Dục Thúy Sơn Nguyễn Trãi (Nội Dung, Đọc Hiểu, Phân Tích)

Dục Thúy Sơn Nguyễn Trãi ❤️️ Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích ✅ Chia Sẻ Hoàn Cảnh Sáng Tác, Ý Nghĩa Nhan Đề, Đọc Hiểu Tác Phẩm.

Nội Dung Bài Thơ Dục Thúy Sơn

“Dục Thúy Sơn” thuộc thể loại ngũ ngôn bát cú bằng chữ Hán của tác giả Nguyễn Trãi. Bài thơ miêu tả khung cảnh núi Dục Thúy và nỗi niềm của Nguyễn Trãi khi nghĩ về người xưa. Từ đó thể hiện tài năng nghệ thuật và tình yêu thiên nhiên quê hương đất nước của tác giả. Sau đây là Nội Dung Bài Thơ Dục Thúy Sơn.

浴翠山

海口有仙山,
年前屢往還。
蓮花浮水上,
仙景墜塵間。
塔影針青玉,
波光鏡翠鬟。
有懷張少保,
碑刻蘚花斑。

Dục Thuý sơn

Hải khẩu hữu tiên san,
Niên tiền lũ vãng hoàn.
Liên hoa phù thuỷ thượng,
Tiên cảnh truỵ nhân gian.
Tháp ảnh, trâm thanh ngọc,
Ba quang kính thuý hoàn.
Hữu hoài Trương Thiếu Bảo,
Bi khắc tiển hoa ban.

Dịch nghĩa

Gần cửa biển có núi tiên,
Năm xưa thường đi về.
Hoa sen nổi trên mặt nước,
Ðúng là cảnh tiên nơi cõi trần.
Bóng tháp như cài trâm ngọc xanh,
Ánh sáng trên sóng soi mái tóc biết,
Chạnh nhớ quan Trương Thiếu Bảo,
Tấm bia đá nói về ông đã lốm đốm rêu phong.

Dịch thơ

Cửa biển có núi tiên,
Năm xưa lối về quen.
Non bồng nơi cõi tục,
Mặt nước nổi đài sen.
Bóng tháp ngời trâm ngọc,
Tóc mây gợn ánh huyền.
Chạnh nhớ Trương Thiếu Bảo,
Bia rêu lốm đốm nền.

Xem thêm phân tích🌱 Bảo Kính Cảnh Giới [Nguyễn Trãi]🌱 Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật

Về Nguyễn Trãi

Đừng bỏ qua một số thông tin chính Về Nguyễn Trãi.

  • Nguyễn Trãi (1380-1442), hiệu Ức Trai, quê gốc ở Hải Dương, sống chủ yếu ở Thường Tín-Hà Nội.
  • Là con của Nguyễn Phi Khanh, cháu ngoại của quan tư đồ Trần Nguyên Đán – một quý tộc đời Trần.
  • Hiệu: Ức Trai. Quê gốc ở làng Chi Ngại (Chí Linh- Hải Dương).Sau rời về Nhị Khê (Thường Tín- Hà Tây)
  • Xuất thân; trong một gia đình có truyền thống văn hóa, văn học và yêu nước. Cha: Nguyễn Phi Khanh đỗ Tiến sĩ làm quan dưới triều đại nhà Hồ; Mẹ: Trần Thị Thái dòng dõi quý tộc, con của Trần Nguyên Đán.
  • Ngoài là một anh hùng dân tộc, Nguyễn Trãi còn sáng tác rất nhiều tác phẩm có giá trị cho kho tàng văn học Việt Nam. Thơ văn của ông thấm nhuần tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân và tình yêu đối với thiên nhiên.
  • Một số tác phẩm về quân sự và chính trị nổi tiếng, mang lại rất nhiều bài học ý nghĩa đó là “Quân trung từ mệnh tập”, “Chiếu biểu viết dưới triều Lê” và đặc biệt là áng thiên cổ hùng văn “Bình ngô đại cáo”– được coi là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ 2 của nước ta.
  • Ông còn sáng tác rất nhiều tác phẩm về các chủ đề khác nhau như về lịch sử thì có “Lam Sơn thực lục”, về địa lý thì có “Dư địa chí”, về văn học thì có 2 tập thơ trữ tình rất xuất sắc là: “Ức trai thi tập”“Quốc Âm thi tập”.

Đừng bỏ lỡ tác phẩm 🌼 Bình Ngô Đại Cáo 🌼 Nội Dung Bài Thơ, Nghệ Thuật, Phân Tích 

Về Tác Phẩm Dục Thúy Sơn

Về Tác Phẩm Dục Thúy Sơn, bài thơ được viết theo thể thơ đường luật. Bài thơ này rút trong “Ức Trai thi tập” của Nguyễn Trãi.

Tác phẩm vẽ ra bức tranh sơn thủy nơi núi Dục Thúy đẹp tựa cảnh tiên rơi cõi tục, vừa thể hiện niềm say mê với thiên nhiên, vừa gợi nỗi lòng cảm hoài của Nguyễn Trãi khi nghĩ về Trương Hán Siêu – một nhà thơ có những bài kí gắn liền với núi Dục Thúy.

Xem thêm 👉 Thuật Hứng 24 (Nội Dung, Đọc Hiểu, Phân Tích Bài Thơ)

Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Dục Thúy Sơn

Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Dục Thúy Sơn như sau:

Bài thơ có thể được sáng tác vào thời điểm sau cuộc kháng chiến chống giặc Minh và trước khi Nguyễn Trãi lui về ở ẩn tại Côn Sơn. Bài thơ được sưu tầm và xếp vào Ức Trai thi tập.

Phân tích❤️️ Nước Đại Việt Ta [Nguyễn Trãi] ❤️️ Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích

Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Dục Thúy Sơn

Cùng tìm hiểu Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Dục Thúy Sơn.

Tên cũ của núi là Băng Sơn. Về đời Trần, Trương Hán Siêu lên chơi núi này, mới đổi thành Dục Thuý Sơn (núi tắm màu biếc); ngày nay gọi là núi Non Nước, thuộc thị xã Ninh Bình. Dục Thuý Sơn là một thắng cảnh, từng được nhiều tao nhân mặc khách đến thăm và làm thơ ca ngợi

Trước đây núi có tên là Sơn Thuý. Tên Dục Thuý là do Trương Hán Siêu đặt. Có người giải thích núi giống hình chim trả, lại ở trên bờ sông, nên gọi là Dục Thuý, với nghĩa là chim trả tắm (dục: tắm, thuý: chim trả).

Thohay.vn Tặng Bạn ❤️️ Ngôn Chí Bài 7 ❤️️ Nội Dung Bài Thơ, Đọc Hiểu, Cảm Nhận

Giá Trị Bài Thơ Dục Thúy Sơn

Sau đây là các Giá Trị Bài Thơ Dục Thúy Sơn.

Giá trị nội dung

  • Ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên núi Dục Thúy, vẻ đẹp mĩ lệ, toàn bích.
  • Thể hiện tâm trạng nỗi niềm của tác giả khi nghĩ tới người xưa.

Giá trị nghệ thuật

  • Tả cảnh ngụ tình
  • Ngôn từ thơ giàu hình ảnh, sức gợi tả
  • Hình ảnh ẩn dụ sử dụng sóng đôi nhau

Xem thêm 👉 Mạn Thuật Bài 4( Nội Dung Bài Thơ + Đọc Hiểu + Phân Tích)

Bố Cục Bài Thơ Dục Thúy Sơn

Bố Cục Bài Thơ Dục Thúy Sơn gồm 2 phần chính:

  • 6 câu thơ đầu: Khung cảnh núi Hương sơn
  • 2 câu cuối: Cảm hoài của Nguyễn Trãi

Xem chùm 👉 Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Trãi

Dàn Ý Dục Thúy Sơn

Tiếp theo là mẫu Dàn Ý Dục Thúy Sơn chi tiết.

I. Mở bài

  • Giới thiệu tác phẩm “Dục Thúy sơn” và tác giả Nguyễn Trãi.
  • Nêu nhận xét khái quát về nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.

II. Thân bài

Vẻ đẹp của núi Dục Thúy:

  • Toàn cảnh:
    • Dáng núi được tả giống như đóa hoa sen nổi trên mặt nước.
    • Bóng của tòa tháp trên núi khi soi xuống mặt nước thì nhìn như chiếc trâm ngọc xanh đẹp.
    • Hình ảnh ngọn núi phản chiếu dưới mặt nước như cô gái đang soi mái tóc dài mềm nhẹ của mình qua sự phản chiếu của ánh sáng.

=> Vẻ đẹp của núi Dục Thúy hiện lên chiếc mắt người đọc với một vẻ đẹp hoàn hảo, đầy sự thơ mộng và dịu nhẹ.

  • Cận cảnh:
    • Dáng núi được ví như đóa hoa sen.
    • Bóng tòa tháp trên núi như chiếc trâm ngọc khi soi xuống mặt nước.
    • Ngọn núi phản chiếu qua sóng nước thì giống như soi mái tóc biếc.
  • Nỗi niềm của Nguyễn Trãi:
    • Hai câu kết biểu lộ một nỗi cảm hoài man mác. Nhiều bài thơ của ức Trai đều có cấu tứ cảm xúc tương tự.
    • Nhà thơ trực tiếp thổ lộ tình cảm:

“Dẽ cố ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khấp đòi phương”

  • Gần một thế kỉ sau lên chơi núi Dục Thúy, khi người xưa đã khuất từ lâu rồi, đọc bia tháp Linh Tế, nhà thơ xúc động nhìn nét chữ khắc đã mờ dưới làn rêu.
  • Nhà thơ xúc động bày tỏ tình cảm với nhà thơ Trương Hán Siêu của đời Trần. Ông là bậc danh sĩ cao khiết, nhà thơ lỗi lạc. Tên tuổi ông gắn liền với Dục Thúy Sơn, với những bài kí rất nổi tiếng. Ông đã được thờ ở Văn Miếu, Thăng Long. Thiếu bảo là danh vị cao quý vua Trần ban cho ông. Ức Trai không gọi tên mà chỉ nhắc đến họ, đến danh vị Trương Hán Siêu là một cách xưng hô đầy trọng vọng, cung kính.
  • Nỗi niềm mà Nguyễn Trãi muốn bày tỏ là nỗi niềm về một tấm lòng “Uống nước nhớ nguồn”, nhìn cảnh thiên nhiên gợi nhớ về nhà thơ từng lỗi lạc một thời mà nay có còn đâu.

Tổng kết:

  • Về nội dung:
    • Bài thơ Dục Thúy sơn đã nói về khung cảnh núi Dục Thúy, một vẻ đẹp hùng vĩ và nó không chỉ
      để lại cho người đọc những cảm xúc sâu sắc về khung cảnh ấy mà người đọc còn cảm nhận được một tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu đất nước của Nguyễn Trãi.
  • Về nghệ thuật:
    • Sử dụng thể thơ ngũ luật linh hoạt
    • Hình tượng thơ mĩ lệ, cảnh sắc đượm vẻ thần tiên.
    • Biện pháp tu từ ẩn dụ, so sánh, phép đối giàu nghệ thuật

III. Kết bài

Khẳng định lại giá trị chủ đề và những nét đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm.

Cập nhật cho bạn đọc ✨ Thơ Hai Cư ✨ Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật

Soạn Bài Dục Thúy Sơn

Tham khảo ngay gợi ý Soạn Bài Dục Thúy Sơn.

Câu 1: Bức tranh toàn cảnh về vẻ đẹp của núi Dục Thúy được miêu tả như thế nào?

Lời giải:

Bức tranh toàn cảnh về vẻ đẹp của núi Dục Thúy được miêu tả qua các hình ảnh:

– Dáng núi được tả giống như đóa hoa sen nổi trên mặt nước.

– Bóng tháp soi xuống nước như chiếc trâm ngọc xanh.

– Hình ảnh ngọn núi phản chiếu dưới sóng nước như đang soi mái tóc.

Ta thấy, vẻ đẹp của núi Dục Thúy là một vẻ đẹp thơ mộng.

Câu 2: Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ trong 2 câu thơ sau:

Bóng tháp hình trâm ngọc,
Gương sông ánh tóc huyền.

Lời giải:

Biện pháp tu từ so sánh  

→ tác dụng : nhấn mạnh vẻ đẹp  thiên nhiên của núi Dục Thúy Sơn

Câu 3: Nêu những chi tiết miêu tả cận cảnh núi Dục Thúy. Những liên tưởng xuất hiện khi say ngắm thiên nhiên cho thấy nét đẹp nào của tâm hồn Nguyễn Trãi

Lời giải:

* Những chi tiết miêu tả cận cảnh núi Dục Thúy:

– Dáng núi được ví như đóa sen.

– Bóng tháp như trâm ngọc màu xanh.

– Liên tưởng cảnh núi như một dáng trâm cài đi liền với mái tóc sông biếc như gợi dáng hình của người thiếu nữ.

* Những liên tưởng cho thấy sự say mê của con người khi ngắm nhìn thiên nhiên, tâm hồn lãng mạn, tinh tế, tươi trẻ của Nguyễn Trãi.

Câu 4: Nhân vật lịch sử được nhắc đến trong câu thơ sau là ai? Xuất hiện trong thời đại phong kiến nào?

Nhớ xưa Trương Thiếu Bảo
Bia khắc dấu rêu hoen.

Lời giải:

Đó là nhân vật Trương Hán Xiêu thời nhà Trần 

Câu 5: Nêu một vài điểm khác biệt đáng chú ý giữa bản dịch nghĩa và bản dịch thơ của bài thơ Dục Thúy sơn

Lời giải:

Điểm khác biệt đáng chú ý giữa bản dịch thơ và bản dịch nghĩa:

– Ở bản dịch nghĩa, các từ Hán văn được giải nghĩa đầy đủ, ý nghĩa câu thơ cũng được biểu lộ rõ ràng.

– Còn bản dịch thơ thì cô đọng lại nội dung câu thơ, lược bớt một số từ để phù hợp với thể thơ, bài thơ ngắn gọn, xúc tích hơn.

Tham khảo tác phẩm 🔻 Một Thời Đại Trong Thi Ca 🔻 Sơ Đồ Tư Duy, Các Mẫu Phân Tích

Giáo Án Dục Thúy Sơn

Chia sẻ bạn đọc nội dung Giáo Án Dục Thúy Sơn.

I. Nội dung bài học

Đọc văn bản

Đọc hiểu văn bản

  • Tìm hiểu cảnh vật thiên nhiên núi Dục Thúy
  • Nỗi hoài niệm của tác giả

Nghệ thuật

  1. Nội dung
  2. Nghệ thuật

II. HOẠT ĐỘNG HÌNH THÀNH KIẾN THỨC

  1. Đọc văn bản

Câu hỏi:

+ Tác phẩm Dục Thúy sơn thuộc tập thơ nào?

+ Bố cục gồm có mấy phần? Nội dung chính của mỗi phần là gì?

+ Dục Thúy Sơn thuộc thể loại thơ  nào?

Trả lời:

  • Dục Thúy Sơn được rút từ tập Ức Trai thi tập.
  • Được viết vào sau cuộc kháng chiến chốn quân Minh và trước khi Nguyễn Trãi lui về ở ẩn tại Côn Sơn.
  • Bố cục được chia thành 2 phần:

+ Phần 1: 6 câu đầu: Vẻ đẹp thiên nhiên núi Dục Thúy

+ Phần 2: 2 câu cuối: Cảm hoài man mác

  • Bên cạnh đó nó cũng có thể chia làm cấu trúc đề – thực – luận – kết hoặc kết cấu 2/4/2 trong đó 2 câu đầu là giới thiệu về cảnh vật, bốn câu sau là bức tranh sơn thủy hữu tình và 2 câu kết là tâm sự hoài niệm của nhà thơ.
  • Dục Thúy Sơn được viết theo thể ngũ ngôn

2. Đọc hiểu văn bản

a. Tìm hiểu cảnh vật thiên nhiên núi Dục Thúy

Câu hỏi:

Cảnh thiên nhiên núi Dục Thúy được miêu tả thế nào?

+ Bức tranh cận cảnh núi Dục thúy có gì đặc biệt? Những liên tưởng xuất hiện khi say đắm ngắm thiên nhiên cho thấy nét đẹp nào của tâm hồn Nguyễn Trãi?

Trả lời:

  • Vẻ đẹp toàn cảnh của núi Dục Thúy hiện lên vô cùng rõ nét qua câu 3 và 4:

Cảnh tiên nơi cõi tục

Mặt nước nổi hoa sen”

Cảnh núi Dục Thúy hiện lên như cảnh thân tiên trên cõi tục. Được ví như một bông hoa sen nổi trên mặt nước.

+ Hình ảnh hoa sen biểu trưng cho sự thoát tục cõi tiên rơi xuống trần gian.

+ Ngôn ngữ tinh xác, tạo ấn tượng sâu đậm cho người đọc ngươi nghe. Từ “phù” nghĩa là nổi nhưng lay động tại chỗ, từ “trụy” có nghĩa là rơi rớt từ trên cao xuống => thể hiện sự sống động trong miêu tả.

  • Câu 5 và câu 6 thể hiện dấu ấn riêng mạnh mẽ của tâm hồn Nguyễn Trãi

“ Bóng tháp hình trâm ngọc

Gương sông ánh tóc huyền”

+ Tác giả so sánh bóng tháp như chiếc trâm ngọc màu xanh, ánh sáng sóng nước như đang soi chiếu vào mái tóc biếc…

+ Hai hình ảnh trẻ trung, trong sáng, trữ tình và nên thơ thường được dùng để miêu tả vẻ đẹp của người con gái.

  • Thiên nhiên được so sánh với vẻ đẹp của con người. Lấy vẻ đẹp của người con gái để hình dung bóng núi trên sóng biếc.
  • Sự liên tưởng vô cùng hiện đại, đặc biệt và hiếm gặp trong thơ cổ. Nếu như thơ cổ dùng vẻ đẹp thiên nhiên làm chuẩn mực thì Nguyễn Trãi lại lấy vẻ đẹp con người là thước đo
  • Điều đó cho thấy tâm hồn trong sáng, nhạy cảm, tinh tế của nhà thơ.

b. Nỗi niềm hoài niệm của tác giả

Câu hỏi:

  • Hai câu cuối của bài thơ nhắc đến hình ảnh của nhân vật nào?
  • Nó thể hiện điều gì ở tâm hôn nhà thơ?

Trả lời:

  • 2 câu cuối bài thơ là nỗi niềm hoài niệm của nhà thơ:

“ Nhớ xưa Trương Thiếu bảo

Bia khắc dấu rêu hoen”

Nhân vật Trương Thiếu ở đây là hình ảnh của bậc danh sĩ cao khiết Trương Hán Siêu dưới triều Trần người đã  đã được Vua Trần ban cho danh vị cao quý Thiếu bảo. Tên tuổi của ông gắn liền với Dục thúy sơn.

+ Nguyễn Trãi không gọi đích danh tên của Trương Hán Siêu mà  gọi dnh vị của ông thể hiện sự tôn kính, trọng vọng với người xưa.

+ Tác giả đứng trên núi Dục Thúy nhìn núi ngắm tháp mà bùi ngùi thương nhớ người xưa, hình ảnh Trương Thiếu bảo còn phảng phất đâu đây.

Lời thơ hàm súc, nỗi niềm hoải cảm sâu lắng mênh mông.

III. TỔNG KẾT

  1. Nội dung
  • Bài thơ miêu tả vẻ đẹp của núi Dục Thúy thần tiên thoát tục.
  • Xen vào đó là nỗi niềm cảm hoài về người xưa của tác giả Nguyễn Trãi.
  1. Nghệ thuật
  • Tác giả sử dụng thể thơ đường luật ngũ ngôn bát cú
  • Sử dụng hình ảnh ẩn dụ, so sánh, đối nhau thể hiện vẻ đẹp của núi Dục Thúy.

IV. LUYỆN TẬP

Viết 1 đoạn văn khoảng 150 chữ để phân tích một nét dẹp của tâm hồn Nguyễn Trãi thể hiện trong bài Dục Thúy Sơn

V. VẬN DỤNG

Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) phân tích một yếu tố nghệ thuật đặc sắc trong sáng tác thơ Nguyễn Trãi.

VI. HƯỚNG DẪN VỀ NHÀ

+ Ôn tập bài học về văn bản Dục Thúy sơn

+ Soạn bài: Thực hành tiếng Việt

Sơ Đồ Tư Duy Dục Thúy Sơn

Ngay sau đây là các Sơ Đồ Tư Duy Dục Thúy Sơn.

Sơ Đồ Tư Duy Dục Thúy Sơn Chi Tiết
Sơ Đồ Tư Duy Dục Thúy Sơn Chi Tiết

Xem thêm 👉 Thủ Vĩ Ngâm Của Nguyễn Trãi [Nội Dung + Phân Tích]

8 Bài Văn Phân Tích Bài Thơ Dục Thúy Sơn Hay Nhất

Đừng bỏ lỡ 8 Bài Văn Mẫu Phân Tích Bài Thơ Dục Thúy Sơn Hay Nhất.

Phân Tích Bài Thơ Dục Thúy Sơn Hay

Một trong những vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ Nguyễn Trãi hiện lên qua bài “Dục Thúy sơn” mà em yêu mến đó chính là vẻ đẹp tâm hồn của một người mang nỗi hoài cổ. Nhìn cảnh sắc thiên nhiên đất trời tuyệt đẹp, ông bỗng nhớ đến Trương hán Siêu – một bậc danh sĩ nổi tiếng đời Trần gắn liên với Dục Thúy sơn nơi đây.

Nhìn những đám rêu lú nhú trên tấm bia, ông không khỏi xót xa. Có lẽ, một thời gian rồi, chẳng ai đến chăm sóc. Ông buồn vì người ta đã quên đi một người tài. Nói đến đây, khiến bạn đọc nhớ đến truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”. Có chăng là lời nhắn gửi của Nguyễn Trãi?

Lời thơ ngậm ngùi xót thương, nỗi buồn cảm dâng trào làm độc giả cuốn mình theo. Có thể thấy rằng, bên cạnh là người nghệ nhân yêu thiên nhiên, Nguyễn Trãi còn là người mến người tài, yêu đất nước.

Tên cũ của núi là Băng Sơn. Về đời Trần, Trương Hán Siêu lên chơi núi này, mới đổi thành Dục Thuý Sơn (núi tắm màu biếc); ngày nay gọi là núi Non Nước, thuộc thị xã Ninh Bình. Dục Thuý Sơn là một thắng cảnh, từng được nhiều tao nhân mặc khách đến thăm và làm thơ ca ngợi.

Trên núi vốn có chùa và tháp rất đẹp; núi lại gần cửa biển, có sông Vân uốn quanh, Sông Vân núi Thuý là cảnh nên thơ, rất hữu tình. Sách “Đại Nam nhất thống chí” có ghi: “phía hắc núi (Dục Thuý) có động, trong động có đền thờ Tam phủ, sườn núi có một tảng đá gần sông có khắc ba chữ “Hám Giao Đình ”, phía tây nam núi có đền thờ Sơn Tinh và Thuỷ Tinh, trên đỉnh có chùa… ”

Biển dâu biến đổi, nay chùa xưa tháp cũ đã đổ nát, biển lùi xa hàng chục cây số. Trương Hán Siêu, Nguyễn Trãi, Cao Bá Quát, Tản Đà… đều làm thơ vịnh Dục Thuý Sơn – núi Non Nước. Bài thơ này rút trong “Ức Trai thi tập ” của Nguyễn Trãi.

Bài thơ nói về cảnh sắc thần tiên núi Dục Thuý và nỗi cảm hoài của Ức Trai.

Đọc “Ức Trai thi tập” và “Quốc âm thi tập”, ta thấy Nguyễn Trãi đã từng thăm thú nhiều nơi. Lúc thì “nhẹ cánh buồm thơ vượt Bạch Đằng”, lúc thì lên núi Long Đại, say mê ngắm hang động, ao hồ:

“Ngao đội núi lên thành động đấy
Kình bơi biển lấp hoá ao rồi

(Núi Long Đại)

Lúc thì hành hương về chùa Hoa Yên trên đỉnh núi Yên Tử cao xanh, gột rửa bụi trần, thảnh thơi giữa rừng trúc, hang đá:

“Muôn hàng giáo ngọc tre gài cửa,
Bao dãi tua châu đá rủ mành ”

(Đề chùa Hoa Yên núi Yên Tử)

Trong những năm tháng “hình Ngô“, Nguyễn Trãi đã từng mang gươm đi khắp mọi miền đất nước, sau này, đất nước thanh bình, ông lại mang bầu rượu túi thơ đi thăm cảnh núi sông tráng lệ. Riêng Dục Thuý Sơn đã nhiều lần in dấu ấn nhà thơ.

Cảm Nhận Bài Thơ Dục Thúy Sơn

Bài thơ Dục Thúy Sơn của Nguyễn Trãi là một bài thơ miêu tả cảnh đẹp của núi Dục Thúy. Đọc bài thơ, người đọc có thể cảm nhận được tâm hôn thi nhân của Nguyễn Trãi được thể hiện qua cách tác giả miêu tả thiên nhiên.

Ông đã so sánh núi Dục Thúy giống như một đóa sen, đã so sánh bóng tháp như một chiếc trâm ngọc, đã so sánh hình ảnh núi dưới sóng nước như đang soi mái tóc. Nhờ lối so sánh đó mà ta thấy được vẻ đẹp thanh tịnh, tao nhã của núi Dục Thúy, đồng thời cũng thấy được một tâm hồn nhạy cảm, có chiều sâu và thơ mộng của Nguyễn Trãi.

Có thể nói, 6 câu đầu bài thơ là bức tranh sơn thuỷ tuyệt vời về núi Dục Thuý, được vẽ bằng bút pháp vô cùng điêu luyện. Nhà thơ đã mấy lần đến chơi núi. Cảnh tuy đã quen, nhưng lần này đến không khỏi ngạc nhiên vẻ đẹp “non tiên ” hiện lên trước cửa biển. Đó là cảm hứng “Bồnglai lạc lối ” như Từ Thức trong cổ tích:

“Cửa biển có non tiên,.
Từng qua lại mấy phen ”

Người đọc như đang cùng thi nhân du mộng vào cõi thần tiên. Vừa ảo, vừa thực, hồn thơ kì thú, lâng lâng, ta như đang được “chiếm lĩnh ” cõi tiên nơi trần gian. Câu 1 đã nói “non tiên” giữa cửa biển, câu 4 nói rõ thêm núi Dục Thuý “như cảnh tiên rơi xuống cõi trần gian ” (tiên cảnh truỵ trần gian). Hai hình ảnh “tiên san” và “tiên cảnh” hô ứng nhau, bổ trợ nhau, ý thơ và cảm xúc mở rộng, phát triển nhằm ca ngợi Dục Thuý sơn là một thắng cảnh, đẹp kì lạ, hiếm có trên đất nước ta.

Từ cảm nhận trực giác đến tưởng tượng, ngắm cảnh từ xa đến gần, thi sĩ tả núi như một bông sen khổng lồ xoè nở ra trên mặt nước. Hình ảnh ẩn dụ “Liên hoa phù thuỷ thượng ” tuyệt đẹp, đầy chất thơ. Hoa sen tượng trưng cho vẻ đẹp rực rỡ, sự thanh khiết thanh cao, là một biểu tượng cao quý của đạo Phật.

Nhiều tượng Phật đều tọa lạc trên “đài sen. Đài sen mang ý niệm tu tròn quả đức mà triết lí Phật giáo nói đến. Có tháp, có mái chùa hình hoa sen (Chùa Một Cột). Hoa sen là một mô tip khá tiêu biểu của nghệ thuật điêu khắc và kiến trúc chùa chiền, tượng Phật ở nước ta.

Trên núi Dục Thuý lại có chùa và tháp, Ức Trai ví núi Dục Thuý với bông sen nổi trên mặt nước thật là hay, gợi ra nhiều liên tưởng thú vị. Hai chữ “phủ ” (nổi lên) và “trụy” (rơi xuống) đối chọi nhau rất thần tình, gợi tả cảnh núi non, chùa chiền, sông nước vừa ảo vừa thực, cảm xúc chìm nổi, trầm bổng, lâng lâng:

“Liên hoa phù thuỷ thượng,
Tiên cảnh trụy trần gian ”

Để hiệp vần, Khương Hữu Dụng đã đảo lại vị trí 2 câu thơ 3, 4; chất thơ nhạt đi nhiều, cấu trúc nội tại của tứ thơ bị phá vỡ:

“Cảnh tiên rơi cõi tục,
Mặt nước nổi hoa sen ”

Học giả Đào Duy Anh đã dịch: “Hoa sen trôi mặt nước -Cõi tục nổi non bồng Hai câu luận (5, 6) tả tháp trên núi và ánh sáng trên mặt sông, vẫn là bút pháp tạo hình bằng hai hình ảnh ẩn dụ mĩ lệ. Bóng ngọn tháp trên núi tựa như cái trâm bằng ngọc xanh (trâm thanh ngọc).

Ánh sáng lấp lánh trên sóng nước tựa như gương soi mái tóc xanh biếc (kính thuý hoàn). Trâm, tóc và gương ấy đều mang màu sắc rất đẹp (thanh ngọc, thuý hoàn), vì là của tiên nữ (nơi non tiên, cảnh tiên). Cảnh sắc rất ngoạn mục. Phép đối được sáng tạo qua vẩn thơ như hai bức tranh của trường phái “ấn tượng”:

“Tháp ảnh trâm thanh ngọc,
Ba quang kính thúy hoàn ”

(Bóng tháp hình trâm ngọc,
Gương sông ánh tóc huyền).

Núi Dục Thúy có sông Vân uốn quanh. Cách đây năm, sáu trăm năm, núi còn nằm trên cửa biển. Trên núi có chùa và tháp. Bàn tay của con người góp phần điểm tô cho cảnh núi non, sông biển thêm đẹp.

Trương Hán Siêu từng ca ngợi: “Giữa dòng long lanh bóng tháp ” (Dục Thúy sơn khắc thạch); “Tháp gồm bốn tầng, đêm tỏa hào quang”, xa gần đều trôngthấy… cao sừng sững, thế chạm trời xanh, tô thêm vẻ hùng vĩ cho non sông… ” (Dục Thúy SơnLinh Tế tháp kí)- Phát triển mạch cảm xúc của tiền nhân, trong bài thơ này, Ức Trai miêu tả cảnh sắc núi Dục Thúy bằng những nét vẽ tài hoa, với tất cả tâm hồn người nghệ sĩ: “một cái nhìn mới độc đáo, mangcốt cách phong tình, đầy tính chất nhân vân.

Thật vậy, Nguyễn Trãi đã liên tưởng và sáng tạo nên một loạt hình ảnh ẩn dụ có đường nét, màu sắc, ánh sáng đầy huyền áo để ca ngợi cảnh sắc thiên nhiên tuyệt trần của Dục Thúy Sơn. Nhà thơ đã đem đến cho ngọn núi như con chim trả tắm nước biếc này một tình yêu say đắm của người nghệ sĩ tài hoa.

Phân Tích Dục Thúy Sơn Của Nguyễn Trãi học sinh giỏi

Tình yêu thiên nhiên là nguồn cảm hứng thường thấy trong các sáng tác của Nguyễn Trãi. Phía sau mỗi bức tranh thiên nhiên, thi sĩ thường khéo léo bày tỏ nỗi niềm suy tư, trăn trở về cuộc đời, thế sự. Điều này được thể hiện rõ nét qua tác phẩm “Dục Thúy sơn”. Bài thơ được viết bằng chữ Hán, theo thể ngũ ngôn luật thi đã để lại nhiều ấn tượng sâu đậm cho bạn đọc bởi cảnh sắc nên thơ, trữ tình.

Trước hết, Nguyễn Trãi khéo léo nhắc tới vị trí tọa lạc của núi Dục Thúy:

“Hải khẩu hữu tiên san”
(“Cửa biển có non tiên”)

Cụm từ “tiên san” gợi ra hình ảnh ngọn núi tiên gần ngay cửa biển “hải khẩu”. Dù đã ghé thăm nhiều lần “tiền niên lũ vãng hoàn” nhưng thi sĩ vẫn cảm thấy nơi đây đẹp như chốn bồng lai tiên cảnh. Vẻ đẹp ấy được tạo nên bởi những hình ảnh vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng.

Ngắm nhìn cảnh sắc tươi đẹp ở nơi đây, con người không khỏi say đắm:

“Liên hoa phù thủy thượng;
Tiên cảnh trụy trần gian.”

Qua quan sát, cảm nhận, thi nhân tưởng tượng dáng núi giống như bông hoa sen thanh khiết đang nở rộ giữa dòng nước trong xanh. Hình ảnh ẩn dụ “liên hoa phù thủy thượng” đã cho thấy đây là một liên tưởng, so sánh thú vị và mới lạ. Sen tượng trưng cho vẻ đẹp giản dị, trong sáng. Ví dáng núi như hoa sen, Ức Trai muốn tô đậm sự thuần khiết, tươi đẹp của núi non, sông nước nơi đây. Đến với câu thơ tiếp theo, nhà thơ tiếp tục đưa ra lời khẳng định về cảnh sắc sơn thủy hữu tình. Chữ “tiên” một lần nữa được sử dụng nhằm nhấn mạnh vào vẻ đẹp huyền diệu, lung linh như chốn tiên cảnh của núi Dục Thúy. Đứng trước cảnh tượng ấy, con người cứ ngỡ đây là “cõi tiên rơi xuống trần gian”.

Có thể thấy, bức tranh thiên nhiên trong bốn câu thơ đầu được thi sĩ miêu tả thông qua điểm nhìn từ xa, tầm bao quát rộng. Bức tranh ấy nhuốm màu sắc của tiên giới – huyền ảo, diệu kì.

Đến với những câu thơ tiếp theo, khung cảnh núi Dục Thúy hiện ra vô cùng chân thực, rõ nét:

“Tháp ảnh trâm thanh ngọc;
Ba quang kính thúy hoàn.”

Trong bài thơ “Dục Thúy sơn”, Trương Hán Siêu từng viết “Trung lưu quang tháp ảnh,” (“Lòng sông in bóng tháp”). Nếu như Trương Hán Siêu chỉ đơn thuần miêu tả hình ảnh ngọn tháp in bóng lên dòng nước thì Nguyễn Trãi lại mang đến sự sáng tạo độc đáo. Ông ví bóng tháp trên mặt nước giống như chiếc trâm cài tóc của người thiếu nữ. Chiếc trâm ấy được làm từ ngọc và có màu xanh. Khi xưa, các thi nhân thường lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để gợi tả nét đẹp của con người. Đến với “Dục Thúy sơn”, Nguyễn Trãi lại lấy nét đẹp đằm thắm, duyên dáng của người con gái để hình dung dáng núi soi bóng trên sóng biếc. Đây quả là một hình ảnh so sánh rất hiện đại và đặc biệt. Sự liên tưởng và bút pháp mới lạ tiếp tục được thể hiện thông qua dòng thơ “Ba quang kính thúy hoàn”. Giờ đây, ánh sáng dòng nước như đang soi chiếu mái tóc xanh biếc. Như vậy, thi sĩ không chỉ cảm nhận thiên nhiên qua đôi mắt tinh tường mà còn bằng trái tim, tấm lòng đong đầy tình yêu. Nhờ đó, cảnh vật càng trở nên có hồn.

Tương tự bao sáng tác khác, hai câu thơ cuối chính là dòng tâm trạng, những suy ngẫm của nhà thơ:

“Hữu hoài Trương Thiếu bảo;
Bi khắc tiển hoa ban.”

Trong khoảnh khắc ngắm nhìn núi Dục Thúy, Nguyễn Trãi vẫn không quên hướng tấm lòng nhớ thương, hoài niệm tới cố nhân – Trương Thiếu bảo. Nhìn tấm bia khắc chữ của người xưa nay đã lốm đốm rêu, thi sĩ lại bùi ngùi nhớ về vị danh sĩ đời Trần, được nhiều vị vua trọng dụng.

Lời thơ chậm rãi, ngôn ngữ cô đọng đã góp phần lột tả nỗi niềm nhớ tiếc sâu lắng mênh mông. Dù vật đổi sao trời, nước sông kia dâng rồi lại xuống, đất nước trải qua bao biến cố, thăng trầm nhưng dưới làn rêu xanh, những nét chữ trên bia đá vẫn vẹn nguyên giá trị. Qua hai câu thơ ngắn gọn, ta cảm nhận được tấm lòng “uống nước nhớ nguồn” cao đẹp của một con người có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế như Nguyễn Trãi.

Bằng hình ảnh mĩ lệ, giàu sức gợi, giọng thơ nhịp nhàng cùng các biện pháp tu từ như so sánh “Tháp ảnh trâm thanh ngọc;/ Ba quang kính thúy hoàn.”, ẩn dụ “liên hoa phù thủy thượng”, nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh đẹp đẽ về núi Dục Thúy. Đồng thời, khéo léo bộc lộ suy tư về con người, lịch sử và dân tộc.

“Dục Thúy sơn” chính là một sáng tác tuyệt vời của Nguyễn Trãi – con người yêu thiên nhiên, yêu đất nước da diết. Bài thơ khiến chúng ta không quên hình ảnh núi Dục Thúy vừa kì vĩ, vừa thơ mộng cùng tấm lòng “uống nước nhớ nguồn” cao quý mà thi sĩ gửi tới người xưa.

Phân Tích Nghệ Thuật Bài Thơ Dục Thúy Sơn

Nguyễn Trãi là tác gia lớn của dân tộc Việt Nam, ông đã có rất nhiều những tác phẩm nổi tiếng nói về cảnh sông núi và miêu tả về thiên nhiên vô cùng đặc sắc. Bài thơ Dục Thúy sơn đã nói về khung cảnh núi Dục Thúy, một vẻ đẹp hùng vĩ và nó không chỉ để lại cho người đọc những cảm xúc sâu sắc về khung cảnh ấy mà người đọc còn cảm nhận được một tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu đất nước của Nguyễn Trãi.

Nguyễn Trãi đã thành công trong việc mượn thiên nhiên để nói lên cảm xúc của chính mình, những cảm xúc đang đan xen và tạo nên những khoảng khắc riêng đã làm sống động tâm hồn và ý nghĩa mạnh mẽ cho người đọc hôm nay và mai sau.

Khi tác giả đang có tâm sự đó là nỗi buồn đối với đất nước, ông đang buồn rầu và những nỗi buồn đó được trải nghiệm trên cảnh thiên nhiên nơi đây, sự diễn tả đó mang những tâm trạng thuần khiết và sự lo lắng về tình trạng nước nhà.

Ngắm cảnh từ xa tác giả đang cố nhìn những sự vật hiện tượng bên ngoài mình để có những cái nhìn mới mẻ và da diết nhất, những hình ảnh đẹp đẽ của thiên nhiên nồng ghép với tâm trạng đượm buồn cũng để lại cho bài thơ nhiều cảm xúc và tâm sự thời thế.

Những hình ảnh mang đậm giá trị sâu sắc qua những bia đá nó đã khắc họa nhiều cảm xúc trong tâm hồn của mỗi con người nó không chỉ để lại cho con người những tình cảm đối với Dục Thúy Sơn mà nó còn nói về tâm sự thời thế của Nguyễn Trãi đối với đất nước đối với dân tộc của mình.

Dù có ngắm nhìn cảnh thiên nhiên núi non hùng vĩ và tráng lệ đến đâu thì tâm hồn Nguyễn Trãi vẫn là một tâm hồn tràn ngập tình yêu đất nước, lo lắng cho tình hình thế sự và ông đã viết lên bài thơ Dục Thúy sơn, một bài thơ tả cảnh ngụ tình gửi gắm nỗi, niềm tâm hồn mình đến với người đọc.

Du khách đối cảnh sinh tình. Hai câu kết biểu lộ một nỗi cảm hoài man mác. Nhiều bài thơ của ức Trai đều có cấu tứ cảm xúc tương tự. Nhà thơ trực tiếp thổ lộ tình cảm:

“Dẽ cố ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khấp đòi phương”

(Bảo kính cảnh giới – 43)

“Việc cũ ngoảnh đầu ôi đã dứt
Dòng trôi tìm bóngdạ bâng khuâng’’

(Cửa biển Bạch Đằng)

Gần một thế kỉ sau lên chơi núi Dục Thúy, khi người xưa đã khuất từ lâu rồi, đọc bia tháp Linh Tế, nhà thơ xúc động nhìn nét chữ khắc đã mờ dưới làn rêu. Vật đổi sao dời. Bao nhiêu nước đã chảy qua cầu. Đất nước ta đã trải qua, bao biến cố, bao triều đại hưng vong, suy thịnh… ức Trai bồi hồi nhớ đến công đức người xưa:

“Nhớ xưa Trương Thiếu bảo,
Bia khắc dấu rêu hoen”.

Trương Hán Siêu là bậc danh sĩ cao khiết, nhà thơ lỗi lạc đời Trần. Tên tuổi ông gắn liền với Dục Thúy Sơn, với những bài kí rất nổi tiếng. Ông đã được thờ ở Văn Miếu, Thăng Long. Thiếu bảo là danh vị cao quý vua Trần ban cho ông. Ức Trai không gọi tên mà chỉ nhắc đến họ, đến danh vị Trương Hán Siêu là một cách xưng hô đầy trọng vọng, cung kính.

Đúng là trông núi, ngắm tháp mà bùi ngùi thương nhớ người xưa. Hình bóng Trương Thiếu bảo còn phảng phất đâu đây. Lời thơ hàm súc, nỗi cảm hoài sâu lắng mênh mông. Hình ảnh bia đã phủ đầy rêu gợi tả cảm xúc hoài cổ đậm đà tình nghĩa. Đến chơi núi, nhìn tháp và chùa mà nhớ đến người xưa. Tấm lòng “Uống nước nhớ nguồn” thấm đẫm qua một vần thơ đẹp. Hai chữ “nhớxưa ” (hữu hoài) biểu lộ cái tâm trong trẻo của Ức Trai.

Mạn Thuật Bài 13 (Nội Dung Bài Thơ + Đọc Hiểu + Phân Tích)

Phân Tích Bài Thơ Dục Thúy Sơn Đặc Sắc

Trong “Dục Thúy sơn”, Nguyễn Trãi để thể hiện niềm say mê trước cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp của đất nước. Nhà thơ ngợi ca một ngọn núi đẹp như tiên cảnh, phác họa những đường nét, màu sắc của cảnh vật, đem đến hình dung kì vĩ về núi Dục Thúy.

Nguyễn Trãi vừa tả thực, vừa dùng liên tưởng để sáng tạo ra những hình ảnh so sánh, ẩn dụ đặc sắc, mang đến không khí huyền ảo, kéo người đọc cùng lạc vào cõi thần tiên vừa thực, vừa ảo. Núi Dục Thúy dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Trãi vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng, vừa thoát tục như đóa sen nhà Phật, lại vừa thướt tha phồn thực như bóng hình nàng thiếu nữ.

Đọc những câu thơ tả cảnh Dục Thuý của Nguyễn Trãi, ta như thấy một hồn thơ đắm mình vào cảnh vật, ngất ngây, say mê trước cảnh sắc tuyệt diệu của quê hương.

“Dục Thúy Sơn ” là bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Bài thơ ngũ ngôn bát cú bằng chữ Hán. Hình tượng thơ mĩ lệ, cảnh sắc đượm vẻ thần tiên. Trong phần luận, 4 hình ảnh ẩn dụ sóng nhau, đối nhau, hình ảnh này làm đẹp thêm hình ảnh kia, thể hiện cách cảm, cách tả của nhà thơ mang tâm hồn thơ mộng, tài hoa. Ức Trai, trong cảm nhận cái đẹp của thiên nhiên, sông núi, ngòi bút tài hoa của ông rất tinh tế và nhạy cảm trong gợi tả và biểu cảm.

“Dục Thúy Sơn ” phản ánh một tài năng lớn, một nhân cách văn hóa cao đẹp của Đại Việt trong thế kỉ XV. Ức Trai đã để lại khá nhiều bài thơ giàu tình yêu thiên nhiên, đất nước. Đọc bài thơ này, ta cảm nhận úc Trai là “ôngtiên ngồi trong lầu ngọc” như bạn ông đã nói.

Ông đến thăm núi Dục Thúy mà nhớ Trương Hán Siêu; chúng ta đọc thơ ông mà nhớ đến người anh hùng đã cùng Lê Lợi “bình Ngô“ và thảo “Bình Ngô đại cáo Nói rằng thơ ca mang nặng tình người và tình đời là như vậy. Bốn chữ “Vũ trụ di lai ” vuông vắn, to và đẹp khắc trên tấm đá phủ đầy rêu xanh trên đỉnh núi Dục Thúy, đó là dấu tích của Trương Hán Siêu để lại cho đời. Ai đã một lần lên thăm núi chắc sẽ bồi hồi nhìn thấy “Bia khắc dấu rêu hoen ”…

Thohay.vn Chia Sẽ ❤️️ Ngôn Chí Bài 10 ❤️️ Nội Dung Bài Thơ, Đọc Hiểu, Phân Tích

Phân Tích Bài Thơ Dục Thúy Sơn nâng cao

Tình yêu thiên nhiên là nguồn cảm hứng thường thấy trong các sáng tác của Nguyễn Trãi. Phía sau mỗi bức tranh thiên nhiên, thi sĩ thường khéo léo bày tỏ nỗi niềm suy tư, trăn trở về cuộc đời, thế sự. Điều này được thể hiện rõ nét qua tác phẩm “Dục Thúy sơn”. Bài thơ được viết bằng chữ Hán, theo thể ngũ ngôn luật thi đã để lại nhiều ấn tượng sâu đậm cho bạn đọc bởi cảnh sắc nên thơ, trữ tình.

Trước hết, Nguyễn Trãi khéo léo nhắc tới vị trí tọa lạc của núi Dục Thúy:

“Hải khẩu hữu tiên san”
(“Cửa biển có non tiên”)

Cụm từ “tiên san” gợi ra hình ảnh ngọn núi tiên gần ngay cửa biển “hải khẩu”. Dù đã ghé thăm nhiều lần “tiền niên lũ vãng hoàn” nhưng thi sĩ vẫn cảm thấy nơi đây đẹp như chốn bồng lai tiên cảnh. Vẻ đẹp ấy được tạo nên bởi những hình ảnh vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng.

Ngắm nhìn cảnh sắc tươi đẹp ở nơi đây, con người không khỏi say đắm:

“Liên hoa phù thủy thượng;
Tiên cảnh trụy trần gian.”

Qua quan sát, cảm nhận, thi nhân tưởng tượng dáng núi giống như bông hoa sen thanh khiết đang nở rộ giữa dòng nước trong xanh. Hình ảnh ẩn dụ “liên hoa phù thủy thượng” đã cho thấy đây là một liên tưởng, so sánh thú vị và mới lạ. Sen tượng trưng cho vẻ đẹp giản dị, trong sáng. Ví dáng núi như hoa sen, Ức Trai muốn tô đậm sự thuần khiết, tươi đẹp của núi non, sông nước nơi đây. Đến với câu thơ tiếp theo, nhà thơ tiếp tục đưa ra lời khẳng định về cảnh sắc sơn thủy hữu tình. Chữ “tiên” một lần nữa được sử dụng nhằm nhấn mạnh vào vẻ đẹp huyền diệu, lung linh như chốn tiên cảnh của núi Dục Thúy. Đứng trước cảnh tượng ấy, con người cứ ngỡ đây là “cõi tiên rơi xuống trần gian”.
Có thể thấy, bức tranh thiên nhiên trong bốn câu thơ đầu được thi sĩ miêu tả thông qua điểm nhìn từ xa, tầm bao quát rộng. Bức tranh ấy nhuốm màu sắc của tiên giới – huyền ảo, diệu kì.

Đến với những câu thơ tiếp theo, khung cảnh núi Dục Thúy hiện ra vô cùng chân thực, rõ nét:

“Tháp ảnh trâm thanh ngọc;
Ba quang kính thúy hoàn.”

Trong bài thơ “Dục Thúy sơn”, Trương Hán Siêu từng viết “Trung lưu quang tháp ảnh,” (“Lòng sông in bóng tháp”). Nếu như Trương Hán Siêu chỉ đơn thuần miêu tả hình ảnh ngọn tháp in bóng lên dòng nước thì Nguyễn Trãi lại mang đến sự sáng tạo độc đáo. Ông ví bóng tháp trên mặt nước giống như chiếc trâm cài tóc của người thiếu nữ. Chiếc trâm ấy được làm từ ngọc và có màu xanh. Khi xưa, các thi nhân thường lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để gợi tả nét đẹp của con người. Đến với “Dục Thúy sơn”, Nguyễn Trãi lại lấy nét đẹp đằm thắm, duyên dáng của người con gái để hình dung dáng núi soi bóng trên sóng biếc. Đây quả là một hình ảnh so sánh rất hiện đại và đặc biệt. Sự liên tưởng và bút pháp mới lạ tiếp tục được thể hiện thông qua dòng thơ “Ba quang kính thúy hoàn”. Giờ đây, ánh sáng dòng nước như đang soi chiếu mái tóc xanh biếc. Như vậy, thi sĩ không chỉ cảm nhận thiên nhiên qua đôi mắt tinh tường mà còn bằng trái tim, tấm lòng đong đầy tình yêu. Nhờ đó, cảnh vật càng trở nên có hồn.

Tương tự bao sáng tác khác, hai câu thơ cuối chính là dòng tâm trạng, những suy ngẫm của nhà thơ:

“Hữu hoài Trương Thiếu bảo;
Bi khắc tiển hoa ban.”

Trong khoảnh khắc ngắm nhìn núi Dục Thúy, Nguyễn Trãi vẫn không quên hướng tấm lòng nhớ thương, hoài niệm tới cố nhân – Trương Thiếu bảo. Nhìn tấm bia khắc chữ của người xưa nay đã lốm đốm rêu, thi sĩ lại bùi ngùi nhớ về vị danh sĩ đời Trần, được nhiều vị vua trọng dụng. Lời thơ chậm rãi, ngôn ngữ cô đọng đã góp phần lột tả nỗi niềm nhớ tiếc sâu lắng mênh mông. Dù vật đổi sao dời, nước sông kia dâng rồi lại xuống, đất nước trải qua bao biến cố, thăng trầm nhưng dưới làn rêu xanh, những nét chữ trên bia đá vẫn vẹn nguyên giá trị. Qua hai câu thơ ngắn gọn, ta cảm nhận được tấm lòng “uống nước nhớ nguồn” cao đẹp của một con người có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế như Nguyễn Trãi.

Bằng hình ảnh mĩ lệ, giàu sức gợi, giọng thơ nhịp nhàng cùng các biện pháp tu từ như so sánh “Tháp ảnh trâm thanh ngọc;/ Ba quang kính thúy hoàn.”, ẩn dụ “liên hoa phù thủy thượng”, nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh đẹp đẽ về núi Dục Thúy. Đồng thời, khéo léo bộc lộ suy tư về con người, lịch sử và dân tộc.

Bài Văn Phân Tích Nội Dung Dục Thúy Sơn

Bài thơ Dục Thúy Sơn của Nguyễn Trãi là một bài thơ miêu tả cảnh đẹp của núi Dục Thúy. Đọc bài thơ, người đọc có thể cảm nhận được tâm hôn thi nhân của Nguyễn Trãi được thể hiện qua cách tác giả miêu tả thiên nhiên.

Ông đã so sánh núi Dục Thúy giống như một đóa sen, đã so sánh bóng tháp như một chiếc trâm ngọc, đã so sánh hình ảnh núi dưới sóng nước như đang soi mái tóc. Nhờ lối so sánh đó mà ta thấy được vẻ đẹp thanh tịnh, tao nhã của núi Dục Thúy, đồng thời cũng thấy được một tâm hồn nhạy cảm, có chiều sâu và thơ mộng của Nguyễn Trãi.

Có thể nói, 6 câu đầu bài thơ là bức tranh sơn thuỷ tuyệt vời về núi Dục Thuý, được vẽ bằng bút pháp vô cùng điêu luyện. Nhà thơ đã mấy lần đến chơi núi. Cảnh tuy đã quen, nhưng lần này đến không khỏi ngạc nhiên vẻ đẹp “non tiên ” hiện lên trước cửa biển. Đó là cảm hứng “Bồnglai lạc lối ” như Từ Thức trong cổ tích:

“Cửa biển có non tiên,.

Từng qua lại mấy phen”

Người đọc như đang cùng thi nhân du mộng vào cõi thần tiên. Vừa ảo, vừa thực, hồn thơ kì thú, lâng lâng, ta như đang được “chiếm lĩnh ” cõi tiên nơi trần gian. Câu 1 đã nói “non tiên” giữa cửa biển, câu 4 nói rõ thêm núi Dục Thuý “như cảnh tiên rơi xuống cõi trần gian ” (tiên cảnh truỵ trần gian). Hai hình ảnh “tiên san” và “tiên cảnh” hô ứng nhau, bổ trợ nhau, ý thơ và cảm xúc mở rộng, phát triển nhằm ca ngợi Dục Thuý sơn là một thắng cảnh, đẹp kì lạ, hiếm có trên đất nước ta.

Từ cảm nhận trực giác đến tưởng tượng, ngắm cảnh từ xa đến gần, thi sĩ tả núi như một bông sen khổng lồ xoè nở ra trên mặt nước. Hình ảnh ẩn dụ “Liên hoa phù thuỷ thượng ” tuyệt đẹp, đầy chất thơ. Hoa sen tượng trưng cho vẻ đẹp rực rỡ, sự thanh khiết thanh cao, là một biểu tượng cao quý của đạo Phật.

Nhiều tượng Phật đều tọa lạc trên “đài sen. Đài sen mang ý niệm tu tròn quả đức mà triết lí Phật giáo nói đến. Có tháp, có mái chùa hình hoa sen (Chùa Một Cột). Hoa sen là một mô tip khá tiêu biểu của nghệ thuật điêu khắc và kiến trúc chùa chiền, tượng Phật ở nước ta.

Trên núi Dục Thuý lại có chùa và tháp, Ức Trai ví núi Dục Thuý với bông sen nổi trên mặt nước thật là hay, gợi ra nhiều liên tưởng thú vị. Hai chữ “phủ ” (nổi lên) và “trụy” (rơi xuống) đối chọi nhau rất thần tình, gợi tả cảnh núi non, chùa chiền, sông nước vừa ảo vừa thực, cảm xúc chìm nổi, trầm bổng, lâng lâng:

“Liên hoa phù thuỷ thượng,
Tiên cảnh trụy trần gian”

Để hiệp vần, Khương Hữu Dụng đã đảo lại vị trí 2 câu thơ 3, 4; chất thơ nhạt đi nhiều, cấu trúc nội tại của tứ thơ bị phá vỡ:

“Cảnh tiên rơi cõi tục,
Mặt nước nổi hoa sen”

Học giả Đào Duy Anh đã dịch: “Hoa sen trôi mặt nước -Cõi tục nổi non bồng Hai câu luận (5, 6) tả tháp trên núi và ánh sáng trên mặt sông, vẫn là bút pháp tạo hình bằng hai hình ảnh ẩn dụ mĩ lệ. Bóng ngọn tháp trên núi tựa như cái trâm bằng ngọc xanh (trâm thanh ngọc).

Ánh sáng lấp lánh trên sóng nước tựa như gương soi mái tóc xanh biếc (kính thuý hoàn). Trâm, tóc và gương ấy đều mang màu sắc rất đẹp (thanh ngọc, thuý hoàn), vì là của tiên nữ (nơi non tiên, cảnh tiên). Cảnh sắc rất ngoạn mục. Phép đối được sáng tạo qua vẩn thơ như hai bức tranh của trường phái “ấn tượng”:

“Tháp ảnh trâm thanh ngọc,
Ba quang kính thúy hoàn ”

(Bóng tháp hình trâm ngọc,
Gương sông ánh tóc huyền).

Núi Dục Thúy có sông Vân uốn quanh. Cách đây năm, sáu trăm năm, núi còn nằm trên cửa biển. Trên núi có chùa và tháp. Bàn tay của con người góp phần điểm tô cho cảnh núi non, sông biển thêm đẹp.

Trương Hán Siêu từng ca ngợi: “Giữa dòng long lanh bóng tháp ” (Dục Thúy sơn khắc thạch); “Tháp gồm bốn tầng, đêm tỏa hào quang”, xa gần đều trông thấy… cao sừng sững, thế chạm trời xanh, tô thêm vẻ hùng vĩ cho non sông… ” (Dục Thúy Sơn Linh Tế tháp kí) – Phát triển mạch cảm xúc của tiền nhân, trong bài thơ này, Ức Trai miêu tả cảnh sắc núi Dục Thúy bằng những nét vẽ tài hoa, với tất cả tâm hồn người nghệ sĩ: “một cái nhìn mới độc đáo, mangcốt cách phong tình, đầy tính chất nhân vân.

Thật vậy, Nguyễn Trãi đã liên tưởng và sáng tạo nên một loạt hình ảnh ẩn dụ có đường nét, màu sắc, ánh sáng đầy huyền áo để ca ngợi cảnh sắc thiên nhiên tuyệt trần của Dục Thúy Sơn. Nhà thơ đã đem đến cho ngọn núi như con chim trả tắm nước biếc này một tình yêu say đắm của người nghệ sĩ tài hoa.

Phân Tích Bài Thơ Dục Thúy Sơn Nổi Bật

Nguyễn Trãi viết: “Túi thơ chứa hết mọi giang san”. Quả thật Ức Trai đã đi nhiều nơi, thăm nhiều danh thắng. Với lòng yêu thiên nhiên say đắm, với hồn thơ rộng mở, nhạy cảm và tinh tế, tới đâu Nguyễn Trãi cũng có thơ về cảnh đẹp non sông đất nước.

Người đọc ngày nay có thể tìm thấy một bộ sưu tập phong cảnh Việt Nam rất phong phú và đa dạng qua tập thơ chữ Hán – Ức Trai thi tập: núi Côn Sơn, núi Yên Tử, cảng Vân Đồn, chùa Tiên Du, chùa Đông Sơn, núi Long Đại, núi Lam Sơn… Đặc biệt, Nguyễn Trãi có nhiều thơ về các địa danh ở Ninh Bình, tạo nên một quần thể danh thắng của vùng “vịnh Hạ Long cạn” này: núi Dục Thuý, cửa biển Thần Phù, trấn Vịnh Doanh.

Trong quần thể danh thắng đó, nổi bật lên là Dục Thuý sơn. Trước đây núi có tên là Sơn Thuý. Tên Dục Thuý là do Trương Hán Siêu đặt. Có người giải thích núi giống hình chim trả, lại ở trên bờ sông, nên gọi là Dục Thuý, với nghĩa là chim trả tắm (dục: tắm, thuý: chim trả).

Không rõ Trương Thiếu bảo gọi là Dục Thuý sơn có phải vì lẽ đó không, hay chỉ đơn thuần là núi tắm trong xanh biếc (thuý. xanh biếc). Dù thế nào thì tên gọi Dục Thuý sơn cũng rất đẹp và thơ mộng, người chưa được đến thăm có thể qua tên mà hiểu cảnh.

Từ lâu Dục Thuý sơn đã là đề tài hấp dẫn của thi ca. Nhiều thi sĩ lừng danh đã có thơ về danh thắng này như Trương Hán Siêu, Phạm Sư Mạnh. Lê Thánh Tông, Tản Đà… Tuy nhiên tình của Nguyễn Trãi đối với Dục Thuý sơn, thơ của Nguyễn Trãi về Dục Thuý sơn vẫn có những nét riêng.

Nguyễn Trãi viết Dục Thuý sơn với hai nguồn cảm hứng: cảm hứng thiên nhiên và cảm hứng hoài cổ. Ở nguồn cảm hứng nào người đọc cũng thấy những nét riêng, độc đáo của Ức Trai.

Trong dòng cảm hứng yêu thiên nhiên, yêu cảnh đẹp đất nước, tác giả đến với Dục Thuý sơn. Nhưng Dục Thuý sơn với Ức Trai dường như có mối duyên riêng, nhà thơ thường tới viếng thăm:

Tiền niên lũ vãng hoàn
(Năm xưa (ta) từng lui tới đây nhiều lần)

Không rõ trong đời mình Ức Trai bao lần đặt chân lên núi Dục Thuý, nhưng ở thơ chữ Hán đã có lần ông nhắc tới:

Dục Thuý vũ tình phong tự ngọc
(Dục Thuý mưa tan non tựa ngọc)
(Vọng Doanh)

Nhà thơ có một ấn tượng sâu sắc về danh thắng này, đó là “núi tiên”, “cảnh tiên”. Trong một đoạn thơ ngắn, thi sĩ hai lần dùng từ tiên làm định ngữ để nói về núi Dục Thuý, về cảnh Dục Thuý. Thơ Đường có phép kị trùng chữ. Nhưng ở đây để làm nổi bật vẻ đẹp thần diệu của Dục Thuý sơn. Nguyễn Trãi đã bất châp luật kiêng kị đó đế phóng bút dùng hai chữ tiên.

Trong cảm nhận ngôn ngữ của người Việt, tiên thường gợi lên sự thần diệu, phi thường, thoát tục (phép tiên, cầu tiên) sự sung sướng, hạnh phúc (sướng như tiên), vẻ đẹp (đẹp như tiên). Từ tiên trong “núi tiên”. “cảnh tiên” gây ấn tượng sâu sắc về vẻ đẹp huyền ảo của Dục Thuý sơn.

Người không mang cảm quan tôn giáo, nước cảnh đẹp cũng như đang vào cõi mộng, cõi tiên. Cái hiện hữu được khẳng định (hữu tiên san) càng làm nổi bật cái hư ảo, kì diệu:

Tiên cảnh truỵ trần gian
(Như cảnh tiên rơi xuống cõi trần)

Dục Thuý sơn là sáng tạo tuyệt vời của hoá công, không phải cho cõi trần, không phái từ cõi trần mà cho tiên giới, từ liên giới. Một chút “vô thức” (đánh rơi) đã tô điểm thêm vẻ đẹp hạ giới.

Tác giả dùng hình tượng hoa sen để gợi tả vẻ đẹp Dục Thuý sơn. Dù không bắt nguồn từ cảm hứng tôn giáo thì hình tượng đó vẫn mang đậm dấu ấn linh thiêng thoát tục của Phật giáo:

Liên hoa phù thuỷ thượng
(Núi tựa (như) đoá hoa sen nổi trên mặt nước)

Về mặt liên tưởng, nhà thơ đã có liên tưởng khá xác thực – núi trên dòng sông với đoá sen trên mặt nước. Về mặt nội dung thẩm mĩ, hoa sen là biểu tượng của vẻ đẹp tinh khiết, rất phù hợp với cảnh tiên, non tiên.

Nhìn chung, trong bốn câu thơ đầu tác giả tập trung cảm hứng vào vẻ đẹp thần tiên, huyền ảo của Dục Thuý sơn. Nguổn cảm hứng đó bất chợt không liền mạch khi tác giả phát hiện ra một vẻ đẹp khác, không kém mĩ lệ mà lại có phần quyến rũ hơn, say người hơn:

Tháp bảo trâm thanh ngọc
Ba quang kính thuý hoàn.

(Bóng ngọn tháp (trên núi trông giống như cái) cái trâm bằng ngọc xanh
Ánh sáng (lấp lánh trên) sóng nước tự như gương soi mái tóc xanh (biếc).

Khoan nói tới những nét đặc sắc đầy tính nhân văn trong hình tượng thơ Ức Trai. Hãy nói đến người đầu tiên, sáng tạo ra hình ảnh này – nhà thơ Trương Hán Siêu:

Trung lưu quang tháp ảnh
(Giữa dòng in bóng tháp)

(Bài Dục Thuý sơn của Trương Hán Siêu)

Thi sĩ lớn đời Trần chú ý đến vẻ đẹp của bóng tháp in trên dòng sông, kể cũng đã là người biết thưởng thức, biết phát hiện ra vẻ đẹp. Tuy nhiên, ngọn tháp trong thơ và trong văn Trương Hán Siêu vẫn là hình ành ngọn tháp thật, chưa thấm hồn người: “Tháp xây bốn tầng, đêm toả hào quang, kẻ xa người gần đều trông thấy rõ” (Bài kí Tháp Linh Tế ở núi Dục Thuý).

Và nếu có cảm xúc thì đó là cảm xúc về vẻ đẹp kì vĩ của ngọn tháp: “Tháp cao sừng sững, thế chạm trời xanh, tô thêm vẻ đẹp của non sông, tranh công xây dựng cùng tạo hoá” (Bài kí Tháp Linh Tế ở núi Dục Thuỷ). Cảm xúc của Trương Hán Siêu là cảm xúc của người yêu thiên nhiên, có pha chút hứng khởi, tự hào, chưa có gì đặc biệt.

Hình tượng ngọn tháp trong thơ Nguyễn Trãi là một sự kế thừa nhưng đã nâng cao lên rất nhiều, đã thành một sáng tạo vô cùng độc đáo: bóng tháp in trên dòng sông như chiếc trâm ngọc bích cài trên mái tóc dài xanh mướt của người thiếu nữ. Một liên tưởng hết sức hợp lí nhưng cũng hết sức bất ngờ. Cảnh vật không chỉ nên thơ, nên hoạ mà còn mang cả hồn người.

Nguyễn Trãi đem cả tình đời, tình yêu nhuốm vào cảnh vật. Ức Trai đã cảm xúc vẻ đẹp của ngọn tháp, của dòng sông không phải như đứng trước một cành tượng hùng vĩ mà như đứng trước một thiếu nữ. Chính chất đa tình này đã làm nên vẻ đẹp độc đáo và đầy tính chất nhân văn của thơ Nguyễn Trãi, đã làm nên cá tính sáng tạo của thi sĩ. Trong bài Cây chuối.

Nguyễn Trãi đã nhìn đọt lá chuối non qua lăng kính tình yêu để có “Tình thư một bức phong còn kín” thì ở bài Dục Thuý sơn tác giả cũng nhìn bóng tháp, dòng sông với lăng kính ấy. Có điều cần nói thêm về bản dịch: “Bóng tháp hình trâm ngọc. Gương sông ánh tóc huyền” đã không lột tả được màu xanh trong của trâm ngọc (thanh ngọc), màu xanh biếc của tóc (thuý hoàn) nên làm mất đi cái nhìn rất trẻ, rác đa tình của tác giả.

Đọc những câu thơ tả cảnh Dục Thuý sơn của Ức Trai, ta tưởng chừng nhà thơ đã thả hết hồn mình vào cảnh vật, chỉ còn biết ngất ngây, say đắm trước thiên nhiên. Nhưng thật bất ngờ và kì lạ, mạch cảm hứng của thi nhân bỗng nhiên đột ngột chuyển hướng:

Hữu hoài Trương Thiếu bảo
Bi khác tiển hoa ban
(Nhớ ông Thiếu bảo người họ Trương
Bia khắc (của ông) đã lốm đốm hoa rêu)

“Hữu hoài” dịch là “nhớ xưa”, chưa lột tả được cảm xúc hoài niệm về quá khứ có pha chút hoài cổ của nhà thơ. Nguyễn Trãi nhớ về Trương Hán Siêu và ngậm ngùi khi thấy bia khắc của ông đã lốm đốm hoa rêu phủ. Tâm trạng Ức Trai có phần giống tâm trạng Trương Hán Siêu thuở trước khi thấy cảnh Dục Thuý “sự hưng vong thành bại mới trải hai trăm mấy mươi năm mà đã trở thành dấu vết cũ kĩ” (Bài kí Tháp Linh Tế ở núi Dục Thuý).

Đó là cảm hứng hoài cổ bắt nguồn từ lẽ hưng vong của tạo hoá. Tuy nhiên, cảm hứng hoài cổ của Nguyễn Trãi khác cảm hứng hoài cổ mà ta thường gặp ở nhiều tác giả văn học trung đại. Trong thơ Ức Trai luôn có sự đổi lập giữa tạo hoá vĩnh hằng và con người trong khoảnh khắc:

Kim cổ vô cùng giang mạc mạc,
Anh hùng hữu hận, diệp tiêu tiêu
(Xưa nay thời gian không cùng (như) dòng sông bát ngát,
Đời anh hùng mang mối hận (như) lá rụng veo veo).
(Vãng hứng)

Ở bài Dục Thuý sơn cũng có sự đối lập nói trên: cảnh vật còn đây, bia đá còn đây, nhưng nét chữ đang mờ dần bởi rêu phủ và Trương Thiếu bảo không còn. Con người – một thực thể khát khao sống, khát khao yêu thì cuộc đời “hữu hạn”, còn tạo vật – thực thể vô tri lại tồn tại vĩnh hằng. Nguyễn Trãi buồn, xót xa, ngậm ngùi vì lẽ đó. Cũng chính vì vậy mà nỗi buồn hoài cổ của Nguyễn Trãi là nỗi buồn mang giá trị nhân bản sâu sắc.

Từ những điều phân tích ở trên, có thế nói bài thơ Dục Thuý sơn đã đem đến cho người đọc nguồn cảm xúc thẩm mĩ dồi dào: cảm xúc về vẻ đẹp của danh thắng, vẻ đẹp của hình tượng nghệ thuật và đặc biệt là vẻ đẹp của tâm hồn Ức Trai: yêu thiên nhiên, yêu đất nước, giàu chất nhân văn.

Viết một bình luận