Thơ Nguyễn Trãi: Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ Hay

Thơ Nguyễn Trãi ❤️️ Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ Hay ✅ Chia Sẻ Chi Tiết Về Sự Nghiệp, Phong Cách Sáng Tác Thơ Của Nguyễn Trãi.

Tiểu Sử Cuộc Đời Tác Giả Nguyễn Trãi

Nguyễn Trãi là một nhà tư tưởng vĩ đại, nhà quân sự lỗi lạc, nhà thơ, nhà văn kiệt xuất của dân tộc, nhà chính trị, nhà ngoại giao tài ba, là một danh nhân văn hóa thế giới. Nếu bạn muốn hiểu rõ hơn về nhà thơ Nguyễn Trãi thì đừng nên bỏ qua phần tiểu sử cuộc đời của ông dưới đây.

  • Nguyễn Trãi (1380 – 1442), hiệu Ức Trai, quê gốc ở làng Chi Ngại (nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương), nhưng lớn lên cùng gia đình ở làng Nhị Khê, Thường Tín, Hà Nội.
  • Thân phụ là Nguyễn Phi Khanh, đỗ Thái học sinh dưới triều Trần. Thân mẫu là Trần Thị Thái – con quan tư đồ Trần Nguyên Đán.
  • Năm 1400, Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh và làm quan cùng cha dưới triều Hồ ới chức Ngự sử đài chính chưởng.
  • Năm 1407, triều Hồ sụp đổ, giặc Minh bắt ông và cha đưa về Trung Quốc.
  • Khoảng năm 1423, Nguyễn Trãi tìm vào Lam Sơn theo giúp Lê Lợi và dâng Bình Ngô sách.
  • Năm 1427, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế và giao cho Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo.
  • Năm 1437, ông xin về ở ẩn tại Côn Sơn. Đến năm 1440, vua Lê Thái Tông mời ông ra giúp nước.
  • Năm 1442, sau khi vào thăm Nguyễn Trãi trên đường về nhà vua băng hà đột ngột băng hà ở Lệ Chi Viên, bọn gian tà ở triều đình vu khống cho ông âm mưu giết vua và buộc ông phải nhận án tru di tam tộc. Đây là vụ án bi thảm nhất trong thời kỳ phong kiến lúc bấy giờ.
  • Năm 1464, vua Lê Thánh Tông mới minh oan cho Nguyễn Trãi.
  • Năm 1980, Nguyễn Trãi được tổ chức UNESCO vinh danh là “Danh nhân văn hóa thế giới” và là 1 trong 14 anh hùng tiêu biểu của dân tộc Việt Nam.

Đọc thêm về ❤️️Thơ Nguyễn Du ❤️️Bên Cạnh Chùm Thơ Nguyễn Trãi Hay Nhất

Sự Nghiệp Sáng Tác Nhà Thơ Nguyễn Trãi

Nguyễn Trãi là một nhà văn hóa lớn, có đóng góp to lớn vào sự phát triển của văn học và tư tưởng Việt Nam. Dưới đây là những khái quát về sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Nguyễn Trãi.

  • Ngoài là một anh hùng dân tộc, Nguyễn Trãi còn sáng tác rất nhiều tác phẩm có giá trị cho kho tàng văn học Việt Nam.
  • Trong sự nghiệp cầm bút của ông có rất nhiều tác phẩm được viết bằng chữ Nôm và chữ Hán. Thơ của Nguyễn Trãi luôn gần gũi, giản dị và thực tế với cuộc sống. Dù tác phẩm của ông để lại không còn nguyên vẹn và đầy đủ thế nhưng nó đã phần nào chứng minh được tài năng của ông.
  • Thơ văn Nguyễn Trãi kết tinh nhiều thành tựu nghệ thuật đặc sắc; góp phần quan trọng vào sự phát triển, hoàn thiện một số thể loại văn học trung đại Việt Nam: văn chính luận, thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm.
    • Văn chính luận Nguyễn Trãi, đặc biệt là những thư từ bút chiến, văn kiện ngoại giao với nhà Minh luôn đạt đến trình độ mẫu mực: Quân trung từ mệnh tập,…
    • Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi hầu hết được sáng tác bằng các thể thơ Đường luật, đạt tới sự nhuần nhuyễn, điêu luyện; ngôn ngữ cô đúc, nghệ thuật tả cảnh, tả tình tinh tế, tài hoa: Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác, Chu trung ngẫu thành, Tự thán, Thần Phù khải khẩu,…
    • Thơ chữ Nôm của Nguyễn Trãi được đánh giá là đỉnh cao của dòng thơ quốc âm (tiếng Việt) thời trung đại: Quốc âm thi tập,…
  • Trong các tác phẩm của Nguyễn Trãi có Bình Ngô Đại Cáo được xem là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ 2 của nước ta, tổng kết cuộc kháng chiến mười năm chống quân Minh, mở ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc, tác phẩm xứng đang là một bản thiên cổ hùng văn còn lưu truyền đến muôn đời.
  • Nguyễn Trãi dành cả một cuộc đời cống hiến cho sự phát triển của văn học và chính trị của dân tộc. Tuy vậy, cuộc đời của ông luôn mang nhiều bi thương nhưng để lại tiếng thơm muôn đời và sự kính phục của các thế hệ con cháu sau này. Nguyễn Trãi xứng đáng là vị anh hùng, dân tộc, nhà thơ của thời đại.

Phong Cách Sáng Tác Của Nguyễn Trãi

Chia sẻ thêm cho bạn đọc những nét chính trong phong cách sáng tác của Nguyễn Trãi.

  • Nguyễn Trãi có nhiều tác phẩm có giá trị cho kho tàng văn học Việt Nam. Thơ văn Nguyễn Trãi phong phú, đa dạng về đề tài, cảm hứng; giàu giá trị tư tưởng và đậm tính trữ tình. Nổi bật trong các tác phẩm của ông là tư tưởng nhân nghĩa, tình yêu thiên nhiên và những ưu tư về thế sự.
  • Một số tác phẩm mang tính chính trị và quân sự nổi tiếng của ông, đó là “Quân trung từ mệnh tập”, “Chiếu biểu viết dưới triều Lê” và đặc biệt là “Bình ngô đại cáo” – với giọng văn đầy sự hào hùng, lời đanh thép, thuyết phục, Nguyễn Trãi ca ngợi chiến thắng vẻ vang của nghĩa quân Lam Sơn và hào khí thời đại. 
  • Hầu hết các tác phẩm của ông đều được viết bằng chữ Nôm và chữ Hán. Thơ trữ tình của ông chân thực, giản dị, mang hơi thở cuộc sống và rất gần gũi với thực tế, qua đó khắc họa được hình tượng người anh hùng vĩ đại, yêu nước thương dân.

Chia sẻ tuyển tập🌿Thơ Trần Tế Xương 🌿 Bên Cạnh Các Bài Thơ Của Nguyễn Trãi

Tuyển Tập Các Tác Phẩm Của Nhà Thơ Nguyễn Trãi

Tuyển tập các tác phẩm của nhà thơ Nguyễn Trãi, cùng đón đọc bạn nhé!

*Gia Huấn Ca

  • Lời mở đầu
  • Dạy vợ con
  • Với cha mẹ
  • Với chồng
  • Với vợ lẽ
  • Với bạn hữu của chồng
  • Với chị em
  • Với trong họ ngoài làng
  • Với những khi sản dục
  • Với con cái
  • Với dâu rể
  • Với tôi tớ
  • Thờ cúng
  • Dạy con ở cho có đức
  • Dạy con gái phải có đức hạnh
  • Vợ khuyên chồng
  • Dạy học trò ở cho phải đạo
  • Khuyên học trò phải chăm học

*Quốc âm thi tập

+Phần vô đề

  • Thủ vĩ ngâm
  • Ngôn chí bài 1
  • Ngôn chí bài 2
  • Ngôn Chí Bài 3
  • Ngôn chí bài 4
  • Ngôn Chí Bài 5
  • Ngôn chí bài 6 (Trường ốc)
  • Ngôn Chí Bài 7 (Cơm trời áo cha)
  • Ngôn chí bài 8 (Túi thơ bầu rượu)
  • Ngôn chí bài 9 (Sang cùng khó)
  • Ngôn Chí Bài 10
  • Ngôn Chí Bài 11 (Cỏ xanh)
  • Ngôn chí bài 12 (Than nhàn)
  • Ngôn Chí Bài 13 (Tà dương)
  • Ngôn chí bài 14 (Dạy láng giềng)
  • Ngôn Chí Bài 15 (Am cao thấp)
  • Ngôn chí bài 16 (Ẩn cả)
  • Ngôn chí bài 17
  • Ngôn Chí Bài 18 (Một thuyền câu)
  • Ngôn chí bài 19 (Ngày nhàn)
  • Ngôn Chí Bài 20 (Dấu người đi)
  • Ngôn chí bài 21 (Bốn mươi)
  • Mạn thuật bài 1
  • Mạn thuật bài 2 (Tiêu sái)
  • Mạn thuật bài 3 (Mống tự nhiên)
  • Mạn Thuật Bài 4
  • Mạn Thuật Bài 5 (Được thua)
  • Mạn Thuật Bài 6 (Thú ông này)
  • Mạn thuật bài 7 (Áng thuỷ vân)
  • Mạn thuật bài 8 (Ơn quân thân)
  • Mạn thuật bài 9 (Am quạnh)
  • Mạn thuật bài 10 (Hư ảo)
  • Mạn thuật bài 11 (Quê cũ)
  • Mạn thuật bài 12 (Trường văn)
  • Mạn Thuật Bài 13 (Nhà ta)
  • Mạn thuật bài 14 (Am tuyết)
  • Trần tình bài 1
  • Trần tình bài 2
  • Trần tình bài 3
  • Trần tình bài 4
  • Trần tình bài 5
  • Trần tình bài 6
  • Trần tình bài 7
  • Trần tình bài 8
  • Trần tình bài 9
  • Thuật hứng bài 1
  • Thuật hứng bài 2
  • Thuật Hứng Bài 3
  • Thuật hứng bài 4
  • Thuật Hứng Bài 5
  • Thuật hứng bài 6
  • Thuật hứng bài 7
  • Thuật hứng bài 8
  • Thuật Hứng Bài 9
  • Thuật hứng bài 10
  • Thuật hứng bài 11
  • Thuật hứng bài 12
  • Thuật hứng bài 13
  • Thuật hứng bài 14
  • Thuật Hứng Bài 15
  • Thuật hứng bài 16
  • Thuật hứng bài 17
  • Thuật hứng bài 18
  • Thuật hứng bài 19
  • Thuật hứng bài 20
  • Thuật hứng bài 21
  • Thuật hứng bài 22
  • Thuật hứng bài 23
  • Thuật Hứng Bài 24
  • Thuật hứng bài 25
  • Tự thán bài 1
  • Tự thán bài 2
  • Tự thán bài 3
  • Tự thán bài 4
  • Tự thán bài 5
  • Tự thán bài 6
  • Tự thán bài 7
  • Tự thán bài 8
  • Tự thán bài 9
  • Tự thán bài 10
  • Tự thán bài 11
  • Tự thán bài 12
  • Tự thán bài 13
  • Tự thán bài 14
  • Tự thán bài 15
  • Tự thán bài 16
  • Tự thán bài 17
  • Tự thán bài 18
  • Tự thán bài 19
  • Tự thán bài 20
  • Tự thán bài 21
  • Tự thán bài 22
  • Tự thán bài 23
  • Tự thán bài 24
  • Tự thán bài 25
  • Tự thán bài 26
  • Tự thán bài 27
  • Tự thán bài 28
  • Tự thán bài 29
  • Tự thán bài 30
  • Tự thán bài 31
  • Tự thán bài 32
  • Tự thán bài 33
  • Tự thán bài 34
  • Tự thán bài 35
  • Tự thán bài 36
  • Tự thán bài 37
  • Tự thán bài 38
  • Tự thán bài 39
  • Tự thán bài 40
  • Tự thán bài 41
  • Tự thuật bài 1
  • Tự thuật bài 2
  • Tự thuật bài 3
  • Tự thuật bài 4
  • Tự thuật bài 5
  • Tự thuật bài 6
  • Tự thuật bài 7
  • Tự thuật bài 8
  • Tự thuật bài 9
  • Tự thuật bài 10
  • Tự thuật bài 11
  • Tức sự bài 1
  • Tức sự bài 2
  • Tức sự bài 3
  • Tức sự bài 4
  • Tự giới
  • Bảo kính cảnh giới bài 1
  • Bảo kính cảnh giới bài 2
  • Bảo kính cảnh giới bài 3
  • Bảo kính cảnh giới bài 4
  • Bảo kính cảnh giới bài 5
  • Bảo kính cảnh giới bài 6
  • Bảo kính cảnh giới bài 7
  • Bảo kính cảnh giới bài 8
  • Bảo kính cảnh giới bài 9
  • Bảo Kính Cảnh Giới Bài 10
  • Bảo Kính Cảnh Giới Bài 11
  • Bảo Kính Cảnh Giới Bài 12
  • Bảo kính cảnh giới bài 13
  • Bảo kính cảnh giới bài 14
  • Bảo kính cảnh giới bài 15
  • Bảo kính cảnh giới bài 16
  • Bảo kính cảnh giới bài 17
  • Bảo kính cảnh giới bài 18
  • Bảo kính cảnh giới bài 19
  • Bảo kính cảnh giới bài 20
  • Bảo Kính Cảnh Giới Bài 21
  • Bảo Kính Cảnh Giới Bài 22
  • Bảo kính cảnh giới bài 23
  • Bảo Kính Cảnh Giới Bài 24
  • Bảo kính cảnh giới bài 24
  • Bảo kính cảnh giới bài 25
  • Bảo kính cảnh giới bài 26
  • Bảo kính cảnh giới bài 27
  • Bảo Kính Cảnh Giới Bài 28
  • Bảo kính cảnh giới bài 29
  • Bảo kính cảnh giới bài 30
  • Bảo Kính Cảnh Giới Bài 31
  • Bảo kính cảnh giới bài 32
  • Bảo kính cảnh giới bài 33
  • Bảo kính cảnh giới bài 34
  • Bảo kính cảnh giới bài 35
  • Bảo kính cảnh giới bài 36
  • Bảo kính cảnh giới bài 37
  • Bảo Kính Cảnh Giới Bài 38
  • Bảo kính cảnh giới bài 39
  • Bảo Kính Cảnh Giới Bài 40
  • Bảo Kính Cảnh Giới Bài 41
  • Bảo kính cảnh giới bài 42
  • Bảo kính cảnh giới bài 43
  • Bảo kính cảnh giới bài 44
  • Bảo kính cảnh giới bài 45
  • Bảo Kính Cảnh Giới Bài 46
  • Bảo kính cảnh giới bài 47
  • Bảo kính cảnh giới bài 48
  • Bảo kính cảnh giới bài 49
  • Bảo kính cảnh giới bài 50
  • Bảo kính cảnh giới bài 51
  • Bảo kính cảnh giới bài 52
  • Bảo kính cảnh giới bài 53
  • Bảo kính cảnh giới bài 54
  • Bảo kính cảnh giới bài 55
  • Bảo kính cảnh giới bài 56
  • Bảo kính cảnh giới bài 57
  • Bảo kính cảnh giới bài 58
  • Bảo kính cảnh giới bài 59
  • Bảo kính cảnh giới bài 60
  • Bảo kính cảnh giới bài 61
  • Về Côn Sơn ngẫu tác ngày trùng cửu
  • Răn sắc
  • Răn giận
  • Dạy con trai
  • Đầu xuân đắc ý
  • Đêm trừ tịch
  • Cuối xuân
  • Hoa xuân
  • Cảnh hè
  • Trăng thu
  • Thơ tiếc cảnh bài 1
  • Thơ tiếc cảnh bài 2
  • Thơ tiếc cảnh bài 3
  • Thơ tiếc cảnh bài 4
  • Thơ tiếc cảnh bài 5
  • Thơ tiếc cảnh bài 6
  • Thơ tiếc cảnh bài 7
  • Thơ tiếc cảnh bài 8
  • Thơ tiếc cảnh bài 9
  • Thơ tiếc cảnh bài 10
  • Thơ tiếc cảnh bài 11
  • Thơ tiếc cảnh bài 12
  • Thơ tiếc cảnh bài 13
  • Mặt trăng trong nước
  • Nước trời một sắc

*Môn hoa mộc

  • Thơ mai
  • Mai già
  • Cúc (I)
  • Cúc đỏ
  • Tùng bài 1
  • Tùng bài 2
  • Tùng bài 3
  • Trúc bài 1
  • Trúc bài 2
  • Trúc bài 3
  • Mai bài 1
  • Mai bài 2
  • Mai bài 3
  • Đào hoa thi bài 1
  • Đào hoa thi bài 2
  • Đào hoa thi bài 3
  • Đào hoa thi bài 4
  • Đào hoa thi bài 5
  • Đào hoa thi bài 6
  • Hoa mẫu đơn
  • Hoàng tinh
  • Cây thiên tuế
  • Ba tiêu (Cây chuối)10
  • Cây mộc cận (Hoa bông bụt)
  • Mía
  • Cây đa già
  • Cúc (II)
  • Hoa mộc
  • Hoa nhài
  • Hoa sen
  • Hoè
  • Cây cam đường
  • Hoa trường an
  • Cây dương

*Môn cầm thú

  • Chim hạc già
  • Trận nhạn
  • Trận bướm
  • Miêu (Con mèo)
  • Lợn
  • Thái cầu
  • Trâu trong nghiên

*Ức Trai thi tập

  • Đề Lư thị gia phả
  • Lam Quan hoài cổ
  • Tặng Khổng, Nhan, Mạnh tam thị tử tôn giáo thụ Thái Bình

+Thơ làm trong khi chưa thành công

  • Thính vũ
  • Tặng hữu nhân
  • Thôn xá thu châm
  • Loạn hậu cảm tác
  • Ký cữu Dịch Trai Trần Công
  • Thanh minh
  • Ký hữu (I)
  • Thu dạ khách cảm (I)
  • Hạ nhật mạn thành (I)
  • Hoạ Tân Trai vận
  • Quy Côn Sơn chu trung tác
  • Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác
  • Quan hải
  • Lâm cảng dạ bạc
  • Thần Phù hải khẩu
  • Hải khẩu dạ bạc hữu cảm (I)
  • Long Đại nham

Nên xem 👉 Bài Thơ Dạy Vợ Con Của Nguyễn Trãi

+Thơ làm sau khi thành công và làm quan ở triều

  • Thượng nguyên hộ giá chu trung tác
  • Quan duyệt thuỷ trận
  • Hạ quy Lam Sơn kỳ 1
  • Hạ quy Lam Sơn kỳ 2
  • Đề kiếm
  • Hạ tiệp kỳ 1
  • Hạ tiệp kỳ 2
  • Hạ tiệp kỳ 3
  • Hạ tiệp kỳ 4
  • Chu Công phụ Thành Vương đồ
  • Đề Bá Nha cổ cầm đồ
  • Thứ vận Trần thượng thư đề Nguyễn bố chánh thảo đường
  • Thu dạ dữ Hoàng Giang Nguyễn Nhược Thuỷ đồng phú
  • Đoan ngọ nhật
  • Ngẫu thành (I)
  • Thu dạ khách cảm (II)
  • Tức sự
  • Thứ Cúc Pha tặng thi
  • Đề Thạch Trúc oa
  • Dục Thuý sơn
  • Vọng Doanh
  • Quá Thần Phù hải khẩu
  • Chu trung ngẫu thành kỳ 1
  • Chu trung ngẫu thành kỳ 2
  • Đề Ngọc Thanh quán
  • Đề Yên Tử sơn Hoa Yên tự
  • Vân Đồn
  • Bạch Đằng Hải Khẩu
  • Bến Đò Xuân Đầu Trại
  • Tĩnh Yên vãn lập
  • Oan thán
  • Đề Hoàng ngự sử Mai Tuyết hiên

+Thơ tỏ ý chán nản và muốn về nghỉ

  • Ngẫu thành (II)
  • Vãn lập
  • Đề sơn điểu hô nhân đồ
  • Đề Đông Sơn tự
  • Hoạ Hương tiên sinh vận giản chư đồng chí
  • Mạn hứng (I) kỳ 1
  • Mạn hứng (I) kỳ 2
  • Khất nhân hoạ Côn Sơn đồ
  • Đề Trình xử sĩ vân oa đồ
  • Đề Từ Trọng Phủ Canh Ẩn đường
  • Đề Hà hiệu uý “Bạch vân tư thân”
  • Thu nhật ngẫu thành
  • Mạn hứng (II) kỳ 1
  • Mạn hứng (II) kỳ 2
  • Mạn hứng (II) kỳ 3
  • Mạn thành (I) kỳ 1
  • Mạn thành (I) kỳ 2
  • Thù hữu nhân kiến ký
  • Hoạ hữu nhân Yên hà ngụ hứng kỳ 1
  • Hoạ hữu nhân Yên hà ngụ hứng kỳ 2
  • Hoạ hữu nhân Yên hà ngụ hứng kỳ 3
  • Tống tăng Đạo Khiêm quy sơn
  • Hải khẩu dạ bạc hữu cảm (II)7

+Thơ làm trong thời ở ẩn tại Côn Sơn

  • Giang hành
  • Đề vân oa
  • Mộng sơn trung
  • Mộ Xuân Tức Sự
  • Trại đầu xuân độ
  • Hí đề
  • Tức hứng
  • Vãn hứng
  • Mạn thành (II)
  • Thứ vận Hoàng môn thị lang Nguyễn Cúc Pha hạ tân cư thành
  • Đồ trung ký Thao giang thứ sử Trình Thiêm Hiến
  • Thu nguyệt ngẫu thành
  • Hạ nhật mạn thành (II)
  • Tiên Du tự
  • Đề Bão Phúc nham
  • Côn Sơn Ca

+Thơ làm trong thời đoán là sang Trung Quốc

  • Quá hải
  • Tầm Châu
  • Bình Nam dạ bạc
  • Ngô Châu
  • Du Nam Hoa tự
  • Thiều Châu Văn Hiến miếu
  • Quá lĩnh
  • Giang Tây
  • Thái Thạch hoài cổ
  • Đồ trung ký hữu
  • Ký hữu (II)
  • Chu trung ngẫu thành (III)

*Một số tác phẩm nổi tiếng khác

Nên xem 🔰Bài Thơ Dạy Con Của Nguyễn Trãi🔰

15 Bài Thơ Hay Nhất Của Nguyễn Trãi

Sưu tầm 15 bài thơ hay nhất của Nguyễn Trãi gửi đến bạn đọc cùng tham khảo.

Loạn Hậu Đáo Côn Sơn Cảm Tác

亂後到崑山感作

一別家山恰十年,
歸來松匊半翛然。
林泉有約那堪負,
塵土低頭只自憐。
鄕里纔過如夢到,
干戈未息幸身全。
何時結屋雲峰下,
汲澗烹茶枕石眠。

Phiên âm:

Nhất biệt gia sơn kháp thập niên,
Quy lai tùng cúc bán tiêu nhiên.
Lâm tuyền hữu ước na kham phụ,
Trần thổ đê đầu chỉ tự liên.
Hương lí tài qua như mộng đáo,
Can qua vị tức hạnh thân tuyền (toàn).
Hà thời kết ốc vân phong hạ,
Cấp giản phanh trà chẩm thạch miên.

Dịch thơ:

Xa quê nay đã đúng mười năm
Trở lại, tùng xưa nửa héo tàn
Đã hẹn suối rừng sao nỡ phụ
Cúi đầu cát bụi tự thương thân
Chiến chinh chửa dứt may còn sống
Làng cũ đi qua tưởng mộng lầm
Ước được cất nhà mây xóm núi
Nấu trà, gối đá ngủ mênh mang.

Xem bài thơ 👉 Gương Báu Khuyên Răn

Cảnh Ngày Hè Nguyễn Trãi
Cảnh Ngày Hè Nguyễn Trãi

Đề Lư Thị Gia Phả

題盧氏家譜

積慶原來自有基,
畜宏發鉅可先知。
詩書浚澤芳逾遠,
忠孝傳家訓永貽。
水木必從原本始,
黃金何用子孫遺。
焚香一讀公家譜,
肅肅令人起敬思。

Phiên âm:

Tích khánh nguyên lai tự hữu ky (cơ),
Súc hoành phát cự khả tiên tri.
Thi thư tuấn trạch phương du viễn,
Trung hiếu truyền gia huấn vĩnh di.
Thuỷ mộc tất tòng nguyên bản thỉ,
Hoàng kim hà dụng tử tôn di.
Phần hương nhất độc công gia phổ,
Túc túc linh nhân khởi kính ti (tư).

Dịch thơ:

Giữ phước nề xưa, chuyện rõ thay
Tiên tri đoán trúng đức cao dày
Thi thư nhuần thấm gần xa khắp
Trung hiếu lưu truyền xưa đến nay
Cây, nước, cội nguồn đều hẳn có
Bạc, vàng, di sản thảy đâu hay ?
Đốt hương giờ đọc trang gia phổ
Cảm mộ ngài xưa, kính tỏ bày.

Ghẹo Cô Hàng Chiếu

Ả ở đâu ta bán chiếu gon,
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn?
Xuân thu phỏng độ chừng bao tuổi,
Đã có chồng chưa, được mấy con?

Bảo Kính Cảnh Giới Bài 1

Đạo đức hiền lành được mọi phương,
Tự nhiên cả muốn chúng suy nhường.
Lợi tham hết lấy, nhiều thì cạnh,
Nghĩa phải đem cho, ít chẳng phường.
Sự thế sá phòng khi được mất,
Lòng người tua đoán thuở mừng thương.
“Chẳng nhàn” xưa chép lời truyền bảo,
Khiến chớ cho qua một đạo thường.

Tự Giới

Làm người thì giữ đạo trung dung,
Khăn khắn dặn dò thửa lòng.
Hết kinh hết gìn bề tiến thoái,
Mựa tham mựa dại nết anh hùng.
Hùm oai muông mạnh còn nằm cũi,
Khướu hót chim khôn phải ở lồng.
Nén lấy hung hăng bề huyết khí,
Tai nàn chẳng phải lại thung dung.

Cảnh Hè

Vì ai cho cái đỗ quyên kêu,
Tay ngọc dùng dằng chỉ biếng thêu.
Lại có hoè hoa chen bóng lục,
Thức xuân một điểm não lòng nhau.

Xem chi tiết 👉 Cảnh Ngày Hè của Nguyễn Trãi (Nội Dung, Phân Tích Bài Thơ)

Cảnh Ngày Hè Nguyễn Trãi

Trăng Thu

Đông đã muộn lại sang xuân,
Xuân muộn thì hè lại đổi lần.
Tính kể tư mùa có nguyệt,
Thu âu là nhẫn một hai phần.

Tự Thán

Chiếc thuyền lơ lửng bên sông,
Biết đem tâm sự ngỏ cùng ai hay.
Chắc chi thiên hạ đời nay,
Mà đem non nước làm rầy chiêm bao.
Đã buồn về trận mưa rào,
Lại đau về nỗi ào ào gió đông.
Mây trôi nước chảy xuôi dòng,
Chiếc thuyền hờ hững bên sông một mình.

Nước Trời Một Sắc

Trời nghi ngút, nước mênh mông,
Hai ấy cùng xem, một thức cùng.
Hương thỏ chìm tăm Hải nhược,
Nhà giao giãi bóng Thiềm cung.
Bút thiêng Ma Cật tay khôn mạc,
Câu khéo Huyền Huy ý chửa đông.
Lẻ có chim bay cùng cá nhảy,
Mới hay kìa nước nọ hư không.

Thủ Vĩ Ngâm

首尾吟

谷城南犼蔑間
奴搩俧少琟吿
昆隊遁揚埃眷
堏馭檝少几绖
傉瞸狹回坤且琾
茹涓趣庶礙挼働
朝官拯沛隱拯沛
谷城南伨蔑間

Phiên âm:

Góc thành Nam, lều một gian,
No nước uống, thiếu cơm ăn.
Con đòi trốn, dường ai quyến,
Bà ngựa gầy, thiếu kẻ chăn.
Ao bởi hẹp hòi khôn thả cá,
Nhà quen thú thứa ngại nuôi vằn.
Triều quan chẳng phải, ẩn chẳng phải,
Góc thành Nam, lều một gian.

Bạch Đằng Hải Khẩu

白藤海口

朔風吹海氣凌凌,
輕起吟帆過白藤。
鱷斷鯨刳山曲曲,
戈沉戟折岸層層。
關河百二由天設,
豪傑功名此地曾。
往事回頭嗟已矣,
臨流撫影意難勝。

Phiên âm:

Sóc phong xung hải khí lăng lăng,
Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng.
Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc,
Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng.
Quan hà bách nhị do thiên thiết,
Hào kiệt công danh thử địa tằng.
Vãng sự hồi đầu ta dĩ hĩ,
Lâm lưu phủ ảnh ý nan thăng.

Dịch thơ:

Biển rung, gió bấc thổi băng băng,
Nhẹ cất buồm thơ lướt Bạch Ðằng.
Kình ngạc băm vằm non mấy khúc,
Giáo gươm chìm gãy bãi bao tầng.
Quan hà hiểm yếu trời kia đặt,
Hào kiệt công danh đất ấy từng.
Việc cũ quay đầu, ôi đã vắng,
Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng.

Giang Hành

江行

西津初艤棹,
風景便江湖。
雨過山容瘦,
天長鴈影孤。
滄浪何處是?
漁釣好為徒。
回首東華地,
塵埃覺已無。

Phiên âm:

Tây tân sơ nghĩ trạo,
Phong cảnh tiện giang hồ.
Vũ quá sơn dung sấu,
Thiên trường nhạn ảnh cô.
Thương Lang hà xứ thị?
Ngư điếu hảo vi đồ.
Hồi thủ Đông Hoa địa,
Trần ai giác dĩ vô.

Dịch thơ:

Bến tây mái chèo tới
Cảnh dục chí tang bồng
Mưa giội trơ sườn núi
Giời dài rõ cánh hồng
Thương Lương chưa biết tới
Ngư điếu tạm chơi cùng
Ngoảnh lại Đông Hoa cũ
Bụi trần thoáng thấy không.

Du Nam Hoa Tự

遊南華寺

神錫飛來幾百春,
寶林香火契前因。
降龍伏虎機何妙,
無樹非臺語若新。
殿側起樓藏佛缽,
龕中遺跡蛻真身。
門前一派漕溪水,
洗盡人間劫劫塵。

Phiên âm:

Thần tích phi lai kỷ bách xuân,
Bảo Lâm hương hoả khế tiền nhân.
Hàng long phục hổ cơ hà diệu,
Vô thụ phi đài ngữ nhược tân.
Ðiện trắc khởi lâu tàng Phật bát,
Kham trung di tích thuế chân thân.
Môn tiền nhất phái Tào Khê thuỷ,
Tẩy tận nhân gian kiếp kiếp trần.

Dịch thơ:

Bao thế kỷ gậy thần đáp xuống
Bảo Lâm thờ phượng đúng nguyên nhân
Trị rồng cọp giỏi như thần
Bồ đề, gương sáng chẳng cần, cũng linh
Phật bát quý thờ bên chính điện
Trong am còn dấu hiệu hóa thân
Tào Khê trước cổng chảy gần
Nước trong tẩy sạch ô trần thế gian.

Vãn Lập

晚立

長天漠漠水悠悠,
黃落山河屬暮秋。
羨殺花邊雙白鳥,
人間累不到滄洲。

Phiên âm:

Trường thiên mạc mạc thuỷ du du,
Hoàng lạc sơn hà thuộc mộ thu.
Tiện sát hoa biên song bạch điểu,
Nhân gian luỵ bất đáo thương châu.

Dịch thơ:

Bao la trời rộng nước mênh mang,
Thu muộn non sông thảy phủ vàng.
Thèm chết bên hoa chim trắng dỡn,
Bãi nhàn xa tục luỵ không vương.

Bình Ngô Đại Cáo

平吳大告
代天行化皇上若曰。

蓋聞:
仁義之舉,要在安民,
弔伐之師莫先去暴。
惟,我大越之國,
實為文獻之邦。
山川之封域既殊,
南北之風俗亦異。
自趙丁李陳之肇造我國,
與漢唐宋元而各帝一方。
雖強弱時有不同
而豪傑世未常乏。
故劉龔貪功以取敗,
而趙禼好大以促亡。
唆都既擒於鹹子關,
烏馬又殪於白藤海。
嵇諸往古,
厥有明徵。
頃因胡政之煩苛。
至使人心之怨叛。
狂明伺隙,因以毒我民;
惡黨懷奸,竟以賣我國。
焮蒼生於虐焰,
陷赤子於禍坑。
欺天罔民,詭計蓋千萬狀;
連兵結釁稔惡殆二十年。
敗義傷仁,乾坤幾乎欲息;
重科厚歛,山澤靡有孑遺。
開金場塞冒嵐瘴而斧山淘沙,
採明珠則觸蛟龍而緪腰汆海。
擾民設玄鹿之陷阱,
殄物織翠禽之網羅。
昆虫草木皆不得以遂其生,
鰥寡顛連俱不獲以安其所。
浚生靈之血以潤桀黠之吻牙;
極土木之功以崇公私之廨宇。
州里之征徭重困,
閭閻之杼柚皆空。
決東海之水不足以濯其污,
罄南山之竹不足以書其惡。
神民之所共憤,
天地之所不容。

予:
奮跡藍山,
棲身荒野。
念世讎豈可共戴,
誓逆賊難與俱生。
痛心疾首者垂十餘年,
嘗膽臥薪者蓋非一日。
發憤忘食,每研覃韜略之書,
即古驗今,細推究興亡之理。
圖回之志,
寤寐不忘。
當義旗初起之時,
正賊勢方張之日。

奈以:
人才秋葉,
俊傑晨星。
奔走先後者既乏其人,
謀謨帷幄者又寡其助。
特以救民之念,每鬱鬱而欲東;
故於待賢之車,常汲汲已虛左。

然其:
得人之效茫若望洋,
由己之誠甚於拯溺。
憤兇徒之未滅,
念國步之遭迍。
靈山之食盡兼旬,
瑰縣之眾無一旅。
蓋天欲困我以降厥任,
故與益勵志以濟于難。
揭竿為旗,氓隸之徒四集
投醪饗士,父子之兵一心。
以弱制彊,或攻人之不備;
以寡敵眾常設伏以出奇。

卒能:
以大義而勝兇殘,
以至仁而易彊暴。
蒲藤之霆驅電掣,
茶麟之竹破灰飛。
士氣以之益增,
軍聲以之大振。
陳智山壽聞風而;褫魄,
李安方政假息以偷生。
乘勝長驅,西京既為我有;
選兵進取,東都盡復舊疆。
寧橋之血成川,流腥萬里;
窣洞之屍積野,遺臭千年。
陳洽賊之腹心,既梟其首;
李亮賊之奸蠹,又暴厥屍。
王通理亂而焚者益焚,
馬瑛救鬥而怒者益怒。
彼智窮而力盡,束手待亡;
我謀伐而心攻,不戰自屈。
謂彼必易心而改慮,
豈意復作孽以速辜。
執一己之見以嫁禍於他人,
貪一時之功以貽笑於天下。
遂靈宣德之狡童,黷兵無厭;
仍命晟昇之懦將,以油救焚。
丁未九月柳昇遂引兵猶邱溫而進,
本年十月木晟又分途自雲南而來。
予前既選兵塞險以摧其鋒,
予後再調兵截路以斷其食。
本月十八日柳昇為我軍所攻,計墜於支稜之野;
本月二十日柳昇又為我軍所敗,身死於馬鞍之山。
二十五日保定伯梁銘陣陷而喪軀,
二十八日尚書李慶計窮而刎首。
我遂迎刃而解,
彼自倒戈相攻。
繼而四面添兵以包圍,
期以十月中旬而殄滅。
爰選貔貅之士,
申命爪牙之臣。
飲象而河水乾,
磨刀而山石鈌。
一鼓而鯨刳鱷斷,
再鼓而鳥散麇驚。
決潰蟻於崩堤,
振剛風於稿葉。
都督崔聚膝行而送款,
尚書黃福面縛以就擒。
僵屍塞諒江諒山之途,
戰血赤昌江平灘之水。
風雲為之變色,
日月慘以無光。
其雲南兵為我軍所扼於梨花,自恫疑虛喝而先以破腑;
其沐晟眾聞昇軍所敗於芹站,遂躪藉奔潰而僅得脫身。
冷溝之血杵漂,江水為之嗚咽;
丹舍之屍山積,野草為之殷紅。
兩路救兵既不旋踵而俱敗,
各城窮寇亦將解甲以出降。
賊首成擒,彼既掉餓虎乞憐之尾;
神武不殺,予亦體上帝孝生之心。
參將方政,內官馬騏,先給艦五百餘艘,既渡海而猶且魂飛魄散;
總兵王通,參政馬瑛,又給馬數千餘匹,已還國而益自股慄心驚。
彼既畏死貪生,而修好有誠;
予以全軍為上,而欲民之得息。
非惟謀計之極其深遠,
蓋亦古今之所未見聞。
社稷以之奠安,
山川以之改觀。
乾坤既否而復泰,
日月既晦而復明。
于以開萬世太平之基,
于以雪天地無窮之恥。
是由天地祖宗之靈有,
以默相陰佑而致然也!

於戲!
一戎大定,
迄成無兢之功;
四海永清,
誕布維新之誥。

播告遐邇,
咸使聞知。

Phiên âm:

Đại thiên hành hoá hoàng thượng nhược viết:

Cái văn:
Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân,
Điếu phạt chi sư mạc tiên khử bạo.
Duy, ngã Đại Việt chi quốc,
Thực vi văn hiến chi bang.
Sơn xuyên chi phong vực ký thù,
Nam bắc chi phong tục diệc dị.
Tự Triệu, Đinh, Lý, Trần chi triệu tạo ngã quốc,
Dữ Hán, Đường, Tống, Nguyên nhi các đế nhất phương.
Tuy cường nhược thì hữu bất đồng,
Nhi hào kiệt thế vị thường phạp.
Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại,
Nhi Triệu Tiết hiếu đại dĩ xúc vong.
Toa Đô ký cầm ư Hàm Tử quan,
Ô Mã hựu ế ư Bạch Đằng hải.
Kê chư vãng cổ,
Quyết hữu minh trưng.
Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà.
Chí sử nhân tâm chi oán bạn.
Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân;
Ác đảng hoài gian, cánh dĩ mại ngã quốc.
Hân thương sinh ư ngược diệm,
Hãm xích tử ư hoạ khanh.
Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng;
Liên binh kết hấn nẫm ác đãi nhị thập niên.
Bại nghĩa thương nhân, càn khôn kỷ hồ dục tức;
Trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mi hữu kiết di.
Khai kim trường tái mạo lam chướng nhi phủ sơn đào sa,
Thái minh châu tắc xúc giao long nhi căng yêu thộn hải.
Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tịnh,
Điển vật chức thuý cầm chi võng la.
Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kỳ sinh,
Quan quả điên liên câu bất hoạch dĩ an kỳ sở.
Tuấn sinh linh chi huyết dĩ nhuận kiệt hiệt chi vẫn nha;
Cực thổ mộc chi công dĩ sùng công tư chi giải vũ.
Châu lý chi chinh dao trọng khốn,
Lư diêm chi trữ trục giai không.
Quyết Đông Hải chi thuỷ bất túc dĩ trạc kỳ ô,
Khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư kỳ ác.
Thần dân chi sở cộng phẫn,
Thiên địa chi sở bất dung.

Dư:
Phấn tích Lam Sơn,
Thê thân hoang dã.
Niệm thế thù khởi khả cộng đới,
Thệ nghịch tặc nan dữ câu sinh.
Thống tâm tật thủ giả thuỳ thập dư niên,
Thường đảm ngoạ tân giả cái phi nhất nhật.
Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao lược chi thư,
Tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lý.
Đồ hồi chi chí,
Ngộ mị bất vong.
Đương nghĩa kỳ sơ khởi chi thì,
Chính tặc thế phương trương chi nhật.

Nại dĩ:
Nhân tài thu diệp,
Tuấn kiệt thần tinh.
Bôn tẩu tiên hậu giả ký phạp kỳ nhân,
Mưu mô duy ác giả hựu quả kỳ trợ.
Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất nhi dục đông;
Cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp cấp dĩ hư tả.

Nhiên kỳ:
Đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng dương,
Do kỷ chi thành thậm ư chửng nịch.
Phẫn hung đồ chi vị diệt,
Niệm quốc bộ chi tao truân.
Linh Sơn chi thực tận kiêm tuần,
Khôi Huyện chi chúng vô nhất lữ.
Cái thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết nhiệm,
Cố dữ ích lệ chí dĩ tế vu nan.
Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập;
Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm.
Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị;
Dĩ quả địch chúng thường thiết phục dĩ xuất kỳ.

Tốt năng:
Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn,
Dĩ chí nhân nhi dị cường bạo.
Bồ Đằng chi đình khu điện xế,
Trà Lân chi trúc phá hôi phi.
Sĩ khí dĩ chi ích tăng,
Quân thanh dĩ chi đại chấn.
Trần Trí, Sơn Thọ văn phong nhi sỉ phách,
Lý An, Phương Chính giả tức dĩ thâu sinh.
Thừa thắng trường khu, Tây Kinh ký vị ngã hữu;
Tuyển binh tiến thủ, Đông Đô tận phục cựu cương.
Ninh Kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lý;
Tốt Động chi thi tích dã, di xú thiên niên.
Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, ký kiêu kỳ thủ;
Lý Lượng tặc chi gian đố, hựu bạo quyết thi.
Vương Thông lý loạn nhi phần giả ích phần,
Mã Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ.
Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong;
Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất.
Vị bỉ tất dị tâm nhi cải lự,
Khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô.
Chấp nhất kỷ chi kiến dĩ giá hoạ ư tha nhân,
Tham nhất thì chi công dĩ di tiếu ư thiên hạ.
Toại linh Tuyên Đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm;
Nhưng mệnh Thạnh Thăng chi noạ tướng, dĩ du cứu phần.
Đinh vị cửu nguyệt Liễu Thăng toại dẫn binh do Khâu Ôn nhi tiến,
Nản niên thập nguyệt Mộc Thạnh hựu phân đồ tự Vân Nam nhi lai.
Dư tiền ký tuyển binh tái hiểm dĩ tồi kỳ phong,
Dư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn kỳ thực.
Bản nguyệt thập bát nhật Liễu Thăng vị ngã quân sở công, kế truỵ ư Chi Lăng chi dã;
Bản nguyệt nhị thập nhật Liễu Thăng hựu vị ngã quân sở bại, thân tử ư Mã An chi sơn.
Nhị thập ngũ nhật Bảo Định bá Lương Minh trận hãm nhi táng khu,
Nhị thập bát nhật Thượng thư Lý Khánh kế cùng nhi vẫn thủ.
Ngã toại nghênh nhận nhi giải,
Bỉ tự đảo qua tương công.
Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi,
Kỳ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt.
Viên tuyển tì hưu chi sĩ,
Thân mệnh trảo nha chi thần.
Ẩm tượng nhi hà thuỷ càn,
Ma đao nhi sơn thạch khuyết.
Nhất cổ nhi kình khô ngạc đoạn,
Tái cổ nhi điểu tán quân kinh.
Quyết hội nghĩ ư băng đê,
Chấn cương phong ư cảo diệp.
Đô đốc Thôi Tụ tất hành nhi tống khoản,
Thượng thư Hoàng Phúc diện phọc dĩ tựu cầm.
Cương thi tái Lượng Giang, Lượng Sơn chi đồ,
Chiến huyết xích Xương Giang, Bình Than chi thuỷ.
Phong vân vị chi biến sắc,
Nhật nguyệt thảm dĩ vô quang.
Kỳ Vân Nam binh vị ngã quân sở ách ư Lê Hoa, tự đỗng nghi hư hạt nhi tiên dĩ phá phủ;
Kỳ Mộc Thạnh chúng văn Thăng quân sở bại ư Cần Trạm, toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân.
Lãnh Câu chi huyết chử phiếu, giang thuỷ vị chi ô yết;
Đan Xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân hồng.
Lưỡng lộ cứu binh ký bất toàn chủng nhi câu bại,
Các thành cùng khấu diệc tướng giải giáp dĩ xuất hàng.
Tặc thủ thành cầm, bỉ ký trạo ngạ hổ khất liên chi vĩ;
Thần võ bất sát, dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm.
Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, ký độ hải nhi do thả hồn phi phách tán;
Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mã Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh.
Bỉ ký uý tử tham sinh, nhi tu hảo hữu thành;
Dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân chi đắc tức.
Phi duy mưu kế chi cực kỳ thâm viễn,
Cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn.
Xã tắc dĩ chi điện an,
Sơn xuyên dĩ chi cải quan.
Càn khôn ký bĩ nhi phục thái,
Nhật nguyệt ký hối nhi phục minh.
Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ,
Vu dĩ tuyết thiên địa vô cùng chi sỉ.
Thị do thiên địa tổ tông chi linh hữu,
Dĩ mặc tương âm hữu nhi trí nhiên dã.

Ô hô!
Nhất nhung đại định,
Hất thành vô cạnh chi công;
Tứ hải vĩnh thanh,
Đản bố duy tân chi cáo.

Bá cáo hà nhĩ,
Hàm sử văn tri.

Dịch thơ:

Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cỏi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.

Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi.

Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.
Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim trả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa?
Nặng nề những nổi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?

Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.

Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông,
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.

Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cỏi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.

Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đã hăng
Quân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt,
Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công.
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.

Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực
Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ
Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;

Than ôi!
Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.

Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.

Đón đọc các thông tin thú vị về 🔰Thơ Hồ Xuân Hương 🔰Bên Cạnh Thơ Nguyễn Trãi

Viết một bình luận