Nội Dung Tác Phẩm Tức Nước Vỡ Bờ ❤️️ Đọc Hiểu, Tóm Tắt, Giá Trị, Phân Tích ✅ Cập Nhật Dàn Ý, Bố Cục, Giáo Án, Sơ Đồ Tư Duy, Ý Nghĩa Nhan Đề.
NỘI DUNG CHÍNH
Xuất Xứ Và Hoàn Cảnh Sáng Tác Tức Nước Vỡ Bờ
Đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” là một phần của tiểu thuyết “Tắt đèn” của nhà văn Ngô Tất Tố, được sáng tác trong bối cảnh xã hội Việt Nam đầu thế kỷ 20. Tiểu thuyết này phản ánh cuộc sống khốn khó của người nông dân dưới ách thống trị của chế độ phong kiến và thực dân, qua đó tố cáo những bất công và áp bức mà họ phải chịu đựng.
“Đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” trích từ chương XVIII của tiểu thuyết “Tắt đèn”, tác phẩm tiêu biểu nhất của Ngô Tất Tố. Đoạn trích này mô tả cảnh chị Dậu, một người phụ nữ nông dân, đã đứng lên chống lại sự áp bức của bọn cai lệ và lí trưởng để bảo vệ chồng mình.
Câu chuyện diễn ra trong một ngôi làng nghèo ở Bắc Bộ, nơi mà cuộc sống của người dân bị chi phối bởi những quy định nặng nề và sự tàn bạo của những kẻ có quyền lực.
Hoàn cảnh sáng tác của “Tức nước vỡ bờ” cũng phản ánh quan điểm và tâm huyết của Ngô Tất Tố đối với vận mệnh của người nông dân và mong muốn thức tỉnh lương tri của xã hội, đồng thời khẳng định ý chí và nghị lực của người phụ nữ Việt Nam
Nội Dung Truyện Ngắn Tức Nước Vỡ Bờ
Văn học Việt Nam trước năm 1945 tập trung tái hiện tình cảnh đáng thương, thống khổ đến cùng cực của người nông dân trong xã hội phong kiến. Một trong những tác phẩm hiện thực có giá trị tố cáo mạnh mẽ nhất là “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, đặc biệt đoạn trích “Tức nước vỡ bờ”. Cùng Thohay.vn xem ngay nội dung truyện ngắn Tức nước vỡ bờ đầy đủ.
Cháo chín, chị Dậu bắc mang ra giữa nhà, ngả mâm bát múc ra la liệt. Rồi chị lấy quạt cho chóng nguội.
Tiếng trống và tiếng tù và đã thủng thẳng đưa nhau từ phía đầu làng đến đình.
Tiếng chó sủa vang các xóm.
Bà lão láng giềng lại lật đật chạy sang:
– Bác trai đã khá rồi chứ?
– Cảm ơn cụ, nhà cháu đã tỉnh táo như thường. Nhưng xem ý hãy còn lề bề, lệt bệt chừng như vẫn mỏi mệt lắm.
– Này, bảo bác ấy có trốn đi đâu thì trốn. Chứ cứ nằm đấy, chốc nữa họ vào thúc sưu, không có, họ lại đánh trói thì khổ. Người ốm dề dề như thế, nếu lại phải một trận đòn, nuôi mấy tháng cho hoàn hồn?
– Vâng, cháu cũng đã nghĩ như cụ. Nhưng để cháo nguội, cháu cho nhà cháu ăn lấy vài húp cái đã.
Nhịn xuông từ sáng hôm qua đến giờ còn gì.
– Thế thì phải giục anh ấy ăn mau mau đi, kẻo nữa người ta sắp sửa keo vào rồi đấy!
Rồi bà lão lại lật đật trở về với vẻ mặt băn khoăn.
Cháo đã hơi nguội.
Thằng Dần vục đầu vừa thổi vừa húp soàn soạt.
Chị Dậu rón rén bưng một bát lớn đến chỗ chồng nằm:
– Thầy hãy cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột.
Rồi chị đón lấy cái Tỉu và ngồi xuống đó, như có ý chờ xem chồng chị ăn có ngon miệng hay không.
Anh Dậu uốn vai ngáp dài một tiếng. Uể oải, chống tay xuống phản, anh vừa rên vừa ngỏng đầu lên. Run rẩy cất bát cháo, anh mới kề vào đến miệng. Cai lệ và người nhà lí trưởng đã sầm sập tiến vào với những roi song, tay thước và dây thừng.
Gõ đầu roi xuống đất, cai lệ thét bằng giọng khàn khàn của người hút nhiều xái cũ:
– Thằng kia, ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp nốt tiền sưu! Mau!
Hoảng quá anh Dậu vội để bát cháo xuống phản, lăn đùng ra đó, không nói được một câu gì. Người nhà lí trưởng cười cách mỉa mai:
– Anh ta sắp phải gió như đêm qua đấy!
Rồi hắn chỉ luôn vào mặt chị Dậu:
– Chị khất tiền sưu đến chiều mai phải không? Ðấy chị hãy nói với ông cai, để ông ấy ra đình kêu với quan cho! Chứ ông Lý tôi thì không có quyền dám cho chị khất một giờ nào nữa!
Chị Dậu run run:
– Nhà cháu đã túng, lại phải đóng cả xuất sưu của chú nó nữa, nên mới lôi thôi như thế. Chứ cháu có dám bỏ bễ tiền sưu của nhà nước đâu! Hai ông làm phúc nói với ông lí hãy cho cháu khất…
Cai lệ không để cho chị được nói hết câu, trợn ngược hai mắt, hắn quát:
– Mày định nói cho cha mày nghe đấy à? Sưu của nhà nước, mà dám mở mồm xin khất!
Chị Dậu vẫn cố thiết tha:
– Khốn nạn! Nhà cháu đã không có, dẫu ông chửi mắng cũng đến thế thôi. Xin ông trông lại!
Cai lệ vẫn giọng hằm hè:
– Nếu không có tiền nộp sưu cho ông bây giờ, thì ông sẽ rỡ cả nhà mày đi, chửi mắng thôi à?
Rồi hắn quay ra bảo anh người nhà lí trưởng:
– Không hơi đâu mà nói với nó, trói cổ thằng chồng nó lại, điệu ra đình kia Người nhà Lí trưởng hình như không dám hành hạ một người ốm nặng, sợ hoặc xảy ra sự gì, hắn cứ lóng ngóng ngơ ngác, muốn nói mà không dám nói. Ðùng đùng, Cai lệ giật phắt cái thừng trong tay anh này và chạy sầm sập đến chỗ Anh Dậu.
Chị Dậu xám mặt, vội vàng đặt con bé con xuống đất, chạy đến đỡ lấy tay hắn:
– Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho!
– Tha này, tha này!
Vừa nói hắn vừa bịch luôn vào ngực chị Dậu, mấy bịch, rồi lại sấn đến để trói anh Dậu.
Hình như tức quá không thể chịu được, chị Dậu liều mạng cự lại:
– Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ.
Cai lệ tát vào mặt chị một cái bốp, rồi hắn cứ nhảy vào cạnh anh Dậu, Chị Dậu nghiến hai hàm răng:
– Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!
Rồi chị túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa. Sức lẻo khoẻo của anh chàng nghiện chạy không kịp với sức xô đẩy của người đàn bà lực điền, hắn ngã chỏng quèo trên mặt đất, miệng vẫn nham nhảm thét trói vợ chồng kẻ thiếu sưu.
Người nhà lí trưởng sấn sổ bước đến, huơ gậy chực đánh chị Dậu. Nhanh như cắt, chị Dậu nắm ngay được gậy của hắn. Hai người giằng co nhau du đẩy nhau, rồi ai nấy đều buông gây ra, áp vào vật nhau. Hai đứa trẻ con kêu khóc om sòm. Kết cục, anh chàng “hầu cận ông lí” yếu hơn chị chàng con mọn, hắn bị chị này túm tóc lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm.
Anh Dậu sợ quá muốn dậy can vợ, nhưng mệt đắm ngồi lên lại nằm xuống, vừa run vừa rên:
– U nó không được thế! Người ta đánh mình không sao, mình đánh người ta thì mình phải tù phải tội.
Chị Dậu vẫn chưa nguôi giận:
Thà ngồi tù. Ðể cho chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được…
Tìm hiểu thêm phân tích 🌿 Trong Lòng Mẹ 🌿 Nội Dung, Nghệ Thuật
Tóm Tắt Tức Nước Vỡ Bờ
Chia sẻ cho bạn đọc bản tóm tắt Tức nước vỡ bờ.
Chị Dậu dứt ruột bán con mà chưa đủ tiền nộp sưu. Anh Dậu đang ốm cũng bị lôi ra đình đánh thập tử nhất sinh. Bà hàng xóm cho bát gạo, chị Dậu vừa nấu xong nồi cháo thì cai lệ và người nhà lí trưởng ập đến đòi sưu. Mặc chị hết lời van xin, cai lệ vẫn nhất định bắt anh Dậu, còn chửi mắng, bịch vào ngực chị. Không nhịn được nữa, chị Dậu uất ức, vùng lên phản kháng.
Về Nhà Văn Ngô Tất Tố
Xem thêm những thông tin chính về nhà văn Ngô Tất Tố.
- Ngô Tất Tố (1893 – 1954) quê ở huyện Lộc Hà, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc Đông Anh, Hà Nội), xuất thân là một nhà Nho gốc nông dân.
- Ông là một học giả có nhiều công trình nghiên cứu về triết học, văn học cổ có giá trị; một nhà báo với nhiều bài viết mang khuynh hướng dân chủ và giàu tính chiến đấu; một nhà văn hiện thực chuyên viết về nông thôn trong giai đoạn trước cách mạng.
- Sau cách mạng, Ngô Tất Tố sau sưa hoạt động trong công tác tuyên truyền văn nghệ phục vụ kháng chiến chống Pháp.
- Ông được trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 1996.
- Một số tác phẩm ở nhiều thể loại như: Tắt đèn (tiểu thuyết, 1939), Lều chõng (phóng sự tiểu thuyết, 1940), phóng sự Tập án cái đình (1939), Việc làng (phóng sự, 1940), Trời hửng (dịch, truyện ngắn, 1946), Đóng góp (kịch, 1956)…
Đừng vội bỏ lỡ phân tích 🌷 Tôi Đi Học 🌷 phân tích đầy đủ nhất
Về Tác Phẩm Tắt Đèn
Về tác phẩm Tắt đèn, đây là tiểu thuyết của Ngô Tất Tố kể về cuộc đời và số phận chị Dậu, một phụ nữ nông thôn nghèo đói, nạn nhân của chế độ thực dân nửa phong kiến.
Đoạn trích Tức nước vỡ bờ trong tiểu thuyết Tắt đèn đã vạch trần bộ mặt tàn ác, bất nhân của xã hội phong kiến đương thời khi đã đẩy người nông dân vào hoàn cảnh khổ cực. Ngoài ra, tác giả còn cho người đọc thấy được hình ảnh người phụ nữ nông dân vừa giàu tình yêu thương lại vừa dũng cảm mạnh mẽ.
Chia sẻ cho bạn đọc ✨ Tôi Và Chúng Ta ✨ Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật
Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm Tức Nước Vỡ Bờ
Mời bạn đọc tiếp tục tìm hiểu ý nghĩa nhan đề tác phẩm Tức nước vỡ bờ.
- “Tức nước vỡ bờ” trước hết là một thành ngữ dân gian: “Tức nước vỡ bờ” xuất phát là một thành ngữ của nhân dân ta, chỉ một hiện tượng tự nhiên trong cuộc sống: nếu nước quá đầy, quá lớn thì tất yếu bờ sẽ tràn, sẽ vỡ.
- Nhà văn đã mượn hình ảnh trên giống như một lời kêu tinh thần đấu tranh của họ chống lại áp bức bóc lột vì một cuộc sống công bằng.
=> Nhan đề “Tức nước vỡ bờ” phản ánh rõ một quy luật trong cuộc sống “có áp bức thì có đấu tranh”.
Bố Cục Văn Bản Tức Nước Vỡ Bờ
Bố cục văn bản Tức nước vỡ bờ được chia làm 2 phần chính:
- Phần 1: Từ đầu đến “ chồng chị ăn có ngon miệng hay không ”. Cảnh chị Dậu chăm sóc chồng bị ốm.
- Phần 2. Còn lại. Cảnh người nhà lí trưởng đến bắt nộp sưu và sự phản kháng của chị Dậu.
Đừng bỏ lỡ bài 💚 Con Chó Bấc 💚 Những Mẫu Phân Tích Hay Nhất
Đọc Hiểu Tác Phẩm Tức Nước Vỡ Bờ
Có thể bạn sẽ cần nội dung đọc hiểu tác phẩm Tức nước vỡ bờ.
1. Tình thế gia đình chị Dậu:
– Nguy ngập, khốn cùng:
+ Thiếu sưu, nhà không còn của cải đáng giá.
+ Đã bán 1 đứa con gái, 1 ổ chó, 2 gánh khoai để nộp suất sưu cho em chồng. Nhà không còn gì, con đói
+ Anh Dậu bị bệnh, bị đánh trói đến ngất ⇒ khi chúng trả về, anh mới tỉnh
+ Bọn tay sai đến đốc thúc nộp sưu
⇒ sự thấu hiểu, cảm thông sâu sắc của nhà văn với tình cảnh cơ cực, bế tắc của người nông dân.
2. Nhân vật cai lệ.
– Thái độ: hống hách.
– Ngôn ngữ: hách dịch, kém văn hoá
– Hành động: đi thúc sưu nhưng luôn đem theo “roi song, tay thước, dây thừng”, đánh trói người vô tội vạ. Đánh cả phụ nữ.
– Nghệ thuật khắc họa nhân vật thông qua ngôn ngữ, hành động: Tên cai lệ nổi bật là tên côn đồ, vũ phu
⇒ qua việc miêu tả lối hành xử của cai lệ, nhà văn tố cáo bộ mặt tàn ác, bất nhân của xã hội thực dân nửa phong kiến đương thời.
3. Nhân vật chị Dậu.
– Là người vợ luôn yêu thương chăm sóc chồng chu đáo: chăm sóc anh Dậu khi anh Dậu bị đánh ngất
– Vì sự an toàn của chồng, chị đã nhẫn nhục van xin tên cai lệ và người nhà lý trưởng
– Khi chúng đánh chị và sấn tới để trói anh Dậu, chị đã vùng lên đấu tranh, đánh ngã bọn này.
– Chị Dậu là một phụ nữ lao động giàu lòng yêu thương, nhường nhịn mà cũng tiềm tàng tinh thần phản kháng mạnh mẽ.
⇒ Qua đây, ta thấy sự phát hiện của tác giả về tâm hồn yêu thương, tinh thần phản kháng mãnh liệt của người nông dân vốn hiền lành, chất phác.
Giá Trị Tác Phẩm Tức Nước Vỡ Bờ
Ngay sau đây là những giá trị tác phẩm Tức nước vỡ bờ.
Giá trị nội dung
- Đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” đã vạch trần bộ mặt tàn ác, bất nhân của xã hội phong kiến đương thời khi đã đẩy người nông dân vào hoàn cảnh khổ cực.
- Ngoài ra, tác giả còn cho người đọc thấy được hình ảnh người phụ nữ nông dân vừa giàu tình yêu thương lại vừa dũng cảm mạnh mẽ.
Giá trị nghệ thuật
- Tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn.
- Nghệ thuật miêu tả nhân vật.
- Ngôn ngữ bình dị, giàu tính khẩu ngữ.
Xem ngay phân tích tác phẩm 🌼 Bố Của Xi-Mông 🌼 Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích
Soạn Bài Tức Nước Vỡ Bờ
Cập nhật cho bạn đọc gợi ý soạn bài Tức nước vỡ bờ.
👉Câu 1: (trang 32 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):
Khi bọn tay sai xông vào nhà, chị Dậu trong tình thế rất thảm thương:
– Anh Dậu vừa tỉnh sau một cơn thập tử nhất sinh.
– Được bà lão hàng xóm tốt bụng cho bát gạo nấu cháo. Chị Dậu rón rén bưng bát cháo và hồi hộp xem chồng ăn có ngon không.
– Anh Dậu vừa “run rẩy cất bát cháo kề vào đến miệng”.
👉Câu 2: (trang 32 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1): Nhân vật cai lệ:
– Đứng đầu bọn lính ở huyện đường, chuyên đòi sưu thuế, đánh trói người.
– Hắn và tên lí trưởng xông vào nhà anh Dậu đòi sưu nặng, đòi bắt người đi đánh,… Chỉ là tên tay sai mạt hạng lại có quyền đánh trói người vô tội vạ.
– Hành động: cầm roi cầm thước, quát mắng, xưng hô ông-thằng, ông-mày.
→ Độc ác, hống hách, xấc xược, cậy hơi quan lớn ức hiếp người dân yếu đuối.
* Cách miêu tả chân thực, sinh động, sắc sảo linh hoạt, thái độ căm ghét, khinh bỉ.
👉Câu 3 : (trang 33 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):
* Diễn biến tâm lí của chị Dậu trong đoạn trích:
– Ban đầu: nhẫn nhục, chịu đựng, chỉ nói lí:
+ Gọi ông, xưng cháu. Lời nói nhún nhường, cầu xin “cháu van ông,…”
+ Hành động: run run, chạy đến đỡ tay cai lệ,…
– Không chịu đựng được nữa vùng dậy phản kháng:
+ Xưng hô ông-tôi, sau đó mày-bà. Lời nói đầy quyết liệt thách thức.
+ Hành động mạnh mẽ, khỏe khoắn “túm cổ cai lệ, ấn dúi ra cửa,…’
* Sự thay đổi thái độ của chị Dậu được miêu tả chân thực, hợp lí. Chị Dậu hiện lên là một người phụ nữ giàu tình thương yêu chồng, dịu dàng. Đồng thời thật can đảm, mạnh mẽ, giàu sức phản kháng.
👉Câu 4 : (trang 33 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):
Đặt nhan đề Tức nước vỡ bờ là thỏa đáng vì nó phản ánh đúng nội dung đoạn trích. Có áp bức phải có đấu tranh, áp bức càng nhiều đến mức độ không thể nữa thì sức phản kháng, sức đấu tranh càng mạnh.
👉Câu 5 : (trang 33 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1): “Cái đoạn chị Dậu đánh nhau với tên cai lệ là một đoạn tuyệt khéo”. Vì:
– Thể hiện thật rõ nét, sinh động tính cách các nhân vật.
– Tạo tình huống khéo léo. Ngòi bút miêu tả ngoại hình, hành động, ngôn ngữ linh hoạt, sống động.
– Ngôn ngữ kể chuyện, đối thoại, ngôn ngữ nhân vật độc đáo, thể hiện được sắc thái tâm lí nhân vật.
👉Câu 6* : (trang 33 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):
Nguyễn Tuân nhận xét rằng Ngô Tất Tố đã “xui người nông dân nổi loạn”. Đúng là như vậy khi mà xã hội tàn bạo, vô lí, tàn nhẫn đến cực độ, người dân ắt phải đấu tranh, tránh sao được “nổi loạn” để đòi lại sự công bằng.
Có thể bạn sẽ quan tâm 🌱 Rô-Bin-Xơn Ngoài Đảo Hoang 🌱 Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích
Giáo Án Tức Nước Vỡ Bờ
Chia sẻ nội dung giáo án Tức nước vỡ bờ.
I. Mục tiêu bài học
1. Kiến thức
– Đọc hiểu một đoạn trích trong tác phẩm truyện hiện đại- cốt truyện ,nhân vật, sự kiện trong đoạn trích : “Tức nước vỡ bờ”.
– Giá trị hiện thực và nhân đạo qua một đoạn trích trong tác phẩm tắt đèn.
– Thành công của nhà văn trong việc tạo tình huống truyện, miêu tả, kể chuyện và xây dựng nhân vật.
2. Kĩ năng
– Có kĩ năng tóm tắt văn bản truyện .Vân dụng kiến thức về sự kết hợp các phương thức biểu đạt trong văn bản tự sự để phân tích tác phẩm tự sự viết theo khuynh hướng hiện thực.
3. Thái độ
– HS có lòng tự hào, ý thức xây dựng XHCN, biết phản kháng đúng với hoàn cảnh để bảo vệ chân lí, lẽ phải.
II. Chuẩn bị tài liệu
1. Giáo viên
Bài soạn , tài liệu tham khảo, chuẩn kt kn.
2. Học sinh
Soạn bài, chuẩn bị đồ dùng học tập.
III. Tiến trình tổ chức dạy học
1. Ổn định tổ chức Sĩ số
2. Kiểm tra
H: Phân tích cảm xúc của bé Hồng khi gặp và nằm trong lòng mẹ?
3. Bài mới
GV: Giới thiệu bài mới:
– Ngô Tất Tố là nhà văn hiện thữ phê phán xuất sắc trong nền văn học hiện thực 1930- 1945. Ông viết nhiều tác phẩm có giá trị trong đó :Tắt đèn” là tác phẩm tiêu biểu viết về người nông dân trước CM. Để hiểu sâu sắc về họ, chúng ta cùng tìm hiểu đoạn trích”Tức nước vỡ bờ”.
Hoạt động của GV và HS | Kiến thức cần đạt |
---|---|
HĐ1.HDHS đọc và tìm hiểu chú thích: – GV hướng dẫn đọc; giọng chị Dậu lúc van lơn, tha thiết, khi gay gắt, quyết liệt; giọng cai lệ: hống hách, độc ác; anh Dậu: yếu ớt. – GV đọc mẫu. – HS đọc phân vai (4 em).Gọi hs nhận xét. | I. Đọc và tìm hiểu chú thích: 1. Đọc: |
H:Đọc chú thích sao (SGK) cho biết vài nét về tác giả, tác phẩm? | 2. Chú thích: a. Tác giả: – Ngô Tất Tố(1893-1954) – Quê: Lộc Hà, Từ Sơn, Bắc Ninh. – Là nhà văn hiện thức xuất sắc chuyên viết về người nông dân trước cách mạng. – Được truy tặng giải thưởng về VHNT năm 1996 |
H: Kể tên một số tác phẩm chính của NTT? – Tiểu thuyết “Tắt đèn”- 1939; “lều chõng”- 1940; Các phóng sự: “Tập án cái đình”- 1939; “việc làmg”- 1940. Em hiểu gì về tiểu thuyết “Tắt đèn”? H:Em biết gì về tiểu thuyết “Tắt đèn”? Đoạn trích thuộc chương mấy của tác phẩm? Nói về vấn đề gì? – Kể về việc bọn cai lệ đến nhà chị Dậu, đánh trói anh Dậu. Chị Dậu tìm mọi cách cứu chồng không được, chị liêù mình cự lại chúng.Giải thích từ”cai lệ”? “lực điền”? | – Tiểu thuyết “Tắt đèn” là tác phẩm tiêu biểu nhất của NTT, ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của người nông dân trong xã hội phong kiến, phê phán sự dã man, tàn ác của xhpk đương thời. – Đoạn trích: “Tức nước vỡ bờ” thuộc chương 18 của tác phẩm.c. Từ khó (SGKT32). |
HĐ2.HDHS đọc- hiểu văn bản: H: Văn bản viết theo thể loại nào? | III. Đọc- hiểu văn bản: 1. Thể loại: Tiểu thuyết |
H: Có thể chia văn bản làm mấy phần ? ND từng phần? – HD tìm hiểu văn bản. – HS đọc” anh Dậu uốn vai ngáp dài T29. | 2. Bố cục: 2 phần + Phần 1: Từ đầu đến “có ngon miệng hay không” ⇒ chi Dậu ân cần csóc người chồng ốm yếu + Phần 2: phần còn lại ⇒ chị Dậu can đảm đương đầu với ng nhà cai lệ. |
H: Tìm những chi tiết miêu tả thái độ, hành động,ngôn ngữ của cai lệ khi đến nhà chị Dậu? | 3. Phân tích: a. Nhân vật cai lệ: – Hành động: + Sầm sập tiến vào với roi song, tay thước, dây thừng; + trợn ngược hai mắt quát… + Giật phắt dây, chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu. + Bịch vào ngực chị Dậu, trói anh Dậu. + Tát vào mặt chị Dậu, sấn đến chỗ anh Dậu. – Ngôn ngữ: + Thét“thằng kia, ông tưởng mày… + Giọng hầm hè, nham nhảm, giục trói. |
H: Em nhận xét gì về hành động,ngôn ngữ,của cai lệ qua các chi tiết vừa tìm? – Ngôn ngữ của loài thú dữ, chỉ biết quát, thét, hét. – Hành động hung bạo, tàn ác, dã thú. – Chửi bới thô tục, nói năng đểu cáng. | ⇒ Hành động,ngôn ngữ của loài thú dữ, chỉ biết quát, thét, hét,hành động hung bạo, tàn ác, dã thú;chửi bới thô tục, nói năng vô văn hoá. |
H: Em nhận xét gì về nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác giả NTT? * Đó chính là NT khắc hoạ tính cách nhân vật điển hình của tác giả NTT. | – NT: Nhân vật cai lệ được khắc hoạ hết sức nổi bật, sống động chân thực, có giá trị điển hình rõ nét ⇒ Nghệ thuật xây dựng nhân vật phản diện. |
H: Qua các chi tiết trên em hãy nêu suy nghĩ của mình về con ng cai lệ. | * Cai lệ là một kẻ thô tục, hung hãn, tàn bạo, lòng lang dạ sói,táng tận lương tâm, là hiện thân sinh động của bọn tay sai dưới chế độ xã hội thực dân pk đương thời. |
– GV chuyển ý: H: Khi bọn tay sai đến nhà, chị Dậu đang trong tình thế như thế nào? | b. Nhân vật chị Dậu: * Tình thế của chị Dậu khi bọn tay sai đến nhà. – Vụ thuế đang ở thời điểm gay gắt, chị đã bán con, bán cho, bán khoai đủ nộp cho chồng, nhưng lại phải nộp sưu cho người em chồng đã chết; chồng ốm do bị đánh đập → tình thế nguy ngập |
H: Khi bọn tay sai vào nhà chị đã đối phó ntn để bảo vệ chồng?H: Khi bọn tay sai không thèm để ý đến những lời van xin thống thiết của chị, chị đã hành động ntn? | * Diễn biến tâm lí và hành động của chị Dậu: – Hành động, ngôn ngữ: + Lúc đầu thiết tha van xin lễ phép:“cháu van ông nhà cháu vừa mới tỉnh đc một lúc xin ông tha cho”. +Sau đó: Không thể chịu đc, liều mạng cự lại bằng lí lẽ : “Chồng tôi đau ốm các ông không đc phép hành hạ” + Cuối cùng chị Dậu cự lại bằng hành động quyết đấu lực với chúng “ Mày trói chồng bà đi bà cho mày xem” → thách thức.Vùng dậy chống trả quyết liệt: “ túm cổ, ấn dúi, nắm gậy, vật nhau, túm tóc, lẳng cho một cái…”. |
H:Tác giả dùng từ loại nào để miêu tả sự phản kháng của chị Dậu với bọn Cai Lệ? | – Nghệ thuật: Động từ m/t hành động túm, ấn, dúi, nắm vật, lẳng → Sức mạnh phản kháng mãnh liệt của chị Dậu. |
H: cách dùng lời lẽ xưng hô của chi Dậu có sự thay đổi ntn trong đoạn trích? | – Lời lẽ xưng hô của chị Dậu thay đổi theo thái độ và hành động: lúc đầu gọi ông xưng cháu, sau nữa là gọi ông xưng tôi, cuối cùng là gọi mày xưng bà → thay đổi thái độ và ngôi xưng hô. |
H: Cùng với sự thay đổi lời lẽ xưng hô, trạng thái tâm lí của chị Dậu có sự thay đổi theo ntn? | * Diễn biến tâm lí : Lúc đầu chị run run van xin thể hiện sự khiêm nhường nhưng hoàn toàn không yếu đuối, mà trái lại chị vẫn có một sức sống mạnh mẽ, một tinh thần phản kháng tiềm tàng, bị đẩy tới đường cùng chị đã vùng dậy chống trả quyết liệt.( lời lẽ xưng hô cũng thay đổi theo). |
H:Theo em vì sao chị Dậu có sức mạnh đó ?(Thảo luận nhóm 4- 3 phút),Báo cáo. – GV kết luận: Đó là sức mạnh của lòng căm thù, tình yêu thương. | ⇒ Cùng với sự thay đổi đó là niềm căm giận tăng lên ngùn ngụt, một sức sống tiềm tàng,mãnh liệt đc bộc lộ và sức phản kháng đến phi thường. Đó chính là sức mạnh xuất phát từ lòng yêu thương. |
H: Em nhận xét như thế nào về cách miêu tả hành động , thái độ tâm lí nhân vật chị dâu của tác giả? | – T/giả miêu tả chân thực, hợp lí diễn biến tâm lí nhân vật chị Dậu phù hợp với diễn biến sự việc. |
H:Nêu suy nghĩ của em về nv chị Dậu? | ⇒ Chị Dậu là ngưòi phụ nữ mộc mạc, hiền dịu, đầy vị tha, yêu thương chồng con,sống khiêm nhường, biết nhẫn nhục chịu đựng nhưng không yếu đuối mà có một sức sống tiềm tàng, tinh thần phản kháng mãnh liệt . |
H:Thái độ và tình cảm của nhà văn được thể hiện như thế nào qua việc kể tả về các nhân vật chị Dậu, Cai lệ? | – T/g thể hiện sự thấu hiểu và cảm thông sâu sắc với tình cảnh cơ cực, bế tắc của ng nông dân bị đàn áp, cổ vũ cho tinh thần phản kháng của họ. Lên án bọn tay sai phong kiến. |
H: Em nhận xét gì về nghệ thuật của tác giả? | c. Nghệ thuật kể chuyện: -Tạo tình huống truyện có tính kịch;kể chuyện,miêu tả nhân vật chân thực, sinh động(ngoại hình, ngôn ngữ, hành động, tâm lí…) |
H: Em hiểu thế nào về nhan đề “Tức nước vỡ bờ”? H:Em nx ntn về nt đoạn văn m/t chị Dậu đánh nhau với cai lệ ? | d. Nhan đề: – Nhan đề là một câu tục ngữ đã bắt gặp chân lí của nhà văn hiện thực NTT,toát lên lô gic hiện thực có áp bức, có đấu tranh; toát lên chân lí: con đường sống của những người bị áp bức chỉ có thể là con đường đấu tranh. → Đó là thái độ cổ vũ người nông dân nổi dậy. – Nghệ thuật khắc hoạ nhân vật rõ nét. – Ngòi bút miêu tả linh hoạt, sống động. – Ngôn ngữ kể chuyện,miêu tả của tác giả và ngôn ngữ đối thoại của nv đặc sắc. |
HĐ3.HDHS tổng kết: H: Em cảm nhận đc gì về nội dung và nghệ thuật đoạn trích“Tức nước vỡ bờ”- Gọi HS đọc ghi nhớ sgk | III. Tổng kết: 1. Nội dung: – Tác giả NTT đã vạch trần bộ mặt tàn ác,bất nhân của thực dân phong kiến đương thời ; xã hội ấy đã đẩy người nông dân vào tình cảnh vô cùng cực khổ, khiến họ phải liều mạng chống lại. Đoạn trích còn cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ nông dân, vừa giàu tình thương yêu vừa có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ. 2. Nghệ thuật: – Nghệ thuật khắc hoạ nhân vật rõ nét. – Ngòi bút miêu tả linh hoạt, sống động. – Ngôn ngữ kể chuyện,miêu tả của tác giả và ngôn ngữ đối thoại của nv đặc sắc. |
HĐ4.HDHS luyện tập: – GV cho 4 HS nhập vai 4 nhân vật: chị Dậu, cai lệ, người nhà lí trưởng, | * Ghi nhớ: SGKT 33. IV. Luyện tập: – Đọc thể hiện giọng từng nhân vật. |
4. Củng cố, luyện tập
H: Nêu suy nghĩ của em về nhân vật cai lệ?
H: Em hiểu gì về nhân vật chị Dậu và xã hội phong kiến đương thời
5. Hướng dẫn học ở nhà
Học ghi nhớ, nắm nội dung phân tích,soạn: Xây dựng đoạn văn trong văn bản. Đọc kĩ, trả lời câu hỏi SGK.
Sơ Đồ Tư Duy Tức Nước Vỡ Bờ
Ngay sau đây là các sơ đồ tư duy Tức nước vỡ bờ.
Chia sẻ bạn đọc tác phẩm ✨ Những Ngôi Sao Xa Xôi [Lê Minh Khuê] ✨ Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật
5 Mẫu Phân Tích Tức Nước Vỡ Bờ Hay Nhất
Cuối cùng là 5 mẫu phân tích Tức nước vỡ bờ hay nhất.
Phân Tích Tức Nước Vỡ Bờ Nổi Bật – Mẫu 1
Ngô Tất Tố là một cây bút hiện thực xuất sắc của văn học Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Trong cuộc đời sáng tác văn chương của mình, ông đã để lại nhiều tác phẩm được coi là những kiệt tác nghệ thuật. Trong số ấy, tiểu thuyết Tắt đèn xứng đáng là một áng văn tiêu biểu cho tài năng và phong cách nghệ thuật của Ngô Tất Tố.
Tắt đèn là một cuốn tiểu thuyết chỉ có vài trăm trang. Một dung lượng không nhiều nhưng vừa đủ để Ngô Tất Tố khái quát được xã hội nông thôn Việt Nam đương thời một cách tập trung, điển hình nhất. Giá trị nghệ thuật của tiểu thuyết Tắt đèn, thiết nghĩ phải tốn khá nhiều giấy mực để bàn luận.
Trong giới hạn của bài viết này, chúng ta hãy dừng lại ở việc tìm hiểu những nét đặc sắc của ngòi bút Ngô Tất Tố trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ. Đây là đoạn văn hay, rết tiêu biểu cho bút pháp tiểu thuyết của tác giả Tắt đèn.
Nét nổi bật nhất và cũng là thành công nhất của Ngô Tất Tố chính là nghệ thuật khắc họa nhân vật. Chỉ với chưa đầy ba trang văn, Ngô Tất Tố đã xây dựng được hai nhân vật đạt đến mức điển hình bất hủ. Đó là cai lệ và chị Dậu. Cai lệ chỉ là một tên tay sai mạt hạng, không có tên riêng, nhưng lại được tác giả tập trung miêu tả nổi bật, trở thành một tính cách điển hình với đầy đủ những nét chung và riêng.
Cai lệ là hình ảnh đại diện cho bọn tay sai nói riêng và đại diện cho cái chính quyền thực dân tàn bạo, bất nhân nói chung. Hắn phảng phất cái bóng dáng của tất cả những tên tay sai hung hãn ngoài đời cũng như các sáng tác hiện thực lúc bấy giờ. Những cai lệ là một tên tay sai không giống với bất cứ tên nào mà ta đã gặp.
Hắn có những đặc điểm riêng không thể trộn lẫn, và được tô đậm. Đây là giọng quát thét hông hách (Thằng kia!, mày định nói cho cha mày nghe đấy à?); những lời xỏ xiên đểu cáng (Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à?); và những hành động hung hãn (Bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch, Tát vào mặt chị một cái đánh bốp, Sấn đến để chói anh Dậu, Nhảy vào cạnh anh Dậu…).
Và đây, cái giọng khàn khàn vì hút nhiều xái cữ, cái thân hình lẻo khoẻo vì nghiện thuốc phiện, cái tư thế ngã chỏng quèo mà miệng vẫn nham nhảm thét trói vợ chồng kẻ thiếu sưu,..Tất cả những chi tiết đó đã tạo nên một tên tay sai vừa trắng trơn, tàn ác, vừa đểu giả, đê tiện. Hình ảnh ấy đã để lại một ấn tượng đặc biệt trong lòng độc giả: vừa khinh bỉ ghê tởm, vừa căm ghét.
Đối lập với hình ảnh tên cai lệ là hình ảnh chị Dậu. Chị Dậu cũng là một thành công của Ngô Tất Tố trong việc xây dựng nhân vật đạt đến mức điển hình hóa cao độ. Nhân vật chị Dậu có tính cách khá đa dạng: vừa hiền lành, lễ phép, vừa ngỗ nghịch, đanh đá, vừa nhẫn nhục vừa phản kháng quyết liệt, vừa chan chứa yêu thương vừa ngùn ngụt căm thù.
Ngô Tất Tố không chỉ thành công trong việc xây dựng một hình tượng người phụ nữ nông thôn với tính cách điển hình, ông còn rất thành công trong việc khắc họa tâm lí nhân vật chị Dậu.
Trong đoạn trích, chị Dậu là người có đời sống nội tâm khá phong phú. Ngòi bút Ngô Tất Tố đã lách sâu vào tâm hồn nhân vật để thể hiện nó một cách chân thực và biện chứng.
Từ chỗ nhẫn nhục chịu đựng, tha thiết van xin, đến chỗ tức quá không thể chịu được, mà liều mạng cự lại; từ thái độ lễ phép, tôn trọng tên cai lệ đến sự ngỗ nghịch, đanh đá nghiến răng: Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem, rồi bất chấp thà ngồi tù xông vào đấu sức với hai tên tay sai… Tất cả vừa phù hợp với lôgíc khách quan của cuộc sống: Tức nước vỡ bờ, vừa phù hợp với tính cách chị Dậu.
Cùng với thành công về phương diện xây dựng nhân vật, Ngô Tất Tố còn sử dụng ngòi bút miêu tả rất linh hoạt, sinh động. Chỉ một vài nét phác họa, nhà văn đã vẽ ra trước mắt người đọc những cảnh tượng sống động khiến họ có cảm giác như đang tận mắt chứng kiến nó. Tiếng trống và tiếng tù và đã thủng thẳng đua nhau từ phía đầu làng đến đình. Tiếng chó sủa vang các xóm. Chỉ hai câu văn mà tác giả đã gợi tả được cả cái không khí ngột ngạt của làng quê Việt Nam trong mùa sưu thuế.
Đặc biệt trong đoạn văn miêu tả cảnh chị Dậu liều mạng cự lại hai tên tay sai. Dưới ngòi bút thần tình của Ngô Tất Tố, các hoạt động diễn ra dồn dập mà vẫn rất rõ nét:
Từ hành động của tên cai lệ (tát chị Dậu và nhảy vào anh Dậu) đến việc chị Dậu nghiến hai hàm răng rồi túm tóc tên cai lệ, ấn dúi ra cửa khiến hắn ngã chỏng quèo; từ việc tên người nhà lí trưởng sấn sổ bước đến giơ gậy chực đánh đến việc hai bên giằng co, vật nhau, rồi chị Dậu túm lấy tóc hắn lẳng cho một cái khiến tên này ngã nhào ra thềm…
Tất cả diễn ra mau lẹ như trong một pha gay cấn của một cuốn phim; vừa diễn tả được diễn biến truyện vừa thể hiện được tính cách, tâm lí nhân vật, và sức sống mạnh mẽ, tinh thần phản kháng tiềm tàng của chị Dậu. Có thể nói, Ngô Tất Tố có óc quan sát rất tinh tường.(Vũ Trọng Phụng) và miêu tả tuyệt khéo (Phan Ngọc).
Một đặc sắc nghệ thuật nữa của đoạn trích là ngôn ngữ kể chuyện, miêu tả của tác giả và ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Trong ngôn ngữ kể chuyện và miêu tả, tác giả sử dụng rất nhiều từ ngữ vừa giàu sắc thái biểu cảm, vừa phù hợp với ti hân vật và các hoạt động.
Điệu bộ của bá lão láng giềng thì lật đật; thằng Dần thì vục đầu vừa thổi vừa húp soàn soạt, anh Dậu thì uốn vai ngáp uể oải chống tay…, ngẩng đầu lên, run rẩy, lăn đùng; bọn tay sai ban đầu thì nhảy vào, sấn sổ, sau đó, đứa thì ngã chồng quèo đứa thì ngã nhào… Tất cả những ngôn từ ấy đều rất sống, rất có hồn.
Ngôn ngữ nhân vật vừa đa dạng, vừa độc đáo. Mỗi nhân vật đều có ngôn ngữ riêng. Ngôn từ của tên cai lệ thì thô tục, đểu cáng, của tên người nhà lí trưởng thì mỉa mai, bóng gió, lời anh Dậu thì run rẩy, sợ sệt, lời bà lão láng giềng thì thật thà, hiền hậu. Đặc biệt là ngôn ngữ của chị Dậu, khi thì thiết tha, mềm mỏng, lúc đanh thép, quyết liệt. Qua ngôn ngữ, tính cách nhân vật bộc lộ khá rõ nét.
Bên cạnh đó, những khẩu ngữ của quần chúng nông dân như thầy em, nhà cháu được Ngô Tất Tố sử dụng rất hồn nhiên, nhuần nhuyễn, khiến cho câu văn giản dị mà đậm đà, mang hơi thở của đời sống. Những thành công và đặc sắc Ngô Tất Tố trong đoạn trích cũng là những thành công nghệ thuật của tác phẩm. Nghệ thuật ấy kết hợp với giá trị nội dung tư tưởng, đã đem lại sự hấp dẫn và sức sống lâu bền cho cuốn tiểu thuyết này.
Phân Tích Tức Nước Vỡ Bờ Chọn Lọc – Mẫu 2
Ngô Tất Tố (1893-1954), là một trong những nhà văn xuất sắc nhất trong trào lưu văn học hiện thực trước Cách mạng, ông hoạt động và chăm chỉ viết trên nhiều lĩnh vực khác nhau từ khảo cứu triết học cổ văn học Trung Hoa và văn học cổ đại Việt Nam, đến viết báo, viết tiểu thuyết, truyện ngắn, dịch thuật,…
Mỗi một mảng ông đều có những thành công nhất định, trong đó ở các sáng tác văn học, Ngô Tất Tố thường tập trung viết về đề tài nông thôn Việt Nam trước cách mạng và đặc biệt thành công với đề tài này.
Trong đó tiểu thuyết Tắt đèn là tác phẩm tiêu biểu nhất trong sự nghiệp văn chương của Ngô Tất Tố, đương thời được Vũ Trọng Phụng khen tặng là “một thiên tiểu thuyết có luận đề xã hội…hoàn toàn phụng sự dân quê, một áng văn có thể gọi là kiệt tác tòng lai chưa từng thấy”.
Tác phẩm đã phơi bày, phản ánh xã hội nông thôn đương thời một cách tập trung, điển hình nhất, khi mà nạn thuế sưu vốn là cái “di tích” sót lại từ thời trung cổ đã cạn ép đến cùng kiệt những người dân quê khốn khổ, cũng đồng thời trở thành cái dịp để bè lũ phong kiến tay sai “được” thể hiện hết chức trách làm lộ ra cái bộ mặt tàn ác, bất nhân, sự tham lam, bóc lột tàn bạo của chúng.
Trích đoạn Tức nước vỡ bờ, là một trích đoạn nhỏ nằm trong tiểu thuyết Tắt đèn, kể lại cảnh chị Dậu một người phụ nữ khốn khổ vì phải chạy chọt 2 suất sưu cho chồng và em chồng, phản kháng đánh lại cả cai lệ và mấy tên lính ép thuế, vì chúng định áp giải người chồng sống dở chết dở của mình đi, khi anh vừa mới thoát khỏi cửa tử trước đó không lâu.
Chị Dậu tên thật vốn là Đào, vì lấy anh Dậu nên người ta vẫn gọi chị bằng cái tên của chồng. Ngày mới cưới nhau, anh chị chăm lo làm ăn nên gia đình cũng khấm khá, nhưng kể từ khi những đứa con lần lượt ra đời, cái Tí, rồi thằng Dần, bây giờ là đứa con mọn còn chưa dứt sữa, thế nên chị Dậu cứ phải ở nhà chăm con luôn luôn mà chẳng thể dứt ra được, tiền anh Dậu mang về cũng dần không đủ chi tiêu khi mấy đứa trẻ ngày một lớn.
Vụ thuế năm nay đã tới hạn, mặc dầu còn tới 5 ngày nữa mới tới hạn nộp, nhưng đám quan sai cứ thúc ép từng hồi, kẻ nào không nộp thuế thì bị điệu ra đình làng, chịu sự tra tấn đánh đập dã man. Anh Dậu chạy vạy khắp nơi để cốt vay lấy được 2 đồng 7 tiền đóng suất thuế, nhưng khốn nỗi cảnh nghèo từ ông cậu giàu nứt đố đổ vách, đến người lạ cũng chẳng ai muốn cho anh vay, bởi họ sợ anh quỵt không trả, hoặc họ ác.
Anh bị dẫn lên đình chịu tội, trước khi đi còn dặn chị Dậu qua nhà cụ Nghị Quế. Thấy chồng bị bắt đi, chị Dậu đành bỏ lại 3 đứa con ở nhà rồi chạy đi tìm cách, cuối cùng chị phải chấp nhận bán đứa con gái đầu mới lên bảy tuổi lấy một đồng bạc, lại bán thêm con chó mẹ với đàn bốn con con thêm hơn một đồng nữa, cùng với gánh khoai, góp lại vừa đủ suất sưu cho chồng.
Lòng người đàn bà khốn khổ lúc ấy có gì đau đớn hơn nữa, nhưng người ta vẫn chẳng tha cho chị, những tưởng đóng xong suất sưu của chồng là hết, ngờ đâu họ còn bắt đóng cả suất sưu của người em chồng đã chết từ giữa năm ngoái, với cái lý là sổ sách thống kê từ hồi đầu năm ngoái nên không đổi được, không đóng thì anh Dậu vẫn phải ở đó.
Đúng là cùng đường, tuyệt lộ, đang chưa biết xoay sở sao với suất sưu còn lại, cộng với hai đứa con một đứa khóc đòi chị, một đứa phải ẵm bồng, thì trong đêm tối người ta đem trả lại cho chị một người đàn ông gần hấp hối vì lên cơn sốt rét. Khốn khổ! May sao nhờ sự giúp đỡ của láng giềng, anh Dậu cũng hồi tỉnh, lại được bà cụ hàng xóm giúp đỡ ít gạo nấu cháo, chị Dậu cũng được một lúc đỡ lo lắng.
Ấy thế xưa nay người ta vẫn bảo trời đánh tránh miếng ăn, thế mà khi bát cháo trắng vừa nguội, anh Dậu vừa định uống lấy một miếng bù cho cả ngày nhịn đói hôm qua, thì đám cai lệ đòi thuế lại ầm ầm kéo đến. Chúng mặc kệ sự văn xin nài nỉ của chị Dậu, nhất định phải giải được người đi.
Nhưng với cái mạng “ốm đau rề rề” của anh Dậu lúc này mà đi thì chắc gì còn sống được đến mai, nỗi thương chồng, nỗi căm phẫn vì sự độc ác của đám lính lệ, nỗi lo lắng về suất sưu còn thuế cứ đè nặng trong tâm trí của người đàn bà tội nghiệp. Tất cả những gì chị có thể nghĩ là làm sao để cứu được chồng thoát khỏi trận bắt bớ ngày hôm nay cái đã, nhưng điều ấy dường như thật khó khăn đối với chị.
Trong khi đó, đám quan quyền đại diện cho nhà nước và pháp luật phong kiến, quả thực nhìn trông chẳng khác nào đám lưu manh đi đòi nợ thuê, chúng tiến vào sầm sập với “roi song, tay thước và dây thừng”, hành động gõ đầu roi xuống đất, rồi thét của cai lệ khiến người ta không khỏi khiếp sợ và chán ghét.
Nhưng đối với đám tay chân nhân danh “phép nước” này đó là một hành động thật thích thú, là đam mê, chúng thích nhìn cái cảnh đám nông dân cùng khổ sợ run nhìn hắn bằng ánh mắt kinh hoảng, mặt mày tái mét, năn nỉ văn xin chúng. Chứ chúng nào có biết cái gọi là nhân từ hay nhân văn gì cho cam. Thấy anh Dậu sợ quá, bát cháo chưa kịp húp đã ngã lăn đùng ra bất tỉnh thậm chí tên cai lệ còn cười mỉa, khinh thường “Anh ta lại sắp phải gió như đêm qua đấy!”, rõ ràng là coi thường sự sống chết của anh Dậu.
Cai lệ ở đây là người đối thoại trực tiếp với chị Dậu, đồng thời cũng chính là kẻ đại diện cho cả một chế độ phong kiến bất nhân, thất đức quyết dồn con người ta vào đường cùng, cốt chỉ để lấy vài suất sưu. Từ trong miệng hắn thốt ra lời lẽ nào cũng cay nghiệt, ý tứ dọa nạt, hắn chỉ để cho chị Dậu hai sự lựa chọn một là đóng tiền sưu hai là chấp nhận để hắn đưa chồng chị đi. Nhưng khốn nỗi, cả hai thứ việc ấy chị Dậu đều không có khả năng làm được ngay bây giờ.
Có phải cai lệ và đám người nhà lí trưởng không biết tình trạng của anh Dậu đâu, rõ ràng hôm qua mới trả người ta từ đình về vì tưởng lỡ đánh chết người, thế mà hôm nay khi vừa đánh hơi được thấy anh Dậu còn sống, liền chạy tới luôn, không bỏ lỡ một phút giây nào. Những việc ích nước lợi dân khác mà cũng hăng hái như thế thì lại hay, đằng này chúng lại cứ thích cái việc dồn ép những người hạng cùng đinh như những con mồi tội nghiệp rồi ra sức mà tra khảo, định đoạt.
Đó chính là bản chất tàn ác, bất nhân của bộ máy chính quyền phong kiến tay sai lúc bấy giờ. Chúng bỏ ngoài tai mọi lời van xin, giải thích trình bày, cũng không thèm xét đến cái cảnh khốn cùng của chị mà trái lại khi nghe những lời ấy chúng lại càng hết lòng nhiếc móc, mắng chửi, thậm chí là ra tay đánh người.
Nhưng có phải chúng chỉ đánh đàn ông đâu, đến phận nữ yếu đuối con mọn như chị Dậu chúng nó cũng chẳng thèm soi xét, những quả đấm liên tiếp rơi vào ngực chị Dậu, cả một cát tát bôm bốp vào giữa mặt người phụ nữ tội nghiệp khi cố van xin, nài nỉ.
Trước cảnh hung hãn, kinh khủng ấy của bọn lính lệ, chị Dậu chỉ còn nghĩ được một điều duy nhất là làm sao để cứu thoát chồng khỏi buổi bắt bớ ngày hôm nay. Ban đầu chị Dậu còn nghĩ đến bọn cai lệ chính là nhân danh nhà nước, đang làm việc nước, việc bị áp giải lên đình nếu thiếu sưu thuế vốn dĩ nó đã là việc từ bao lâu nay vẫn xảy ra, còn phận chồng mình lại là dạng cùng đinh mạt hạng, thì làm gì có lý lẽ nào để chối cãi.
Thế nên chị đã cố mềm mỏng, lấy cái giọng sợ hãi, e dè, nhún nhường muôn đời nay của người nông dân, người phụ nữ khi thấy quan sai mà cầu xin, hòng mong cho chúng động lòng thương mà thư thả cho chồng chị.
Chị Dậu đã thể hiện cái bản tính nhẫn nhục, mộc mạc, biết thân biết phận để van xin một cách rất lễ phép, rất nhỏ nhẹ xưng cai lệ là “ông”, lại tự xưng mình là “con”, cặn kẽ giải thích căn nguyên khốn khổ nhà mình, lời nói lúc thì “run run”, lúc “thiết tha”, thấy cai lệ sấn lại trói chồng thì “xám mặt” vội chạy đến đỡ tay hắn.
Tuy nhiên với bản tính tàn ác từ bao đời nay, lý gì mà cai lệ lại dễ dàng tha cho nhà chị Dậu, hắn thẳng tay đấm cho chị mấy quả vào ngực không hề thương tiếc. Trước nỗi lo sợ chồng mình bị bắt đi và sự phẫn nộ của một người đàn bà phải bán cả con, cả chó, cả rổ khoai trong nhà mà vẫn khốn khổ với thuế sưu, chị Dậu “hình như tức quá không thể chịu đựng được”, chị “liều mạng cự lại”.
Trước mắt chị thì giờ đây luật lệ, phép nước nó không còn quan trọng bằng tính mạng của người chồng mới được cứu về từ quỷ môn quan đêm qua nữa, chị phải cứu chồng bằng mọi cách, mọi giá. Từ một người phụ nữ yếu đuối run rẩy, tha thiết van xin, chỉ chuyển sang nói lý với cai lệ, “Chồng tôi đau ốm không được phép hành hạ”.
Thực tế chị Dậu chỉ nói một lý lẽ rất hiển nhiên của xã hội chứ chưa hề đụng tới pháp luật, bởi vì chị cũng chẳng biết pháp luật là như thế nào. Đồng thời trong lúc đó, vô tình chị Dậu cũng thay đổi cách xưng hô của mình từ “ông-con”, sang “tôi-ông”, điều đó dẫn tới sự thay đổi về vị thế trong giao tiếp, chị Dậu đã dần dần bước lên đứng ở vị trí ngang hàng với tên cai lệ, với kẻ thù của mình, sẵn sàng đương đầu và chuẩn bị cho một cuộc chiến lớn.
Nhận thấy sự phản kháng của chị Dậu tên cai lệ đã thẳng tay tát đánh bốp vào mặt chị rồi lại sấn tới trói anh Dậu mang đi. Lúc này đây, bản thân chị Dậu hiểu ra rằng sự van xin tội nghiệp hay lý lẽ chính đáng cũng chẳng thể lay chuyển được cái hành động bắt người độc ác của tên cai lệ, lửa giận bốc lên ngùn ngụt, chị vùng dậy “nghiến hai hàm răng: mày trói ngay chồng bà đi bà cho mày xem!”.
Đó là sự đột phá không tưởng nổi của chị Dậu, ngay tại lúc này chị đã chẳng còn thiết tha gì nữa, hành động và giọng nói của chị đã bộc lộ hết tất cả tâm tình của chị lúc này, chị quyết không thèm đấu lý với tên cai lệ bất nhân này nữa mà chuyển sang đấu lực, bằng sự thách thức đến khinh bỉ trong sự xưng hô “bà-mày”.
Chị nói là hành động, “chị lao vào túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa”, sức khỏe của một người đàn bà lực điền 24 tuổi rõ ràng đã chiếm thế thượng phong so với một tên cai lệ hom hem, hút nhiều sái cũ.
Hiệp đầu tiên chị đã chiến thắng, khiến tên cai lệ ngã “chỏng quèo” trên mặt đất. Hiệp thứ hai đám người nhà ông lý trưởng xông vào vung gậy tính đánh chị, nhưng lại bị chị túm được gậy sau một hồi du đẩy, chống cự cuối cùng anh chàng hầu cận ông lý bị chị túm được tóc”lẳng cho một cái ngã nhào ra thềm”.
Chị lại toàn thắng. Bọn phong kiến tay sai, ham mê bắt bớ lúc đầu có vẻ hùng hổ, khủng khiếp ra sao, thì đến đây lại trông thật thảm hại, nhếch nhác và có phần hài hước. Trận chiến chỉ kết thúc khi cái giọng thều thào yếu ớt của anh Dậu thốt ra can vợ “U nó không được thế! Người ta đánh mình không sao, chứ mình đánh người ta là phải tù phải tội”.
Câu nói ấy không chỉ là lời can mà còn là lời nhắc nhở về cái lý, cái trật tự phổ biến và bất công trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ, thứ mà người nông dân không thể chống cự lại được. Thế nhưng bản thân chị Dậu lại không chấp nhận cái trật tự, cái lý ấy, chị muốn phản kháng, chị căm tức “Thà ngồi tù. Chứ không để chúng nó làm tình làm tội mãi được”.
Dù rằng sau trận “tức nước vỡ bờ” này, chị Dậu sẽ còn phải hứng chịu nhiều tai kiếp phía sau nữa, thế nhưng sự phản kháng của này đã thể hiện rất rõ những vẻ đẹp và sức mạnh tiềm ẩn bên trong con người chị Dậu.
Đó là tấm lòng yêu thương chồng thiết tha sâu nặng, biết nhẫn nhục, chịu đựng, hy sinh vì gia đình, thế nhưng bản thân chị cũng không hoàn toàn là người yếu đuối, để mặc người ta chà đạp, chị vẫn có một sức sống mạnh mẽ một tinh thần phản kháng tiềm tàng, sẵn sàng bùng nổ khi thực sự quá sức chịu đựng để bảo vệ chồng con.
Bên cạnh đó đoạn trích phản ánh sự tàn ác, bất nhân và cái trật tự xã hội phổ biến đầy bất công trong xã hội phong kiến đã dồn ép người nông dân vào cùng đường tuyệt lộ.
Phân Tích Tức Nước Vỡ Bờ Ấn Tượng – Mẫu 3
Văn học hiện thực Việt Nam những năm 30 của thế kỉ XX có bước phát triển mạnh mẽ với những tác phẩm đặc sắc của Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Ngô Tất Tố,..mỗi tác phẩm đều là một lát cắt của xã hội được tái hiện lại qua ngôn từ nghệ thuật mang giá trị lớn lao cả về tư tưởng lẫn nghệ thuật.
Đến với Ngô Tất Tố, chúng ta không thể không nhắc tới tiểu thuyết “Tắt đèn”, một tác phẩm tiêu biểu của văn học hiện thực giai đoạn 1931- 1945. Đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” trong “Tắt đèn” đã vạch trần những hiện thực tàn nhẫn trong xã hội lúc bấy giờ một cách rõ ràng nhất.
‘Tức nước vỡ bờ” đã tái hiện đầy sinh động bức tranh xã hội nước ta giai đoạn trước cách mạng tháng Tám. Đó là thời điểm mà nhân dân phải chịu cảnh lầm than “một cổ hai tròng” với sự áp bức của giai cấp thống trị phong kiến và thực dân xâm lược. Một xã hội mục ruỗng, thối nát, đầy những ngang trái, bất công đã đẩy dân ta vào khốn khổ đến cùng cực. Nhân dân vốn đã đói khổ, lại phải oằn mình trả những thứ thuế hết mục vô lý.
Đặc biệt là thuế thân, một thứ thuế tàn nhẫn đến phi nhân đạo. Thậm chí, ngay cả những người đã chết trong gia đình chưa nộp đủ suất sưu, chúng cũng không buông tha, đè gánh nợ lên người sống đang vật vã đói khổ. Hiện thực đó tái hiện qua hoàn cảnh đáng thương của gia đình chị Dậu- gia đình nghèo “nhất nhì trong hạng cùng đinh” của làng Đông Xá.
Đến mùa sưu thuế, chị phải đóng thuế đinh cho chồng và cả thuế thân cho người em chồng đã mất vào năm ngoái. Không đủ tiền nộp sưu, anh Dậu bị trói đánh tàn nhẫn, chị Dậu dẫu van xin thống thiết chúng cũng không chịu buông tha. Thật là một xã hội thối nát, phi nhân tính.
Bằng ngòi bút sắc sảo và cảm quan chân thực, tác giả đã dựng nên những nhân vật bất hủ đại diện cho giai cấp thống trị và tay sai như cai lệ, người nhà lí trưởng,..chúng đều đê tiện, vô nhân tính, tàn ác hết mực.
Bên cạnh đó, giá trị hiện thực của văn bản còn được thể hiện qua việc phản ánh số phận bi thảm và nét tính cách đáng trân trọng của những người nông dân trong xã hội lúc bấy giờ. Ngô Tất Tố đã rất thành công khi khắc hoạ nhân vật chị Dậu với hoàn cảnh đáng thương, đói khổ, nghèo tùng lại đèo bồng thêm suất sưu em chồng.
Gia đình chị Dậu bị đẩy đến bước đường cùng của cuộc sống, để có tiền đóng sưu thuế cho chồng chị phải bán hết khoai, ổ chó và cả cái Tí cho Nghị Quế. Gia đình chị Dậu là một đại diện tiêu biểu cho bao gia đình phải chịu cảnh khốn khổ, phản ánh tình cảnh đau thương của người nông dân trong xã hội lúc bấy giờ.
Hơn hết, ta vẫn thấy được những phẩm chất đáng quý của người dân Việt hiện lên trong tác phẩm. Đó là tấm lòng yêu thương chồng hết mức, là sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, rũ bùn đứng dậy của người phụ nữ trước sự tàn ác của bè lũ thống trị.
Đó là tấm lòng thảo thơm, ân tình giúp đỡ của bà hàng xóm, chỉ bát gạo nhỏ cùng lời hỏi thăm ân tình ấy thôi cũng đủ để ta thấy được văn hoá làng quê, nghĩ tình làng xóm bao đời người Việt gìn giữ và vun đắp.
Quy luật “có áp bức, có đấu tranh” trong hiện thực cũng được Ngô Tất Tố phản ánh trong tác phẩm. Điều đó được thể hiện rõ qua nét tính cách và hành động phản kháng mạnh mẽ của chị Dậu khi bị dồn tới bước đường cùng.
Nếu trong cuộc sống thường ngày, chị là người phụ nữ dịu dàng, quan tâm chồng con hết mực thì khi bị đẩy vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, lựa chọn giữa đấu tranh bảo vệ tình thân hoặc đầu hàng, chị đã đứng lên chống trả quyết liệt. Trong cả lời nói và hành động đều thể hiện sự căm phẫn tột độ và ý chí quyết tâm của người nông dân: “Thà ngồi tù, để cho chúng nó làm tình, làm tội như thế, tôi không chịu được”.
Có thể thấy, với tấm lòng nhân đạo cao cả, Ngô Tất Tố đã dựng nên một tác phẩm phơi bày những ngóc ngách của thực trạng xã hội lúc bấy giờ để giúp mỗi chúng ta hiểu rõ hơn về số phận và vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân trong xã hội xưa. Từ đó, thêm trân trọng cuộc sống an yên, đủ đầy hôm nay, biết ơn và trân quý những gì mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang làm vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân.
Phân Tích Tức Nước Vỡ Bờ Đặc Sắc – Mẫu 4
Ngô Tất Tố là một nhà văn hiện thực trước cách mạng tháng tám nhiều tác phẩm của ông nhằm có giá trị tố cáo sâu sắc chúng ta đã thấy được những hình ảnh đó qua những nhân vật nổi bật trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ.
Những đề tài tiêu biểu mà Ngô Tất Tố thể hiện qua những tác phẩm của mình đó là sự nghèo khổ của những người nông dân, họ bị bần cùng hóa và lâm vào một con đường khó khăn, họ bị xã hội trà đạp, bị cái đói bao vay.
Nhưng nhân dân đói khổ đó một phần là do chiến tranh gây ra một phần là do những thế lực cầm quyền tàn ác đã bòn rút hết những của cải của nhân dân, chúng ta đã thấy trong tức nước vỡ bờ hình ảnh người nông dân nghèo khổ luôn bị áp bức bóc lột, bị nộp sưu cao thuế nặng đã làm cho mỗi người đều cảm thấy phẫn uất trước những hiện tượng đó. Trong tác phẩm này ta thấy xuất hiện nhân vật vợ chồng chị Dậu là nổi bật cho những người nông dân bị áp bức.
Cái nghèo đói đã bao vay trong cuộc sống của nhân dân rồi, lại thêm những áp lực khác đó là hình ảnh những người nông dân bị bắt nộp sưu cao thuế nặng, không có đủ cơm để ăn nhưng người nông dân lao động đến đâu lại phải nộp hết tiền sưu thuế đến đấy đói khổ ngày càng trở nên nặng nề hơn.
Áp lực từ cái đói cái khổ làm cho người nông dân bị bần cùng hóa, hình ảnh đó đã mang những giá trị tố cáo sâu sắc khi người nông dân luôn phải chịu những đớn đau cả về thể xác lẫn tinh thần hình ảnh đó vang vọng trong trái tim của mỗi người.
Chúng ta đã thấy trong tác phẩm này người nông dân bị áp bức đến tận xương tủy nếu không nộp đầy đủ sưu thuế thì cũng bị đánh chết. Chúng ta đã bắt gặp những hình ảnh rất đau thương khi chồng chị Dậu bị bắt vì không nộp đủ sưu thuế.
Hình ảnh đó đã tác động mạnh mẽ đến những con người này, hình ảnh của người nông dân bị đánh đập dã man khi không có tiền nộp đủ sưu thuế, chúng đã bị đánh và bị hành hạ cả về thể xác lẫn tinh thần.
Trong hoàn cảnh xã hội như vậy cái đói khổ vẫn đang bao vây nhưng những người nông dân này lại luôn cố gắng phải kiếm từng miếng cơm manh áo cho cuộc sống của mình, cùng với những gánh nặng khác cũng đã ảnh hưởng đến những suy nghĩ và tình cảm của con người, những hình ảnh đó đã mang những đặc trưng tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam.
Cái đói nghèo thật tàn ác khi nó bòn rút hết tinh thần và tiền của của nhân dân, cái đói đó làm cho người nông dân kiệt sức, họ lâm vào đường nợ lần vì sưu thuế cao, anh Dậu bị ốm nặng nhưng bọn chúng đến và bắt nộp sưu thuế đầy đủ, chi tiết chị Dậu xin bọn chúng đã để lại những day dứt trong lòng người đọc.
Khi chị Dậu xin bọn chúng còn bị bọn chúng đánh đập cho, chị bị bọn chúng tát vào mặt những hình ảnh đó đã mang giá trị tố cáo sâu sắc những tên quan lại chỉ biết lo ăn chơi không lo nghĩ cho cuộc sống của người nông dân, khi anh Dậu chưa chết bọn chúng bắt nộp đầy đủ sưu thuế.
Những hình ảnh đó đã chứng tỏ rằng bọn chúng là những tên rất độc ác, chị Dậu xin khất và sẽ trả đủ nhưng bọn chúng không nghe, những hình ảnh đó đã mang những giá trị lớn cho chúng ta, khi chúng ta hiểu được nỗi khổ của những người nông dân đó và thấu hiểu đồng cảm với số phận của họ.
Những tên quan lại là những tên độc ác, còn những tên lính đi thu sưu thuế chỉ là những tên đầy tớ làm theo sự chỉ đạo của những tên quan kia, đó là một công cụ để nó thực hiện tội ác của mình, những hình ảnh khi anh Dậu bị đánh, chị Dậu cố van xin, và cả hành động chị Dậu quyết định bán con để có tiền lo trả sưu thuế cho bọn chúng đã thể hiện tình cảm của chị đối với người chồng của mình.
Sự đau đớn đó được chị quyết định ra nhưng đó chỉ là những điều mà chị đang cố gắng để cho anh Dậu không bị đánh, khi những hành động của bọn chúng quá đáng thì chị dậu mới không thể chịu được những cách cư xử của bọn chúng chị đã thể hiện được sức mạnh của mình khi bị bọn chúng bóc lột.
Những hình ảnh đó đã mang những điều thật lớn lao khi chị vừng lên đấu tranh với cái ác cái xấu hình ảnh đó đã thể hiện chị là một người biết đứng lên đấu tranh để bảo lệ công lý của những người nông dân nghèo khổ.
Trong tác phẩm đã thể hiện được nỗi khổ của những người nông dân trước cách mạng họ chịu bao cực khổ, và cái nghèo đói đã đang bủa vây lấy cuộc đời của họ, nhưng chị Dậu là một sức mạnh biểu hiện đã biết đứng lên đấu tranh chống lại cái ác cái xấu để bảo vệ cuộc sống của họ, họ là những con người đại diện cho những sức mạnh to lớn của dân tộc Việt Nam, có áp bức có đấu tranh, chống lại những sự tàn bạo của bọn chúng.
Phân Tích Tức Nước Vỡ Bờ Tiêu Biểu – Mẫu 5
Tức nước vỡ bờ là chương XVIII của tiểu thuyết Tắt đèn. Nếu đặt vào mạch chung của cuốn tiểu thuyết thì đây là chương truyện có kịch tính rất cao. Mười bảy chương truyện trước đó đã thuật lại không biết bao nhiêu là cảnh cùng cực, khốn đốn của vợ chồng chị Dậu trong những ngày sưu thuế.
Nhà đã nghèo “lên đến bậc nhì, bậc nhất trong hạng cùng đinh”, đến vụ thuế, anh Dậu lại ốm liệt giường. Cho nên, vì suất sưu của anh Dậu mà chị Dậu phải bán chó, bán con, phải chịu đựng những lời rủa sả cay độc của vợ chồng Nghị Quế và cũng từng phải “nếm” cả những “quả phật thủ” của bọn lính tráng và người nhà lí trường. Cũng vì suất sưu ấy mà anh Dậu bị đánh, bị trói giữa lúc ốm đau.
Chế độ thực dân, phong kiến chẳng những đánh thuế vào người sống, mà còn dựng cả người chết dậy mà đánh thuế. Cho nên, nộp xong suất sưu của anh Dậu, chị Dậu những tưởng đã trả được “món nợ nhà nước”, nào ngờ, bọn hào lí cho biết chị còn phải nộp suất sưu của “chú Hợi” đã chết từ năm ngoái. Thế là chị Dậu bị đẩy tới chỗ cùng đường. Anh Dậu lại tiếp tục bị đánh, bị trói cho đến ngất xỉu đi như chết.
Nửa đêm, người ta đem anh Dậu rũ rượi như một cái xác trả về cho chị Dậu. Nhờ có hàng xóm đổ đến giúp, chị Dậu đã cứu sống được chồng. Nhưng trời vừa sáng, cai lệ và người nhà lí trưởng “đã sầm sập tiến vào với những roi song, tay thước và dây thừng”, tính mạng của anh Dậu bị đe dọa nghiêm trọng. Thế là “tức nước vỡ bờ”, chị Dậu đã vùng lên chống trả một cách quyết liệt.
Đặt nhân vật vào tình huống đầy kịch tính ấy, chương truyện vừa phơi bày bộ mặt tàn ác, bất nhân của lũ tôi tớ sai của bọn thực dân, phong kiến, vừa làm nổi bật những phẩm chất, tính cách tốt đẹp của người phụ nữ nông dân Việt Nam.
Bộ mặt thất thần, tàn ác của lũ tôi tớ tay sai dưới chế độ thực dân, phong kiến được thể hiện qua hình ảnh cai lệ và tên người nhà lí trưởng. Cai lệ và người nhà lí trưởng tuy thân phận, địa vị khác nhau, thái độ của chúng cũng không hoàn toàn giống nhau, nhưng sự bất nhân, tàn ác thì không đứa nào chịu thua kém đứa nào. Chỉ cần một ít chi tiết nghệ thuật, chân dung của chúng đã được nhà văn khắc họa hết sức sắc sảo.
“Sầm sập tiến vào”, “sầm sập đến”, “sấn đến”, “nhảy vào”; “gõ đầu roi xuống đất”, “thét”, “quát”, “mỉa mai”, “hằm hè”, “đùng đùng” “bịch luôn vào cái ngực chị Dậu mấy bịch”, “tát cả vào mặt chị một cái đánh bốp”, chân dung của cai lệ và người nhà lí trường được khắc họa bằng những chi tiết điệu bộ, giọng nói và hành vi như vậy.
Ngô Tất Tố không dùng bất kì một chi tiết nào để miêu tả suy nghĩ của chúng. Đó chính là sự sắc sảo, tinh tế của ngòi bút nhà văn. Bởi vì, lũ đầu trâu, mặt ngựa, xem việc đánh người như là việc tự nhiên, chẳng bao giờ thấy động lòng trắc ẩn, thì làm gì biết suy nghĩ. Bỏ đi những chi tiết miêu tả nội tâm, Ngô Tất Tố vừa làm nổi bật bản chất bất nhân, thất đức, bản chất cầm thú của bọn đầy tớ, tay sai, vừa tạo ra kịch tính căng thẳng cho mạch truyện.
Cảnh ”tức nước vỡ bờ” miêu tả tinh tế diễn biến tâm lí của một tính cách nhất quán. Chị Dậu có thể nhẫn nhục, chịu đựng, nhưng khi bị đẩy tới chân tường, thì cũng biết chống trả quyết liệt thể hiện một khả năng phản kháng tiềm tàng.
Trước thái độ hung hăng, những lời hách dịch của cai lệ, chị Dậu “run run”. Chị sợ thì ít, mà lo cho chồng thì nhiều. Chị gọi cai lệ “ông”, tự xưng là cháu. Chị van xin, cầu khẩn bằng giọng “cố tha thiết”: “Hai ông làm phúc nói với ông lí hãy cho cháu khất…”, “Khốn nạn! Nhả cháu đã không có, dẫu ông chửi mắng cũng thế thôi. Xin ông trông lại!”.
Đến khi thấy tính mạng của chồng bị đe dọa, thái độ của chị Dậu thay đổi hoàn toàn. Chị vẫn cố van xin, nhưng vội vàng đặt đứa con đang bế xuống đất, chạy đến đỡ lấy tay cai lệ, không để hắn đụng tới anh Dậu. Đang xưng hô “ông – cháu”, chị Dậu chuyển qua “ông – tôi” với cai lệ. Người đàn bà uất ức đã liều mình đứng dậy tự đặt ngang hàng với cai lệ để cảnh báo hắn: “Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ!”.
Thái của chị Dậu ngày càng quyết liệt. Người đàn bà dịu dàng bỗng trở nên đáo để. Chị hạ cai lệ xuống thứ “mày” vả ngang nhiên thách thức: “Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem”. Chị Dậu quật ngã bọn tay sai hung ác trong ngang hàng, bất khuất với sức mạnh kì lạ – Chị “túm lấy cổ” cai lệ “ấn dúi ra cửa.
”Cai lệ ngã chỏng quèo trên mặt đất, miệng vẫn lảm nhảm thét trói vợ chồng kẻ thiếu sưu”. Tên người nhà lí trưởng cũng bị chị Dậu “túm tóc lằng сho một cái, ngã nhào ra thềm”. Giọng văn của Ngô Tất Tố trở nên hả hê.
Dưới ngòi bút của ông, hình ảnh chị Dậu trở nên khỏe khoắn, quyết liệt bao nhiêu, thì hình ảnh bọn tay sai hung ác trở nên nhỏ bé, hèn hạ, nực cười và hài hước bấy nhiêu. Thấy chị Dậu quá quyết liệt, anh Dậu vừa run vừa kêu: “U nó không được thế! Người ta đánh mình không sao, mình đánh người ta thì mình phải tù, phải tội”. Nhưng “tức nước” thì tất yếu “vỡ bờ”.
Nghe anh Dậu can, chị Dậu càng phẫn uất: “Thà ngồi tù. Để cho chúng làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được…”. Câu nói mộc mạc đầy phẫn uất ấy giống như lời tuyên ngôn hùng hồn cho quy luật: có áp bức, dứt khoát có đấu tranh.
Sức mạnh kì diệu của chị Dậu là sức mạnh lòng căm hờn, uất hận bị dồn nén đến mức không thể chịu đựng được nữa. Đó còn là sức mạnh của tình thương yêu chồng con vô bờ bến. Một người đàn bà lúc nào cũng chỉ nghĩ tới chồng, tới con, nhiều lần lấy thân của mình để che chở đòn roi cho chồng, vì chồng con, người đàn bà ấy sẵn sàng “thà ngồi tù”.
Dưới ngòi bút của Ngô Tất Tố đã khẳng định tài năng miêu tả nhân vật chị Dậu vừa hiện lên sống động giống như người có thật, vừa thể hiện quy luật tất yếu của đời sống hiện thực. Cho nên, chị Dậu trong tiểu thuyết “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố có khả năng bước ra khỏi trang văn để đến với cuộc đời và sống mãi trong đời sống tinh thần của chúng ta.