Tập Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Trãi ❤️️ Những Bài Thơ Nôm Nguyễn Trãi Hay ✅ Giới Thiệu Đến Độc Giả Những Chùm Thơ Đặc Sắc Được Chọn Lọc Dưới Đây,
NỘI DUNG CHÍNH
Tập Thơ Chữ Hán Nổi Tiếng Của Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi là một vị anh hùng dân tộc, một nhà văn hóa kiệt xuất, nhân vật toàn tài số một của lịch sử Việt Nam thời phong kiến. Không chỉ là nhà quân sự, Nguyễn Trãi có rất nhiều những đóng góp quan trọng vào văn học đương thời và có giá trị đến hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo Tập Thơ Chữ Hán Nổi Tiếng Của Nguyễn Trãi được chia sẻ sau đây:
Hải khẩu dạ bạc hữu cảm – 海口夜泊有感
一別江湖數十年
海門今夕繫吟船
波心浩渺滄洲月
樹影參差漵浦烟
往事難尋時易過
國恩未報老堪憐
平生獨抱先憂志
坐擁寒衾夜不眠
Phiên âm Hán Việt
Nhất biệt giang hồ sổ thập niên[,
Hải môn kim tịch hệ ngâm thuyền.
Ba tâm hạo diểu thương châu nguyệt
Thụ ảnh sâm si tự phố yên.
Vãng sự nan tầm thì dị quá
Quốc ân vị báo lão kham liên
Bình sinh độc bão tiên ưu chí
Tọa ủng hàn khâm dạ bất miên
Dịch nghĩa
Từ ra đi khoảng giang hồ đã mấy chục năm,
Cửa biển tối nay mới buộc thuyền thơ.
Lòng nước mênh mông, trăng chiếu trên bãi
Bóng cây so le, mặt vụng khói lồng.
Việc xưa khó tìm, thời dễ qua mau lắm
Ơn nước chưa đền, mà đã già đáng thương.
Bình sinh một mình ôm cái chí lo trước
Ngồi ôm chăn lạnh không ngủ suốt đêm.
Xem trọn bộ 👉 Thơ Nguyễn Trãi: Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ Hay
Hạ nhật mạn thành – 夏日漫成
傳家舊業只青氈
離亂如今命苟全
浮世百年真似夢
人生萬事總關天
一壼白酒消塵慮
半榻清風足午眠
惟有故山心未斷
何時結屋向梅邊
Phiên âm Hán Việt
Truyền gia cựu nghiệp chỉ thanh chiên
Ly loạn như kim mệnh cẩu tuyền.
Phù thế bách niên chân tự mộng
Nhân sinh vạn sự tổng quan thiên.
Nhất hồ bạch tửu tiêu trần lự
Bán tháp thanh phong túc ngọ miên,
Duy hữu cố sơn tâm vị đoạn,
Hà thì kết ốc hướng mai biên.
Dịch nghĩa
Sản nghiệp cũ để truyền nhà chỉ có tấm chiên xanh;
Gặp loạn ly mà thân nay được tạm tuyền.
Phù thế trăm năm thật như giấc mộng,
Đời người muôn việc thảy do ông trời.
Một hồ rượu trắng tiêu niềm lo trần tục ;
Nửa giường gió mát đủ để ngủ trưa.
Duy có núi quê là lòng chưa dứt ;
Bao giờ mới quay về làm nhà bên gốc mai ?
Xem thêm 👉 Thuật Hứng 24 (Nội Dung, Đọc Hiểu, Phân Tích Bài Thơ)
Họa Tân trai vận – 和新齋韻
風流郡守文章伯
喬木能憐我故家
信美江山詩易就
無情歲月眼將花
干戈十載親朋少
宇宙千年變故多
客舍香塵春晝永
騰騰清夢繞烟波
Phiên âm Hán Việt
Phong lưu quận thú văn chương bá,
Kiều mộc năng lân ngã cố gia
Tín mỹ giang sơn thi dị tựu ;
Vô tình tuế nguyệt nhãn tương hoa.
Can qua thập tải thân bằng thiểu
Vũ trụ thiên niên biến cố đa.
Khách xá hương trần xuân trú vĩnh
Đằng đằng thanh mộng nhiễu yên ba
Dịch nghĩa
Quận thú người phong lưu, đàn anh trong chốn văn chương.
Lượng như cây cao thương ta là con nhà cũ.
Non sông vẫn đẹp lắm, hứng thơ dễ đến
Năm tháng luống vô tình, khiến mắt sắp lòa.
Mười năm can qua bà con bạn bè đều ít
Nghìn năm trong vũ trụ biến cố xảy nhiều,
Giữa hương trầm nơi quán khách, ngày xuân dài mãi;
Mộng nhẹ vượt xa quanh quất chỗ sóng mây (chỗ ẩn dật).
Ký cữu Dịch trai Trần công – 寄舅易齋陳公
兵餘親戚半離零
萬死殘軀偶一生
往事空成槐國夢
別懷誰寫渭楊情
不來自擬同王式
避亂終當學管寧
欲問相思愁別處
孤齋風雨夜三更
Phiên âm Hán Việt
Binh dư thân thích bán ly linh;
Vạn tử tàn khu ngẫu nhất sinh.
Vãng sự không thành Hòe quốc mộng
Biệt hoài thùy tả Vị dương tình.
Bất lai tự nghĩ đồng Vương Thức
Tỵ loạn chung đương học Quản Ninh
Dục vấn tương tư sầu biệt xứ ;
Cô trai phong vũ dạ tam canh.
Dịch nghĩa
Sau cuộc binh hỏa, thân thích đã rơi rụng một nửa;
Trải muôn chết thân tàn ngẫu nhiên còn sống.
Việc cũ xưa đã thành giấc mộng Hòe quốc;
Nhớ xa nhau ai tả được mối tình Vị dương.
Không đến những tưởng giống như Vương Thức;
Tránh nạn rốt cuộc nên theo Quản Ninh.
Muốn hỏi chỗ nhớ nhung sầu biệt (của tôi)?
Ấy là một phòng vắng gió mưa suốt ba canh.
Xem thêm tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Trãi 🌼 Bình Ngô Đại Cáo 🌼 Nội Dung Bài Thơ, Nghệ Thuật, Phân Tích
Lâm cảng dạ bạc – 林港夜泊
港口咱潮暫繫舠
韽韽隔岸響蒲牢
船窗客夜三更雨
海曲秋風十丈濤
膜外虛名身是幻
夢中浮俗事堪拋
一生氣習渾如昨
不為羈愁損舊豪
Phiên âm Hán Việt
Cảng khẩu thanh triều tạm hệ đao,
Am am cách ngạn hưởng bồ lao.
Thuyền song khách dạ tam canh vũ ;
Hải khúc thu phong thập trượng đào.
Mạc ngoại hư danh thân thị huyễn
Mộng trung phù tục sự kham phao.
Nhất sinh khí tập hồn như tạc,
Bất vị ky sầu tổn cựu hào.
Dịch nghĩa
Cửa lạch nghe thủy triều tạm buộc thuyền con,
Văng vẳng cách bờ nghe tiếng bồ lao (chuông).
Bên cửa thuyền đêm ở đất khách mưa suốt ba canh ;
Trong vụng biển gió thu sóng nổi mười trượng.
Danh hão để ngoài lòng, thân là ảo anh ;
Đời phù sinh trong giấc mộng, việc đáng quăng đi.
Một đời quen nết vẫn như ngày trước,
Không vì mối sầu xa nhà mà sút hào khí cũ đi.
Long đại nham – 龍岱岩
去年虎穴我曾窺
龍岱今觀石窟奇
鰲負出山山有洞
鯨遊塞海海為池
壼中日月天難志
世上英雄此一時
黎范風流嗟漸遠
青苔半蝕璧間詩
Phiên âm Hán Việt
Khứ niên hổ huyệt ngã tằng khuy ;
Long đại kim quan thạch huyệt kỳ.
Ngao phụ xuất sơn sơn hữu động ;
Kình du tắc hải hải vi trì.
Hồ trung nhật nguyệt thiên nan lão ;
Thế thượng anh hùng thử nhất thì.
Lê Phạm phong lưu ta tiệm viễn,
Thanh đài bán thực bích gian thi.
Dịch nghĩa
Năm trước hang cọp ta đã từng xem,
Nay lại xem hang đá kỳ Long-đại (động rồng).
Con ngao đội núi lên, núi có động
Cá kình bơi lấp biển, biển thành ao.
Nhật nguyệt trong bầu, cảnh trời khó già,
Anh hùng trên đời, đấy là một thuở.
Phong lưu của họ Lê họ Phạm, than ôi đã xa dần ;
Rêu xanh đã gặm hết nửa thơ trên vách đá.
Phân tích❤️️ Nước Đại Việt Ta [Nguyễn Trãi] ❤️️ Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích
Loạn hậu đáo Côn-sơn cảm tác – 亂後到崑山感作
一別家山恰十年
歸來松匊半翛然
林泉有約那堪負
塵土低頭只自憐
鄕里纔過如夢到
干戈未息幸身全
何時結屋雲峰下
汲澗烹茶枕石眠
Phiên âm Hán Việt
Nhất biệt gia sơn kháp thập niên ;
Qui lai tùng cúc bán tiêu nhiên.
Lâm tuyền hữu ước na kham phụ ;
Trần thổ đê đầu chỉ tự liên.
Hương lý tài qua như mộng đáo ;
Can qua vị tức hạnh thân tuyền.
Hà thì kết ốc vân phong hạ ?
Cấp giản phanh trà chẩm thạch miên
Dịch nghĩa
Từ khi đi khỏi núi nhà vừa mười năm.
Trở về thì tùng cúc đã nửa hoang rậm.
Có hẹn với rừng suối sao ta nỡ phụ ?
Cúi đầu nơi đất bụi chỉ tự thương mình.
Làng quê mới qua, như thấy chiêm bao đến ;
Can qua chưa dứt, may dược vẹn chiếc thân.
Bao giờ làm được nhà dưới ngọn núi mây,
Để múc nước khe nấu chè và gối đá ngủ ?
Quan hải – 關海
樁木重重海浪前
沉江鐵鎖亦徒然
覆舟始信民猶水
恃險難憑命在天
禍福有媒非一日
英雄遺恨幾千年
乾坤今古無窮意
卻在滄浪遠樹烟
Phiên âm Hán Việt
Thung mộc trùng trùng hải lãng tiền ;
Trầm giang thiết tỏa diệt đồ nhiên.
Phúc chu thủy tín dân do thủy ;
Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên.
Họa phúc hữu môi phi nhất nhật ;
Anh hùng di hận kỷ thiên niên.
Càn khôn kim cổ vô cùng ý,
Khước tại thương lang viễn thụ yên.
Dịch nghĩa
Cọc gỗ lớp lớp trồng trước sóng biển ;
Xích sắt ngầm dưới sông cũng vậy thôi.
Thuyền bị lật mới tin rằng dân là như nước ;
Cậy đất hiểm cũng khó dựa, mệnh là ở trời.
Họa phúc có manh mối không phải một ngày ;
Anh hùng để mối hận mấy nghìn năm sau.
Lẽ của trời đất và xưa nay, thực là vô cùng.
Vẫn là ở chỗ sắc nước bát ngát, cây khói xa vời.
Bạch đằng hải khẩu – 白藤海口
朔風吹海氣凌凌
輕起吟帆過白藤
鱷斷鯨刳山曲曲
戈沉戟折岸層層
關河百二由天設
豪傑功名此地曾
往事回頭嗟已矣
臨流撫影意難勝
Phiên âm Hán Việt
Sóc phong xuy hải khí lăng lăng;
Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch-đằng.
Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc
Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng
Quan hà bách nhị do thiên thiết ;
Hào kiệt công danh thử địa tằng.
Vãng sự hồi đầu ta dĩ hĩ
Lâm lưu phủ ảnh ý nan thăng.
Dịch nghĩa
Gió bấc thổi trên biển, khí biển lạnh rùng.
Nhẹ kéo buồm thơ để qua cửa Bạch-đằng.
Như cá sấu bị chặt, cá kình bị mổ, núi chia từng khúc một
Như mũi qua chìm, cây xích gãy, bên bờ lớp lớp chồng.
Quan hà hiểm hai người chống trăm người do trời xếp đặt
Hào kiệt lập công danh đất ấy từng là nơi.
Quay đầu xem việc cũ, ôi xong rồi !
Cúi xuống dòng mò bóng, ý khôn nói xiết.
Thohay.vn Tặng Bạn ❤️️ Ngôn Chí Bài 7 ❤️️ Nội Dung Bài Thơ, Đọc Hiểu, Cảm Nhận
Chu trung ngẫu thành – 舟中偶成
雨後春潮漲海門
天風吹起浪花噴
半林殘照篩煙樹
隔水孤鐘搗月村
風景可人詩入畫
湖山滿目酒盈樽
舊遊歷歷余曾記
往事重尋只夢魂
Phiên âm Hán Việt
Vũ hậu xuân triều trướng hải môn ;
Thiên phong xuy khỉ lãng hoa phun.
Bán lâm tàn chiếu sư yên thụ
Cách thủy cô chung đảo nguyệt thôn
Phong cảnh khả nhân thi nhập họa ;
Hồ sơn mãn mục tửu doanh tôn.
Cựu du lịch lịch dư tằng ký ;
Vãng sự trùng tầm chỉ mộng hồn.
Dịch nghĩa
Sau mưa nước triều xuân tràn cửa biển ;
Gió trời nổi lên hoa sóng tóe phun.
Bày nửa rừng bóng chiều xế như rây qua khói ;
Thôn cách sông tiếng chuông vắng như giã sáng trăng.
Phong cảnh chiều người, có thơ trong họa ;
Núi hồ đầy mắt, rót rượu chén tràn.
Những chuyến đi chơi cũ ta còn nhớ mồn một ;
Việc xưa muốn tìm lại chỉ nhờ hồn mộng thôi.
Đề Bá Nha cổ cầm đồ – 題伯牙鼓琴圖
鐘期不作鑄金難
獨抱瑤琴對月彈
靜夜碧宵涼似水
一聲鶴唳九皋寒
Phiên âm Hán Việt
Chung Kỳ bất tác chú kim nan
Độc bão dao cầm đối nguyệt đàn.
Tĩnh dạ bích tiêu lương tự thủy ;
Nhất thanh hạc lệ cửu cao hàn.
Dịch nghĩa
Không làm được Chung Kỳ vì đúc vàng khó ;
Một mình ôm đàn ngọc đối trăng mà đàn.
Đêm lặng vòm trời biếc lạnh như nước,
Một tiếng hạc rít lạnh ngắt ở chín chằm.
Đề kiếm – 題劍
藍山自昔臥神龍
世事懸知在掌中
大任有歸天啓聖
昌期一遇虎生風
國讎洗盡千年恥
金匱終藏萬世功
整頓乾坤從此了
世間那更數雄英
Phiên âm Hán Việt
Lam-sơn tự tích ngọa thần long
Thế sự huyền tri tại chưởng trung.
Đại nhiệm hữu qui thiên khải thánh
Xương kỳ nhất ngộ hổ sinh phong
Quốc thù tẩy tận thiên niên sỉ ;
Kim quỹ chung tàng vạn thế công.
Chỉnh đốn càn khôn tòng thử liễu ;
Thế gian na cánh sổ anh hùng
Dịch nghĩa
Rồng thần từ xưa nằm ở Lam-sơn,
Việc đời đã biết trước như nằm trong tay.
Việc lớn đã chọn người, trời báo cho thánh biết;
Thời thịnh mà gặp được, thì hùm sinh gió tức bay được.
Thù nước đã rửa sạch sỉ nhục hàng nghìn năm
Trong hộp vàng cuối cùng xếp công muôn thuở.
Chỉnh đốn càn khôn từ đó là xong
Thế gian lại có đếm xỉa gì bực anh hùng nữa.
Oán thán – 冤
浮俗升沉五十年
故山泉石負情緣
虛名實禍殊堪笑
眾謗孤忠絕可憐
數有難逃知有命
大如未喪也關天
獄中牘背空遭辱
金闕何由達寸箋
Phiên âm Hán Việt
Phù tục thăng trầm ngũ thập niên
Cố sơn tuyền thạch phụ tình duyên.
Hư danh thực họa thù kham tiếu
Chúng báng cô trung tuyệt khả liên.
Số hữu nan đào tri thị mệnh
Văn như vị táng dã quan thiên.
Ngục trung độc bối không tao nhục ;
Kim khuyết hà do đạt thốn tiên ?
Dịch nghĩa
Nổi chìm trong phù tục đã năm chục năm,
Đành phụ tình duyên với khe và đá của núi cũ.
Danh hư mà họa thực, rất đáng buồn cười
Lắm kẻ ghét một mình trung, rất đáng thương hại.
Khó trốn được số mình, biết là vì mệnh
Tư văn như chưa bỏ, cũng bởi ở trời.
Trong ngục viết ở lưng tờ, khi không bị nhục
Cửa khuyết vàng làm thế nào mà đạt được tờ giấy lên ?
Tặng bạn chùm 💜 Câu Đối Tết Chữ Hán 💜 Ngoài Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Trãi
Những Bài Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Trãi Hay Nhất
Tiếp theo là Những Bài Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Trãi Hay Nhất được chọn lọc kĩ càng sau đây:
Đề Thạch trúc oa – 題石竹窩
傍石移栽竹幾竿
玲瓏色映碧琅玕
煙梢露滴衣裳冷
地骨雲生枕簞寒
幽致已應塵外想
清標還愛雪中看
窗前月白供佳賞
退食聊將寓暫歡
Phiên âm Hán Việt
Bạng thạch di tài trúc kỷ can ;
Linh lung sắc ánh bích lang can
Yên sao lộ trích y thường lãnh ;
Địa cốt vân sinh chẩm đạm hàn.
U trí dĩ ưng trần ngoại tưởng ;
Thanh tiêu hoàn ái tuyết trung khan.
Song tiền nguyệt bạch cung giai thưởng
Thoái thực liêu tương ngụ tạm hoan.
Dịch nghĩa
Bên đá dời đến trồng trúc mấy cây
Trong sắc sáng long lanh chiếu ánh ngọc xanh biếc.
Giọt móc trên ngọn vương khói khiến xiêm áo lạnh ;
Xương đất (tức là đá) bốc mây lên, gối đệm cũng lạnh.
Tính u nhã đã nên tưởng ở ngoài trần tục ;
Tính thanh tao xem ở trong tuyết còn thú hơn.
Trước cửa sổ khi ánh trăng cho ta thưởng thức vẻ đẹp ;
Sau bữa cơm ta lấy làm chỗ tạm ngụ niềm vui.
Quá Thần-phù hải khẩu – 過神符海口
神符海口夜中過
奈此風流月白何
夾岸千峰排玉笋
中流一水走青蛇
江山如昨英雄逝
天地無情事變多
胡越一家今幸睹
四溟從此息鯨波
Phiên âm Hán Việt
Thần-phù hải khẩu dạ trung qua ;
Nại thử phong thanh nguyệt bạch hà !
Giáp ngạn thiên phong bài ngọc duẩn
Trung lưu nhất thủy tẩu thanh xà.
Giang sơn như tạc anh hùng thệ
Thiên địa vô tình sự biến đa.
Hồ Việt nhất gia kim hạnh đổ,
Tứ minh tòng thử tức kình ba.
Dịch nghĩa
Giữa đêm qua cửa biển Thần-phù,
Gió mát trăng trong làm sao đây !
Sát bờ nghìn ngọn núi bày như búp măng ngọc ;
Giữa dòng một đường nước chạy như con rắn xanh.
Non sông vẫn như trước mà anh hùng đã mất ;
Trời đất thật vô tình sinh ra sự biến nhiều.
Hồ Việt một nhà nay may được thấy,
Bốn biển từ đây dứt lặng sóng kình.
Quan duyệt thủy trận – 觀閱水陣
北海當年已戮鯨
燕安猶慮詰戎兵
旌旗旖旎連雲影
鼙鼓喧闐動地聲
萬甲耀霜貔虎肅
千艘布陣鸛鵝行
聖心欲與民休息
文治終須致太平
Phiên âm Hán Việt
Bắc hải đương niên dĩ lục kình
Yến an do lự cật nhung binh.
Tinh kỳ ỷ nị liên vân ảnh ;
Bề cổ huyên điền động địa thanh.
Vạn giáp diệu sương tỳ hổ túc;
Thiên sưu bố trận quán nga hành.
Thánh tâm dục dữ dân hưu tức,
Văn trị chung tu trí thái bình.
Dịch nghĩa
Biển Bắc năm ấy đã giết cá kình.
Yên ổn mà còn phải lo luyện quân sự.
Cờ xí phấp phới liền với bóng mây;
Trống bé trống lớn rầm lên rung động cả đất.
Muôn binh khí sáng oai như sương, quân tì hổ nghiêm.
Nghìn thuyền bày trận theo hàng chim quán chim nga.
Lòng thánh muốn cho dân nghỉ ngơi.
Rốt cuộc phải xây dựng thái bình bằng văn trị.
Tĩnh yên vãn lập – 靖安晚立
淡煙疏雨晚摸糊
水色天光半有無
萬古乾坤清景致
海山為我出新圖
Phiên âm Hán Việt
Đạm yên sơ vũ vãn mô hồ
Thủy sắc thiên quang bán hữu vô
Vạn cổ càn khôn thanh cảnh trí.
Hải sơn vị ngã xuất tân đồ
Dịch nghĩa
Khói lạt mưa nhẹ cảnh chiều lờ mờ ;
Sắc nước ảnh trời nửa không nửa có.
Trời đất muôn thuở cảnh trí tươi trong ;
Biển non vì ta vẽ bức tranh mới.
Tức sự – 即事
小小軒窗矮矮廬
官居頓覺類幽居
滄波江上閒垂釣
綠樹陰中靜看書
雨過晴嵐窺戶牖
風來雪浪舞庭除
午窗瀟灑無塵累
一片閑心躡太虛
Phiên âm Hán Việt
Tiểu tiểu hiên song nụy nụy lư ;
Quan cư đốn giác loại u cư.
Thương ba giang thượng nhàn thùy điếu ;
Lục thụ âm trung tĩnh khán thư.
Vũ quá tình lam khuy hộ dũ ;
Phong lai tuyết lãng vũ đình trừ.
Ngọ song tiêu sái vô trần lụy
Nhất phiến nhàn tâm nhiếp thái hư
Dịch nghĩa
Hiên và song nho nhỏ, nhà tranh thấp thấp ;
Nhà quan bỗng thấy giống như nhà ẩn dật.
Trên sông sóng xanh, khi nhàn thả câu ;
Trong bóng cây lục, lặng yên đọc sách.
Mưa tạnh bốc hơi lam, luồn qua cửa sổ ;
Gió đến khiến tuyết bay, múa ở sân thềm.
Nằm ở cửa sổ hướng nam, lâng lâng không trần lụy ;
Một tấm lòng nhàn vượt lên chốn thái hư.
Vân đồn – 雲屯
路入雲屯山復山
天恢地設付奇觀
一盤藍碧澄明鏡
萬斛鴉青鬌翠鬟
宇宙頓清塵海岳
風波不動鐵心肝
望中岸草萋萋綠
道是藩人駐舶灣
Phiên âm Hán Việt
Lộ nhập Vân đồn san phục san;
Thiên khôi địa thiết phó kỳ quan.
Nhất bàn lam bích trừng minh kính;
Vạn hộc nha thanh đóa thúy hoàn.
Vũ trụ đốn thanh trần hải nhạc;
Phong ba bất động thiết tâm can.
Vọng trung ngạn thảo thê thê lục,
Đạo thị Phiên nhân trú bạc loan
Dịch nghĩa
Đường vào Vân-đồn núi rồi lại núi;
Trời lồng lộng đất đặt thành chỗ kỳ quan.
Một tấm sắc lam sắc biếc, kính sáng trong vắt ;
Muôn hộc sắc đen sắc xanh, tóc thúy từng chòm.
Vũ trụ bỗng gạn trong biển núi bụi bậm;
Gió sóng không lay chuyển ruột gan sắt gang.
Nhìn vào thấy cỏ ở bờ rờn rờn lục.
Nghe nói đó là vụng người Phiên đỗ tàu.
Đề Yên tử sơn Hoa yên tự – 題安子山花烟寺
安山山上最高峰
纔五更初日正紅
宇宙眼窮滄海外
笑談人在碧雲中
擁門玉槊森千畝
掛石珠流落半空
仁廟當年遺跡在
白毫光裏睹重瞳
Phiên âm Hán Việt
Yên sơn sơn thượng tối cao phong,
Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng.
Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại;
Tiếu đàm nhân tại bích vân trung.
Ủng môn ngọc sáo sâm thiên mẫu
Quải thạch châu lưu lạc bán không.
Nhân miếu đương niên di tích tại;
Bạch hào quang lý đổ trùng đồng
Dịch nghĩa
Trên núi Yên-tử ở chòm cao nhất,
Mới đầu canh năm mà mặt trời đã rực hồng.
Mắt nhìn vũ trụ ra tận ngoài biển xanh;
Người ta nói cười ở trong làn mây biếc.
Giáo ngọc (cây trúc) cắm ở cửa rậm rà nghìn mẫu;
Tua châu (nhũ đá) treo ở đá rủ xuống lưng chừng.
Vua Nhân tôn bấy giờ còn để dấu;
Trông ánh hào quang trông thấy rõ mắt đôi con ngươi.
Thứ Cúc pha tặng thi – 次菊坡贈詩
太平天子正崇文
喜見黃金礫瓦分
美玉不勞求善價
猗蘭終自吐清芬
羡君已作儀庭鳳
愧我應同出岫雲
兩眼昏花頭竟白
涓埃何以答君恩
Phiên âm Hán Việt
Thái bình thiên tử chính sùng văn ;
Hỷ kiến hoàng kim lịch ngõa phân.
Mỹ ngọc bất lao cầu thiện giá ;
Ỷ lan chung tự thổ thanh phân.
Tiển quân dĩ tác nghi đình phượng
Quý ngã ưng đồng xuất tụ vân
Lưỡng nhãn hôn hoa đầu cánh bạch,
Quyên ai hà dĩ đáp quân ân.
Dịch nghĩa
Đời thái bình thiên tử chính chuộng văn ;
Mừng thấy vàng được phân biệt với sành gạch.
Ngọc tốt không cần nhọc phải đòi giá đắt ;
Lan quý rốt cuộc cũng sẽ ngát hương thơm.
Mừng thấy ngươi đã làm phượng ở điện đình ;
Thẹn cho ta còn phải giống mây bay khỏi động.
Hai mắt đã lòa đầu lại bạc,
Lấy gì mà đền đáp ơn vua chút mảy may.
Đón đọc thêm 🌿Bảo Kính Cảnh Giới [Nguyễn Trãi] 🌿 Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích
Thượng nguyên hỗ giá chu trung tác – 上元扈駕舟中作
沿江千里燭光紅
彩鷁乘風跨浪篷
十丈樓臺消蜃氣
三更鼓角壯軍容
滄波月浸玉千頃
仙杖雲趨天九重
五夜篷窗清夢覺
猶疑長樂隔花鐘
Phiên âm Hán Việt
Diên giang thiên lý chúc quang hồng ;
Thái ích thừa phong khóa lãng bồng.
Thập trượng lâu đài tiêu thẫn khí;
Tam canh cổ dốc tráng quân dung.
Thương ba nguyệt tẩm ngọc thiên khoảnh ;
Tiên trượng vân xu thiên cửu trùng
Ngũ dạ bồng song thanh mộng giác,
Do nghi Trường lạc cách hoa chung.
Dịch nghĩa
Dọc sông nghìn dặm ánh sáng đuốc đỏ,
Thuyền vẽ chim ích thuận gió lướt sóng đi.
Lâu đài thẫn khí mười trượng tiêu tan hết;
Ba canh trống và tù và làm mạnh oai quân.
Sóng biếc dầm mặt trăng, ngọc sáng nghìn khoảnh;
Gậy tiên như mây lướt, trên chín tầng trời.
Canh năm bên cửa sổ thuyền chợt tỉnh mộng nhẹ,
Còn ngờ tiếng chuông ở cung Trường-lạc cách hoa.
Đề Đông sơn tự – 題東山寺
君親一念久嬰懷
澗愧林慚夙願乖
三十餘年塵境夢
數聲啼鳥喚初回
Phiên âm Hán Việt
Quân thân nhất niệm cửu anh hoài ;
Giản quý lâm tàm túc nguyện quai.
Tam thập dư niên trần cảnh mộng ;
Sổ thanh đề điểu hoán sơ hồi.
Dịch nghĩa
Một niềm đối vua và cha lâu vấn vương lòng ;
Thẹn với khe tủi với rừng, nguyền cũ sai trái.
Hơn ba chục năm mộng ở cõi trần ;
Và tiếng chim kêu gọi tỉnh trở lại như xưa.
Bật mí nội dung ❤️️ Thơ Về Lòng Yêu Nước ❤️️ hay nhất, ngoài Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Trãi
Tuyển Tập Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Trãi Nổi Tiếng
Đón đọc thêm Tuyển Tập Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Trãi Nổi Tiếng để lại nhiều ấn tượng cho các bạn độc giả sau đây.
Đề Hà hiệu úy Bạch vân tư thân – 題何校尉白雲思親
庭圍一別歲花深
愛慕人皆共此心
客裡看雲情易切
公餘披卷意難禁
家山孰不懷桑梓
忠孝何曾有古今
持此贈君還自感
詩成我亦淚沾襟
Phiên âm Hán Việt
Đình vi nhất biệt tuế hoa thâm,
Ái mộ nhân giai cộng thử tâm.
Khách lý khan vân tình dị thiết ;
Công dư phi quyển ý nan câm.
Gia sơn thục bất hoài tang tử
Trung hiếu hà tằng hữu cổ câm (kim).
Trì thử tặng quân hoàn tự cảm ;
Thi thành ngã diệc lệ triêm khâm.
Từ khi xa rời chỗ sân màn, tuổi đã sâu thêm ;
Yêu mến cha mẹ ai cũng cùng lòng ấy.
Trong cảnh khách nhìn mây tình dễ thiết tha ;
Xong việc quan giở sách ý khôn cầm được.
Đối với núi nhà ai lại không mang lòng tang tử ;
Lòng trung hiếu khi nào lại có cổ kim khác nhau.
Cầm bài thơ này tặng ngươi ta còn tự cảm ;
Thơ làm xong ta cũng nước mắt áo đầm đìa.
Đề Trình xử sĩ Vân oa đồ – 題程處士雲窩圖
佳客相逢日抱琴
故山歸去興何深
香浮瓦鼎風生樹
月照苔磯竹滿林
洗盡塵襟花外茗
喚回午夢枕邊禽
日長隱几忘言處
人與白雲誰有心
Phiên âm Hán Việt
Giai khách tương phùng nhật bão cầm ;
Cố sơn qui khứ hứng hà thâm.
Hương phù ngõa đỉnh phong sinh thụ ;
Nguyệt chiếu đài ky trúc mãn lâm.
Tẩy tận trần khâm hoa ngoại mính ;
Hoán hồi ngọ mộng chẩm biên cầm.
Nhật trường ẩn kỷ vong ngôn xứ ;
Nhân dữ bạch vân thùy hữu tâm
Dịch nghĩa
Khách quý gặp nhau hàng ngày ôm đàn gảy
Núi cũ trở về hứng sâu sắc làm sao !
Hương bốc ở đỉnh sành, trên cây gió sinh
Trăng soi trên ghềnh rêu, đầy rừng trúc mọc.
Để rửa sạch lòng trần, có chè ngoài hoa
Để gọi tỉnh mộng buổi trưa, có chim bên gối.
Ngày dài tựa ghế quên cả nói
Người với mây trắng, ai là có tâm tình ?
Khất nhân họa Côn sơn đồ – 乞人畫崑山圖
半生邱壑廢登臨
亂後家鄉費夢尋
石畔松風孤勝賞
澗邊梅影負清吟
烟霞冷落腸堪斷
猿鶴蕭條意匪禁
憑仗人間高畫手
筆端寫出一般心
Phiên âm Hán Việt
Bán sinh khâu hác phế đăng lâm ;
Loạn hậu gia hương phí mộng tầm.
Thạch bạn tùng phong cô thắng thưởng
Giản biên mai ảnh phụ thanh ngâm.
Yên hà linh lạc trường kham đoạn
Viên hạc tiêu điều ý phỉ câm.
Bằng trượng nhân gian cao hạ thủ,
Bút đoan tả xuất nhất ban tâm.
Dịch nghĩa
Nửa đời phải bỏ cái thú leo trèo khe núi ;
Sau loạn quê nhà chỉ phí chiêm bao mà tìm về.
Gió tùng trên bậc đá, không có ai thưởng thức
Bông hoa mai bên suối, đành phụ thú ngâm nga.
Thấy yên hà vắng vẻ ruột ta muốn đứt ;
Thấy vượn hạc tiêu điều tâm ý khó cầm.
Nhờ cậy tay vẽ giỏi trong thế gian,
Lấy ngòi bút vẽ ra cả tấm lòng của ta.
Họa hương tiên sinh vận giản chư đồng chí – 和鄉先生韻柬諸同志
愁來咄咄漫書空
天地無窮嘆轉蓬
世事灰心頭向白
衰顏借酒暈生紅
覽輝擬學鳴陽鳳
遠害終為避弋鴻
淪落天涯俱是客
年來出處略相同
Phiên âm Hán Việt
Sầu lai đốt đốt mạn thư không ;
Thiên địa vô cùng thán chuyển bồng.
Thế sự hôi tâm đầu hướng bạch ;
Suy nhan tá tửu vựng sinh hồng.
Lãm huy nghĩ học minh dương phượng
Viễn hại chung vi tỵ dặc hồng
Luân lạc thiên nhai câu thị khách,
Niên lai xuất xử lược tương đồng.
Dịch nghĩa
Sầu đến, luống viết «cha chả» trên không;
Trời đất vô cùng, thân mình xoay chuyển như cỏ bồng.
Việc đời đã nguội lòng, đầu đã thành bạc;
Mặt gầy gò mượn rượu cho choáng đỏ ửng lên.
Muốn học chim phượng thấy sáng hót ánh mặt trời;
Rốt cuộc làm chim hồng tránh tên để lánh hại.
Chúng ta đều là khách luân lạc bên trời cả.
Mấy năm nay chúng ta xuất và xử đại khái giống nhau.
Thu nhật ngẫu thành – 秋日偶成
蕭蕭墜葉響庭皋
病骨纔蘇氣轉豪
天地斯文從古重
湖山清興入秋高
鏡中白髮佳人老
身外浮名謾爾勞
緬想故圓三徑菊
夢魂夜夜上歸舠
Phiên âm Hán Việt
Tiêu tiêu trụy diệp hưởng đình cao ;
Bệnh cốt tài tô khí chuyển hào.
Thiên địa tư văn tòng cổ trọng ;
Hồ sơn thanh hứng nhập thu cao.
Kính trung bạch phát giai nhân lão
Thân ngoại phù sinh mạn nhĩ lao.
Miên tưởng cố viên tam kính cúc ;
Mộng hồn dạ dạ thượng quy đao.
Dịch nghĩa
Vì vèo lá rụng, tiếng kéo dài trước sân ;
Thân bệnh mới lành, khí trở lại hào.
Tư văn của trời đất từ xưa vẫn trọng ;
Hứng thú với nước non sang thu càng cao.
Tóc bạc xem trong gương, cùng già với người ta ;
Danh hão ở ngoài thân, nhọc xác vô ích.
Nhớ nhung vườn cũ ba dặng cúc ;
Hồn mộng đêm đêm lên thuyền để về.
Thù hữu nhân kiến ký – 酬友人見寄
矯矯龍襄萬斛舟
安行每懼覆中流
事堪涕淚非言說
運落風波豈智謀
身外浮名煙閣迥
夢中花鳥故山幽
慇懃堪謝鄉中友
聊把新詩寫我愁
Phiên âm Hán Việt
Kiểu kiểu long nhương vạn hộc chu ;
An hành mỗi cụ phúc trung lưu.
Sự kham thế lệ phi ngôn thuyết ;
Vận lạc phong ba khỉ trí mưu.
Thân ngoại phù danh Yên các quýnh ;
Mộng trung hoa điểu cố sơn u.
Ân cần kham tạ hương trung hữu :
Liêu bả tân thi tả ngã sầu.
Dịch nghĩa
Mạnh mẽ như rồng, lướt thuyền muôn hộc
Dù yên ổn mà vẫn sợ bị lật ở giữa dòng.
Việc đáng chảy nước mắt, không phải ăn nói được
Vận rớt vào cảnh phong ba, còn mưu trí thế nào!
Phù danh ở ngoài mình, xa rời Yên các
Hoa và chim ở trong mộng, lặng lẽ non quê.
Ân cần xin tạ các bạn trong làng
Tam đem thơ mới giãi tỏ mối sầu của ta.
Tống tăng Đạo Khiêm qui sơn – 送僧道謙歸山
記曾講學十餘年
今又相逢一夜眠
且喜夢中拋俗事
更尋石上話前緣
明朝靈浦還飛錫
何日崑山共聽泉
老去狂言休怪我
臨岐我亦上乘禪
Phiên âm Hán Việt
Ký tằng giảng học thập dư niên ;
Kim hựu tương phùng nhất dạ miên
Thả hỷ mộng trung phao tục sự ;
Cánh tầm thạch thượng thoại tiền duyên.
Minh triêu Linh phố hoàn phi tích
Hà nhật Côn-sơn cộng thính tuyền ?
Lão khứ cuồng ngôn hưu quái ngã ;
Lâm kỳ ngã diệc thượng thừa thiền
Dịch nghĩa
Nhớ từng giảng học hơn mười năm ;
Nay lại gặp nhau ngủ một đêm với nhau.
Vả mừng trong mộng bỏ hết việc tục ;
Lại tìm lên núi để nói chuyện tiền duyên.
Rạng mai hãy bay gạy về bến Chí-linh ;
Ngày nào mới cùng nghe suối ở Côn-sơn được ?
Già rồi hay nói cuồng, đừng lạ ta ;
Từ biệt nhau rồi thì ta cũng sẽ tu đạo thiền thượng thừa.
Vãn lập – 晚立
長天漠漠水悠悠
黃落山河屬暮秋
羨殺花邊雙白鳥
人間累不到滄洲
Phiên âm Hán Việt
Trường thiên mạc mạc thủy du du ;
Hoàng lạc sơn hà thuộc mộ thu.
Tiển sát hoa biên song bạch điểu
Nhân gian lụy bất đáo thương châu
Dịch nghĩa
Trời thì rộng bao la nước thì bát ngát ;
Lá vàng rụng phủ núi sông, tiết muộn về thu.
Thèm chết được như đôi chim trắng ở bên hoa kia :
Lụy nhân gian không đến được bãi ẩn dật.
Côn sơn ca – 崑山歌
崑山有泉
其聲冷冷然
吾以為琴弦
崑山有石
雨洗苔鋪碧
吾以為簞席
岩中有松
萬里翠童童
吾於是乎偃息其中
林中有竹
千畝印寒綠
吾於是乎吟嘯其側
問君何不歸去來
半生塵土長膠梏
萬鐘九鼎何必然
飲水飯蔬隨分足
君不見董卓黃金盈一塢
元載胡椒八百斛
又不見伯夷與叔齊
首陽餓死不食粟
賢愚兩者不相侔
亦各自求其所欲
人生百歲內
畢竟同草木
歡悲憂樂迭往來
一榮一謝還相續
丘山華屋亦偶然
死後誰榮更誰辱
人間箬有巢由徒
勸渠聽我山中曲
Phiên âm Hán Việt
Côn sơn hữu tuyền,
Kỳ thanh lãnh lãnh nhiên,
Ngô dĩ vi cầm huyền.
Côn sơn hữu thạch,
Vũ tẩy đài phô bích,
Ngô dĩ vi đạm tịch.
Nham trung hữu tùng,
Vạn lý thúy đồng đồng,
Ngô ư thị hồ yển tức kỳ trung.
Lâm trung hữu trúc,
Thiên mẫu ấn hàn lục,
Ngô ư thị hồ ngâm tiếu kỳ trắc.
Vấn quân hà bất qui khứ lai ?
Bán sinh trần thổ trường giao cốc.
Vạn chung cửu đỉnh hà tất nhiên,
Ẩm thủy phạn sơ tùy phận túc.
Quân bất kiến Đổng Trác hoàng kim doanh nhất ổ ?
Nguyên Tải hồ tiêu bát bách hộc ?
Hựu bất kiến Bá Di dữ Thúc Tề
Thú dương ngạ tự bất thực túc ?
Hiền ngu lưỡng giả bất tương mâu,
Diệc các tự cầu kỳ sở dục.
Nhân sinh bách tuế nội,
Tất cánh đồng thảo mộc.
Hoan bi ưu lạc điệt vãng lai,
Nhất vinh nhất tạ hoàn tương tục.
Khâu sơn hoa ốc diệc ngẫu nhiên,
Tử hậu thùy vinh cánh thùy nhục ?
Nhân gian nhược hữu Sào Do đồ ?
Khuyến cừ thính ngã sơn trung khúc.
Đề Bảo phúc nham – 題抱腹岩
平明擱棹上岩頭
乘興聊為玉局遊
九轉丹成孤鶴去
三神股斷一鰲浮
石欄影附滄江月
仙洞煙含碧樹秋
是處真堪容我隱
山中還有舊砂不
Phiên âm Hán Việt
Bình minh các trạo thượng nham đầu ;
Thừa hứng liêu vi ngọc cục du.
Cửu chuyển đơn thành cô hạc khứ ;
Tam thần cổ đoạn nhất ngao phù.
Thạch lan ảnh phụ thương giang nguyệt ;
Tiên động yên hàm bích thụ thu.
Thị xứ chân kham dung ngã ẩn ;
Sơn trung hoàn hữu cựu sa phù ?
Dịch nghĩa
Sáng sớm gác mái chèo lên đầu núi ;
Thừa hứng hãy làm một cuộc chơi ở Ngọc-cục.
Chín lần biến hóa thuốc đơn đã thành, chiếc hạc đi mất.
Ba (núi) thần đứt chân, một cái do ngao đội nổi ở đây.
Bóng lan can đá phụ với bóng trăng trên sông xanh biếc.
Khói cửa động tiên ngậm vẻ thu của cây.
Chốn này thực đáng cho ta ở ẩn.
Trong núi có còn đơn sa cũ (để luyện thuốc) chăng?
Đề Vân oa- 題雲窩
半簾花影滿床書
庭外蕭蕭水竹居
盡日雲窩無箇事
黑甜一枕半窗虛
Phiên âm Hán Việt
Bán liêm hoa ảnh mãn sàng thư ;
Đình ngoại tiêu tiêu thủy trúc cư.
Tận nhật Vân-oa vô cá sự ;
Hắc điềm nhất chẩm bán song hư
Dịch nghĩa
Bóng hoa chiếu nửa rèm sách đầy giường ;
Phía ngoài sân những cây thủy trúc kêu veo veo.
Trọn ngày ở Vân-oa không có việc gì ;
Một gối ngủ ngon say, nửa cửa sổ hở.
Giang hành – 江行
西津初艤棹
風景便江湖
雨過山容瘦
天長鴈影孤。
滄浪何處是
漁釣好為徒
回首東華地
塵埃覺已無
Phiên âm Hán Việt
Tây tân sơ nghị trạo,
Phong cảnh tiện giang hồ.
Vũ quá sơn dung sấu
Thiên trường nhạn ảnh cô.
Thương lang hà xứ thị
Ngư điếu hảo vi đồ.
Hồi thủ Đông-hoa địa,
Trần ai giác dĩ vô
Dịch nghĩa
Bến tây thuyền mới ghé mái,
Phong cảnh đã là giang hồ rồi.
Mưa qua rồi trông dáng núi gầy ;
Trời rộng bóng nhạn như đơn chiếc.
Thương lang ở nơi nào đây ?
Làm bạn với người chài cá cũng hay.
Quay đầu lại nhìn đất Đông-hoa,
Thấy mình đã không có bụi bặm nữa.
Gửi đến bạn chùm 🌾 Thơ Lục Bát Ngắn 4 Câu Về Quê Hương🌾 cực hay, ngoài Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Trãi
Các Bài Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Trãi Bất Hủ
Giới thiệu cùng bạn Các Bài Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Trãi Bất Hủ nổi tiếng nhất sau đây:
Hý đề – 戲題
閑來無事不清哦
塵外風流自一家
珪璧千重開疊巘
玻瓈萬頃漾晴波
管弦嘈雜林邊鳥
羅綺芳芬塢裡花
眼底一時詩料富
吟翁誰與世人多
Phiên âm Hán Việt
Nhàn lai vô sự bất thanh nga,
Trần ngoại phong lưu tự nhất gia
Khuê bích thiên trùng khai điệp hiến ;
Pha lê vạn khoảnh dạng tình ba.
Quản huyền hào tạp lâm biên điểu ;
La ỷ phương phân ổ lý hoa
Nhãn để nhất thì thi liệu phú ;
Ngâm ông thùy dữ thế nhân đa
Dịch nghĩa
Khi nhàn thì không gặp việc gì là không ngâm nga ;
Phong lưu ở ngoài cõi tục, ta tự thành một nhà.
Núi lớp lớp dăng nghìn từng khuê ngọc bích .
Mặt nước dợn muôn khoảnh trong như gương pha lê.
Đàn sáo rộn rịp, là chim hót bên rừng ;
Gấm vóc rực rỡ, là hoa nở trong bờ giậu.
Trước mắt một buổi thi liệu dồi dào ;
Thi nhân với người đời thì ai thú hơn ?
Mộ xuân tức sự – 暮春即事
閑中盡日閉書齋
門外全無俗客來
杜宇聲中春向老
一庭疏雨楝花開
Phiên âm Hán Việt
Nhàn trung tận nhật bế thư trai ;
Môn ngoại toàn vô tục khách lai.
Đỗ vũ thanh trung xuân hướng lão,
Nhất đình sơ vũ luyện hoa khai.
Dịch nghĩa
Trong nhà trọn ngày đóng cửa phòng sách ;
Ngoài cửa không hề có khách tục đến.
Trong tiếng đỗ quyên kêu nghe mùa xuân đã về già (muộn) ;
Cả xuân hoa xoan nở dưới mưa phùn.
Mộng sơn trung – 蒙山中
清虛洞裡竹千竿
飛瀑霏霏落鏡寒
昨夜月明天似水
夢騎黃鶴上仙壇
Phiên âm Hán Việt
Thanh hư động lý trúc thiên can ;
Phi bộc phi phi lạc kính hàn.
Tạc dạ nguyệt minh thiên tự thủy,
Mộng kỵ hoàng hạc thượng tiên đàn.
Dịch nghĩa
Trong động Thanh-hư hàng nghìn cây trúc ;
Suối bay phơi phới như kính lạnh rũ xuống.
Đêm qua trăng sáng trời trong sáng một màu với nước ;
Chiêm bao thấy cỡi hạc vàng lên đàn tiên.
Trại đầu xuân độ – 寨頭春渡
渡頭春草綠如烟
春雨添來水拍天
野徑荒涼行客少
孤舟鎮日擱沙眠
Phiên âm Hán Việt
Độ đầu xuân thảo lục như yên ;
Xuân vũ thiêm lai thủy phách thiên
Dã kính hoang lương hành khách thiểu,
Cô chu trấn nhật các sa miên.
Dịch nghĩa
Đầu bến cỏ xuân xanh lục như khói (như mây) ;
Lại thêm trời mưa xuân nước vỗ ngang trời.
Đường ngoài nội vắng teo ít người đi ;
Thuyền mồ côi suốt ngày gác đầu lên bãi mà ngủ.
Tức hứng – 即興
攬翠亭東竹滿林
柴門晝掃凈陰陰
雨餘山色清詩眼
潦退江光凈俗心
戶外鳥啼知客至
庭邊木落識秋深
午窗睡醒渾無寐
隱几焚香理玉琴
Phiên âm Hán Việt
Lãm-thúy đình đông trúc mãn lâm ;
Sài môn trú tảo tĩnh âm âm,
Vũ dư sơn sắc thanh thi nhãn ;
Lạo thoái giang quang tĩnh tục tâm
Hộ ngoại điểu đề tri khách chí ;
Đình biên mộc lạc thức thu thâm.
Ngọ song thụy tỉnh hồn vô mỵ ;
Ẩn kỷ phần hương lý ngọc cầm
Dịch nghĩa
Ở phía đông đình Lãm-thúy trúc mọc đầy rừng ;
Cửa nè ban này quét sạch bong bong.
Sau mưa sắc núi làm trong trẻo mắt thơ ;
Hết lụt ánh sáng trên sông rửa sạch lòng tục.
Ngoài cửa chim kêu, biết là có khách đến ;
Bên sân cây đã rừng, biết là thu đã sâu.
Bên cửa sổ hướng nam tỉnh rồi không nằm ngủ nữa.
Dựa ghế đốt hương gảy đàn ngọc chơi.
Thanh minh – 清明
一從淪洛他鄉去
屈指清明幾度過
千里墳塋違拜掃
十年親舊盡消磨
乍晴天氣模稜雨
過半春光廝句花
聊把一杯還自彊
莫教日日苦思家
Phiên âm Hán Việt
Nhất tòng luân lạc tha hương khứ,
Khuất chỉ thanh minh kỷ độ qua.
Thiên lý phần uynh vi bái tảo;
Thập niên thân cựu tận tiêu ma.
Sạ tình thiên khí mô lăng vũ
Quá bán xuân quang tê cú hoa.
Liêu bả nhất bôi hoàn tự cưỡng.
Mạc giao nhật nhật khổ tư gia.
Dịch nghĩa
Kể từ khi lưu lạc ra làng khác.
Đếm đốt ngón tay thanh minh đã qua mấy lần.
Xa nghìn dặm mồ mả không được lạy quét ;
Trải mười năm thân cựu đã thảy hao mòn.
Chợt tạnh khí trời vào tiết mưa rào ;
Đã quá nửa xuân hoa tê cú nở.
Khuây nâng một chén phải cố gượng uống,
Để đừng có ngày ngày khổ về nhớ nhà.
Thính vũ – 聽雨
寂寞幽齋裏
終宵聽雨聲
蕭騷驚客枕
點滴數殘更
隔竹敲窗密
和鐘入夢清
吟餘渾不寐
斷續到天明
Phiên âm Hán Việt
Tịch mịch u trái lý ;
Chung tiêu thính vũ thanh.
Tiêu hao kinh khách chẩm ;
Điểm trích sổ tàn canh.
Cách trúc xao song mật ;
Hòa chung nhập mộng thanh.
Ngâm dư hồn bất mị ;
Đoạn tục đáo thiên minh.
Dịch nghĩa
Vắng vẻ trong phòng tối tăm,
Suốt đêm nghe tiếng trời mưa.
Tiếng não nùng làm kinh động gối khách ;
Giọt thánh thót suốt mấy canh tàn.
Cách bụi trúc tiếng khua nhặt vào cửa sổ;
Lẫn tiếng chuông vẳng vào giấc mơ nhẹ nhàng.
Ngâm rồi vẫn không ngủ được;
Nghe đứt nối cho đến trời bình minh.
Thôn xá thu châm – 村舍秋砧
滿江何處響東丁
夜月偏驚久客情
一種蕭關征婦怨
總將離恨入秋聲
Phiên âm Hán Việt
Mãn giang hà xứ hưởng đông đinh;
Dạ nguyệt thiên kinh cửu khách tình.
Nhất chủng Tiêu quan chinh phụ oán,
Tổng tương ly hận nhập thu thanh
Dịch nghĩa
Cả sông chốn nào cũng nghe tiếng thình thình.
Trăng đêm riêng kinh động lòng người làm khách lâu ngày.
Một nỗi lòng oán của người chinh phụ chồng ở Tiêu-quan;
Thảy đều là đem mối hận biệt ly ngụ vào tiếng mùa thu.
Thần phù hải khẩu – 神符海口
故國歸心落雁邊
秋風一葉海門船
鯨噴浪吼雷南北
槊擁山連玉後前
天地多情恢巨浸
勳名此會想當年
日斜倚棹滄茫立
冉冉寒江起暮烟
Phiên âm Hán Việt
Cố quốc qui tâm lạc nhạn biên ;
Thu phong nhất diệp hải môn thuyền.
Kình phun lãng hống lôi nam bắc ;
Sáo ủng sơn liên ngọc hậu tiền.
Thiên địa đa tình khôi cự tẩm ;
Huân danh thử hội tưởng đương niên
Nhật tà ỷ trạo thương mang lập,
Nhiễm nhiễm hàn giang khỉ mộ yên.
Dịch nghĩa
Lòng về quê cũ đi theo chỗ chim nhạn đậu.
Chiếc thuyền ở cửa biển như chiếc lá giữa gió thu.
Sóng rống như kình phun, sấm gầm ở nam và bắc,
Núi liền như giáo dựng, ngọc bày cả trước và sau.
Trời đất đa tình, mở vụng biển lớn ;
Công danh hội ấy, nhớ lại năm nào.
Lúc mặt trời xế, dựa chèo đứng giữa mông mênh.
Ngùn ngụt sông lạnh chiều hôm nổi khói.
Tặng hữu nhân – 贈友人
貧病余憐汝
疏狂汝似余
同為千里客
俱讀數行書
瓠落知何用
栖遲諒有餘
他年淽溪約
短笠苛春鋤
Phiên âm Hán Việt
Bần bệnh dư lân nhữ ;
Sơ cuồng nhữ tự dư.
Đồng vi thiên lý khách;
Câu độc sổ hàng thư.
Hồ lạ tri hà dụng;
Thê trì lượng hữu dư.
Tha niên Nhụy-khê ước
Đoản lạp hà xuân sừ
Dịch nghĩa
Nghèo và bệnh ta thương ngươi ;
Phóng túng điên rồ ngươi giống ta.
Cũng đều làm khách nơi muôn dặm ;
Cũng đều đọc sách được mấy hàng.
Nông quá như chúng mình biết làm gì được ;
Chơi nhởn thì chắc là chúng mình có thừa.
Hẹn nhau năm nào về Nhụy-khê ;
Đội nón ngắn (chụp) vác cuốc xuân (làm nông dân).
Mạn hứng – 漫興
世路蹉跎雪上巔
一生落魄更堪憐
兒孫種福留心地
魚鳥忘情樂性天
掃雪煮茶軒竹下
焚香對案塢梅邊
故山昨夜纏清夢
月滿平灘酒滿船
Phiên âm Hán Việt
Thế lộ sa đà tuyết thượng điên
Nhất sinh lạc phách cánh kham liên.
Nhi tôn chủng phúc, lưu tâm địa ;
Ngư điểu vong tình, lạc tính thiên
Tảo tuyết chử trà hiên trúc hạ
Phần hương đối án ổ mai biên
Cố sơn tạc dạ triền thanh mộng ;
Nguyệt mãn Bình-than tửu mãn thuyền.
Dịch nghĩa
Đường đời vất vả như điên đảo lội trong tuyết ;
Một đời luân lạc càng đáng thương.
Cho con cháu trồng cây phúc, để lại tâm địa (phúc lòng) ;
Như chim cá chẳng nghĩ gì, vui tính tự nhiên.
Quét tuyết, nấu chè dưới trúc ở mái hiên ;
Đốt hương ngồi trước án bên cạnh cây mai ở sân.
Núi cũ đêm qua vấn vương vào mộng nhẹ ;
Trăng chiếu đầy sông Bình-than, rượu chở đầy thuyền.
Họa hữu nhân Yên hà ngụ hứng – 和友人煙霞寓興
蓬萊弱水杳無涯
俗境低囬髮半花
雲外故居空蕙帳
月中清夢遶山家
心如野鶴飛天際
跡似征鴻踏雪沙
岩穴棲身何日是
天門回首五雲賒
Phiên âm Hán Việt
Bồng lai Nhược thủy diểu vô nha (nhai);
Tục cảnh đê hồi phát bán hoa.
Vân ngoại cố cư không huệ trướng;
Nguyệt trung thanh mộng nhiễu sơn gia.
Tâm như dã hạc phi thiên tế
Tích tự chinh hồng đạp tuyết sa
Nham huyệt thê thân hà nhật thị ?
Thiên môn hồi thủ ngũ vân xa
Dịch nghĩa
Bồng-lai Nhược-thủy ở tận đâu đâu ;
Cảnh tục loanh quanh tóc đã nửa bạc.
Nhà cũ ở ngoài này, treo không trướng huệ ;
Trong sáng trăng mộng nhẹ cứ luẩn quẩn quê nhà.
Lòng như hạc nội bay xa bên trời ;
Dấu như chim hồng trẩy xa đạp trên bãi tuyết.
Ngày nào mới được về hang núi nương thân ?
Quay đầu nhìn cửa trời, thấy mây ngũ sắc ở xa.
Bật mí đến bạn đọc những bài 💫 Thơ Về Ngày 30/4 💫 mới nhất, ngoài Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Trãi
Chùm Thơ Nôm Nguyễn Trãi
Cùng tham khảo thêm Chùm Thơ Chữ Nôm Của Nguyễn Trãi Chọn Lọc được rất nhiều bạn đọc quan tâm đến sau đây:
Dạy con trai
Nhắn bảo phô bay đạo cái con.
Nghe lượm lấy, lọ chi đòn.
Xa hoa lơ lãng nhiều hay hết
Hà tiện đâu đang ít hãy còn.
Áo mặc miễn là cho cật ấm
Cơm ăn chẳng lọ kén mùi ngon.
Xưa đà có câu truyền bảo
Làm biếng hay ăn lở non.
Răn giận
Giận làm chi tổn khí hòa
Nào từng có ích nhọc mình ta.
Nếu đua khí huyết quên nhân nghĩa
Hòa thất nhân tâm nát cửa nhà.
Mấy phát om thòm dường tích lịch
Một cơn lừng lẫy tựa phong ba.
Đến khi tịt mới ăn năn lại
Nhẫn song thì vạn sự qua.
Đêm trừ tịch
Mười hai tháng lọn mười hai.
Hết tấc đông trường sáng mai.
Hắc đế Huyền minh đà đổi ấn
Sóc phong bạch tuyết hãy đeo đai.
Chong đèn chực tuổi cay con mắt
Đốt trúc khua na đắng lỗ tai.
Chẳng thấy lịch quan tua sá hỏi.
Ướm xem dần nguyệt tiểu hay đài.
Cuối xuân
Tính từ gặp tiết lương thần,
Thiếu một hai mà no chín tuần.
Kiếp thiếu niên đi thương đến tuổi
Ốc dương hòa lại ngõ dừng chân.
Vườn hoa khóc, tiếc mặt Phi tử ;
Trì cỏ tươi, nhưng lòng tiểu nhân.
Cầm đuốc chơi đêm này khách nói ;
Tiếng chuông chưa đóng ắt còn xuân.
Răn sắc
Sắc là giặc, đam làm chi !
Thuở trọng còn phòng có thuở suy.
Trụ mất quốc gia vì Đát Kỷ
Ngô lìa thiên hạ bởi Tây Thi.
Bại tan gia thất đời từng thấy
Tổn hại tinh thần sự ích chi.
Phu phụ đạo thường chăng được chớ
Nối tông hòa phải một đôi khi.
Thủ vĩ ngâm – 首尾吟
Góc thành Nam, lều một gian,
No nước uống thiếu cơm ăn.
Con đòi trốn, dường ai quyến
Bà ngựa gầy, thiếu kẻ chăn.
Ao bởi hẹp hòi khôn thả cá
Nhà quen xú xứa, ngại nuôi vằn
Triều quan chẳng phải, ẩn chẳng phải
Góc thành Nam, lều một gian.
Trần tình
Từ ngày gặp hội phong vân,
Bổ báo chưa hề đặng mấy phân.
Gánh, khôn đương quyền tướng phủ
Lui, ngõ được đất nho thần.
Ước bề trả ơn minh chúa
Hết khỏe phù đạo thánh nhân.
Quốc phú binh cường chăng có chước
Bằng tôi nào thuở ích chưng dân ?
Thuật hứng
Trúc mai bạn cũ họp nhau quen.
Cửa mận tường đào chân ngại chen.
Chơi nước chơi non đeo tích cũ
Qua ngày qua tháng dưỡng thân nhàn.
Thì nghèo sự biến nhiều bằng tóc
Nhà ngặt quan thanh lạnh nữa đèn.
Mùi thế đắng cay cùng mặn chát.
Ít nhiều đã vậy một hai phen.
Thơ tiếc cảnh
Hầu nên khôn lại tiếc khuâng khuâng.
Thu đến đêm qua cảm vả mừng.
Một tiếng chày đâu đâm cối nguyệt
Khoan khoan những lệ thỏ tan vừng.
Tự giới
Làm người thì giữ đạo trung dung.
Khăn khắn dặn dò thửa lòng.
Hết kính hết gìn bề tiến thoái
Mựa tham mựa dại nết anh hùng.
Hùm oai muông mạnh còn nằm cũi
Khướu hót chim khôn phải ở lồng.
Nén lấy hung hăng bề huyết khí,
Tai nàn chẳng phải lại thung dung.
Về Côn-sơn ngẫu tác ngày Trùng cửu
Trùng dương mấy phát khách thiên nha.
Kịp phen này được đỗ nhà.
Túi đã không tiền khôn chác rượu
Vườn tuy có cúc chửa đâm hoa.
Phong sương đã bén biên thi khách
Tang tử còn thương tích cố gia.
Ngày khác hay đâu còn việc khác,
Tiết lành mựa nỡ để cho qua.
Tự thán
Càng một ngày càng ngặt đến xương.
Ắt vì số mệnh, ắt văn chương.
Người hiềm rằng cúc qua trùng cửu
Kể hãy bằng quỳ hướng thái dương.
Chè thuở tiên thì mình ghánh nước
Cầm khỉ đàn khiến thiếp thiêu hương.
Non quê ngày nọ chiêm bao thấy
Viên hạc chăng hờn lại những thương.
Tự thuật
Thế gian đường hiểm há chăng hay
Càng còn đi ấy thác vay
Nước kiến phong quang hầu mấy kiếp
Rừng nho nấn ná miễn qua ngày.
Tóc nên bạc, bởi lòng ưu ái
Tật được tiêu, nhờ thuốc đắng cay.
Kỳ ký nô thai đà có đấy,
Kẻ nhìn cho biết lại khôn hay.
Tức sự
Chạnh yên hà, trải một gian đình.
Quét đất thiêu hương giảng ngũ kinh.
Chim đỗ tổ nhìn còn biết mặt
Hoa nên rừng thấy họa hay danh.
Đai lân phù hổ lòng chăng ước
Bến trúc đường thông cảnh cực thanh.
Có thuở giang lâu ngày đã tối,
Thuyền hòa còn dội tiếng đinh đinh.
Mạn thuật
Ngày tháng kê khoai những sản hằng
Tường đào ngõ mận ngại thung thăng.
Đạo ta cậy bởi chân non khỏe
Lòng thế tin chi mặt nước bằng.
Trì cỏ được câu ngâm gió
Hiên mai cầm chén hỏi trăng.
Thề cùng viên hạc trong hai ấy,
Thấy có ai han chớ đãi đằng.
Trọn bộ lời 🌵Thơ Phong Cảnh Hữu Tình🌵 quê hương xinh đẹp, ngoài Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Trãi