Chị Em Thúy Kiều ❤️️ Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích ✅ Mời Bạn Đọc Xem Thêm Về Ý Nghĩa Nhan Đề Bài, Giá Trị Tác Phẩm, Dàn Ý.
NỘI DUNG CHÍNH
Nội Dung Trích Đoạn Chị Em Thúy Kiều
Truyện Kiều là tác phẩm bất hủ và là niềm tự hào của văn học Việt Nam. Đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” là một trong những đoạn trích tiêu biểu thể hiện rõ giá trị nhân đạo cũng như cảm hứng nhân văn đầy mới mẻ của tác phẩm.Sau đây là nội dung trích đoạn Chị em Thúy Kiều. Mời bạn đọc cùng thưởng thức!
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo, mặn mà,
So bề tài, sắc, lại là phần hơn.
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên Bạc mệnh, lại càng não nhân.
Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Đừng vội bỏ lỡ phân tích tác phẩm ✨ Truyện Kiều [Nguyễn Du] ✨ Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật
Tóm Tắt Chị Em Thúy Kiều
Bên dưới là bản tóm tắt Chị em Thúy Kiều ngắn gọn.
Đoạn trích thuộc phần 1 “Gặp gỡ và đính ước” của Truyện Kiều, trong mạch thơ giới thiệu về gia đình Vương ông, Nguyễn Du tập trung bút lực giới thiệu về hai chị em Thuý Vân, Thuý Kiều. Thúy Kiều và Thúy Vân là đại diện cho cặp chị em có nhan sắc đẹp tuyệt trần dưới ngòi bút của đại thi hào Nguyễn Du. Ngoài ca ngợi vẻ đẹp, tài năng thì còn có dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh của Thúy Kiều.
Về Tác Giả Nguyễn Du
Thohay.vn chia sẻ cho bạn đọc vài nét thông tin về tác giả Nguyễn Du.
- Nguyễn Du sinh năm 1765, mất năm 1820, tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên.
- Quên quán: làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
- Gia đình: Nguyễn Du sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống về văn học. Cha là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ, từng giữ chức Tể tướng. Chính điều này là cái nôi nuôi dưỡng tài năng văn học của Nguyễn Du.
- Thời đại: Cuộc đời Nguyễn Du gắn bó sâu sắc với những biến cố lịch sử của giai đoạn cuối thế kỉ XVIII – XIX. Đây là giai đoạn lịch sử đầy biến động với hai đặc điểm nổi bật là chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng và phong trào nông dân khởi nghĩa nổi lên khắp nơi.
- Cuộc đời: cuộc đời từng trải, phiêu bạt nhiều năm trên đất Bắc, đi nhiều, tiếp xúc nhiều đã tạo cho Nguyễn Du vốn sống phong phú và niềm thông cảm sâu sắc với những đau khổ của nhân dân.
- Sự nghiệp văn học: sáng tác của Nguyễn Du gồm những tác phẩm có giá trị cả chữ Hán và chữ Nôm:
- Sáng tác bằng chữ Hán: gồm ba tập thơ là Thanh Hiên thi tập, Nam Trung tạp ngâm, Bắc Hành tạp lục.
- Sáng tác bằng chữ Nôm: Đoạn trường tân thanh (thường gọi là Truyện Kiều), Văn chiêu hồn
Chia sẻ cho bạn đọc 💚 Hoàng Lê Nhất Thống Chí 💚 Những Mẫu Phân Tích Hay Nhất
Về Bài Thơ Chị Em Thúy Kiều
Về bài thơ Chị em Thúy Kiều, đoạn trích nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia đình của Thúy Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều.
Đoạn trích đã khắc họa rõ nét chân dung tuyệt mĩ của chị em Thúy Kiều, ca ngợi vẻ đẹp, tài năng và dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh của Thúy Kiều, đây là biểu hiện cho cảm hứng nhân văn của Nguyễn Du.
Xuất Xứ Và Hoàn Cảnh Sáng Tác Chị Em Thúy Kiều
Khám phá thêm về xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác Chị em Thúy Kiều ngay sau đây.
- Truyện Kiều được sáng tác vào đầu thế kỷ XIX (1805 – 1809). Vị trí đoạn trích “ Chị em Thuý Kiều” nằm ở phần mở đầu của phần thứ nhất: gặp gỡ và đính ước.
- “Truyện Kiều” có tên gọi là “Đoạn trường tân thanh”. Nguyễn Du viết “Truyện Kiều” dựa trên cuốn tiểu thuyết “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). Tuy vậy, phần sáng tạo của Nguyễn Du là rất lớn.
Chia sẻ cho bạn đọc tác phẩm 🌼 Chuyện Cũ Trong Phủ Chúa Trịnh 🌼 Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị
Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Chị Em Thúy Kiều
Cùng tìm hiểu cụ thể về ý nghĩa nhan đề bài thơ Chị em Thúy Kiều.
- Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” nằm ở phần mở đầu của Truyện Kiều. Với nhan đề này, ta thấy được đoạn trích giới thiệu vẻ đẹp và cuộc đời của Thúy Kiều và Thúy Vân.
- Nhan đề này cho thấy danh phận, mối quan hệ giữa Thúy Kiều và Thúy Vân là chị em thân thiết, ruột thịt.
- Nguyễn Du đã ca ngợi vẻ đẹp, tài năng của con người và dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh. Xây dựng nhân vật Thuý Kiều và Thúy Vân, nhà văn cũng muốn thể hiện tấm lòng trân trọng đối với tài sắc của người phụ nữ.
Bố Cục Bài Thơ Chị Em Thúy Kiều
Bố cục bài thơ Chị em Thúy Kiều bao gồm 4 phần chính:
- Phần 1. Từ đầu đến “mười phân vẹn mười”: Giới thiệu chung về vẻ đẹp của hai chị em.
- Phần 2. Tiếp theo đến “tuyết nhường màu da”. Miêu tả chân dung Thúy Vân.
- Phần 3. Tiếp theo đến “lại càng não nhân”. Miêu tả chân dung Thúy Kiều.
- Phần 4. Còn lại. Cuộc sống của hai chị em.
Xem thêm về phân tích 🌱 Chuyện Người Con Gái Nam Xương 🌱 Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích
Đọc Hiểu Bài Thơ Chị Em Thúy Kiều
Có thể bạn sẽ cần nội dung đọc hiểu bài thơ Chị em Thúy Kiều.
1. Gợi tả bức chân dung Thúy Vân, Thúy Kiều (4 câu thơ đầu):
– Trước hết, Nguyễn Du giới thiệu chung về hai chị em trong gia đình, lời giời thiệu cổ điển, trang trọng rằng họ là “tố nga”, đẹp và trong sáng.
– Tiếp đến, tác giả miêu tả chung vẻ đẹp của hai chị em trong một nhận xét mang tính chất lí tưởng hóa, tuyệt đối hóa (đẹp một cách hoàn thiện): “Mai cốt cách tuyết tinh thần… mười phân vẹn mười”.
+ Với bút pháp ước lệ tượng trưng, tác giả đã gợi tả vẻ đẹp duyên dáng, thanh tao, trong trắng của người thiếu nữ ở hai chị em Thúy Kiều: “Mai cốt cách, tuyết tinh thần”. Vóc dáng mảnh mai, tao nhã như mai; tâm hồn trắng trong như tuyết. Đó là vẻ đẹp hài hòa đến độ hoàn mĩ cả hình thức lẫn tâm hồn, cả dung nhan và đức hạnh.
+ Hai chị em đều tuyệt đẹp, không tì vết “mười phân vẹn mười”, song mỗi người lại mang nét đẹp riêng khác nhau “mỗi người một vẻ”.
⇒ Bốn câu thơ đầu là bức tranh nền để từ đó tác giả dẫn người đọc lần lượt chiêm ngưỡng sắc đẹp của từng người.
2. Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Vân 4 câu thơ tiếp theo):
– “Vân xem trang trọng khác vời”: giới thiệu khái quát vẻ đẹp của Thúy Vân: một vẻ đẹp cao sang, quí phái.
– Bút pháp ước lệ tượng trưng, phép ẩn dụ, nhân hoá: “khuôn trăng”, “nét ngài”, “hoa cười ngọc thốt, “Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da” → Vẻ đẹp của Thúy Vân được so sánh với những thứ đẹp nhất trên đời.
– Chân dung Thúy Vân được miêu tả toàn vẹn từ mái tóc đến nụ cười, giọng nói, phong thái ứng xử nghiêm trang: khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu, lông mày sắc nét như ngài, miệng tươi như hoa, đoạn trang như ngọc,…
– Vẻ đẹp của Thúy Vân là vẻ đẹp đầy đặn, phúc hậu; tính cách thì đoan trang, thùy mị: khuôn mặt đầy đặn, tươi sáng như trăng đêm rằm;lông mày sắc nét như mày ngài; miệng cười tươi thắm như hoa; giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngọc ngà là những lời đoan trang, thùy mị. Mái tóc của nàng đen mượt hơn mây, da trắng mịn màng hơn tuyết.
⇒ Thúy Vân đẹp hơn những gì mỹ lệ của thiên nhiên – một vẻ đẹp tạo sự hòa hợp, êm đềm với xung quanh. Cũng là hương sắc của tạo hóa, báu vật của nhân gian. Điều đó, ngầm dự báo về một cuộc đời bình lặng, êm đềm, suôn sẻ.
3. Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Kiều.
* Sắc đẹp:
– “Kiều càng sắc sảo mặn mà”: khái quát đặc điểm của nhân vật.
– Nguyễn Du đã miêu tả Thúy Vân trước để làm nổi bật Thúy Kiều theo thủ pháp nghệ thuật đòn bẩy. Tả kĩ, tả đẹp để Vân trở thành tuyệt thế giai nhân, để rồi khẳng định Kiều còn hơn hẳn: “Kiều càng sắc sảo mặn mà”. Từ “càng”đứng trước hai từ láy liên tiếp “sắc sảo”, “mặn mà” làm nổi bật vẻ đẹp của Kiều: sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn.
– Bút pháp ước lệ tượng trưng, phép ẩn dụ: “Làn thu thủy nét xuân sơn” gợi đôi mắt trong sáng, long lanh như làn nước mùa thu; hàng lông mày thanh tú như dáng núi mùa xuân. Vẻ đẹp của Kiều hội tụ ở đôi mắt, thể hiện phần tinh anh của tâm hồn và trí tuệ.
– Vẻ đẹp của Kiều khiến cho “hoa ghen”, “liễu hờn”, “nghiêng nước nghiêng thành”. Thi nhân không tả trực tiếp vẻ đẹp mà tả sự đố kị, ghen ghét với vẻ đẹp ấy; tả sự ngưỡng mộ, mê say trước vẻ đẹp ấy. “Nghiêng nước nghiêng thành” là cách nói sáng tạo điển cố để cực tả giai nhân. Rõ ràng, cái đẹp của Kiều có chiều sâu, có sức quyến rũ làm mê mẩn lòng người. Nó vượt lên trên mọi giới hạn, đạt đến mức tuyệt mỹ, chưa từng có. Vẻ đẹp ấy như tiềm ẩn phẩm chất bên trong cao quý – tài và tình rất đặc biệt của nàng.
* Tài năng:
– Trí tuệ thông minh tuyệt đối.
– Kiều là người con gái đa tài mà tài nào cũng đạt đến độ hoàn thiện, xuất chúng: đủ cả cầm, kì, thi, họa.
– Đặc biệt, tài đàn của nàng vượt trội hơn cả. Nàng đã soạn riêng một khúc bạc mênh mà ai nghe cũng não lòng. Khúc nhạc thể hiện tâm hồn,tài năng, trái tim đa sầu đa cảm.
⇒ Chân dung Thúy Kiều mang tính cách số phận. Ngòi bút Nguyễn Du nhuốm màu định mệnh. Sắc đẹp và tài năng của Kiều nổi trội quá mà thiên nhiên, tạo hóa. Cuộc đời của nàng sẽ gặp nhiều éo le, đau khổ.
4. Nhận xét chung về cuộc sống hai chị em Thúy Kiều.
– Thúy Vân, Thúy Kiều dưới ngòi bút của Nguyễn Du không chỉ nhan sắc tuyệt vời mà còn đức hạnh khuôn phép. Dù đã đến tuổi “cài trâm, búi tóc” nhưng hai chị em vẫn giữ gìn nề nếp, gia phong.
– Ngợi ca vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du đã trân trọng, đề cao giá trị, phẩm giá của con người như nhan sắc, tài hoa, phẩm hạnh;qua đó, dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh. Sự ngưỡng mộ, ngợi ca người phụ nữ trong xã hội “trọng nam khinh nữ” chính là biểu hiện sâu sắc của cảm hứng nhân văn trong ngòi bút Nguyễn Du.
Giá Trị Trích Đoạn Chị Em Thúy Kiều
Cùng tìm hiểu các giá trị trích đoạn Chị em Thúy Kiều nhé.
Giá trị nội dung
- Đoạn trích khắc họa rõ nét chân dung của hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân. Đó là một vẻ đẹp chuẩn mực, lí tưởng của phụ nữ phong kiến.
- Ca ngợi vẻ đẹp, tài năng của con người đồng thời là những dự cảm về vẻ đẹp, tài năng của con người và dự cảm về kiếp người tài hoa, bạc mệnh là biểu hiện của cảm hứng nhân văn ở Nguyễn Du.
Giá trị nghệ thuật
- Khắc họa rõ nét chân dung hai chị em Thúy Kiều
- Tả ngoại hình mà bộc lộ tính cách, dự báo số phận
- Ngôn ngữ gợi tả, sử dụng biện pháp ẩn dụ, so sánh, nhân hóa, dùng điển cố.
- Nghệ thuật ước lệ cổ điển lấy thiên nhiên làm chuẩn mực để tả vẻ đẹp con người.
Có thể bạn sẽ quan tâm ❤️️ Cảnh Ngày Xuân ❤️️ Nội Dung, Nghệ Thuật
Soạn Bài Chị Em Thúy Kiều
Chia sẻ gợi ý soạn bài Chị em Thúy Kiều.
👉Câu 1 (trang 83 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
– 4 câu đầu : vẻ đẹp chung của hai chị em.
– 4 câu tiếp : miêu tả vẻ đẹp Thúy Vân.
– 16 câu còn lại : tài sắc của Thúy Kiều.
Kết cấu đoạn thơ đi từ khái quát đến cụ thể.
👉Câu 2 (trang 83 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
– Hình tượng ước lệ khi gợi tả vẻ đẹp Thúy Vân (trăng, hoa, tuyết, ngọc, mây) : khuôn trăng (khuôn mặt tròn trịa như trăng rằm), hoa cười (nụ cười tươi tắn xinh đẹp), ngọc thốt (lời nói nhẹ, trong trẻo quý giá), mây thua nước tóc (mái tóc dài, dày, bóng mượt), tuyết nhường màu da (làn da trắng hơn cả tuyết).
– Vân có vẻ đẹp viên mãn, đầy đặn hài hòa với thiên nhiên. Một vẻ đẹp dịu dàng, đoan trang, khuôn phép, nết na, thùy mị. Dự báo cuộc đời bình lặng, suôn sẻ.
👉Câu 3 (trang 83 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Vẻ đẹp Thúy Kiều so với khi tả Thúy Vân :
– Giống : lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cái đẹp, hai vẻ đẹp đểu đạt mức hoàn mĩ.
– Khác : Kiều không được tả từng đường nét khuôn mặt, nhưng đặc biệt gợi tả đôi mắt trong như nước mùa thu (Làn thu thủy…). Vẻ đẹp của Kiều sắc sảo, mặn mà, nàng là một tuyệt thế giai nhân. Thiên nhiên thua, nhường với vẻ đẹp của Vân thì phải hờn ghen với vẻ đẹp của Kiều.
Đây là lối miêu tả đòn bẩy, tả vẻ đẹp của Vân để tôn vinh sắc đẹp của Kiều.
👉Câu 4 (trang 83 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Vẻ đẹp tài năng và tâm hồn của Kiều : cầm, kì, thi, họa đạt mức lí tưởng, hiếm có trong thiên hạ, vượt trội hẳn phần sắc ; Kiều và có tâm hồn thanh cao, đa sầu, đa cảm, cuộc sống nề nếp và hạnh phúc.
→ Thúy Kiều là người tài sắc vẹn toàn, tuyệt thế giai nhân.
👉Câu 5 (trang 83 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
“thua” và “nhường” khi tả Thúy Vân có sắc thái nhẹ nhàng, yên bình hơn, dự báo số phận êm ả, phẳng lặng. Còn vẻ đẹp Kiều thì thiên nhiên “ghen” và “hờn”, sắc thái biểu cảm như báo trước sẽ có sự giành giật, dự báo một số phận đầy sóng gió.
👉Câu 6 (trang 83 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Bức chân dung Thúy Kiều nổi bật hơn. Thúy Vân được miêu tả để tô nền bật lên vẻ đẹp Thúy Kiều. Trong khi Nguyễn Du giành 4 câu thơ để tả Vân thì có đến 16 câu tả Kiều. Hơn nữa, mọi vẻ đẹp của Vân đều có phần đứng nấp vẻ “sắc sảo, mặn mà” của Kiều, Kiều ngoài nhan sắc còn được miêu tả về tài năng bội phần.
Khám phá thêm 🔻 Hồi Trống Cổ Thành 🔻 Sơ Đồ Tư Duy, Mẫu Phân Tích Hay
Giáo Án Bài Thơ Chị Em Thúy Kiều
Mời bạn đọc xem thêm giáo án bài thơ Chị em Thúy Kiều.
I. Mục tiêu bài học
Thông qua bài học giúp học sinh hiểu đuợc:
1. Kiến thức
– Bút pháp nt tượng trưng ước lệ của ND trong m/t nv.
– Cảm nhận được cảm hứng nhân đạo của ND: ngợi ca vẻ đẹp, tài năng của con ng qua một đoạn trích cụ thể.
2. Kĩ năng
– Đọc – hiểu một vb truyện thơ trong vh trung đại .
– Theo dõi diễn biến sự việc trong t/p truyện Kiều.
– Có ý thức liên hệ với vb liên quan để tìm hiểu về nv. Phân tích đc một số chi tiết nt têu biểu cho bút pháp nt cổ điển của ND trong vb.
3. Thái độ
– Giáo dục lòng trân trọng, yêu quí vẻ đẹp của con người, đặc biệt là vẻ đẹp tự nhiên và nhân cách , tài năng của con người.
II. Chuẩn bị tài liệu
1. Giáo viên
+ Soạn bài, đọc Truyện Kiều → tóm tắt đoạn trích tài liệu tham khảo, tài liệu chuẩn kiến thức kĩ năng.
2. Học sinh
+ Đọc trước bài, chuẩn bị bài (trả lời câu hỏi đọc hiểu sgk)
III. Tiến trình tổ chức dạy học
1. Ổn định tổ chức
Kiểm diện: Sĩ số
2. Kiểm tra
H: Giá trị nội dung và nghệ thuật của Truyện Kiều? Tóm tắt ngắn gọn truyện Kiều ?
3. Bài mới
– Trong TK Nguyễn Du miêu tả nhiều bức chân dung đặc sắc. Hai bức chân dung đầu tiên mà người đọc được thưởng thức chính là chân dung 2 người con gái họ Vương – Hai chị em Thuý Kiều, Thuý Vân. Vậy TKvà TV có vẻ đẹp và tài năng ntn chúng ta sẽ cùng tìm hiểu.
Hoạt động của GV và HS | Kiến thức cần đạt |
---|---|
HĐ1. HDHS đọc – tìm hiểu chú thích: – Gv đọc mẫu, nêu yêu cầu đọc: Miêu tả 2nhân vật bằng thái độ ngợi ca (giọng trân trọng) – Gọi HS đọc H: Xác định vị trí đoạn trích?- Kiểm tra việc tìm hiểu chú thích ở 1 số chú thích: 1, 2, 5, 9, 14? | I. Đọc – tìm hiểu chú thích: 1. Đọc. 2. Tìm hiểu chú thích . – Vị trí đoạn trích : phần đầu t/p (giới thiệu gia cảnh nhà Vương viên ngoại và chân dung hai chị em Thuý Kiều) – Từ khó: SGK |
HĐ2. HDHS đọc – hiểu văn bản H: Xác định phương thức biểu đạt? H: Đoạn trích chia làm mấy phần ? Trình tự miêu tả ? | II. Đọc- hiểu văn bản 1. Phương thức biểu đạt : ts kết hợp với mt và b/c. 2. Bố cục: + Đoạn 1: (4câu đầu) → khái quát vẻ đẹp chung của hai chị em. + Đoạn 2: (4 câu tiếp) → vẻ đẹp của Thuý Vân. + Đoạn 3: (12 câu tiếp) → vẻ đẹp và tài năng của Thuý Kiều. + Đoạn 4 :(4 câu cuối) → cuộc sống êm đềm của 2 chị em. |
– Đọc đoạn 1 H: Mở đầu tác giả giới thiệu hai chị em như thế nào ? H: Em hiểu ntn về nd câu thơ ấy? H: Em hiểu ntn về nội dung, nghệ thuật câu thơ: “Mai cốt cách tuyết tinh thần. Mỗi ng một vẻ mười phân vẹn mười”? như thế nào? | 3. Phân tích : a. Khái quát vẻ đẹp 2 chị em Thuý Kiều: “Đầu lòng hai ả tố nga Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân” – Thúy Kiều – Thúy Vân là con đầu, đều là 2 cô gái rất đẹp ⇒ “ Tố Nga” cô gái đẹp“Mai cốt cách tuyết tinh thầnMỗi người một vẻ mười phân vẹn mười” – Vẻ đẹp của 2 cô gái đc miêu tả bằng h/ả ẩn dụ vẻ đẹp của t/nhiên ( mai – tuyết) → vóc dáng như mai, tinh thần như tuyết. |
H: T/d của b/p nt ấy? | – Nghệ thuật: + So sánh , ẩn dụ tượng trưng ước lệ. + Phép đối tạo sự hài hoà trong vẻ đẹp giữa hình thức và p/c của TK-TV-> làm nổi bật vẻ đẹp trong trắng, thanh tao của hai chị em. |
H: Nhận xét về cách gt 2 chị em của t/g? H: Từ đó em nhận xét chung về bức chân dung TV-TK hiện lên ntn?H: Đọc những câu thơ miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân ? | + Cách giới thiệu ngắn gọn nhưng nổi bật đặc điểm của 2 chị em ⇒ Hai cô gái mỗi ng có một vẻ đẹp riêng nhưng đều đạt đến độ hoàn mỹ. |
H: Những đường nét nào của TV được t/g nhắc tới? H: Những h/a ngt nào mang tính ước lệ khi gợi tả vẻ đẹp của Thuý Vân? H: Từ “trang trọng” gợi vẻ đẹp ntn? (đoan trang- sang trọng) H: Nhận xét về những h/a ẩn dụ tượng trưng cho vẻ đẹp của TV ? H: Diễn xuôi ý 2 câu thơ? H: Cảm nhận về vẻ đẹp của TV qua những yếu tố ngt đó? H: Chân dung Thuý Vân gợi số phận ntn?->( Mây thua, tuyết nhường). – Một vẻ đẹp khiến tạo hoá phải xin “thua”“nhường” H: Đọc những câu thơ miêu tả vẻ đẹp của Thuý Kiều? | b. Vẻ đẹp của Thuý Vân: “Vân xem….Khuôn trăng…. Hoa cười….…….. …………. màu da” – Vẻ đẹp Thuý Vân được miêu tả từ các đường nét: khuôn mặt,mái tóc, làn da, nụ cười, giọng nói. – Nghệ thuật: so sánh vẻ đẹp của con người (hình ảnh ẩn dụ) với cái cao đẹp nhất của tự nhiên: Trăng, mây, hoa,tuyết, ngọc-> phép tượng trưng, ước lệ trong vh cổ -> vẻ đẹp con người hài hoà với tnhiên.⇒ H/ả TV hiện lên với vẻ đẹp hồn nhiên,trong sáng, đoan trang, phúc hậu ->Vẻ đẹp TVân tạo nên sự hài hoà êm đềm với xung quanh cuộc đời bình lặng, suôn sẻ. |
H: Tại sao tác giả lại miêu tả Thuý Vân trước rồi mới miêu tả Thuý Kiều ? H: Nhận xét về số câu thơ miêu tả Thuý Vân và số câu thơ miêu tả TK? H: TK được kể và tả ở những phương diện nào? H: Câu thơ đầu tiên miêu tả khái quát về TK như thế nào? H: Tác giả chọn h/ả ước lệ nào để miêu tả TK ? H: Khi gợi tả vẻ đẹp TK t/g cũng sd những ngt mang tính ước lệ, có những điểm nào giống và khác khi miêu tả TV?(Tại sao tác giả lại chọn miêu tả đôi Mắt?)(Mắt → thể hiện phần tinh anh của tâm hồn, trí tuệ) H: H/a ẩn dụ“ làn thu thuỷ” gợi vẻ đẹp ntn? – “ Nét xuân sơn” gợi tả vẻ đẹp ntn? H: Vẻ đẹp của TKiều hiện lên như thế nào ? H: T/g tả bao nhiêu câu thơ cho sắc của nàng? TK còn có tố chất ntn? H: TK tài như thế nào?Những tài của Kiều? Mục đích miêu tả tài của TK? Tài nào được tả sâu, kỹ? | c. Vẻ đẹp Thuý Kiều: “ Kiều càng …………….. So bề tài sắc…… Làn thu thuỷ…. Hoa ghen… liễu hờn………. Một hai…………. Sắc đành…. tài dành hoạ hai” – Nghệ thuật đòn bẩy : Thuý Vân làm nền để khắc hoạ rõ nét vẻ đẹp của Thuý Kiều. – Câu thơ miêt tả TK nhiều hơn câu thơ m/t TV->miêu tả TK ở cả sắc đẹp và tài năng. – Khái quát: So với TV, TK sắc sảo hơn về nhan sắc, mặn mà hơn về tâm hồn. – Hình ảnh ước lệ ” Làn thu thuỷ nét xuân sơn”- Không miêu tả TK tỉ mỉ mà chỉ tập trung vào đôi mắt, nét mày(đầu mày cuối mắt) – Hình ảnh làn nước mùa thu gợn sóng ⇒ gợi lên sống động vẻ đẹp đôi mắt sáng trong, long lanh, linh hoạt – Hình ảnh “ nét xuân sơn” (nét núi mùa xuân) gợi đôi lông mày thanh tú trên gương mặt trẻ trung⇒ TK hiện lên là một trang tuyệt sắc, vẻ đẹp độc nhất vô nhị sắc sảo, trẻ trung“ nghiêng nước nghiêng thành” – TK còn là cô gái thông minh,tài năng đạt đến mức lí tưởng + Tài: cầm, kỳ,thi, hoạ đều giỏi + Đặc biệt là tài đàn: là sở trường, năng khiếu(Nghề riêng); vượt lên trên mọi người ( ăn đứt) + Cung “Bạc mệnh” Kiều sáng tác đã ghi lại tiếng lòng một trái tim nhân hậu,đa cảm. |
H: Em nhận xét gì về vẻ đẹp của TK? H: Đọc những câu thơ miêu tả chân dung và tài năng em nhận thấy điều dự cảm gì về số phận của nàng trong lời thơ ND? Dựa vào câu thơ nào? (“ghen, hờn; Bạc mệnh”) | ⇒ Vẻ đẹp của TK là sự kết hợp giữa tài năng, nhan sắc và tâm hồn nhân hậu. ⇒ Vẻ đẹp và tài năng của TK khiến tạo hoá phải “hờn”,phải “ghen”, phải đố kị như dự báo trước TK sẽ có một cuộcđời không êm ả, suôn xẻ. |
H: C/S hiện tại của chị em TK được tác giả nhận xét ntn? | d. Cuộc sống của hai chị em: – Hai chị em Kiều sống trong cảnh phong lưu, quí phái, êm đềm, đoan chính, gia phong.”Êm đềm…” |
H: Em nhận xét về thái độ tình cảm của nhà thơ khi miêu tả chân dung hai chị em? | e. Cảm hứng nhân đạo của nhà thơ – Trân trọng, đề cao vẻ đẹp và tài năng của con người. (Nghệ thuật lí tưởng hóa phù hợp với cảm hứng ngưỡng mộ, ngợi ca con người) |
HĐ3. HDHS tổng kết: H: Cảm nhận của em về nghệ thuật và nội dung đoạn trích? H: Cảm hứng nhân đạo trong đoạn trích ? (Cảm hứng nhân đạo của t/p TK: đề cao giá trị con người; nhân phẩm, tài năng, khát vọng, ý thức về thân phận cá nhân … – Đọc ghi nhớ | III. Tổng Kết: – Nghệ thuật: + hình ảnh ẩn dụ tượng trung ước lệ→ lấy vẻ đẹp thiên nhiên gợi tả vẻ đẹp con người. +) Nguyễn Du trân trọng ngợi ca vẻ đẹp con người; gửi gắm quan niệm“ Tài – mệnh” – Nội dung: * Ghi nhớ : SGK – 83 |
4. Củng cố – luyện tập
HS: Nhận xét chung về bức chân dung hai chị em và vẻ đẹp riêng của từng người?
5. Hướng dẫn học sinh về nhà:
– Học thuộc lòng, học nội dung đã phân tích.
– Soạn: “ Thuật ngữ”
– Trả lời hệ thống câu hỏi bài tập SGK
– Đọc ghi nhớ,
Sơ Đồ Tư Duy Chị Em Thúy Kiều
Nhất định đừng bỏ qua các sơ đồ tư duy Chị em Thúy Kiều sau đây.
Nhất định đừng bỏ qua bài 🌿 Người Ở Bến Sông Châu 🌿 Nội Dung, Nghệ Thuật
5 Mẫu Phân Tích Chị Em Thúy Kiều Hay Nhất
Tặng bạn đọc 5 mẫu phân tích Chị em Thúy Kiều hay nhất.
Phân Tích Chị Em Thúy Kiều Ấn Tượng – Mẫu 1
Nguyễn Du là một nhà thơ lớn của dân tộc, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn luôn nhìn đời bằng con mắt “nhìn thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời”. Nhắc đến ông chúng ta không thể bỏ qua kiệt tác “Truyện Kiều” trong đó để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc là đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” miêu tả vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân.
Ở bốn câu thơ đầu, Nguyễn Du miêu tả vẻ đẹp chung của hai chị em:
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Bằng cách sử dụng nghệ thuật đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ mang ý nghĩa ước lệ tượng trưng, nhà thơ đã giúp người đọc hình dung được vẻ đẹp của hai chị em với “ả tố nga”, “Mai cốt cách tuyết tinh thần”, “mười phân vẹn mười”.
Nguyễn Du gọi Thúy Kiều với Thúy Vân là “ả tố nga” tức là người con gái đẹp. Đặc biệt bằng việc mượn hình ảnh thiên nhiên mai và tuyết còn cho thấy hai chị em Thúy Kiều hiện lên đều có cốt cách ngay thẳng thanh cao lại vô cùng dịu dàng và mỗi người một vẻ đẹp khác nhau không ai kém ai cả.
Bốn câu thơ tiếp theo được tác giả dùng để miêu tả vẻ đẹp của cô em Thúy Vân:
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Thúy Vân hiện lên là một người con gái vô cùng duyên dáng với khuôn mặt “đầy đặn” tròn trịa với “nét ngài nở nang”. Mỗi khi nàng cười là toát lên vẻ đoan trang đầy phúc hậu, khiến cho “mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”.
Thiên nhiên cũng phải ghen tị với làn da mái tóc của nàng, phải chịu thua trước vẻ đẹp của người con gái này. Như vậy bằng việc miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân, Nguyễn Du đã phần nào gợi ra số phận đầy yên bình êm đềm của người con gái này, luôn được vạn vật nhường nhịn chịu thua.
Nếu như miêu tả Thúy Vân, tác giả chỉ sử dụng bốn câu thơ thì đến khi nói về vẻ đẹp của Thúy Kiều, nhà thơ lại phải dùng đến tận mười sáu câu thơ.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một tài đành họa hai.
Tác giả sử dụng bốn câu thơ để nói về nhan sắc của nàng Kiều. Nếu Thúy Vân toát lên vẻ đẹp phúc hậu thì Kiều lại “sắc sảo mặn mà” hơn hẳn. Nàng có đôi mắt tuyệt đẹp, trong như làn nước mùa thu với đôi lông mày đẹp và thanh thoát như dãy núi mùa xuân.
Hai vẻ đẹp này kết hợp với nhau tạo nên vẻ đẹp có môt không hai, khiến cho ngay cả thiên nhiên cũng phải ghen ghét đố kị với vẻ đẹp của nàng “hoa ghen liễu hờn”. Điều này dự đoán một tương lai đầy những sóng gió trắc trở của Kiều.
Kiều không chỉ có nhan sắc mà còn có tài năng đặc biệt là tài đánh đàn:
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.
Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Nhà thơ đã cho nàng Kiều trở thành một người phụ nữ tài sắc vẹn toàn với biết bao tài năng cầm kì thi họa. Đặc biệt là tài đánh đàn của nàng là độc nhất đến nỗi “ăn đứt hồ cầm một chương”. Thế nhưng tiếng đàn của nàng tuy hay nhưng lại có chút gì đó sầu não đầy bạc mệnh như chính cuộc đời của nàng vậy.
Như vậy, bằng tài năng nghệ thuật của mình, tác giả Nguyễn Du đã giúp chị em hình dung về vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều với mỗi người một vẻ đẹp khác nhau. Thúy Vân thì toát lên vẻ đoan trang phúc hậu trong khi Thúy Kiều lại tài sắc vẹn toàn. Đồng thời qua việc miêu tả vẻ đẹp của hai chị em, nhà thơ cũng dự báo trước số phận mà hai người con gái này sắp phải trải qua đặc biệt là số phận bấp bênh mà Kiều sắp phải trải qua.
Phân Tích Chị Em Thúy Kiều Đặc Sắc – Mẫu 2
Tác giả Nguyễn Du là một đại thi hào của nền văn học nước ta. Ông cũng là một trong bốn danh nhân văn hóa của Việt Nam được thế giới công nhận. Trong tác phẩm Truyện Kiều tác giả Nguyễn Du đã khắc họa nhân vật vô cùng thành công.
Thông qua tác phẩm của mình tác giả muốn thể hiện tinh thần nhân văn của mình với những thân phận, người con gái tài sắc nhưng chịu thiệt thòi khi phải sống trong xã hội phong kiến “trọng nam kinh nữ”. Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” thể hiện nét đẹp về dung mạo cũng như khắc họa tính cách của hai chị em nhà họ Vương, Thúy Kiều và Thúy Vân.
Qua lời lẽ ngôn ngữ của mình chúng ta thấy Thúy Kiều và Thúy Vân là hai bậc tài sắc, quốc sắc thiên hương, mặn mà, xinh đẹp đoan trang. Đặc biệt, là cô chị Thúy Kiều là người vô cùng thông minh lanh lợi, hoạt bát, tài sắc đều mười phân vẹn mười.
Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
Trong bốn câu thơ đầu tiên người đọc có thể thấy rằng tác giả Nguyễn Du đã khắc họa lên hình ảnh của hai chị em họ Vương thể hiện cho sự thanh cao, sang trọng, thể hiện cho sự hoàn mỹ, trong trắng về tâm hồn cũng như thể xác.
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da
Trong những câu thơ này nét đẹp của Thúy Vân hiện lên thật khiến người ta phải ngưỡng mộ. Một người con gái trang trọng, thể hiện sự đoan trang, có gương mặt tròn và phúc hậu “Khuôn trăng” có những nét đẹp đại diện cho người phụ nữ Á Đông “nét ngài nở nang” thể hiện cho một người đoan trang, hiền thục, dáng người tròn lẳn “thắt đáy lưng ong, vừa khéo chiều chồng lại khéo nuôi con”.
Một tướng phụ nữ tốt mang lại nhiều thuận lợi cho người chồng, cũng như thể hiện cuộc sống bình an của nàng sau này.
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Nguyễn Du không nhắc nhiều đến vẻ đẹp của Thúy Kiều, ông chỉ sử dụng nghệ thuật đòn bẩy để làm nổi bật tài sắc của Kiều thông qua miêu tả Thúy Vân. Nhưng một chữ “hơn” đủ để làm người ta biết được Thúy Kiều tài sắc ghê gớm, mười phân vẹn mười gấp nhiều lần.
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành họa hai. Một vẻ đẹp sắc sảo, khiến cho liễu hờn, mây thua. Thúy Kiều đẹp tới mức mà mọi loài hoa phải ghen tị, phải ẩn mình đi vì nàng quá xinh đẹp, kiêu sa, tới mức làm mọi vật khi thấy nàng phải tự xấu hổ, ẩn mình đi không dám khoe sắc.
Một nét đẹp sắc sảo thông minh, nhưng cũng dự báo trước tương lai không mấy thuận lợi, gặp nhiều trắc trở của Thúy Kiều. Bởi một người con gái mà xinh đẹp tài sắc tới mức hoa nhường, nguyệt thẹn thì sẽ làm con người khó lòng mà yêu mến được, nhất là phụ nữ vì phụ nữ thường ghen ghét những ai xinh đẹp hơn mình.
Người ta thường nói gái xinh thì không thông minh. Nhưng Thúy Kiều là trường hợp ngoại lệ, tác giả Nguyễn Du đã vô cùng ưu ái khi cho Thúy Kiều rất nhiều ưu điểm. Nàng không chỉ xinh đẹp, đoan trang, mà còn vô cùng thông minh, tài giỏi, cầm, kỳ, thi, họa nàng đều biết hết. Một cô gái đa tài.
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha mùi thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung Thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Kiều có cả tài cầm – kì – thi – hoạ của những bậc văn nhân quân tử và tài nào cũng đến mức điêu luyện. Nàng giỏi về âm luật đến mức làu bậc. Cây đàn nàng chơi là cây hồ cẩm, tiếng đàn của nàng ăn đứt bất cứ nghệ sĩ nào và đã trở thành nghề riêng.
Để cực tả cái tài của Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng hàng loạt các từ ngữ ở mức độ tuyệt đối: vốn sẵn, pha nghề, làu bậc và đủ mùi. Không những giỏi ca hát, chơi đàn mà Kiều còn sáng tác nhạc nữa. Cung đàn nàng sáng tác là một thiên Bạc mệnh.
Bản đàn ấy đã ghi lại tiếng lòng của một tâm hồn đa sầu đa cảm. Nguyễn Du cực tả tài năng của Kiều chính là ngợi ca cái tâm đặc biệt của nàng. Tài năng của Kiều vượt lên trên tất cả và là biểu hiện của những phẩm chất cao đẹp, trái tim trung hậu, nồng nhiệt, nghĩa tình, vị tha. Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp của sắc – tài – tình và đạt đến mức siêu phàm, lí tưởng.
Nhưng nhan sắc đến mức hoa ghen, liễu hờn để tạo hóa phải hờn ghen đố kị và tài hoa trí tuệ thiên bẩm làu bậc, đủ mùi cái tâm hồn đa sầu, đa cảm như tự dưng mà có của nàng khó tránh khỏi sự nghiệt ngã của định mệnh.
Chính bởi Kiều quá toàn mĩ, hoàn thiện nên trong xã hội phong kiến kia khó có một chỗ đứng cho nàng. Và cung đàn Bạc mệnh nàng tự sáng tác như dự báo một cuộc đời hồng nhan bạc mệnh khó tránh khỏi của Kiều. Cuộc đời nàng rồi sẽ sóng gió, nổi chìm, truân chuyên.
Nguyễn Du hết lời ca ngợi Vân và Kiều mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười nhưng ngòi bút tác giả lại đậm nhạt khác nhau ở mỗi người. Vân chủ yếu đẹp ở ngoại hình còn Kiều là cái đẹp cả về tài năng, nhan sắc lẫn tâm hồn.
Điều đó tạo nên vẻ đẹp khác nhau của hai người thiếu nữ và hé mở hai tính cách, dự báo hai cuộc đời khác nhau đang đón chờ hai ả tố nga. Hai bức vẽ chân dung của chị em Thuý Vân và Thuý Kiều đã cho thấy sự tài tình trong ngòi bút tinh tế của Nguyễn Du.
Kết thúc đoạn thợ là bốn câu lục bát miêu tả cuộc sống phong lưu khuôn phép, mẫu mực của hai chị em Kiều:
Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Hai người con gái họ Vương không chỉ có sắc – tài – tình mà còn có đức hạnh. Sống phong lưu đến mực hồng quần. Cả hai đều đã tới tuần cập kê – tới tuổi búi tóc, cài trâm nhưng vẫn sống trong cảnh:
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Hai câu thơ như che chở, bao bọc cho hai chị em, hai bông hoa vẫn còn phong nhụy trong cảnh êm đềm chưa một lần hương toả vì ai. Nguyễn Du đã buông mành, gạt tất cả mọi vẩn đục cho cuộc đời khỏi cuộc sống phong lưu của hai chị em để đề cao hơn đức hạnh của hai nàng.
Với cảm hứng nhân đạo và tài nghệ thơ, Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung Thúy Vân, Thuý Kiều bằng những gì đẹp đẽ, mĩ lệ nhất. Hai bức tranh mĩ nhân bằng thơ đã thể hiện bút pháp ước lệ tượng trưng và các biện pháp tu từ trong ngòi bút tinh tế của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.
Đoạn thơ nói về Chị em Thuý Kiều là một trong những đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất trong Truyện Kiều được nhiều người yêu thích và thuộc. Ngôn ngữ thơ tinh luyện, giàu cảm xúc. Nét vẽ hàm súc, gợi cảm, nét vẽ nào cũng có thần.
Các biện pháp tu từ ẩn dụ, so sánh, nhân hoá được thi hào vận dụng thần tình tạo nên những vần thơ ước lệ mà trữ tình, đầy chất thơ. Hàm ẩn sau bức chân dung mĩ nhân là cả một tấm lòng quý mến trân trọng. Đó là nghệ thuật tả người điêu luyện của thi hào Nguyễn Du mà ta cảm nhận được.
Phân Tích Chị Em Thúy Kiều Tiêu Biểu – Mẫu 3
Nguyễn Du đại thi hào của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Ông để lại số lượng tác phẩm đồ sộ, giàu giá trị hiện thực và nhân đạo. Trong kho tàng văn học đồ sộ ấy ta không thể không nhắc đến Truyện Kiều – tuyệt bút của văn học dân tộc.
Tác phẩm không chỉ hấp dẫn ở nội dung mà còn đặc sắc ở nghệ thuật tả người chân thực, sinh động. Nét bút tài hoa, chỉ vài đường nét ông đã dựng lên chân dung tính cách và số phận của mỗi người. Điều đó được thể hiện rõ nhất qua đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”.
“Chị em Thúy Kiều” nằm ở phần đầu của tác phẩm “Gặp gỡ và đính ước”. Đoạn trích không chỉ nhằm giới thiệu về gia cảnh của hai nàng mà còn miêu tả chân dung của hai tuyệt sắc giai nhân, mỗi người mang một vẻ đẹp riêng, không hòa lẫn.
Mở đầu bài thơ, bằng bút pháp ước lệ, Nguyễn Du đã giới thiệu chung về hai chị em Thúy Kiều. Kiều là chị, còn em là Vân, hai cô là con gái của Vương Viên ngoại. Hai con người ấy có cốt cách vô cùng thanh thoát, tao nhã “mai cốt cách” giống như loài hoa mai mảnh dẻ, thanh cao. Phong thái tinh thần thanh sạch, trong trắng “tuyết tinh thần”.
Họ mang trong mình vẻ đẹp trong sáng, dịu dàng, tinh khôi. Ngoài ra để khẳng định vẻ đẹp của nàng, Nguyễn Du còn có thêm một câu thơ bình luận: “Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”. Lời bình vừa cho thấy nét riêng, vừa cho thấy vẻ đẹp hoàn hảo của hai nàng. Chỉ bằng những lời giới thiệu ngắn gọn, nhưng đã mang đến cho bạn đọc những thông tin phong phú, đầy đủ, những ấn tượng sâu sắc về vẻ đẹp của hai nàng.
Sau khi giới thiệu chung về hai chị em, bốn câu thơ tiếp dành những lời thơ mỹ miều, đẹp đẽ nhất để miêu tả nàng Vân:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
Thúy Vân mang vẻ đẹp của phong thái đoan trang. Từ con người cô toát lên vẻ đẹp nghiêm chính, ung dung, sự cao sang, quý phái. Nguyễn Du tập trung miêu tả khuôn mặt của nàng: với khuôn mặt đầy đặn, sáng tươi như ánh trăng rằm, đôi lông mày cong cong, hơi đậm làm nổi bật lên đôi mắt đẹp đẽ.
Nụ cười của nàng luôn luôn rạng rỡ như những đóa hoa, giọng nói trong, thanh thoát như ngọc. Mái tóc dài, óng ả hơn cả mây, làn da mịn màng trắng hơn cả tuyết.
Thúy Vân mang trong mình vẻ đẹp hoàn hảo, tuyệt mĩ. Vẻ đẹp của nàng rất phù hợp với chuẩn mực xã hội lúc bấy giờ, một vẻ đẹp hài hòa, hòa hợp với thiên nhiên. Dẫu Nguyễn Du có sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng để cực tả vẻ đẹp của nàng thì nàng vẫn được mây, tuyết “thua” “nhường”, được thiên nhiên ưu ái, bao bọc, nâng đỡ. Bởi vậy cũng dự báo cuộc sống yên ấm, êm đềm của cô sau này.
Nếu như miêu tả Thúy Vân chỉ với bốn câu thơ, tập trung miêu tả khuôn mặt tròn đầy, phúc hậu thì đến miêu tả Thúy Kiều ông sử dụng đến mười hai câu thơ, thủ pháp đòn bẩy đã làm nổi bật vẻ đẹp của Kiều so với Vân.
Thúy Kiều mang vẻ đẹp sắc sảo, mặn mà: “so bề tài sắc lại là phần hơn” đã khẳng định vẻ đẹp tuyệt mỹ của Kiều. Khác với Thúy Vân có những nét vẽ chi tiết về gương mặt, thì khi miêu tả Kiều ông chỉ tập trung miêu tả đôi mắt: “Làn thu thủy nét xuân sơn”.
Đôi mắt của nàng trong trẻo, sâu thẳm như làn nước mùa thu, đôi lông mày mượt mà, thanh tú như dáng núi mùa xuân. Không phải ngẫu nhiên ông chọn miêu tả đôi mắt, mà đôi mắt vốn là cửa sổ tâm hồn của mỗi người, bởi vậy, khi miêu tả mắt Thúy Kiều đã gợi nên thế giới tâm hồn phong phú, sâu sắc, gợi tính cách sắc sảo nhưng cũng rất đa sầu, đa cảm.
Vẻ đẹp ấy của nàng khiến “hoa ghen” “liễu hờn”, hai chữ “ghen” “hờn” cho thấy sự ấm ức, tâm lý tiêu cực, muốn triệt tiêu, loại bỏ đối phương. Vẻ đẹp của nàng vượt ra khỏi chuẩn mực, giới hạn, khiến cho vạn vật trong trời đất phải ghen ghét, đố kị. Chính điều đó dự báo cuộc sống tương lai đầy tai ương, sóng gió ở phía trước.
Nàng không chỉ đẹp về ngoại hình, mà nàng còn mang vẻ đẹp tài hoa, trí tuệ:
“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm”
Trong thời trung đại, người phụ nữ ít khi được nhắc đến tài năng, câu thơ đã cho thấy sự tiến bộ thậm chí táo bạo của Nguyễn Du khi đề cao cả vẻ đẹp hình thức và vẻ đẹp trí tuệ của người phụ nữ. Thúy Kiều là người thông minh, sắc sảo, tài năng đủ cả cầm, kỳ, thi họa trong đó tài đàn của nàng là ấn tượng và nổi bật nhất.
Những khúc đàn nàng chơi lay động lòng người, khúc hát nàng sáng tác khiến ai cũng xót xa, thương cảm. Những khúc nhạc đó cũng cho thấy một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, lãng mạn.
Nguyễn Du đã đặc biệt ưu ái khi miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều. Nàng tiêu biểu cho số phận người phụ nữ “hồng nhan bạc mệnh” hay như chính Nguyễn Du đã kết luận “Sắc đành đòi một tài đành họa hai” “Chữ tài liền với chữ tai một vần” hay “Hồng nhan quen thói má hồng đánh ghen”. Trong suốt dọc chiều dài tác phẩm Nguyễn Du đã nhắc đi nhắc lại số phận bạc bẽo của kiếp hồng nhan, sẽ gặp phải nhiều truân chuyên, sóng gió.
Bốn câu thơ cuối là những lời bình luận chung của tác giả về hai chị em. Hai nàng được sinh ra và lớn lên trong một gia đình nề nếp, phong lưu. Cuộc sống “êm đềm trướng rủ màn che” đầy bình lặng, chưa từng va vấp với thế giới bên ngoài. Họ luôn được sống trong tình yêu thương và che chở của cha mẹ. Cả hai người đều đã đến tuổi cập kê, kết tóc se duyên nhưng họ vẫn còn hết sức trong sáng.
Để khắc họa vẻ đẹp của hai chị em Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật ước lệ tượng trưng cùng hàng loạt ẩn dụ: “mây, trăng, hoa, tuyết” – những hình ảnh nổi bật của thiên nhiên để làm nổi bật nhan sắc của hai nàng. Đồng thời để làm nổi bật vẻ đẹp của Thúy Kiều, Nguyễn Du còn sử dụng thủ pháp đòn bẩy, miêu tả Vân trước, Kiều sau để làm bật chân dung Thúy Kiều.
Ngoài ra, ông còn sử dụng nghệ thuật nhân hóa để ngầm dự báo số phận hai người. Vẻ đẹp của Thúy Vân khiến thiên nhiên “thua, nhường” dự báo sau này cuộc đời nàng sẽ yên bình, phẳng lặng. Vẻ đẹp của Thúy Kiều bị thiên nhiên “ghen, hờn”, dự báo cuộc đời nhiều gian nan, sóng gió.
Bằng bút pháp ước lệ tượng trưng tinh tế tài hoa, Nguyễn Du đã phác họa thành công vẻ đẹp, tài năng của hai chị em Thúy Kiều. Đồng thời từ chân dung của họ gợi lên tính cách, số phận sau này. Đó là những chân dung mang tính cách số phận. Qua đó cho thấy bút pháp tả người tài tình của tác giả.
Phân Tích Chị Em Thúy Kiều Chọn Lọc – Mẫu 4
Đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” trong Truyện Kiều đã gợi tả được vẻ đẹp đặc sắc của hai cô con gái nhà họ Vương, vẻ đẹp chung của chị em Thuý Kiều cũng như vẻ đẹp của từng người được Nguyễn du khắc học một cách rõ nét bằng bút pháp ước lệ tượng trưng.
Trước hết Nguyễn du giới thiệu vẻ đẹp chung về hai chị em trong gia đình:
“Đầu hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân”
Tiếp đến, tác giả giới thiệu một cách khái quát nét đẹp chung và riêng của hai chị em:
“Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một một vẻ mười phân vẹn mười”
Bằng bút pháp so sánh ước lệ, vẻ đẹp về hình dáng (mai cốt cách) và vẻ đẹp về tâm hồn (tuyết tinh thần) của hai chị em được tôn lên đến độ hoàn mỹ. Cả hai đều đẹp mười phân vẹn mười. Trong cái đẹp chung ấy có cái đẹp riêng của từng người – Mỗi người một vẻ.
Trừ câu đầu, cả ba câu sau mỗi câu được chia làm hai vế gợi cho người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của mỗi người. Bốn câu thơ đầu là bức tranh nền đế từ đó tác giả dẫn người đọc lần lượt chiêm ngưỡng sắc đẹp của từng người.
Bốn câu tiếp theo tác giả đặc tả nhan sắc Thuý Vân – Một con người phúc hậu, đoan trang. Nàng có vẻ đẹp cao sang quý phái trang trọng khác vời. vốn là bút pháp nghệ thuật ước lệ truyền thống nhưng vẻ đẹp của Thuý vân lại hiện lên một cách cụ thể: “Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang – Hoa cười ngọc thốt đoan trang – Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”.
Từ khuôn mặt, nét ngài, tiếng cười, giọng nói, mái tóc, làn da đều được so sánh với “trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết”. Thế là vẻ đẹp của Thuý Vân cứ dần được bộc lộ theo thủ pháp ẩn dụ, nhân hoá tài tình của tác giả. Vẻ đẹp của Thuý Vân là vẻ đẹp gần gũi, hòa hợp với thiên nhiên.
Nếu như Thuý Vân được mô tả với vẻ đẹp hoàn hảo thì vẻ đẹp của Thuý Kiều còn vượt lên trên cái hoàn hảo ấy: “Kiều càng sắc sảo mặn mà”. Đây là một thủ pháp nghệ thuật của văn chương cố.
Từ cái đẹp của Thuý Vân, Nguyễn Du chỉ cần giới thiệu một câu: “Kiều càng sắc sảo mặn mà”, thế là vẻ đẹp của Thuý Kiều đã vượt lên trên vẻ đẹp của Thuý Vân (sắc sảo) và tâm hồn (mặn mà). Tả Vân trước, tả Kiều sau đó là cách tác giả mượn Vân đế tả Kiều. Qua vẻ đẹp của Vân mà người đọc hình dung ra vế đẹp của Kiều.
Ở Vân trác giả không hề tả đôi mắt, còn ở Kiều tác giả lại đặc tả đôi mắt. vẫn là nghệ thuật ước lệ tượng trưng, đôi mắt của Kiều được so sánh với: “Làn thu thuỷ, nét xuân sơn”. Cái sắc sảo mặn mà của đôi mắt chính là biểu hiện của vẻ đẹp tâm hồn. Với đẹp của Thuý Vân là vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu, thiên nhiên sẵn sàng thua và nhường còn vẻ đẹp của Kiều làm cho thiên nhiên.
Tác giả ngợi ca Thúy Kiều là một người thiếu nữ đẹp tuyệt trần, không những thế tài năng của nàng xuất sắc đến nỗi trên đời này phải chăng có người thứ hai sánh bằng:
“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương lầu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương”
Chuẩn mực về sự tài giỏi ngày xưa hội tụ: “cầm , kỳ, thi, họa” thì Thúy Kiều đủ cả, không những biết mà còn đạt đến trình độ khiến người khác phải nể phục. Trong đó, nàng đặc biệt nổi trội về “cầm”. Cung đàn được vang lên bởi một người thiếu nữ đa sầu đa cảm, có lẽ bản nhạc mà nàng Kiều sáng tác ở tuổi thanh xuân lại là một thiên bạc mệnh, dự báo trước một tương lai không chút êm đềm:
“Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”
Với tất cả tài năng, phẩm chất của nàng đang có thì chắc chắn rằng, cuộc sống êm đềm hiện tại, sự an nhàn tĩnh tại ngầm chuẩn bị trước cho một trận bão táp cuồng phong. Trong dân gian xưa cũng có câu: “tài tình chi lắm cho trời đất ghen” hay “chữ tài liền với chữ tai một vần”.
Khép lại đoạn trích, Nguyễn Du một lần nữa tái hiện của sống êm ả, ngày qua ngày của hai chị em Thúy Vân và Thúy Kiều:
“Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê,
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Sống trong khuôn phép, trong “trướng rủ màn che”, hai chị em đã sắp tới tuổi tìm đấng phu quân cho mình nhưng có lẽ với chữ “mặc” ở câu thơ cuối đã thể hiện thái độ của Kiều và Vân, không tơ tưởng đến những kẻ ngoài kia.
Tóm lại, đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” đã khắc họa được vẻ đẹp của Thúy Kiều và Thúy Vân. Qua đó, chúng ta thấy được nghệ thuật miêu tả đầy độc đáo của Nguyễn Du.
Phân Tích Chị Em Thúy Kiều Nổi Bật – Mẫu 5
Nguyễn Du là một trong những tác gia nổi bật nhất trong nền văn học Trung đại. Truyện Kiều chính là thị phẩm xuất sắc nhất của ông, tác phẩm được coi là kiệt tác, tinh hoa của văn học dân tộc.
Trong tác phẩm, Nguyễn Du không chỉ thể hiện được tài năng trong ngòi bút mình khi khắc họa nội tâm nhân vật, sử dụng ngôn từ nghệ thuật tinh chọn mà ngòi bút điêu luyện ấy còn được thể hiện qua cách xây dựng hình tượng nhân vật độc đáo. Tài sắc của hai chị em Thúy Kiều được khắc họa qua hồn thơ giàu hình ảnh trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều ” đã cho thấy tài năng bậc thầy của tác giả.
Mở đầu đoạn trích, tác giả giới thiệu khái quát về hình ảnh của hai người con gái Thúy Kiều và Thúy Vân xinh đẹp:
“ Đầu lòng hai ả tố Nga
Thúy kiều là chị em là Thuý Vân
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười’
Thúy Kiều, Thúy Vân là hai chị em gái trong gia đình Vương viên ngoại. Thúy Kiều là chị cả, Thúy Vân là cô em gái của nàng. Hai người đều có vẻ đẹp “nghiêng nước, nghiêng thành” dù vẻ đẹp có khác nhau song đều trọn vẹn cả “mười phân vẹn mười”.
Đó là vẻ đẹp tròn đầy với tâm hồn trong trắng, thuần khiết, cốt cách thanh cao như mai, tinh thần sáng trong như tuyết, họ không chỉ mang vẻ đẹp về ngoại hình mà còn là những người con gái giàu đức hạnh, chứa chan những vẻ đẹp của một nội tâm thuần khiết, chưa vướng bụi trần.
Sau những điểm chung của Thúy Vân và Thúy Kiều, tác giả tiếp tục khắc hoạ vẻ đẹp riêng của từng người. Trước hết là vẻ thu hút của nàng Vân:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.”
Trước mắt ta như hiện lên hình ảnh của một tiểu thư đài các, dịu dàng, nét đẹp của Thúy Vân là sự hài hoà giữa nét sang trọng và thanh lịch. Nàng có khuôn mặt tròn phúc hậu tựa vầng trăng tròn viên mãn đêm rằm, đôi hàng lông mày kiều diễm, sắc sảo “nét ngài nở nang” .
Nụ cười Thúy Vân xinh đẹp như hoa, lời nói ngọc ngà thốt ra đầy ngọt ngào mà ý vị, ở nàng có sự đằm thắm, rất mực đoan trang và đầy thu hút. Làn tóc mượt mà hơn mây, nước da trắng ngần hơn tuyết. Nguyễn Du đã miêu tả vẻ đẹp của nàng chi tiết và cụ thể.
Lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm chuẩn mực để miêu tả vẻ đẹp của con người. Nàng Vân có vẻ đẹp hài hoà với thiên nhiên, hoa mỉm cười hài lòng, mây chịu “thua”, tuyết cũng chịu” nhường” , thiên nhiên đã yêu thương và ưu ái cho vẻ đẹp của nàng, chịu nhún nhường trước sắc vóc và dung nhan ấy. Điều đó như dấu hiệu báo trước một cuộc đời êm đềm, ít sóng gió , bình lặng của Thúy Vân.
Đến với nàng Kiều, tác giả dành trọn 12 câu thơ để miêu tả vẻ đẹp và tài năng của nàng. Thúy Vân đã có vẻ đẹp hơn người như thế mà sự xinh đẹp của Kiều lại có phần hơn:
“ Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.”
Kiều không chỉ có nét hiền hậu, đoan trang của Vân mà ở nàng còn có cả sự sắc sảo, mặn mà của một người phụ nữ giàu tình cảm. Cả về sắc đẹp và tài năng, sự thông minh, khôn khéo Kiều đều chiếm phần ưu thế. Đôi mắt nàng tựa làn nước mùa thu êm đềm dịu nhẹ, nét mày ngài xinh đẹp tựa dáng núi mùa xuân.
Vẻ xinh đẹp ấy khiến cho thiên nhiên cũng phải hờn dỗi, ghen tuông vì thua kém “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”. Hoa tươi thắm, rực rỡ giữa vạn vật cũng chẳng sánh được với dung nhan sắc nước hương trời của nàng, liễu có xanh mượt mà cũng phải ghen tị trước tâm hồn thanh mát, vẻ đẹp mềm mại nơi Kiều. Những trạng thái “ghen”, “hờn” ấy của thiên nhiên như dự báo một cuộc đời gặp nhiều lận đận, ngang trái, khổ đau của Kiều.
Kiều không chỉ hơn Vân về sắc đẹp mà còn có phần hơn em về tài năng. Nguyễn Du chưa nói về tài năng của Vân nhưng dành đến tám câu để khắc họa tài năng của Thúy Kiều:
“Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên “Bạc mệnh” lại càng não nhân”
Thúy Kiều là người tài nữ thông minh, sắc sảo với đủ tài cầm – kì- thi- họa. Nhưng không chỉ thông minh, sáng suốt về học vấn nàng còn là một cô gái tài năng trên nhiều lĩnh vực. Thể hiện qua sự giỏi giang: Cầm, kỳ, thi, hoạ. Sự giỏi giang ấy đạt đến mức điêu luyện, “tay lựa”, “ăn đứt” , “cầm”,.. Kiều là một người có vẻ đẹp “nghiêng nước, nghiêng thành” lại tài hoa đến mức vượt đến mức phi thường
“Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ man che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.”
Không chỉ có tài sắc, Vân và Kiều còn là những thiếu nữ khuê các có phẩm hạnh, cốt cách thanh cao, con gái của một gia đình mẫu mực, khuôn phép.
Bằng thủ pháp đòn bẩy ấn tượng, Nguyễn Du đã thể hiện được hình ảnh nàng Thúy Kiều và Thúy Vân gần gũi mà đầy tinh tế. Qua đây, ta thấy được tác giả rất trân trọng những vẻ đẹp của những người phụ nữ xưa và niềm cảm thông, thương xót cho số phận nhiều long đong, đớn đau của họ.