Thuật Hứng Bài 5: Nội Dung Bài Thơ + Đọc Hiểu + Phân Tích

Thuật Hứng Bài 5 ❤️️ Nội Dung Bài Thơ, Đọc Hiểu, Phân Tích ✅ Bài Thơ Được Sáng Tác Vào Thời Kỳ Nguyễn Trãi Bị Giam Cầm Tại Trại Gia Lâm, Sau Khi Bị Oan Trong Bị Án Lệ Chi Viên.

Nội Dung Bài Thơ Thuật Hứng 5

Bài thơ: Thuật hứng bài 5
Tác giả: Nguyễn Trãi

述興

旦場桃槾萼庄通,
圭寠埃乄主菊椿。
愁裵少陵邊乑泊,
興饒北海竆諸空。
梅庄崅傷梗玉,
竹日崐惜沼礕。
盃沒懎峼憂愛寠,
店挧滾滾搩朝東。

Thuật hứng bài 5

Ðến trường đào mận ngạt chăng thông,
Quê cũ ưa làm chủ cúc thông.
Sầu nặng Thiếu Lăng biên đã bạc,
Hứng nhiều Bắc Hải chén chưa không.
Mai chăng bẻ, thương cành ngọc,
Trúc nhặt vun, tiếc cháu rồng.
Bui một tấc lòng ưu ái cũ,
Ðêm ngày cuồn cuộn nước triều đông.

Thohay.vn Tặng Bạn ❤️️Ngôn Chí Bài 20 ❤️️Nội Dung Bài Thơ, Đọc Hiểu, Phân Tích

Ý Nghĩa Thuật Hứng Bài 5

Bài thơ thể hiện nỗi lòng của một người yêu nước và lo nghĩ cho dân tộc.

Thuật Hứng Bài 5 Đọc Hiểu

Đọc hiểu “Thuật hứng bài 5”

☛  Câu 1. Nêu tác giả của bài thơ trên?

Trả lời:

Tác giả của bài thơ trên: Nguyễn Trãi

☛  Câu 2. Nêu nội dung chính của bài thơ trên?

Trả lời:

Nội dung chính của bài thơ trên là: Bài thơ trên chính là khung cảnh thiên nhiên nơi làng quê rất tươi đẹp. Đó là thiên nhiên gắn liền với đào mận, với cúc thông, mai, trúc,… Ở nơi thôn quê bình dị, lòng tác giả nặng trĩu nỗi ưu hoài thương dân. Thiên nhiên bình lặng, giản đơn nhưng chứa chan cảm xúc, tâm trạng. Bài thơ đã kết thúc bằng một câu hứa về sự ưu ái cũ của Nguyễn Trãi.

☛  Câu 3. Thể thơ của bài thơ trên?

Trả lời:

Thể thơ của bài thơ: Đường luật biến thể

☛  Câu 4. Phương thức biểu đạt của bài thơ là gì?

Trả lời:

Phương thức biểu đạt chính của bài thơ là: Phương thức biểu cảm

3+ Mẫu Phân Tích Bài Thơ Thuật Hứng 5 Hay Nhất

Dưới đây là một số mẫu cảm nhận, phân tích bài thơ Thuật Hứng 5 hay nhất mà Thohay.vn đã sưu tầm và chia sẽ đến bạn tham khảo trước khi làm văn.

☛ Mẫu Phân Tích Bài Thơ Thuật Hứng 5 Tiêu Biểu

Thơ Nguyễn Trãi có bài buồn, có câu buồn vì lẽ gì chúng ta đều biết nhưng cả tập thơ của ông là thơ của một người yêu đời, yêu người. Tâm hồn của Nguyễn Trãi sống một nhịp với non sông, đất nước tươi vui” – Phạm Văn Đồng. Tấm lòng yêu nước và lòng thương dân sâu sắc của Nguyễn Trãi được thể hiện qua tiếng thơ của ông.

Trong thơ, ông không trừu tượng hóa chủ nghĩa yêu nước, mà thay vào đó, ông liên kết mật thiết với những nhiệm vụ lịch sử cụ thể. Sự tuân thủ nhân nghĩa, là lòng căm thù đối với kẻ thù, là cuộc chiến không chịu khoan nhượng, là ý thức tự lực và sự tự mạnh mẽ, cùng với khao khát sâu sắc về hòa bình.

Và Nguyễn Trãi để lại một số tác phẩm thơ bằng chữ Hán, mang tính nổi bật trong lĩnh vực thẩm mỹ. Các tác phẩm này đồng thời mang trong mình sự trữ tình và sâu sắc, cùng với một tầm nhìn thông thái. Và Thuật hứng bài 5 là bài thơ qua đó đã thể hiện nỗi lòng lo cho đất nước.

Bài thuật hứng 5 của Nguyễn Trãi được sáng tác trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt. Bài thơ này được viết vào thời kỳ ông đang bị giam cầm tại trại Gia Lâm. Trong hoàn cảnh khó khăn và bị hạn chế, Nguyễn Trãi vẫn đặt nét chân thành và can đảm của mình vào bài thuật hứng 5. Bài thơ này thể hiện lòng tự hào dân tộc và ý chí cương quyết chống lại sự xâm lược của nhà Minh. Nguyễn Trãi truyền tải thông điệp về tinh thần đoàn kết, sự hy sinh, và khao khát giành lại độc lập và tự do cho đất nước.

Đến trường đào mận ngạt chăng thông,
Quê cũ ưa làm chủ cúc thông.
Sầu nặng Thiếu Lăng biên đã bạc,
Hứng nhiều Bắc Hải chén chưa không.
Mai chăng bẻ, thương cành ngọc,
Trúc nhặt vun, tiếc cháu rồng.
Bui một tấc lòng ưu ái cũ,
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông.

Những câu thơ đầu thể hiện sự lãng mạn và tình cảm của Nguyễn Trãi đối với thiên nhiên và quê hương. Nguyễn Trãi sử dụng hình ảnh tươi đẹp và gần gũi để thể hiện tình yêu và lòng mến khát đối với những điều tự nhiên và quê hương, đồng thời tạo ra một tình cảm ấm áp và sự thiêng liêng:

Đến trường đào mận ngạt chăng thông,
Quê cũ ưa làm chủ cúc thông.

Hình ảnh đào mận tươi thơm và ngọt ngào được sử dụng để tượng trưng cho sự đáng yêu và thu hút của một nơi nào đó. Câu thơ truyền tải một cảm giác tươi mới và tràn đầy sức sống, mô phỏng hương thơm đào mận tràn ngập không gian.

Nguyễn Trãi thông qua câu thơ này có thể muốn tạo ra một hình ảnh tươi đẹp về một môi trường trong lành, mà người ta mong muốn đến và tận hưởng. Ông cho rằng quê hương là một nơi tuyệt vời và đặc biệt, mà anh ta thích và yêu thích. Từ “làm chủ cúc thông” tác giả rất tự hào và hào hứng với quê hương, với khả năng nắm bắt và thống trị vẻ đẹp của nó.

Sầu nặng Thiếu Lăng biên đã bạc,
Hứng nhiều Bắc Hải chén chưa không.

Nguyễn Trãi thể hiện sự buồn bã và nặng nề của cuộc sống. Điều này cho thấy khả năng của Nguyễn Trãi trong việc biểu đạt sự đa dạng của cuộc sống và tâm trạng con người thông qua ngôn ngữ thơ. “Sầu nặng” – sự buồn bã và nặng nề của Thiếu Lăng, có thể là một người bạn hoặc người thân của Nguyễn Trãi. Hình ảnh “biên đã bạc” truyền tải ý nghĩa về tuổi già và những trải nghiệm đau khổ đã khiến Thiếu Lăng trở nên lụi tàn và thất thế. Câu thơ như đã tạo nên một không khí u sầu và tủi nhục, biểu đạt sự đau đớn và mất mát trong cuộc sống.

Nguyễn Trãi đề cập đến việc uống nhiều chén rượu Bắc Hải mà chưa thể đầy cạn, chỉ rằng ông đã có nhiều trải nghiệm và tận hưởng cuộc sống một cách không thể nắm bắt hoàn toàn. Hình ảnh chén rượu Bắc Hải thể hiện sự tinh túy và thăng hoa của cuộc sống, trong khi việc chưa thể uống cạn nó có thể ám chỉ rằng người ta không thể trọn vẹn trải nghiệm và tận hưởng tất cả những gì cuộc sống mang lại.

Mai chăng bẻ, thương cành ngọc,
Trúc nhặt vun, tiếc cháu rồng.

Hai câu luận thể hiện sự nhạy cảm và tình cảm của Nguyễn Trãi đối với thiên nhiên. Nguyễn Trãi sử dụng hình ảnh tượng trưng để truyền tải thông điệp về sự quý giá và đáng trân trọng của những thứ xung quanh chúng ta. Các câu thơ này tạo ra một không gian cảm xúc và kích thích người đọc suy nghĩ về sự hiện diện và giá trị của tự nhiên trong cuộc sống. Từ “bẻ” có thể hiểu là việc cắt đứt hoặc làm tổn thương cây mai, nhưng Nguyễn Trãi thể hiện sự chân thành và không muốn làm hại cây mai.

Hình ảnh “cành ngọc” tượng trưng cho vẻ đẹp và quý giá của cây mai, đồng thời truyền tải ý nghĩa về việc trân trọng và giữ gìn sự toả sáng và tinh túy của nó. Hình ảnh “nhặt vun” tượng trưng cho việc chăm sóc và nuôi dưỡng trúc, nhưng Nguyễn Trãi cảm thấy tiếc nuối vì trúc chỉ là cháu rồng – một dạng nhỏ bé và thấp kém hơn so với rồng thực sự. Một tình cảm biểu đạt sự tiếc nuối về sự khảm nạm và cảm nhận sâu sắc về giá trị và tiềm năng không được thể hiện đầy đủ.

“Bui một tấc lòng ưu ái cũ,
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông”.

Hai câu kết của bài thơ đã truyền tải một thông điệp về lòng nhân ái và tình yêu thương của Nguyễn Trãi. Từ “bui” mang ý nghĩa về quá khứ và thời gian đã trôi qua. Nguyễn Trãi thể hiện lòng ưu ái và tình cảm mà ông đã dành cho người khác trong quá khứ. Câu thơ này truyền tải sự quan tâm và sự nhân ái của Nguyễn Trãi đối với những người xung quanh và khẳng định ý chí của ông trong việc giữ gìn và trân trọng tình yêu thương. Hình ảnh của “nước triều đông” nên một không khí tĩnh lặng và cô đơn.

“Đêm ngày cuồn cuộn” tượng trưng cho sự chuyển động và biến đổi không ngừng của thời gian và cuộc sống. Nguyễn Trãi có thể muốn truyền tải ý nghĩa về sự tạm thời và sự vô cùng của cuộc sống, đồng thời tạo ra một cảm giác cô đơn và xa lạ.

Bằng tài năng của mình, Nguyễn Trãi sử dụng ngôn ngữ đẹp và uyển chuyển, tạo ra những hình ảnh tươi đẹp và diễm lệ. Sự lắng đọng và dàn trải của câu thơ mang lại sự cân đối và mạnh mẽ cho tác phẩm. “Thuật hứng bài 5” thể hiện tình yêu nước sâu sắc và tâm hồn quê hương của Nguyễn Trãi.

Bài thơ khắc họa những khó khăn và gian truân trong cuộc sống, cùng với sự ganh đua và hi sinh của những người dân. Nguyễn Trãi cũng thể hiện sự quý trọng đạo đức và phẩm chất nhân văn thông qua các giá trị như lòng trung thực, sự kiên nhẫn và lòng hiếu thảo.

☛ Mẫu Phân Tích Bài Thơ Thuật Hứng 5 Đặc Sắc

Bài thơ Thuật Hứng 5 của Nguyễn Trãi là một tác phẩm kinh điển trong văn học Việt Nam. Bài thơ là nỗi lòng của một người lo nghĩ cho nước nhà, dù ở trong tình huống nào vẫn không nguôi.

“Ðến trường đào mận ngạt chăng thông,
Quê cũ ưa làm chủ cúc thông.
Sầu nặng Thiếu Lăng biên đã bạc,
Hứng nhiều Bắc Hải chén chưa không.
Mai chăng bẻ, thương cành ngọc,
Trúc nhặt vun, tiếc cháu rồng.
Bui một tấc lòng ưu ái cũ,
Ðêm ngày cuồn cuộn nước triều đông.”

Khi viết bài thơ, Nguyễn Trãi đã lui về ở ẩn sau tháng ngày bị vua nghi kỵ, không trọng dụng, quan lại xa lánh trên triều.

“Ðến trường đào mận ngạt chăng thông,
Quê cũ ưa làm chủ cúc thông.”

Những câu thơ đầu tiên miêu tả cảnh vật đến trường đào mận trong mùa xuân. Từ “ngạt chăng thông” được hiểu là hương thơm của hoa đào và mận rất dễ bay đi trong gió, khiến cho không gian càng thêm ngọt ngào. Cảnh quê hương nơi mà Nguyễn Trãi lui về được tác giả thể hiện với những cảnh vật xinh đẹp, có đào mận, có cúc thông bốn mùa thơm ngát. Những hình ảnh này là biểu tượng cho sự đẹp đẽ và thanh tao của quê hương, là niềm vui của một người như ông khi trở về quê nhà.

Sầu nặng Thiếu Lăng biên đã bạc,
Hứng nhiều Bắc Hải chén chưa không.

Thiếu Lăng chính là một vị quan thời xưa, một người được xưng tụng là thông thạo văn chương nhưng cũng không được trọng dụng và chịu cảnh già nua cô độc. Hình ảnh này thể hiện sự thấm thía, đồng cảm với số phận của con người, cũng chính là sự liên hệ với chính bản thân mình.

Đến câu tiếp theo, tác giả sử dụng Bắc Hải thể hiện cho một không gian sông nước rộng lớn, “chén chưa không” có thể hiểu là người viết còn thèm uống nhiều hơn nữa, tượng trưng cho sự phóng khoáng và tươi vui trong cuộc sống.

“Mai chăng bẻ, thương cành ngọc,
Trúc nhặt vun, tiếc cháu rồng.
Bui một tấc lòng ưu ái cũ,
Ðêm ngày cuồn cuộn nước triều đông.”

Các câu thơ tiếp theo cũng thể hiện sự tưởng tượng, lãng mạn của người viết về vẻ đẹp của thiên nhiên. Hình ảnh của cành hoa ngọc, trúc non được sử dụng để tả sự tinh khiết, thanh cao. Bên cạnh đó, có thể thấy Nguyễn Trãi vẫn còn chứa nỗi buồn không vơi, là mối hận vì không để góp công cho dân cho nước.

Ðêm ngày cuồn cuộn nước triều đông tả sự rối ren, khó khăn của cuộc đời. Hình ảnh của nước triều đông, dữ dội và cuồn cuộn, có thể hiểu là sự vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Từ “lòng ưu ái cũ” có thể hiểu là tình cảm yêu thương, là tấm lòng xưa cũ của một người vẫn giữ lòng son với dân với nước.

Thuật Hứng 5 là bài thơ miêu tả cảnh miền quê êm đềm và xinh đẹp, nhưng cũng thể hiện được nỗi lòng của Nguyễn Trãi. Dù thân mang gánh nặng, lòng không thể cầu nhưng ông vẫn luôn mong muốn cống hiến sức lực cho dân cho nước.

☛ Mẫu Phân Tích Bài Thơ Thuật Hứng 5 Sâu Sắc

Nguyễn Trãi (1380-1442) là ngôi sao Khuê lấp lánh trên bầu trời Đại việt trong thế kỷ 15. “Quốc âm thi tập” và “Ức trai thi tập” là hai kiệt tác trong nền thơ ca Việt Nam. Riêng “Quốc âm thi tập” là một tập thơ viết bằng chữ Nôm ra đời sớm nhất mà ta còn giữ được gồm 254 bài ó như ánh hào quang củ ngôi sao Khuê lấp lánh xuyên suốt hành trình thiên niên kỷ của dân tộc.

“Quốc âm thi tập” nhìn chung không có tên bải riêng cho mỗi bài thơ. Nguyễn Trãi nhóm thành nhiều chùm thơ: Ngôn chí, Mạn thuật, Trần tình, Thuật hứng, Tự thán, Tức sự, Bảo kính cảnh giớ.v.v… Thuật Hứng 5 nằm trong chùm thơ “Thuật hứng” 25 bài.

Qua bài thơ Thuật hứng 5, những gì người đọc có thể thấy được chính là khung cảnh thiên nhiên nơi làng quê rất tươi đẹp. Đó là thiên nhiên gắn liền với đào mận, với cúc thông, mai, trúc,…Ở nơi quê nhà bình dị, lòng tác giả nặng trĩu nỗi ưu hoài thương dân. Thiên nhiên bình lặng, giản đơn nhưng chứa chan cảm xúc, tâm trạng.

Cuộc đời của Nguyễn Trãi đẹp đẽ, thuỷ chung, sáng ngời trung hiếu. Trong thơ văn của Nguyễn Trãi, hai tiếng “trung hiếu” và “ưu ái” (ưu quốc, ái dân: lo nước, yêu dân) như một lời nguyền vang vọng cùng sông núi, trường tồn cùng năm tháng.

Bui một tấc lòng ưu ái cũ,
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông.

Trong bài thơ, người đọc bắt gặp được những suy tư, trăn trở của tác giả về quê hương, đất nước. Vận mệnh đất nước có nhiều những gian nan. Vì thế, dẫu tưởng sống trong cảnh thanh nhan, nhưng tác giả vẫn không thể quên “bui một tấc lòng ưu ái cũ”. Bởi lẽ “Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông”. Đó chính là những suy tư, trăn trở và tấm lòng đầy ưu tư của tác giả.

“Thuật hứng” có nghĩa là bày tỏ sự hứng thú riêng của mình. Học giả Đào Duy Anh trong cuốn “Nguyễn Trãi toàn tập” cho biết chùm thơ “Thuật hứng” được viết ra trong thời kỳ Ức Trai về sống ở Côn Sơn. Bài thơ “Thuật hứng 5” này có giọng thơ nhẹ nhàng, khoan thai. Giọng điệu tâm tình, cởi mở. Các thi liệu: đào mận, cúc, mai, trúc,.. tạo nên cốt cách bài thơ vừa dân dã, mộc mạc vừa cổ điển thanh cao.

“Thuật hứng 5” đã thể hiện một cách đẹp đẽ sâu sắc những tư tưởng tình cảm cao đẹp của Ức Trai như coi thường danh lợi, thích sống nhàn trong cuộc đời thanh bạch, lúc nào cũng giữ trọng lòng trung hiếu son sắt, thuỷ chung. Đọc bài thơ, ta vô cùng kính yêu và cảm phục Nguyễn Trãi – một nhân cách kẻ sĩ cao đẹp như vua Lê Thánh Tông đã ngợi ca: “Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo”.

Thohay.vn Chia Sẽ ❤️️ Ngôn Chí Bài 10 ❤️️ Nội Dung Bài Thơ, Đọc Hiểu, Phân Tích

Viết một bình luận