm để thể hiện mong ước về một cuộc sống, về một phép nghiệm màu làm cho nhân dân được yên ấm, hạnh phúc “Dân giàu đủ khắp đòi phương”, đó chính là mong ước đầy nhân văn của nhà thơ. Nhà thơ mong cho người dân khắp nơi đều có cuộc sống sung túc, đủ đầy, không còn cảnh lầm than, đói khổ.

Như vậy, qua bài thơ “Bảo kính cảnh giới” ta có thể cảm nhận được tâm hồn thanh bạch, tâm thế tự do tự tại của nhà thơ Nguyễn Trãi trước cảnh sắc ngày hè tươi đẹp nơi dân dã. Nhưng ta cũng thấy được nét đẹp trong tâm hồn của nhà thơ này, đó là dù có lui về ở ẩn thì tấm lòng nhân nghĩa của ông vẫn luôn hướng về nhân dân, đó là ước mơ đầy nhân văn, đầy con người khi mong mỏi cho người dân có một cuộc sống tốt đẹp.

Thohay.vn Tặng Bạn ❤️️ Dục Thúy Sơn [Nguyễn Trãi] ️❤️️ Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích

Viết một bình luận