Hịch Tướng Sĩ ❤️️ Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích ✅ Chia Sẻ Ý Nghĩa Nhan Đề, Các Mẫu Sơ Đồ Tư Duy Và Phân Tích Tác Phẩm.
NỘI DUNG CHÍNH
Nội Dung Hịch Tướng Sĩ
Dụ chư tì tướng hịch văn là bài hịch của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn viết cuối thế kỷ 13 trước cuộc chiến tranh Mông Nguyên–Đại Việt lần 2.
Hịch tướng sĩ
Tác giả: Trần Quốc Tuấn
Ta thường nghe: Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế; Do Vu[2] chìa lưng chịu giáo, che chở cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than để báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay cứu nạn cho nước; Kính Đức, một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thế Sung; Cảo Khanh, một bề tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc. Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ bỏ mình vì nước, đời nào không có? Giả sử các bậc đó cứ khư khư theo thói nữ nhi thường tình, thì cũng chết già ở xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách, cùng trời đất muôn đời bất hủ được!
Các ngươi con nhà võ tướng, không hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện ấy nửa tin nửa ngờ. Thôi những chuyện xưa, ta không nói đến nữa. Nay ta chỉ kể chuyện Tống, Nguyên mới đây.
Vương Công Kiên là người thế nào, tì tướng của ông là Nguyễn Văn Lập lại là người thế nào, mà giữ thành Điếu Ngư nhỏ như cái đấu, đường đường chống với quân Mông Kha đông đến hàng trăm vạn, khiến cho nhân dân đời Tống đến nay còn đội ơn sâu!
Cốt Đãi Ngột Lang là người thế nào, tì tướng của ông là Xích Tu Tư lại là người thế nào, mà xông vào chỗ lam chướng xa xôi nghìn trùng, đánh bại được quân Nam Chiếu trong vài tuần, khiến cho quân trưởng đời Nguyên đến nay còn lưu tiếng tốt!
Huống chi ta cùng các ngươi sinh phải thời loạn lạc, lớn gặp buổi gian nan. Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thoả lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn. Thật khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai vạ về sau!
Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.
Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu ngày, không có mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm; quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng; đi thuỷ thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa; lúc trận mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười. Cách đối đãi so với Vương Công Kiên, Cốt Đãi Ngột Lang ngày trước cũng chẳng kém gì.
Nay các ngươi nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức; nghe nhạc thái thường để đãi yến nguỵ sứ mà không biết căm. Hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển; hoặc vui thú vườn ruộng, hoặc quyến luyến vợ con; hoặc lo làm giàu mà quên việc nước, hoặc ham săn bắn mà quên việc binh; hoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hát. Nếu có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh; dẫu rằng ruộng lắm vườn nhiều, tấm thân quý nghìn vàng khôn chuộc, vả lại vợ bìu con díu, việc quân cơ trăm sự ích chi; tiền của tuy nhiều khôn mua được đầu giặc, chó săn tuy khoẻ khôn đuổi được quân thù; chén rượu ngon không thể làm cho giặc say chết, tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai. Lúc bấy giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào! Chẳng những thái ấp của ta không còn, mà bổng lộc các ngươi cũng mất; chẳng những gia quyến của ta bị tan, mà vợ con các ngươi cũng khốn; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị giày xéo, mà phần mộ cha mẹ các ngươi cũng bị quật lên; chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục, rồi đến trăm năm sau, tiếng dơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà đến gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang tiếng là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui vẻ phỏng có được không?
Nay ta bảo thật các ngươi: nên nhớ câu “đặt mồi lửa vào dưới đống củi” là nguy cơ, nên lấy điều “kiềng canh nóng mà thổi rau nguội” làm răn sợ. Huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên; khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ; có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai. Như vậy, chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền, mà bổng lộc các ngươi cũng đời đời hưởng thụ; chẳng những gia quyến của ta được êm ấm gối chăn, mà vợ con các ngươi cũng được bách niên giai lão; chẳng những tông miếu của ta sẽ được muôn đời tế lễ, mà tổ tông các ngươi cũng được thờ cúng quanh năm; chẳng những thân ta kiếp này đắc chí, mà đến các ngươi trăm năm về sau tiếng vẫn lưu truyền; chẳng những danh hiệu ta không bị mai một, mà tên họ các ngươi cũng sử sách lưu thơm. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi không muốn vui vẻ phỏng có được không?
Nay ta chọn binh pháp các nhà hợp làm một quyển gọi là Binh thư yếu lược. Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời dạy của ta, thì mới phải đạo thần chủ; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời dạy bảo của ta, tức là kẻ nghịch thù.
Vì sao vậy? Giặc với ta là kẻ thù không đội trời chung, các ngươi cứ điềm nhiên biết rửa nhục, không lo trừ hung, không dạy quân sĩ; chẳng khác nào quay mũi giáo mà chịu đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi đây sau khi giặc giã dẹp yên, muôn đời để thẹn, há còn mặt mũi nào đứng trong trời đất nữa? Ta viết ra bài hịch này để các ngươi biết bụng ta.
Chia sẻ thêm tác phẩm🔻 Hồi Trống Cổ Thành 🔻 Sơ Đồ Tư Duy, Mẫu Phân Tích Hay
Tóm Tắt Hịch Tướng Sĩ
Bạn có thể đọc bản tóm tắt Hịch Tướng Sĩ mà Thohay.vn chia sẻ dưới đây để có thể nhanh chóng nắm rõ tác phẩm.
Trước sự chủ quan, không lo tập luyện của tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn dẫn ra những dẫn chứng về sự trung thành của các vị tướng thời trước với chủ tướng của mình, đồng thời nêu lên tội ác của quân giặc để khích lệ tướng sĩ phải luyện tập để bảo vệ đất nước. Trần Quốc Tuấn cũng phân tích được những việc làm sai trái của các tướng sĩ, sau đó đưa ra định hướng cho các tướng sĩ đó là phải chăm chỉ học tập theo cuốn Binh thư yếu lược để bảo vệ đất nước.
Về Trần Quốc Tuấn
Chia sẻ cho bạn đọc một số thông tin chính Về Trần Quốc Tuấn, tác giả của Hịch Tướng Sĩ.
- Trần Quốc Tuấn (1231-1300) còn được gọi là Hưng Đạo Đại Vương. Là danh tướng kiệt xuất của dân tộc
- Năm 1285 và năm 1287, quân Nguyên – Mông xâm lược nước ta, lần nào ông cũng được Trần Nhân Tông cử làm Tiết chế thống lĩnh các đạo quân, cả hai lần đều thắng lợi vẻ vang.
- Vào đời vua Trần Anh Tông, ông về trí sĩ ở Vạn Kiếp (nay là xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương) rồi mất ở đấy.
- Nhân dân tôn thờ ông là Đức thánh Trần và lập đến thờ ở nhiều trên đất nước.
- Các tác phẩm của ông: Dụ chư tỳ tướng hịch văn (Hịch tướng sĩ), Binh gia diệu lý yếu lược (Binh thư yếu lược), Vạn Kiếp tông bí truyền thư (Sách bí truyền của tông phái Vạn Kiếp, đã bị thất lạc
Tham khảo thêm tác phẩm 💚 Hoàng Lê Nhất Thống Chí 💚 Những Mẫu Phân Tích Hay Nhất
Về Tác Phẩm Hịch Tướng Sĩ
Về tác phẩm Hịch tướng sĩ, đây là một bài hịch – một thể văn được vua chúa, tướng lĩnh hoặc thủ lĩnh dùng để kêu gọi hoặc thuyết phục đấu tranh chống thù trong giặc ngoài.
“ Hịch tướng sĩ” đã phản ánh tinh thần yêu nước, căm thù giặc và ý chí quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược của nhân dân ta. Đồng thời qua đó, ta cũng thấy rõ Trần Quốc Tuấn không chỉ là một chủ soái giàu lòng yêu nước mà còn là một nhà hùng biện tài ba.
Nội dung chính của bài Hịch:
- Khích lệ lòng căm thù giặc và nỗi nhục của kẻ mất nước.
- Khích lệ lòng trung quân ái quốc, lòng ân nghĩa thủy chung của những người cùng cảnh ngộ
- Khích lệ ý chí lập công và tinh thần xả thân vì nước của tướng sĩ
- Khích lệ lòng tự trọng và danh dự cá nhân của mỗi người trước vện mệnh quốc gia.
Xuất Xứ Và Hoàn Cảnh Sáng Tác Hịch Tướng Sĩ
Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác Hịch tướng sĩ như thế nào? Cùng Thohay.vn tìm hiểu ngay sau đây nhé!
Hịch Tướng Sĩ được viết vào khoảng thời gian trước cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông lần thứ hai (1285).
Khi giặc Nguyên Mông sang xâm lược nước ta lần thứ hai, lúc này quân giặc rất mạnh muốn đánh bại chúng phải có sự đồng tình, ủng hộ của toàn quân, toàn dân, vì vậy Trần Quốc Tuấn đã viết bài hịch này để kêu gọi tướng sĩ hết lòng đánh giặc
Xem thêm về phân tích 🌼 Chuyện Cũ Trong Phủ Chúa Trịnh 🌼 Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị
Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm Hịch Tướng Sĩ
Nhan đề tác phẩm Hịch tướng sĩ nguyên văn được viết bằng chữ hán là Dự chư tì tướng hịch văn. Hịch văn răn bảo các tì tướng, khích lệ lòng yêu nước, tinh thần trung nghĩa với chủ tướng của các tướng sĩ, khích lệ tinh thần trọng danh dự ở họ, từ đó củng cố ý chí chiến đấu, quyết tâm đánh giặc của toàn quân khi kẻ thù xâm lược đã ngấp nghé ngay cửa ngõ đất nước.
Bố Cục Hịch Tướng Sĩ
Bố cục Hịch tướng sĩ được chia thành 4 phần cụ thể như sau:
- Đoạn 1 (từ đầu đến “còn lưu tiếng tốt”): Nêu những gương trung thần nghĩa sĩ trong sử sách để khích lệ ý chí lập công danh, xả thân vì nước.
- Đoạn 2 (từ “Huống chi” đến “cũng vui lòng”): Tố cáo sự hống hách và tội ác của kẻ thù, đồng thời nói lên lòng căm thù giặc.
- Đoạn 3 (từ “Các ngươi” đến “không muốn vui vẻ phỏng có được không?”): Phân tích phải trái, làm rõ đúng sai trong lối sống, trong hành động của các tướng sĩ.
- Đoạn 4 (đoạn còn lại): Nêu nhiệm vụ cụ thể, cấp bách, khích lệ tinh thần chiến đấu của tướng sĩ.
Đón đọc tác phẩm ❤️️Thư Lại Dụ Vương Thông ❤️️Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích
Đọc Hiểu Tác Phẩm Hịch Tướng Sĩ
Các em học sinh có thể tham khảo phần đọc hiểu tác phẩm Hịch tướng sĩ dưới đây.
1. Nêu gương trung thần, nghĩa sĩ trong sử sách.
- Các gương trung thần, nghĩa sĩ hi sinh vì chủ: Kỉ Tín, Do Vu, Dự Nhượng, Cốt Đãi Ngột Lang, …
- Địa vị khác nhau song đều trung thành, không sợ nguy hiểm, quên mình vì chủ vì nước.
=> Khích lệ ý chí lập công danh, xả thân vì chủ, vì vua, vì nước
2. Tình hình đất nước và nỗi lòng của chủ tướng.
a. Tình hình đất nước hiện tại:
- Tội ác và sự ngang ngược của giặc: đi lại nghênh ngang, uốn lưỡi cú diều sỉ mắng triều đình, thân dê chó bắt nạt tể phụ, đòi ngọc lụa, thu bạc vàng, …
=> Nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ vạch trần bản chất tham lam, tàn bạo, hống hách của giặc
- Cảnh báo hậu quả , thái độ của tác giả : khác nào đem thịt mà nuôi hổ đói, tránh sao tai vạ về sau
=>Khích lệ lòng căm thù giặc và khơi gợi nỗi nhục mất nước
b. Nỗi lòng chủ tướng
Tới bữa quên ăn
Nửa đêm vỗ gối
Ruột đau như cắt
Nước mắt đầm đìa
– Nghệ thuật:
- Câu văn biền ngẫu, nhịp điệu dồn dập
- Ngôn ngữ ước lệ, giàu hình ảnh
- Nhiều động từ mạnh chỉ trạng thái, hành động: quên ăn, vỗ gồi, xẻ thịt, lột da, nuốt gan, uống máu, …
=> Cực tả nỗi đau đớn, niềm uất hận, khơi gợi sự đồng cảm.
3. Phê phán biểu hiện sai trái và kêu gọi tướng sĩ.
a. Phê phán biểu hiện sai trái của tướng sĩ:
- Phê phán hành động hưởng lạc, ham thú vui tầm thường: chọi gà, cờ bạc, săn bắn,…
- Thái độ phê phán dứt khoát
=> Phê phán nghiêm khắc thái độ vô trách nhiệm, vong ân bội nghĩa, lối sống hưởng lạc, chỉ lo vun vén hạnh phúc cá nhân.
b. Kêu gọi tướng sĩ.
- Phải biết lo xa, nêu cao cảnh giác, tăng cường luyện tập, học tập “Binh thư yếu lược.”
- Giúp tướng sĩ nhận thức rõ đúng – sai
- Vạch rõ ranh giới 2 con đường chính – tà, sống – chết.
=> Thái độ dứt khoát, cương quyết, khích lệ lòng yêu nước, quyết chiến, quyết thắng kẻ thù.
Giá Trị Hịch Tướng Sĩ
Giá trị tác phẩm Hịch Tướng Sĩ được bao quát bởi hai khía cạnh sau:
Giá trị nội dung
- Hịch tướng sĩ từ xưa đã được xem là một “thiên cổ hùng văn” bất hủ của dân tộc. Bài hịch là sự kết tinh sâu sắc của truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm, là kết tinh của ý chí và sức mạnh quật cường của dân tộc qua mấy trăm năm lịch sử. Qua bài hịch, Trần Quốc Tuấn đã thể hiện mạnh mẽ lòng yêu nước thiết tha và căm thù giặc sâu sắc của vị chủ tướng một lòng vì nước vì dân.
Giá trị nghệ thuật
- Hịch tướng sĩ là một áng văn chính luận xuất sắc
- Lập luận chặt chẽ, lĩ lẽ rõ ràng, giàu hình ảnh, có sức thuyết phục cao
- Kết hợp hài hoà giữa lí trí và tình cảm
- Lời văn giàu hình ảnh nhạc điệu
Mời bạn tham khảo thêm 🍃Nam Quốc Sơn Hà 🍃 Nội Dung, Giá Trị, Phân Tích
Soạn Bài Hịch Tướng Sĩ
Chia sẻ cách soạn bài Hịch tướng sĩ theo các câu hỏi chi tiết:
👉Câu 1 (trang 61 sgk Văn 8 Tập 2): Bài hịch có thể chia làm mấy đoạn? Nêu ý chính của từng đoạn.
Đáp án:
– Bài hịch bố cục thành 4 đoạn. Ý chính của từng đoạn:
- Phần 1. Từ đầu đến “còn lưu tiếng tốt”: Nêu gương các bậc trung thần nghĩa sĩ.
- Phần 2. Tiếp theo đến “ta cũng vui lòng”: Vạch trần tội ác của giặc và lòng căm thù của vị chủ tướng.
- Phần 3. Tiếp theo đến “vui vẻ phỏng có được không?”: Sai trái của tướng sĩ dưới quyền.
- Phần 4. Còn lại: Lời kêu gọi tướng sĩ ra sức học tập “Binh thư yếu lược”.
👉Câu 2 (trang 61 sgk Văn 8 Tập 2):Sự ngang ngược và tội ác của giặc được lột tả như thế nào? Đoạn văn tố cáo tội ác giặc đã khơi gợi được điều gì ở tướng sĩ?
Đáp án:
Sự ngang ngược và tội ác của giặc được lột tả:
- Sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ,..
- Thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn,..
=> Đoạn văn tố cáo tội ác của giặc đã khơi dậy được lòng tự trọng dân tộc, làm cho các tướng sĩ căm thù giặc, quyết chí đứng lên đánh giặc cứu nước.
👉Câu 3 (trang 61 sgk Văn 8 Tập 2): Phân tích lòng yêu nước, căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn qua đoạn văn tác giả tự nói lên nỗi lòng mình.
Đáp án:
Lòng yêu nước căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn trước hết thể hiện qua những hành động và thái độ của ông:
- Hành động: “tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa” kết hợp với “ta thường”. Điều đó cho thấy đây là những hành động diễn ra thường xuyên, theo mức độ tăng tiến dần: từ không ăn, đến không ngủ, đến ruột đau như cắt cuối cùng là nước mắt rơi đầm đìa.
- Thái độ: uất ức, căm tức khi chưa trả thù, sẵn sàng hy sinh để rửa mối nhục cho đất nước.
- Những câu văn biền ngẫu và những động từ mạnh liên tiếp được sử dụng chỉ trong một đoạn văn ngắn “chưa xả được thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù”.
- Quyết tâm đánh bại kẻ thù: “Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”.
👉Câu 4 (trang 61 sgk Văn 8 Tập 2): Sau khi nêu mối ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn phê phán những hành động sai của tướng sĩ, đồng thời khẳng định những hành động đúng nên làm là có dụng ý gì? Khi phê phán hay khẳng định, tác giả tập trung vào vấn đề gì? Tại sao phải như vậy?
Đáp án:
- Sau khi nêu mối ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn phê phán những hành động sai của tướng sĩ, đồng thời khẳng định những hành động nên làm nhằm thức tỉnh sự tự ý thức, trách nhiệm của binh sĩ, để họ tự nhìn nhận lại bản thân từ đó thay đổi suy nghĩ và hành động của mình.
- Khi phê phán hay khẳng định, tác giả tập trung làm rõ việc nêu cao tinh thần cảnh giác, thuyết phục họ rèn luyện, học tập theo “Binh thư yếu lược” để củng cố sức mạnh quân đội.
👉Câu 5 (trang 61 sgk Văn 8 Tập 2): Giọng văn là lời vị chủ soái nói với tướng sĩ dưới quyền hay là lời người cùng cảnh ngộ? Là lời khuyên răn bày tỏ thiệt hơn hay là lời nghiêm khắc cảnh cáo? Cách viết của tác giả có tác động tới tướng sĩ như thế nào?
Đáp án:
Giọng văn lúc thì là lời của vị chủ soái với tướng sĩ dưới quyền, lúc lại là của người cùng cảnh ngộ:
- Khi muốn bày tỏ ân tình hay khuyên răn thiệt hơn, tác giả lấy giọng gần gũi chân tình của người có chung cảnh ngộ: “các ngươi ở cùng ta…”.
=> Thức tỉnh binh lính ý thức được trách nhiệm của họ.
- Khi nghiêm khắc quở trách, cảnh cáo những hành động sai, thái độ thờ ơ, vô trách nhiệm của tướng sĩ trước vận mệnh đất nước, tác giả thẳng thắn đưa ra những lời lẽ gay gắt, như là sỉ mắng “không biết lo, không biết thẹn…”.
=> Đẩy họ vào thế phải chứng minh lòng yêu nước của mình.
👉Câu 6 (trang 61 sgk Văn 8 Tập 2): Hãy nêu một số đặc sắc nghệ thuật đã tạo nên sức thuyết phục người đọc bằng cả nhận thức và tình cảm ở bài Hịch tướng sĩ.
Đáp án:
- Thủ pháp so sánh, tương phản (đoạn 2, đoạn 3).
- Thủ pháp trùng điệp, tăng tiến.
- Lập luận chặt chẽ, kết cấu hợp lý.
- Cấu tạo hình tượng sinh động.
👉Câu 7 (trang 61 sgk Văn 8 Tập 2): Khích lệ nhiều mặt để tập trung vào một hướng, đó là cách triển khai lập luận của bài Hịch tướng sĩ. Hãy làm sáng tỏ điều này bằng một lược đồ về kết cấu của bài hịch.
Đáp án:
Giáo Án Hịch Tướng Sĩ
Chia sẻ mẫu giáo án giảng dạy tác phẩm Hịch tướng sĩ cho các thầy cô giáo.
I. Mục tiêu bài học
1. Kiến thức: HS hiểu sơ giản về thể hịch, hoàn cảnh lịch sử liên quan đến sự ra đời của bài “Hịch tướng sĩ”, tinh thần yêu nước của Trần Quốc Tuấn, ý chí quyết thắng kẻ thù xâm lược của người anh hùng dân tộc của quân và dan đời Trần.
2. Kĩ năng
- Rèn cho học sinh kĩ năng đọc – hiểu một văn bản theo thể hịch.
- Nhận biết được không khí thời đại sục sôi thời Trần ở thời điểm dân tộc ta chuẩn bị cuộc kháng chiến chống quân Mông- Nguyên xâm lược
3. Thái độ: Giáo dục cho học sinh lòng yêu nước, tự hào về những trang lịch sử vẻ vang của dân tộc , ý chí kiên trì, bền bỉ , quyết tâm trước khó khăn gian khổ.
II. Chuẩn bị tài liệu
1. Giáo viên: Soạn bài, nghiên cứu bài, nghiên cứu bài, đọc tài liệu tham khảo, tài liệu chuẩn kiến thức kĩ năng.
2. Học sinh: Chuẩn bị bài, học bài cũ, sgk,nháp, vở ghi…
III. Tiến trình tổ chức dạy học
1. Ổn định tổ chức
2. Kiểm tra
H: Phân tích lí do dời đô của Lí Công Uẩn được thể hiện trong bài Chiếu dời đô
(Thiên đô chiếu) chỉ ra sự hợp tình hợp lí của bài chiếu?
3. Bài mới
– TQTuấn là một trong những danh tướng kiệt xuất của nhà Trần, Tên ông dạng danh những trang sử Việt Nam trung đại. Ông góp công lớn trong 2 cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông (1285-1288). Ông là nhà lí luận quân sự với tác phẩm “Binh thư yếu lược” Để biết về danh tướng kiệt xuất – về tinh thàn yêu nước lớn lao của ông ta cùng tìm hiểu bài hịch do chính tay ông viết.
Hoạt động của GV và HS | Kiến thức cần đạt |
---|---|
HĐ1.HDHS đọc và tìm hiểu chú thích: – GV đọc mẫu – HD học sinh đọc, giọng điệu thay đổi linh hoạt, chậm dãi, mỉa mai, chế diễu, kích động lòng tướng sĩ , cuối bài → tâm tình. | I. Đọc và tìm hiểu chú thích: 1. Đọc : |
H: Qua phần chú thích em hãy nêu những hiểu biết của mình về tác giả ? – TQTuấn là người có phẩm chất cao đẹp, tài năng văn võ song toàn, là người có công lớn trong cuộc k/c chống Nguyên Mông lần 2 và 3 | 2. Chú thích: a. Tác giả : Trần Quốc Tuấn(Trần Hưng Đạo)(1231?- 1300). – Tước: Hưng Đạo Vương. – Ông là một anh hùng, một trong những danh tướng kiệt xuất của dân tộc. Là nhà quân sự thiên tài văn võ song toàn. Đồng thời ông là người có công lao bậc nhất của nhà Trần trong các cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông. |
H: Bài Hịch được ra đời trong hoàn cảnh nào ? | b. Tác phẩm : Bài hịch được viết trước cuộc k/c chống Nguyên–Mông lần 2 (1285), nhằm nêu cao tinh thần trung nghĩa của tướng lĩnh dưới quyền . Bài hịch tiêu biểu cho chủ nghĩa yêu nước cao đẹp (thời đại chống Nguyên- Mông). |
H: Dựa vào chú thích hãy nêu hiểu biết của em về thể hịch? – GV hướng dẫn HS tìm hiểu 27 chú thích | c. Thể hịch: – Hịch là thể văn nghị luận thời xưa, thường được vua chúa hay tướng lĩnh hoặc thủ lĩnh phong trào dùng để cổ động , thuyết phục hoặc kêu gọi đấu tranh chống thù trong giặc ngoài . – Đặc điểm: khích lệ tình cảm, tinh thần người nghe, thường viết theo thể biền ngẫu. Hịch có kết cấu chặt chẽ , lí lẽ sắc bén , có dẫn chứng thuyết phục. Từ khó :SGK/ 59 |
HĐ2. HDHS đọc – hiểu văn bản: H: Bài Hịch chia làm mấy đoạn? nội dung của mỗi đoạn? H: Nêu nhận xét của em về bố cục bài hịch ? – Chặt chẽ ,mạch lạc, sáng tạo. | II.Đọc – hiểu văn bản: 1. Bố cục :4 phần +) Đoạn 1: Từ đầu đến lưu tiếng tốt → Nêu gương trung thần nghĩa sĩ trong sử sách TQ . +) Đoạn 2: Tiếp đến cũng vui lòng → Sự ngang ngược và của kẻ thù và thể hiện lòng căm thù giặc. +) Đoạn 3: Từ các ngươi đến “không muốn vui vẻ phỏng có được không?” → phân tích phải trái làm rõ đúng sai. – Đoạn này có thể chia làm 2 đoạn nhỏ: + Từ ” Các ngươi” đến muốn vui vẻ phỏng có được không” → nêu ân tình giữa chủ và tướng, phê phán những sai trái trong hàng ngũ chiến sĩ. + Từ ” nay ta bảo thật”đến không muốn vui vẻ phỏng có được không ?”→ Khẳng định những hành động đúng nên làm để tướng sĩ thấy rõ điều hay lẽ phải. +) Phần còn lại → Nêu nhiêm vụ cấp bách, khích lệ tinh thần chiến đấu. |
– Gọi HS đọc đoạn 1 H: Những nhân vật được nêu gương có địa vị như thế nào ? H: Các nhân vật này có dặc điểm gì ? – Sẵn sàng chết vì vua và chủ tướng, không sợ nguy hiểm, hoàn thành nhiệm vụ H: Tác giả dùng biện pháp nghệ thuật nào, đoạn văn giúp em hiểu được gì ?? Theo em, tác giả nêu gương các trung thần nghĩa sĩ này để nhằm mục đích gì?→ Hiểu rõ lịch sử, tôn trọng đề cao gương sáng của lòng trung quân ái quốc | 2. Phân tích: a. Tội ác của kẻ thù và lòng căm thù giặc của TQTuấn: * Nêu gương các trung thần nghĩa sĩ: – Sẵn sàng chết vì vua, vì chủ tướng, không sợ hiểm nguy, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. → Nhằm khích lệ lòng trung quân ái quốc của tướng sĩ dưới quyền. |
H: Tình hình Đại Việt nửa cuối 1284 được tác giả nêu lại như thế nào? Biện pháp nghệ thuật gì? | *Tội ác,sự ngang ngược của kẻ thù và nỗi lòng của tác giả: Tội ác,sự ngang ngược của kẻ thù: – Tình hình đất nước hiện tại, nỗi lòng, ân tình của vị chủ tướng đối với tì tướng. – Sứ giặc nghênh ngang, lưỡi cú diều, thân dê chó, đòi ngọc lụa, thu bạc vàng. ⇒ kẻ thù ngang ngược, khiêu khích được lột tả, diễn đạt bằng hình ảnh ẩn dụ – vật hoá sự ngang ngược, vô lối, tham lam, vơ vét. – Nghệ thuật: so sánh, ẩn dụ, giọng văn mỉa mai châm biếm. |
– Thái độ tác giả như thế nào ? (căm ghét, khinh bỉ,) | – Thái độ tác giả: Căm ghét, khinh bỉ kẻ thù đau xót cho đất nước. ⇒ Giặc ngang ngược hoành hành gây bao tội ác không thể dung tha. |
– Đọc đoạn văn diễn tả lòng căm thù giặc H: Trước tội ác của giặc Trần Quốc Tuấn thấu suốt tâm địa của giặc và hiểm hoạ Tổ Quốc đang lâm nguy. Từ đó tác giả có những suy nghĩ tâm trạng như thế nào H: Lòng yêu nước, căm thù giặc của TQ Tuấn được thể hiện qua chi tiết nào? | * Nỗi lòng của tác giả: – Lòng yêu nước và căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn được thể hiện cụ thể bằng hành động tâm trạng: quên ăn , mất ngủ, đau đến thắt tim , thắt ruột. “Tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”, – Thể hiện qua thái độ uất ức, căm tức: khi chưa trả được thù “căm tức chưa xả thịt, lột da, nuốt gan uống máu quân thù” – Sẵn sàng hy sinh để rửa mối nhục cho đất nước “…Dẫu cho trăm thân phơi…nghìn xác gói trong da ngựa…vui lòng.” |
H: Đoạn văn được cấu tạo ntn ? liên kết ý trong câu ? H: Cách cấu tạo ấy có tác dụng gì trong việc diễn tả tâm trạng con người từ đó hình ảnh người anh hùng yêu nước được khắc hoạ như thế nào? GV: Mỗi chữ, mỗi lời như chảy trực tiếp từ trái tim, qua ngòi bút lên trang giấy → H/tượng người anh hùng TQTuấn đau xót đến quặn lòng trước cảnh tình đất nước, căm thù giặc đến bầm gan, tím ruột, mong rửa nhục đến mất ngủ, quên ăn. | NT: Câu văn có 2 ý liên kết nhau : nỗi đau xót, tiếp đó là nỗi căm hờn kẻ thù. Nhiều động từ chỉ trạng thái tâm lí và hành động mãnh liệt:quên ăn, vỗ gối, xả thịt, lột da, nuốt gan, uống máu. ⇒ Hình ảnh cụ thể, có phần khoa trương phóng đại để cực tả niềm uất hận trào dâng trong lòng đồng thời có súc thuyết phục, khơi gợi sự đồng cảm người nghe, người đọc. NT: Tác giả dùng nhiều dấu phẩy, ĐT chỉ hoạt động, trạng thái : Quên, vỗ, lột , nuốt, uống…. → căm hờn kẻ thù. |
H: Nhận xét về giọng điệu lời văn? – Nỗi lòng chủ tướng được biểu hiện ntn ? Bằng cách nào ? (mỗi chữ mỗi dòng như máu chảy, như nước mắt hiên trên mặt trang giấy, đó là gan ruột, tâm huyết vị tổng chỉ huy bày tỏ, tâm sự). – Vì sao cảm xúc căm giận của tác giả có sức lây lan đến người đọc, người nghe ? + Vì tình cảm ấy chân thành, mãnh liệt. + Nói hộ tình cảm chung của mọi người thời đó. | NT: Tác giả dùng nhiều dấu phẩy, ĐT chỉ hoạt động, trạng thái : Quên, vỗ, lột , nuốt, uống…. → căm hờn kẻ thù.- Giọng điệu thống thiết, căm hờn. ⇒ H/ảnh người anh hùng yêu nước, đau xót trước vận nước lâm nguy và có lòng căm thù giặc sâu sắc. |
4. Củng cố, luyện tập
H: Bố cục của bài hịch? Phân tích tội ác mà kẻ thù đã gây ra trên đất nước ta được nêu trong lờihịch của Trần Quốc Tuấn?
5. Hướng dẫn học ở nhà: Học bài cũ ,chuẩn bị : “Hịch tướng sĩ”(tiết 2)
Đọc thêm tác phẩm 🌿 Bạch Đằng Hải Khẩu 🌿 Nội Dung, Nghệ Thuật
Sơ Đồ Tư Duy Hịch Tướng Sĩ
Các sơ đồ tư duy văn bản Hịch tướng sĩ sau đây sẽ hỗ trợ các bạn rất nhiều trong quá trình học bài đấy.
5 Mẫu Phân Tích Hịch Tướng Sĩ Hay Nhất
Gửi đến bạn đọc 5 mẫu phân tích tác phẩm Hịch tướng sĩ hay nhất dưới đây.
Mẫu Phân Tích Hịch Tướng Sĩ Hay – Mẫu 1
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là vị anh hùng dân tộc văn võ toàn tài. Tên tuổi ông gắn liền với Binh thư yếu lược, Hịch tướng sĩ và chiến công Bạch Đằng bất tử.
Trần Quốc Tuấn được vua nhà Trần cử giữ chức Tiết chế thống lĩnh lãnh đạo cuộc kháng chiến lần thứ hai (1285) và lần thứ ba (1288) đánh thắng quân xâm lược Nguyên – Mông.
Hịch tướng sĩ được Trần Quốc Tuấn viết vào năm 1282 và trước hội nghị quân sự Bình Than của các vương hầu. Đó là một luận văn quân sự nổi tiếng trong lịch sử dân tộc, là lời kêu gọi chiến đấu quyết tâm đánh thắng quân xâm lược để bảo vệ sơn hà xã tắc của ông cha ta hơn bảy trăm năm về trước từng làm sôi sục lòng người. Có ý kiến cho rằng: Hịch tướng sĩ là khúc tráng ca anh hùng sáng ngời hào khí Đông – A.
Đông – A là khái niệm mà các nhà lịch sử dùng để chỉ triều đại nhà Trần(1226-1400), hào khí nghĩa là chí khí hào hùng, chí khí anh hùng. Câu nói trên nhằm ca ngợi Hịch tướng sĩ là bản anh hùng ca sáng ngời chí khí hào hùng, chí khí anh hùng của Đại Việt trong triều đại nhà Trần. Bài hịch đã vạch trần âm mưu xâm lược của giặc Nguyên – Mông, thể hiện lòng căm thù giặc sôi sục, nêu cao ý chí quyết chiến quyết thắng, sẵn sàng xả thân trên chiến địa để bảo vệ sơn hà xã tắc.Hào khí Đông-A tỏa sáng trong Hịch tướng sĩ chính là lòng yêu nước
nồng nàn, khí phách anh hùng lẫm liệt của tướng sĩ nhà Trần và nhân dân ta trong thế kỉ XIII đã ba lần đánh giặc Nguyên – Mông.
Hịch tướng sĩ là một khúc ca, bởi lẽ trước hết Trần Quốc Tuấn đã nêu cao gương sáng các bậc trung thần nghĩa sĩ, những mẫu người lí tưởng của chế độ phong kiến đã xả thân vì lòng trung quân ái quốc. Đó là Kỉ Tín, Do Vũ, Dự Nhượng, Thân Khoái, Kính Đức, Cảo Khanh… đã bỏ mình vì nước, thoát khỏi thói nữ nhi thường tình trở thành vĩ nhân lưu danh sử sách, cùng trời đất muôn đời bất hủ.
Hịch tướng sĩ là bản hùng ca của Đại Việt sáng ngời hào khí Đông- A. Nó thể hiện một tầm nhìn chiến lược, thấy rõ tim gan đen tối, dã tâm của quân giặc phương Bắc, tham lam tàn bạo cực độ, của âm mưu biến nước ta thành quận, huyện của chúng. Sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, coi kinh thành Thăng Long như lãnh địa của chúng.
Lòng tham vô đáy, lúc thì chúng thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, lúc thì giả hiệu Vân Nam Vương mà thử bạc vàng, để vét của kho có hạn. Chúng là cú diều, là dê chó, là hổ đói rất bẩn thỉu, tham lam, độc ác, phải khinh bỉ và căm ghét tận xương tủy, phải tiêu diệt!
Hịch tướng sĩ là tiếng nói căm giận bốc lửa quyết không đội trời chung với lũ giặc Nguyên – Mông. Nó là khúc tráng ca chứa chan tinh thần yêu nước, biểu lộ khí phách của anh hùng Trần Quốc Tuấn quyết chiến quyết thắng quân xâm lược, nguyện xả thân trên chiến trường để bảo vệ Tổ quốc Đại Việt: Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.
Có thể nói, đây là đoạn văn hay nhất, hùng tráng nhất trong Hịch tướng sĩ thể hiện một cách tuyệt vời hào khí Đông – A.
Hịch tướng sĩ là một áng văn chính luận đanh thép nhất, hùng biện nhất thể hiện chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng Đại Việt sáng ngời hào khí Đông – A. Trần Quốc Tuấn đã nói với tướng sĩ đời Trần về nhục và vinh, thắng và bại, mất và còn, sống và chết, khi vận mệnh Tổ quốc lâm nguy. Mất cảnh giác, chỉ biết hưởng lạc như: lấy việc chọi gà làm vui đùa, …, lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển,(…) lo làm giàu mà quên việc nước, ham săn bắn và quên việc binh, chỉ thích rượu ngon,mê tiếng hát,… thì bại vong là tất yếu. Nếu có giặc Mông Cổ tràn sang thì ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào? Bại vong là thảm họa.
Chẳng những thái ấp của ta không còn, mà bổng lộc các ngươi cũng mất, chẳng những gia quyến của ta bị tan, mà vợ con các ngươi cũng khốn, chẳng những xã tắc tổ trong ta bị giày xéo mà phần mộ cha mẹ các ngươi cũng bị quật lên, chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục, rồi đến trăm năm sau, tiếng dơ không rửa, tên xấu còn lưu, mà đến gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang tiếng là tướng bại trận.
Thân làm tướng, kẻ nam nhi trong thời loạn phải biết lo khi nhìn chủ nhục, phải biết thẹn khi thấy nước nhục, phải biết tức khi thấy nước nhục, phải biết tức khi phải hầu quân giặc, phải biết căm khi nghe nhạc Thái thường để đãi yến ngụy sứ!
Thân làm tướng phải cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu: huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ, có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai. Đó là quyết chiến quyết thắng, là vinh quang.
Hịch tướng sĩ sáng ngời hào khí Đông-A, nó có tác dụng khích lệ, động viên tướng sĩ quyết chiến quyết thắng giặc Nguyên- Mông. Hịch của vị Tiết chế Quốc công như tiếng kèn xung trận vang dội núi sông. Nó đã góp phần không nhỏ tạo nên sức mạnh của đoàn dũng sĩ Sát Thát lập nên bao chiến công oai hùng như Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng Giang,…
Hịch tướng sĩ đã phản chiếu sáng ngời hào khí Đông-A qua những tấm gương đầy khí phách lẫm liệt. Là tiếng nói sắt đá vang lên trong những giờ phút hiểm nghèo: Nếu bệ hạ muốn hàng, xin chém đầu thần trước đã! Là tư thế lẫm liệt hiên ngang của Trần Bình Trọng: Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc. Là chí khí anh hùng của Trần Quốc Toản: phá cường địch, báo hoàng ân. Là dũng khí của Phạm Ngũ Lão với đạo quân phụ- tử chi binh trăm trận trăm thắng:
Múa giáo non sông trải mấy thâu,
Ba quân hùng khí át sao ngưu.
(Thuận hoài – Phạm Ngũ Lão)
Tóm lại, Hịch tướng sĩ là tác phẩm lớn nhất, tráng lệ nhất,biểu hiện tinh thần yêu nước của văn học đời Trần. Qua bài hịch, ta càng thêm ngưỡng mộ và biết ơn vị anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn. Hịch tướng sĩ, còn có tác dụng to lớn, sâu sắc bồi dưỡng lòng yêu nước, khí phách anh hùng, tinh thần tự lập tự cường cho thế hệ trẻ Việt Nam.
Mẫu Phân Tích Hịch Tướng Sĩ Chọn Lọc – Mẫu 2
Trong dòng chảy của tinh thần yêu nước xuyên suốt tiến trình văn học trung đại Việt Nam, “Hịch tướng sĩ” của tác giả Trần Quốc Tuấn là một trong những tác phẩm tiêu biểu nêu cao tinh thần quyết chiến quyết thắng- biểu hiện tập trung nhất cho tinh thần yêu nước lúc bấy giờ. Ra đời vào khoảng trước cuộc kháng chiến chống Mông- Nguyên lần thứ hai (1285), “Hịch tướng sĩ” đã nêu cao tinh thần chống giặc ngoại xâm, trở thành đỉnh cao nhất của văn học yêu nước thời Trần.
Mở đầu tác phẩm, tác giả Trần Quốc Tuấn đã nêu bật những tấm gương vinh danh sử sách để khích lệ chí lập công lập danh và tinh thần hi sinh vì sự nghiệp bảo vệ giang sơn bờ cõi của các tướng sĩ.
Đó là các bậc trung thần nghĩa sĩ: có người là tướng lĩnh như Kỉ Tín, Do Vu, Dự Nhượng, có người bình thường như Thân Khoái, Kính Đức, Cảo Khanh và cả những tấm gương đời xưa ở thời Xuân thu, Chiến quốc, triều đại nhà Hán, nhà Đường, thời Tống, thời Nguyên. Tác giả nêu gương sáng với mục đích khích lệ tinh thần dũng cảm và lí tưởng chân chính của người tướng sĩ “cùng trời đất muôn đời bất hủ”.
Ở phần tiếp theo của tác phẩm, tác giả đã miêu tả chân thực tội ác và sự ngang ngược của giặc để khơi gợi lòng căm thù và tự tôn dân tộc. Tác giả đã vận dụng lối nói ẩn dụ với những từ ngữ vô cùng độc đáo như “lưỡi cú diều”, “thân dê chó” để diễn tả lòng căm thù và cái nhìn coi thường đối với kẻ thù xâm lược để khích lệ tinh thần yêu nước bất khuất.
Và lòng căm thù đó đã được kết tinh cao độ qua những lời giãi bày trực tiếp vô cùng chân thành: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”.
Tác giả đã trực tiếp bộc lộ thái độ không khoan nhượng trước kẻ thù để truyền lửa tới những binh lính dưới quyền, tạo nên âm hưởng kiên cường và bi tráng cho bài hịch. Đồng thời cho thấy quan điểm của tác giả về tinh thần yêu nước cũng như mục đích cao cả mà bài hịch muốn hướng tới: yêu nước thì phải chiến đấu, phải diệt giặc để bảo vệ bờ cõi.
Và để biến tinh thần yêu nước trở thành lí tưởng, hành động đúng đắn, tác giả đã lên án, phê phán thái độ, hành động sai trái của các tướng sĩ đồng thời nêu ra những hành động đúng đắn mà họ nên làm. Tác giả đã vạch rõ ranh giới giữa hai con đường chính- tà để thuyết phục tướng sĩ.
Dưới quan điểm của tác giả, những việc làm tưởng chừng như nhỏ nhặt, bao gồm thú vui chọi gà, cờ bạc, ham săn bắn,… là những hành vi lệch lạc và là biểu hiện của thói ăn chơi hưởng lạc, đặc biệt là trong bối cảnh đất nước phải đối mặt với hiểm họa xâm lăng.
Điểm mới mẻ trong bài hịch này là tác giả đã đặt ra mối quan hệ giữa quốc gia dân tộc và gia đình, giữa cái chung và cái riêng: thái ấp, bổng lộc không còn; gia quyến, vợ con khốn cùng, tan nát mà xã tắc, tổ tông bị giày xéo: thể hiện rõ quan điểm nước mất nhà tan. Bởi vậy, việc đúng đắn mà mỗi một người nên làm là chăm lo “tập dượt cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ” để bảo vệ giang sơn bờ cõi.
Bằng tinh thần yêu nước cùng tấm lòng của một vị chủ tướng có trách nhiệm, Trần Quốc Tuấn đã viết nên một bài hịch vô cùng xúc động, nhưng đồng thời cũng rất quyết liệt, mạnh mẽ về tinh thần giải phóng, đấu tranh chống lại giặc ngoại xâm. Tinh thần quyết chiến quyết thắng trở thành xương sống liên kết các phần trong bài hịch, tạo nên sự gắn kết hữu cơ và thống nhất.
Mẫu Phân Tích Hịch Tướng Sĩ Tiêu Biểu – Mẫu 3
Trần Quốc Tuấn (1231 – 1300) – người đã được vua Trần giao cho thống lĩnh quân đội, đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên thắng lợi vẻ vang. Người nổi tiếng là biết trọng kẻ sĩ thu phục nhân tài. Trần Quốc Tuấn là một người anh hùng dân tộc, nhà quân sự thiên tài, lòng yêu nước của ông nước thể hiện rõ qua văn bản “Hịch tướng sĩ”, văn bản khích lệ tướng sĩ học tập cuốn “Binh thư yếu lược” do ông biên soạn.
Trước sự lâm nguy của đất nước, lòng yêu nước thiết tha của vị chủ soái Trần Quốc Tuấn được thể hiện ở lòng căm thù sục sôi quân cướp nước. Ta hãy nghe ông kể tội ác của giặc: “Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thoả lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, vét của kho có hạn, thật khác nào đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai hoạ về sau!”.
Tác giả gọi giặc là “cú diều, dê chó, hổ đói” không chỉ vạch trần sự tham lam, độc ác mà còn vạch rõ dã tâm xâm lược của giặc; thể hiện sự khinh bỉ, căm ghét tột độ. Không chỉ kể tội ác của giặc mà Trần Quốc Tuấn còn bày tỏ nỗi đau xót trước nỗi nhục của quốc thể, nỗi đau đớn xót xa.
Đó là biểu hiện của sự sẵn sàng xả thân để rửa nhục cho nước, để bảo vệ nền độc lập của dân tộc, khát vọng nước xả thân cho nước: “Chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng”.
Qua bài hịch, Trần Quốc Tuấn không chỉ thể hiện lòng căm thù sục sôi quân cướp nước mà còn thể hiện ý chí quyết chiến, quyết thắng, quyết xả thân cho độc lập dân tộc. Ông vạch ra hai con đường chính – tà cũng là một con đường sống chết để thuyết phục tướng sĩ. Trần Quốc Tuấn biểu lộ một thái độ dứt khoát: hoặc là địch hoặc là ta, không có vị trí chông chênh cho những kẻ bàng quan trước thời cuộc.
“Giặc với ta là kẻ thù không đội trời chung, các ngươi cứ điềm nhiên không biết rửa nhục, không lo trừ hung, không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà chịu đầu hàng, giơ tay mà không chịu thua giặc. Nếu vậy rồi đây sau khi giặc đã dẹp yên, muôn đời để thẹn, há còn mặt mũi nào đứng trong trời đất nữa?”, đó là lời động viên tới mức cao nhất ý chí và quyết tâm chiến đấu của mọi người.
Tình yêu thương chân thành, tha thiết dành cho tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đều được xuất phát từ lòng nhân hậu từ lòng yêu nước.
Với quân sĩ dưới quyền, Trần Quốc Tuấn luôn đối xử như với con mình, với những người quen: “Các ngươi cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu ngày, không có mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm; quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng; đi thuỷ thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa; lúc trận mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười”. Đó là mối ân tình giữa chủ và tướng nhằm khích lệ ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người đối với lẽ vui tôi cũng như tình cốt nhục.
Chính tình yêu thương tướng sĩ chân thành tha thiết mà Trần Quốc Tuấn đã phê phán những biểu hiện sai, đồng thời chỉ ra cho tướng sĩ những hành động đúng nên theo, nên làm. Những hành động này đều xuất phát từ ý chí quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược.
Đó là sự băn khoăn trước tình trạng tướng sĩ không biết lo lắng cho đất nước: không thấy lo, thấy thẹn khi nhà vua và đất nước bị kẻ thù làm nhục; chỉ biết vui thú tiêu khiển, lo làm giàu, ham săn bắn, thích rượu ngon, mê tiếng hát,…
Nguy cơ thất bại rất lớn khi có giặc Mông Thái tràn sang: “cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh; dẫu rằng ruộng lắm, vườn nhiều, tấm thân qúy nghìn vàng khôn chuộc; vả lại vợ bìu con díu; việc quân cơ trăm sự ích chi; tiền của tuy nhiều không mua được đầu giặc, chó săn tuy khoẻ không đuổi được quân thù, chén rượu ngon không thể làm cho giặc say chết, tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai. Lúc bây giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào!”.
Chính lòng yêu nước mà Trần Quốc Tuấn đã chỉ ra cho tướng sĩ những hành động nên làm: “Nay ta bảo thật các ngươi: nên nhớ câu “đặt mồi lửa vào giữa đông củi là nguy cơ, nên lấy điều “kiềng canh nóng mà thổi rau nguội” “làm run sợ, huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên”.
Bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc ta nói chung và Trần Quốc Tuấn nói riêng trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Nó được thể hiện qua lòng căm thù giặc, ý chí quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược và những tình cảm dành cho tướng sĩ dưới trướng.
Mẫu Phân Tích Hịch Tướng Sĩ Ngắn Hay – Mẫu 4
Trần Quốc Tuấn là một vị tướng tài đã có công lớn trong hai cuộc kháng chiến chống giặc Mông. Tác phẩm “Hịch tướng sĩ” được ra đời trước cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – mông lần thứ hai mang tình yêu tha thiết, nồng nàn của ông dành cho quê hương, đất nước. Đồng thời, tác phẩm còn được coi là lời hiệu triệu toàn quân trước ngày ra trận.
Là một vị tướng kiệt xuất, Trần Quốc Tuấn yêu nước tha thiết và hết lòng tận trung với dân, với nước. Nên khi thấy giặc ngoại xâm ngang tàng, dám coi thường đất nước, sỉ nhục vua quan, ông tố cáo chúng bằng lời lẽ đanh thép: “ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê cho mà bắt nạt tể phụ”.
Ta lại càng căm tức hơn khi chúng dám vơ vét tài sản của nhân dân: “thác mệnh hốt tất liệt mà đòi ngọc lụa, để thỏa lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vơ vét của kho có hạn.” Đưa ra những bằng chứng về sự tàn bạo, tham lam của giặc, Trần quốc Tuấn đã khơi dậy lòng căm thù và ý chí chiến đấy của toàn thể nhân dân, tướng sĩ.
Trước nỗi nhục mất nước, dân tộc rơi vào cảnh lâm nguy, một vị tướng tài không khỏi trằn trọc băn khoăn, lo lắng: “Ta thường đến bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Ông đau đáu nhìn vận nước đang suy mà căm thù lũ giặc, quyết không đội trời chung: “xả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân thù.” Ông nguyện hi sinh bản thân để đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành lại độc lập cho dân tộc: “dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.”
Không chỉ một lòng vì nước quên thân, Trần Quốc Tuấn còn là một vị tướng biết yêu thương những binh sĩ như những người anh em cùng nhau xông pha ngoài chiến trường: “không có mặc thì ta cho cơm, không có ăn thì ta cho cơm, quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ra cấp bổng, đi thủy thì cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa”. Bởi vậy, những binh sĩ vừa khâm phục đức hi sinh của ông mà lại vừa cảm thấy gần gũi, cảm động trước những ân tình ông dành cho họ.
Song song với sự quan tâm tới các binh sĩ, ông cũng phê phán nghiêm khắc những tư tưởng, ý thức sai trái của họ: “thấy nước nhục mà không biết lo, thấy chủ nhục mà không biết thẹn, làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức”.
Ông cũng phê bình gay gắt những người chỉ ham chơi mà bỏ bê trách nhiệm, nhất là khi đất nước đang lâm nguy: “lấy việc chọi gà làm vui đùa, lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển, hoặc vui thú vườn ruộng, hoặc quyến luyến vợ con, hoặc lo làm giàu mà quên việc nước, hoặc ham săn bắn mà quên việc binh, hoặc thích uống rượu, hoặc mê ca hát.”
Trần Quốc Tuấn đã làm thức tỉnh biết bao binh sĩ để họ ý thức được những việc làm sai trái của chính mình, để từ đó mà sửa chữa, trở lại với trách nhiệm mà bản thân cần đảm đương lúc này. Đó chính là cùng nhau đoàn kết, rèn luyện và chiến đấu với quân thù, bảo vệ đất nước.
“Hịch tướng sĩ” thực sự là một áng văn bất hủ cho thấy Trần Quốc Tuấn không chỉ là một vị tướng tài yêu đất nước, có khả năng thu phục lòng người mà còn là một tài năng văn chương xuất chúng. Với giọng văn đanh thép chứa đầy những suy tư về vận mệnh dân tộc, tên tuổi ông sẽ mãi rạng ngời trên những trang văn học, trang sử vàng của dân tộc Việt Nam.
Mẫu Phân Tích Hịch Tướng Sĩ Hay Đặc Sắc – Mẫu 5
Thế kỉ XIII, đất nước Đại Việt liên tục đứng trước mối đe dọa của giặc Nguyên. Chiến đấu để độc lập, tự chủ, hay đầu hàng để chịu mất nước, nô lệ? Vua tôi nhà Trần đã quyết chọn con đường chiến đấu. Nhưng làm sao để có thể chọn được con đường ấy? Trần Quốc Tuấn đã đưa ra một lời giải đáp vừa thấu lí vừa đạt tình trong bài ‘Hịch tướng sĩ‘ bất hủ của mình. Bài hịch, mặc dầu là một bài văn chính luận, nhưng có những đoạn văn đọc lên nghe rất thống nhất, tràn đầy tình cảm như đoạn ông viết về lòng căm thù đối với quân giặc.
Trần Quốc Tuấn viết:
‘…Huống chi, ta cùng các ngươi sinh ra phải thời rối ren, lớn lên gặp buổi khó nhọc’. Không phải riêng ta hay riêng các ngươi, mà ta ‘cùng các ngươi’. Nói thế Trần Quốc Tuấn đã chia sẻ tâm sự của mình cùng với các tướng sĩ, cũng là chia một chân lí của thời đại: trong thời bình, cương vị của mọi người có thể khác nhau, nhưng khi đất nước bị lâm nguy, nền tự chủ của đất nước bị đe dọa hoặc nếu mất nước thì tất cả mọi người, không trừ ai, sẽ giống nhau trước nỗi nhục chung, nỗi khổ chung của kẻ mất nước.
Bởi vậy, nỗi nhục sau đây không phải của riêng ai: ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ… Những sự việc như thế có thể nhiều người đã biết một cách riêng biệt và cụ thể, đã được vị tướng họ Trần hệ thống lại, dựng thành một bức tranh sinh động về hành động láo xược của sứ nhà Nguyên.
Ông chỉ nêu lên ba sự việc của bọn chúng: đi lại nghênh ngang, sỉ mắng triều đình, bắt nạt tể phụ (tức là bậc đứng đầu trong các quan), kèm theo những hình ảnh diễn tả đầy căm giận: ‘uốn lưỡi cú diều’, ‘đem thân dê chó’. Những sự việc đó nhằm nói lên điều gì? Danh dự của đất nước bị sỉ nhục, chủ quyền của đất nước xâm phạm. Làm sao có thể không cảm thấy chính mình bị nhục, làm sao có thể không cảm thấy lòng đầy căm giận khi chính mắt mình nhìn thấy những sự việc như thế.
Tác giả bài hịch lại kể tiếp về bọn giặc: ‘… lại thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thỏa lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng để vét của kho có hạn’. Không chỉ dừng lại ở những hành động láo xược, bọn xứ giặc còn có những đòi hỏi vô lý về của cải vật chất. Ý nghĩa toát ra từ việc trở nên rất sinh động khi tác giả đặt ra sự tương phản giữa ‘của kho có hạn’ với ‘lòng tham khôn cùng’ của bọn sứ Mông cổ.
Thế thì, với những hành động ngông cuồng, sỉ nhục về mặt tinh thần, vơ vét về mặt vật chất, bọn sứ giặc đã lộ rõ bản chất tham tàn của kẻ xâm lược. Từ đó, thái độ nhìn xa trông rộng đầy tinh thần cảnh giác của tác giả đã hoàn toàn đúng đắn: ‘Thật khác nào ném thịt cho hổ đói, sao cho khỏi gây tai vạ về sau!‘
Như thế có nghĩa là sự nhân nhượng đã đến chỗ tận cùng giới hạn. Không thể nhân nhượng hơn được nữa! Không thể nhẫn nhục hơn được nữa! Đến đây, Trần Quốc Tuấn bày tỏ lòng căm giận của mình: ‘Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức rằng chưa xẻ thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù, dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng’.
Trong văn thơ cổ, thật chưa có ở đâu, lòng căm thù giặc và ý chí quyết chiến được diễn tả một cách chân thành, thống thiết và mãnh liệt đến thế. Đây là lòng căm thù và ý chí riêng của một người nhưng cũng tiêu biểu cho lòng căm thù và ý chí của toàn thể nhân dân Đại Việt. Hay có thể nói: ý chí của cả một dân tộc, một đất nước dồn nén lại trong nỗi niềm của một con người.
Có một điều đáng lưu ý: ở đoạn trên tác giả nói đến hoàn cảnh chung của ‘ta’ và ‘các ngươi’, nhắc đến nguy cơ chung, nỗi nhục chung của ‘ta cùng các ngươi’ nhưng đến đoạn sau, nói lên ý chí căm thù giặc, tác giả chỉ nói ‘ta’. Vì sao vậy? Vì đó chính là điều mà vị tổng tư lệnh quân đội mong đợi ở tướng sĩ, đòi hỏi ở mỗi tướng sĩ của mình. Đằng sau đoạn văn là một câu hỏi bức bách: thời cuộc rối ren như vậy, đất nước gặp buổi khó khăn như vậy, nỗi lòng ta như vậy, còn lòng các ngươi ra sao? Các ngươi đã thấy nỗi nhục của nước, nhưng các ngươi đã có lòng căm hận đến như thế chăng?
Nếu ‘Hịch tướng sĩ’ của Trần Quốc Tuấn là một trong những áng văn hay nhất thời cổ, thì đoạn văn trên là một trong những đoạn văn vừa hùng hồn vừa tình cảm nhất của bài hịch. Đọc đoạn văn, ta còn như nghe vang lên khí thế của cả một thời kì lịch sử oanh liệt.
Sưu tầm các bài phân tích❤️️Tiếng Mẹ Đẻ Nguồn Giải Phóng Các Dân Tộc Bị Áp Bức ❤️️Hay nhất