3 Tập Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Du ❤️️ Các Bài Thơ Chữ Nôm Hay ✅ Cùng Đón Đọc Những Chùm Thơ Đặc Sắc Nhất Của Đại Thi Hào Nguyễn Du.
NỘI DUNG CHÍNH
Giới Thiệu Về Tác Phẩm Chữ Hán Của Nguyễn Du
Nguyễn Du (chữ Hán: 阮攸; 3 tháng 1 năm 1766 – 1820) tên tự là Tố Như (素如), hiệu là Thanh Hiên (清軒), là một nhà thơ, nhà văn hóa lớn thời Lê mạt Nguyễn sơ ở Việt Nam. Ông được người Việt kính trọng tôn xưng là “Đại thi hào dân tộc” và được UNESCO vinh danh là “Danh nhân văn hóa thế giới”. Cùng đón đọc Giới Thiệu Về Tác Phẩm Chữ Hán Của Nguyễn Du:
Có thể nói rằng nét nổi bật chính qua các tác phẩm của Nguyễn Du là sự đề cao xúc cảm. Nguyễn Du là nhà thơ có học vấn uyên bác, nắm vững nhiều thể thơ của Trung Quốc, như: ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật, thất ngôn luật, ca, hành… nên ở thể thơ nào, ông cũng có bài xuất sắc.
Những tác phẩm bằng chữ Hán của Nguyễn Du rất nhiều, nhưng mãi đến năm 1959 mới được ba nhà nho là: Bùi Kỷ, Phan Võ và Nguyễn Khắc Hanh sưu tầm, phiên dịch, chú thích và giới thiệu tập: Thơ chữ Hán Nguyễn Du (Nhà xuất bản Văn hóa, 1959) chỉ gồm có 102 bài. Đến năm 1965 Nhà xuất bản Văn học đã ra Thơ chữ Hán Nguyễn Du tập mới do Lê Thước và Trương Chính sưu tầm, chú thích, phiên dịch, sắp xếp, gồm 249 bài như sau.
- Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên) gồm 78 bài, viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi làm quan nhà Nguyễn.
- Nam trung tạp ngâm (Ngâm nga lặt vặt lúc ở miền Nam) gồm 40 bài, viết khi làm quan ở Huế, Quảng Bình và những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh.
- Bắc hành tạp lục (Ghi chép linh tinh trong chuyến đi sang phương Bắc) gồm 131 bài thơ, viết trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc.
Để tìm hiểu rõ hơn về 3 tập thơ chữ hán của nguyễn du nổi tiếng hãy cùng đón đọc thêm nội dung sau đây:
Dành tặng bạn đọc chùm ❤️️ Những Đoạn Thơ Hay Trong Truyện Kiều ❤️️ nổi tiếng, ngoài 3 Tập Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Du
3 Tập Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Du Nổi Tiếng
Dưới đây là thông tin chi tiết Thohay.vn chia sẻ về 3 Tập Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Du Nổi Tiếng nhất:
Thanh Hiên thi tập
Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên) Gồm 78 bài, viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi làm quan nhà Nguyễn. Tập thơ được sáng tác trong ba giai đoạn:
- Giai đoạn “Mười năm gió bụi”, từ năm 1786, năm Tây Sơn bắt đầu đưa quân ra Bắc Hà, cho đến năm Nguyễn Du trở về quê nhà ở Hồng Lĩnh, khoảng cuối những năm 1795 đầu năm 1796.
- Giai đoạn “Dưới chân núi Hồng”, từ năm 1796 đến năm 1802.
- Giai đoạn “Ra làm quan ở Bắc Hà”, từ năm 1802 đến cuối năm 1804 (trong giai đoạn này có lần nhà thơ được cử đi nghênh tiếp sứ thần nhà Thanh sang phong sắc cho Gia Long).
Nam trung tạp ngâm
Nam trung tạp ngâm (Ngâm nga lặt vặt lúc ở miền Nam) Gồm 40 bài thơ làm từ năm 1805 đến cuối năm 1812, tức là từ khi được thăng hàm Đông các học sĩ vào làm quan ở Kinh (gần 4 năm) cho đến hết thời kỳ làm Cai bạ dinh Quảng Bình (3 năm, 5 tháng). Ông viết khi làm quan ở Huế, Quảng Bình và những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh.
Bắc Hành tạp lục
Bắc Hành Tạp Lục: Gồm các bài thơ làm trong thời gian đi sứ triều cống Trung Hoa (1813-1815). Sắp xếp theo các địa danh và đầu đề của những bài thơ này, chúng ta sẽ vạch được con đường đi của ông từ kinh đô Phú Xuân cho đến khi sang Tàu và trở về. Đồng thời, con đường đi này cũng thể hiện phần nào tâm thức của tiên sinh biến chuyển theo từng chặng hành trình.
=> Với cách sắp xếp đó có thể hiểu được tâm sự của Nguyễn Du trong từng giai đoạn. Có thể xem ba tập thơ này là ba tập nhật ký ghi trong một khoảng thời gian dài, từ năm nhà thơ 21 tuổi (1786) cho đến năm nhà thơ 49 tuổi (1814), trước lúc chết 5 năm. Bài thơ nào cũng chứa đựng một lời tâm sự. Ngay những bài tức cảnh vịnh sử khi đi sứ Trung Quốc cũng không phải là những bài tức cảnh, vịnh sử thuần túy mà đều có bao hàm tâm sự của nhà thơ, bộc lộ thái độ sống của nhà thơ một cách hết sức rõ rệt.
=> Tập thơ 249 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du là một công trình tập thể đã được cụ Lê Thước và Trương Chính thu thập tài liệu, dịch nghĩa, chú thích, sắp xếp.
Đừng bỏ lỡ tập 🔻 Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Trãi 🔻nổi tiếng, ngoài 3 Tập Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Du
Những Bài Thơ Chữ Hán Nguyễn Du Hay
Tiếp theo là Những Bài Thơ Chữ Hán Nguyễn Du Hay và nổi tiếng nhất được chọn lọc kĩ càng sau đây:
乞食 – Khất thực
嶒崚長劍倚青天,
輾轉泥塗三十年。
文字何曾為我用,
饑寒不覺受人憐。
Phiên âm Hán Việt
Tằng lăng trường kiếm ỷ thanh thiên,
Triển chuyển nê đồ tam thập niên.
Văn tự hà tằng vi ngã dụng ?
Cơ hàn bất giác thụ nhân liên!
Dịch nghĩa
Tựa kiếm dài, ngạo nghễ nhìn trời xanh,
Lăn lộn trong đám bùn dơ ba mươi năm nay.
Văn chương nào đã dùng được việc gì cho ta ?
Đâu ngờ phải đói rét để người thương
春日偶興 – Xuân nhật ngẫu hứng
患氣經時戶不開,
逡巡寒暑故相催。
他鄉人與去年別,
瓊海春從何處來。
南浦傷心看綠草,
東皇生意漏寒梅。
鄰翁奔走村前廟,
斗酒雙柑醉不回。
Phiên âm Hán Việt
Hoạn khí kinh thì hộ bất khai,
Thuân tuần hàn thử cố tương thôi.
Tha hương nhân dữ khứ niên biệt,
Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai ?
Nam phố thương tâm khan lục thảo,
Đông hoàng sinh ý lậu hàn mai.
Lân ông bôn tẩu thôn thiền miếu,
Đấu tửu song cam tuý bất hồi.
Dịch nghĩa
Bấy lâu khí trời xấu, cửa đóng kín,
Quanh quẩn hết mùa nực lại đến mùa rét.
Ta thì phải giã từ năm cũ ở đất khách quê người?
Chẳng hay xuân từ đâu đến Quỳnh Hải,
Đau lòng nhìn bãi cỏ xanh bên bờ nam,
Và thấy chúa xuân để lộ sinh ý trên cánh hoa mai lạnh.
Có ông già hàng xóm, tay cầm nậm rượu và hai quả cam đi về phía miếu đầu thôn,
Chắc là đang say, không thấy trở về.
留別阮大郎 – Lưu biệt Nguyễn đại lang
西風蕭颯拂高林,
傾盡離杯話夜深。
亂世男兒羞對劍,
他鄉朋友重分襟。
高山流水無人識,
海角天涯何處尋?
留取江南一片月,
夜來常照兩人心。
Phiên âm Hán Việt
Tây phong tiêu táp phất cao lâm,
Khuynh tận ly bôi ngoại dạ thâm.
Loạn thế nam nhi tu đối kiếm,
Tha hương bằng hữu trọng phân khâm.
“Cao sơn lưu thuỷ” vô nhân thức,
Hải giác thiên nhai hà xứ tầm?
Lưu thủ giang nam nhất phiến nguyệt,
Dạ lai thường chiếu lưỡng nhâm tâm.
Dịch nghĩa
Gió tây hiu hắt thổi qua rừng cây cao.
Hãy cạn chén rượu biệt ly này rồi cùng nhau nói chuyện đến khuya.
Trai thời loạn nhìn thanh kiếm mà thẹn.
Chia tay bạn, ở đất khách, càng thấy bùi ngùi.
Khúc đàn cao sơn lưu thuỷ, ai người hiểu?
Rồi đây biết tìm anh nơi đâu ở góc bể chân trời?
Chỉ còn lại mảnh trăng phía nam sông
Đêm đêm soi chung tấm lòng hai ta.
滯客 – Trệ khách
滯客淹留南海中,
寂寥良夜與誰同。
歸鴻悲動天河水,
戍鼓寒侵夏夜風。
人到窮途無好夢,
天回苦海促浮蹤。
風塵隊裡留皮骨,
客枕蕭蕭兩鬢蓬。
Phiên âm Hán Việt
Trệ khách yêm lưu Nam Hải trung,
Tịch liêu lương dạ dữ thuỳ đồng?
Quy hồng bi động thiên hà thuỷ,
Thú cổ hàn xâm hạ dạ phong.
Nhân đáo cùng đồ vô hảo mộng,
Thiên hồi khổ hải xúc phù tung.
Phong trần đội lý lưu bì cốt,
Khách chẩm tiêu tiêu lưỡng mấn bồng.
Dịch nghĩa
Người khách bê trệ nằm bẹp mãi ở vùng biển nam.
Đêm đẹp vắng lặng, biết trò chuyện cùng ai?
Con chim hồng bay về, tiếng kêu bi thương vang động nước sông Ngân.
Tiếng trống cầm canh lạnh cả gió đêm hè.
Con người ta đến bước đường cùng không thể có mộng đẹp.
Trời d0ưa bể khổ lại giục gót phiêu lưu.
Trong đám người phong trần, mình để lại bộ xương bọc da,
Nằm nơi đất khách, hai mái tóc bạc loà xoà trên gối.
山居漫興 – Sơn cư mạn hứng
南去長安千里餘,
群峰深處野人居。
柴門晝靜山雲閉,
藥圃春寒隴竹疏。
一片鄉心蟾影下,
經年別淚雁聲初。
故鄉弟妹音耗絕,
不見平安一紙書。
Phiên âm Hán Việt
Nam khứ Trường An thiên lý dư,
Quần phong thâm xứ dã nhân cư.
Sài môn trú tĩnh sơn vân bế,
Dược phố xuân hàn lũng trúc sơ.
Nhất phiến hương tâm thiềm ảnh hạ,
Kinh niên biệt lệ nhạn thanh sơ.
Cố hương đệ muội âm hao tuyệt,
Bất kiến bình an nhất chỉ thư.
Dịch nghĩa
Cách Trường An nghìn dặm về phía nam,
Có một người quê mùa ở trong núi sâu.
Ban ngày yên tĩnh, mây núi che kín cổng tre.
Mùa xuân lạnh, hành trúc quanh vườn thuốc trông thưa thớt.
Thơ thẩn dưới bóng trăng, lòng nhớ quê hương.
Tiếng nhạn đầu mùa khơi thêm dòng lệ biệt ly từ bao năm.
Em trai em gái ở nơi quê nhà, bấy lâu bặt hắn tin tức,
Không nhận được lá thư nào nói cho biết có bình yên hay không?
不寐 – Bất mị
不寐聽寒更,
寒更不肯盡。
關山引夢長,
砧杵催寒近。
廢灶聚蝦蟆,
深堂出蚯蚓。
暗誦天問章,
天高何處問?
Phiên âm Hán Việt
Bất mị thính hàn canh,
Hàn canh bất khẳng tận.
Quan san dẫn mộng trường,
Châm chử thôi hàn cận.
Phế táo tụ hà ma,
Thâm đường xuất khâu dận.
Ám tụng “Thiên vấn” chương,
Thiên cao hà xứ vấn?
Dịch nghĩa
Không ngủ nằm nghe tiếng trống canh trong đêm lạnh.
Trong đêm lạnh, trống canh điểm không thôi.
Quan san làm giấc mộng dài thêm,
Tiếng chày nện vải càng giục hơi lạnh đến gần.
Cóc nhái tụ họp quanh bếp,
Giun từ góc sâu trong nhà bò ra.
Thầm đọc bài ca hỏi trời,
Trời cao, biết đâu mà hỏi?
瓊海元宵 – Quỳnh Hải nguyên tiêu
元夜空庭月滿天,
依依不改舊嬋娟。
一天春興誰家落,
萬里瓊州此夜圓。
鴻嶺無家兄弟散,
白頭多恨歲時遷。
窮途憐汝遙相見,
海角天涯三十年。
Phiên âm Hán Việt
Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,
Y y bất cải cựu thuyền quyên.
Nhất thiên xuân hứng, thuỳ gia lạc,
Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên.
Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán,
Bạch đầu đa hận tuế thì thiên.
Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến,
Hải giác thiên nhai tam thập niên.
春夜 – Xuân dạ
黑夜韶光何處尋,
小窗開處柳陰陰。
江湖病到經時久,
風雨春隨一夜深。
羈旅多年燈下淚,
家鄉千里月中心。
南臺村外龍江水,
一片寒聲送古今。
Phiên âm Hán Việt
Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm?
Tiểu song khai xứ liễu âm âm.
Giang hồ bệnh đáo kinh thì cửu,
Phong vũ xuân tuỳ nhất dạ thâm.
Kỳ lữ đa niên đăng hạ lệ,
Gia hương thiên lý nguyệt trung tâm.
Nam Đài thôn ngoại Long giang thuỷ,
Nhất phiến hàn thanh tống cổ câm (kinh).
Dịch nghĩa
Trời tối đen, tìm đâu thấy cảnh xuân tươi sáng?
Qua khuôn cửa sổ nhỏ, chỉ thấy bóng liễu âm u.
Trong bước giang hồ, lại phải nằm bệnh lâu ngày,
Cuộc đời có khác gì vẻ xuân theo mưa gió chìm trong bóng đêm.
Ở đất khách lâu năm, ngồi dưới bóng đèn mà rơi lệ.
Quê hương xa nghìn dặm, nhìn trăng mà đau lòng.
Ở đó, phía ngoài thôn Nam Đài, tiếng sóng lòng sông Long Giang
Vẫn lạnh lùng tiễn đưa kim cổ.
雜吟 – Tạp ngâm (I)
踏遍天涯又海涯,
乾坤隨在即為家。
平生不起蒼蠅念,
今古誰同白蟻窩。
寥落壯心虛短劍,
蕭條旅悶對時歌。
閉門不識春深淺,
但見棠藜落盡花。
Phiên âm Hán Việt
Đạp biến thiên nha hựu hải nha,
Càn khôn tuỳ tại tức vi gia.
Bình sinh bất khởi thương dăng niệm,
Kim cổ thuỳ đồng bạch nghĩ oa?
Liêu lạc tráng tâm hư đoản kiếm,
Tiêu điều lữ muộn đối thì ca.
Bế môn bất thức xuân thâm thiển,
Đãn kiến đường lê lạc tận hoa.
Dịch nghĩa
Đi khắp chân trời góc biển,
Trong khoảng trời đất, đến đâu là nhà đó.
Bình sinh chưa hề có ý nghĩ của loài ruồi nhặng,
Xưa nay ai lại cùng chung tổ với lũ mối?
Tráng tâm lâm vào cảnh tịch mịch, phụ cả cây đoản kiếm.
Nỗi buồn lữ thứ càng trở nên tiêu điều khi nghe những bài hát đương thời.
Cửa ngõ đóng kín, chẳng biết xuân sớm hay muộn nữa,
Chỉ thấy cây đường lê rụng hết hoa rồi.
渭潢營 – Vị Hoàng doanh
渭潢江上渭潢營,
樓櫓參差接太青。
古渡斜陽看飲馬,
荒郊靜夜亂飛螢。
古今未見千年國,
形勢空留百戰名。
莫向清華村口望,
疊山不改舊時聲。
Phiên âm Hán Việt
Vị Hoàng giang thượng Vị Hoàng doanh,
Lâu lỗ sâm si tiếp thái thanh.
Cổ độ tà dương khan ẩm mã,
Hoang giao tĩnh dạ loạn phi huỳnh.
Cổ kim vị kiến thiên niên quốc,
Hình thế không lưu bách chiến danh.
Mạc hướng Thanh Hoa thôn khẩu vọng,
Điệp Sơn bất cải cựu thì thanh.
Dịch nghĩa
Cạnh sông Vị Hoàng có quân doanh Vị Hoàng,
Chòi gác nhấp nhô, cao tận trời.
Ở bến đò xưa, buổi chiều, trông thấy ngựa uống nước.
Giữa cánh đồng hoang, đêm thanh vắng, đóm bay lập loè.
Xưa nay chưa thấy triều đại nào đứng vững ngàn năm.
Nơi đây chỉ còn lại cái tiếng đã trải qua trăm trận đánh.
Thôi, đừng nhìn về phía Thanh Hoa nữa,
Dãy núi Điệp Sơn vẫn không thay đổi vè xanh tươi ngày trước.
代人戲筆 – Đại nhân hí bút
錯落人家珥水新,
居然別占一城春。
東西橋閣兼天起,
胡漢衣冠特地分。
苜蓿秋驕金勒馬,
葡萄春醉玉樓人。
年年自得繁華勝,
不管南溟幾度塵。
Phiên âm Hán Việt
Thác lạc nhân gia Nhĩ thuỷ tân
Cư nhiên biệt chiếm nhất thành xuân.
Đông tây kiều các kiêm thiên khởi,
Hồ Hán y quan đặc địa phân.
Mục túc thu kiêu kim lặc mã,
Bồ đào xuân tuý ngọc lâu nhân.
Niên niên tự đắc phồn hoa thắng,
Bất quản Nam minh kỷ độ trần.
Dịch nghĩa
Trên bãi sông Nhị, nhà cửa lô nhô,
Nghiễm nhiên chiếm cảnh xuân của cả một thành.
Phía đông và phía tây, cầu và nhà gác cao ngút trời.
Áo mũ chia hẳn người Hán với người Hồ.
Mùa thu, ngựa đeo giàm vàng kiêu hãnh ăn rau mục túc.
Ngày xuân, người trong lầu ngọc uống rượu bồ đào say mềm.
Tha hồ hưởng thú phồn hoa hết năm này đến năm khác,
Không quản bể Nam mấy phen nổi bụi.
再踰三疊山 – Tái du Tam Điệp sơn
雲際山三疊,
天涯客再踰。
眼中收大地,
海外見漁舟。
瘴靜峰巒瘦,
天寒草木秋。
行人回看處,
無那故鄉愁。
Phiên âm Hán Việt
Vân tế sơn Tam Điệp,
Thiên nhai khách tái du.
Nhãn trung thu đại địa,
Hải ngoại kiến ngư chu.
Chướng tĩnh phong loan sấu,
Thiên hàn thảo mộc thu.
Hành nhân hồi khán xứ,
Vô ná cố hương sầu.
憶家兄 – Ức gia huynh
六塔城南繫一官,
海雲夜渡石巑岏。
窮陬嵐瘴三年戍,
故國煙花二月寒。
一別不知何處住,
重逢當作再生看。
海天茫渺千餘里,
神魄相求夢亦難。
Phiên âm Hán Việt
Lục Tháp thành nam hệ nhất quan,
Hải Vân dạ độ thạch toàn ngoan.
Cùng tưu lam chướng tam niên thú,
Cố quốc yên hoa nhị nguyệt hàn.
Nhất biệt bất tri hà xứ trú?
Trùng phùng đương tác tái sinh khan.
Hải thiên mang diểu thiên dư lý,
Thần phách tương cầu mộng diệc nan!
Dịch nghĩa
Chức quan buộc chân anh ở phía nam thành Lục Tháp,
Đi vào đó ban đêm phải vượt đèo Hải Vân, đá lởm chởm.
Anh ở nơi hẻo lánh đầy khí độc ấy ròng rã đã ba năm trời,
Tiết tháng hai lạnh lẽo chắc nhớ hoa khói ở quê nhà lắm.
Kể từ khi từ biệt, nay không biết đích xác ở nơi nào,
Cuộc trùng phùng có lẽ phải đợi đến kiếp sau.
Trời bể mênh mang, đường xa nghìn dặm,
Hồn phách tìm nhau trong giấc mộng cũng thấy khó khăn.
開窗 – Khai song
門前煙景近如何,
閒日開窗生意多。
六月培風鵬徙地,
一庭積雨蟻移窩。
青氈舊物苦珍惜,
白髮雄心空咄嗟。
再病尚須調攝力,
不知秋思到誰家。
Phiên âm Hán Việt
Môn tiền yên cảnh cận như hà?
Nhàn nhật khai song sinh ý đa.
Lục nguyệt bồi phong bằng tỷ địa,
Nhất đình tích vũ nghĩ di oa.
Thanh chiên cựu vật khổ trân tích,
Bạch phát hùng tâm không đốt ta.
Tái bệnh thượng tu điều nhiếp lực,
Bất tri thu tứ đáo thuỳ gia?
Dịch nghĩa
Phong cảnh trước nhà, nay như thế nào rồi?
Nhàn rỗi, mở cửa sổ ra xem, thấy mọi vật vẫn vui tươi.
Chim bằng cưỡi gió bay luồn sáu tháng không nghỉ,
Sân đọng nước mưa kiến dời tổ đi.
Có chiếc nệm xanh là vật cũ, khư khư giữa mãi,
Tóc bạc rồi, có hùng tâm cũng ngồi than thở suông mà thôi.
Bệnh trở lại, phải lo điều dưỡng,
Không biết thu đến nhà ai?
初月 – Sơ nguyệt
吸得陽光纔上天,
初三初四未團圓。
嫦娥妝鏡微開匣,
壯士彎弓不上弦。
千里關山無改色,
一庭霜露共愁眠。
徘徊正憶鴻山夜,
卻在羅浮江水邊。
Phiên âm Hán Việt
Hấp đắc dương quang tài thướng thiên,
Sơ tam sơ tứ vị đoàn viên.
Thường Nga trang kính vi khai hạp,
Tráng sĩ loan cung bất thướng huyền.
Thiên lý quan san vô cải sắc,
Nhất đình sương lộ cộng sầu miên.
Bồi hồi chính ức Hồng sơn dạ,
Khước tại La Phù giang thuỷ biên.
Dịch nghĩa
Trăng hút được ánh sáng mặt trời, vừa mới ló lên,
Mồng ba mồng bốn chưa tròn.
Tấm gương của chị Hằng Nga chưa hé nắp,
Vành cung tráng sĩ chưa mắc dây.
Ở nơi nghìn dặm quan san, trăng vẫn không thay đổi vẻ đẹp,
Đầy sân sương móc, cùng trăng nằm ngủ, lòng buồn hiu.
Bồi hồi nhớ đêm nào còn ở dưới chân núi Hồng,
Bây giờ đã ở trên bến sông La Phù.
讀小青記 – Độc Tiểu Thanh ký
西湖花苑盡成墟,
獨吊窗前一紙書。
脂粉有神憐死後,
文章無命累焚餘。
古今恨事天難問,
風韻奇冤我自居。
不知三百餘年後,
天下何人泣素如。
Phiên âm Hán Việt
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kỳ oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Dịch nghĩa
Vườn hoa cạnh Tây Hồ đã thành bãi hoang,
Ta chỉ viếng nàng qua bài ký đọc trước cửa sổ mà thôi.
Son phấn có linh hồn chắc phải xót chuyện xảy ra sau khi chết,
Văn chương không có mệnh mà cũng bị liên luỵ, đốt đi còn sót lại một vài bài.
Mối hận cổ kim, thật khó mà hỏi ông trời.
Ta tự coi như người cùng một hội, một thuyền với nàng là kẻ vì nết phong nhã mà mắc phải nỗi oan lạ lùng.
Chẳng biết ba trăm năm sau nữa,
Thiên hạ có ai khóc Tố Như ta?
Bật mí nội dung ❤️️ Thơ Về Lòng Yêu Nước ❤️️ hay nhất, ngoài 3 Tập Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Du
Các Tác Phẩm Chữ Nôm Của Nguyễn Du Đặc Sắc
Ngoài ra, Thohay.vn giới thiệu thêm đến bạn đọc Các Tác Phẩm Chữ Nôm Của Nguyễn Du Đặc Sắc nhất dưới đây:
Hồi 01 – Trích Truyện Kiều
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu.
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Cảo thơm lần giở trước đèn,
Phong tình có lục còn truyền sử xanh.
Rằng: năm Gia Tĩnh triều Minh,
Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng.
Có nhà viên ngoại họ Vương,
Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung,
Một trai con thứ rốt lòng,
Vương Quan là chữ, nối dòng nho gia.
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần.
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc vẫn là phần hơn.
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai.
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.
Cung, thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên “Bạc mệnh” lại càng não nhân.
Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Hồi 02 – Trích Truyện Kiều
Ngày xuân con én đưa thoi,
Nhiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Thanh minh, trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.
Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay
Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước lần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang
Sè sè nấm đất bên đường,
Dầu dầu ngọn cỏ, nửa vàng nửa xanh,
Rằng: Sao trong tiết Thanh minh,
Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?
Vương Quan mới dẫn gần xa:
Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi
Nổi danh tài sắc một thì,
Xôn xao ngoài của, hiếm gì yến anh.
Phận hồng nhan có mong manh,
Nửa chừng xuân, thoắt gẫy cành thiên hương
Có người khách ở viễn phương,
Xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi
Thuyền tình vừa ghé đến nơi,
Thì đà trâm gãy bình rơi bao giờ!
Buồng không lạnh ngắt như tờ,
Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh
Khóc than khôn xiết sự tình,
Khéo vô duyên bấy là mình với ta.
Đã không duyên trước chăng mà,
Thì chi chút ước gọi là duyên sau.
Sắm sanh nếp tử, xe châu,
Vùi nông một nấm, mặc dầu cỏ hoa.
Trải bao thỏ lặn, ác tà,
Ấy mồ vô chủ, ai mà viếng thăm!
Lòng đâu sẵn món thương tâm
Thoạt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa:
Đau đớn thay, phận đàn bà!
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Phũ phàng chi bấy Hoá công!
Ngày xanh mòn mỏi, má hồng phôi pha
Sống làm vợ khắp người ta
Hại thay! Thác xuống làm ma không chồng!
Nào người phượng chạ, loan chung,
Nào người tiếc lục tham hồng là ai?
Đã không kẻ đoái, người hoài,
Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương
Gọi là gặp gỡ giữa đường,
Hoạ là người dưới suối vàng biết cho.
Lâm râm khấn khứa nhỏ to
Sụp ngồi, vài gật trước mồ, bước ra.
Một vùng cỏ áy bóng tà,
Gió hiu hiu thổi một và bông lau.
Rút trâm sẵn dắt mái đầu
vạch da cây, vịnh bốn câu ba vần.
Lại càng mê mẩn tâm thần,
Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra
Lại càng ủ dột nét hoa
Sầu tuôn đứt nối, chân sa vắn dài!
Vân rằng: Chị cũng nực cười,
Khéo dư nước mắt, khóc người đời xưa!
Rằng: Hồng nhan tự nghìn xưa,
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu
Nỗi niềm tưởng đến mà đau,
Thấy người nằm đó, biết sau thế nào?
Quan rằng: Chị nói hay sao,
Mỗi lời là một vận vào khó nghe!
Ở đây âm khí nặng nề,
Bóng chiều đã ngã, dậm về còn xa.
Kiều rằng: Những đấng tài hoa,
Thác là thể phách, còn là tinh anh
Dễ hay tình lại gặp tình,
Chờ xem, ắt thấy hiển linh bây giờ.
Một lời nói chửa kịp thưa,
Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay,
Ào ào đổ lộc, rung cây,
Ở trong dường có hương bay ít nhiều
Dè chừng ngọn gió lần theo,
Dấu giày từng bước in rêu rành rành
Mặt nhìn ai nấy đều kinh,
Nàng rằng: Này thực tinh thành chẳng xa
Hữu tình ta lại gặp ta,
Chớ nề u hiển, mới là chị em.
Đã lòng hiển hiện cho xem,
Tạ lòng, nàng lại nối thêm vài lời
Lòng thơ lai láng bồi hồi,
Gốc cây, lại vạch một bài cổ thi.
Dùng dằng nửa ở nửa về,
Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần.
Trông chừng thấy một văn nhân,
Lỏng buông tay khấu, bước lần dặm băng.
Đề huề lưng túi gió trăng,
Sau lưng theo một vài thằng con con.
Tuyết in sắc ngựa câu dòn,
Cỏ pha mùi áo nhuộm non da trời.
Nẻo xa mới tỏ mặt người,
Khách đà xuống ngựa, tới nơi tự tình
Hài văn lần bước dặm xanh,
Một vùng như thể cây quỳnh, cành giao
Chàng Vương quen mặt ra chào,
Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa.
Nguyên người quanh quất đâu xa,
Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh.
Nền phú hậu, bậc tài danh,
Văn chương nết đất, thông minh tính trời
Phong tư tài mạo tuyệt vời,
Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa
Chung quanh vẫn đất nước nhà,
Với Vương Quan trước vẫn là đồng thân.
Trộm nghe thơm nức hương lân,
Một nền Đồng Tước khoá xuân hai Kiều.
Nước non cách mấy buồng thêu,
Những là trộm dấu, thầm yêu chốc mòng.
May thay giải cấu tương phùng,
Gặp tuần đố lá thoả lòng tìm hoa.
Bóng hồng nhác thấy nẻo xa,
Xuân lan, thu cúc, mặn mà cả hai
Người quốc sắc, kẻ thiên tài,
Tình trong như đã, mặt ngoài còn e.
Chập chờn cơn tỉnh, cơn mê,
Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn.
Bóng tà như giục cơn buồn
Khách đà lên ngựa, người còn ghé theo
Dưới dòng nước chảy trong veo,
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
Hồi 03 – Trích Truyện Kiều
Kiều từ trở gót trướng hoa
Mặt trời gác núi chiêng đà thu không
Gương Nga chênh chếch dòm song
Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân
Hải đường lả ngọn đông lân,
Giọt sương gieo nặng, cành xuân là đà
Một mình lặng ngắm bóng Nga
Rộn đường gần với nổi xa bời bời:
Người mà đến thế thì thôi,
Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi
Người đâu gặp gỡ làm chi,
Trăm năm biết có duyên gì hay không?
Ngổn ngang trăm mối tơ lòng,
Nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình
Chênh chênh bóng nguyệt xế mành
Tựa ngồi bên triện, một mình thiu thiu.
Thoắt đâu thấy một tiểu kiều,
Có chiều phong vận, có chiều thanh tân
Sương in mặt, tuyết pha thân,
Sen vàng lãng đãng, như gần như xa
Rước mầng, đón hỏi dò la:
Đào Nguyên lạc lối đâu mà đến đây?
Thưa rằng: Thanh khí, xưa nay,
Mới cùng nhau lúc ban ngày đã quên?
Hàn gia ở mái tây thiên,
Dưới dòng nước chảy, bên trên có cầu
Mấy lòng hạ cố đến nhau,
Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng.
Vâng trình hội chủ xem tường,
Mà xem trong sổ đoạn trường có tên
Âu đành quả kiếp nhân duyên,
Cũng người một hội, một thuyền đâu xa.
Này mười bài mới, mới ra,
Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời.
Kiều vâng lĩnh ý đề bài,
Tay tiên một vẫy, đủ mười khúc ngâm
Xem thư nấc nở khen thầm:
Giá đành tú khẩu, cẩm tâm khác thường!
Ví đem vào tập đoạn trường,
Thì treo giải nhất, chi nhường cho ai!
Thềm hoa khách đã trở hài,
Nàng còn cầm lại một hai tự tình
Gió đâu sịch bức mành mành,
Tỉnh ra mới biết rằng mình chiêm bao
Trông theo nào thấy đâu nào,
Hương thừa dường hãy ra vào đâu đây.
Một mình lưỡng lự canh chầy,
Đường xa, nghĩ nỗi sau này mà kinh!
Hoa trôi, bèo giạt, đã đành,
Biết duyên mình, biết phận mình, thế thôi!
Nỗi riêng lớp lớp sóng giồi,
Nghĩ đòi cơn, lại sụt sùi đòi cơn
Giọng Kiều rền rỉ trướng loan,
Nhà huyên chợt tỉnh, hỏi: Cơn cớ gì?
Cớ sao trằn trọc canh khuya,
Màu hoa lê hãy đầm đìa giọt mưa?
Thưa rằng: Chút phận ngây thơ,
Dưỡng sinh đòi nợ tóc tơ chưa đền
Buổi ngày chơi mả Đạm Tiên,
Nhắp đi, thoắt thấy ứng liền chiêm bao
Đoạn trường là số thế nào?
Bài ra thế ấy, vịnh vào thế kia
Cứ trong mộng triệu mà suy
Phận con thôi có ra gì mai sau!
Dạy rằng: Mộng triệu cứ đâu?
Bỗng không mua não chuốc sầu, nghĩ nao!
Vâng lời khuyên giải thấp cao
Chưa xong điều nghĩ, đã đào mạch Tương
Thác lời trai phường nón
Tiếc thay duyên Tấn phận Tần,
Chưa quen đã lạ chưa gần đã xa.
Chưa chi đông đã rạng ra,
Đến giờ vẫn giận con gà chết toi.
Tím gan cho cái sao Mai,
Thảo nào vác búa chém trời cũng nên.
Về qua liếc mắt trông miền,
Lời oanh giọng ví chưa yên dằm ngồi.
Giữa thềm tàn đuốc còn tươi,
Bã trầu chưa quét nào người tình chung.
Hồng Sơn cao ngất mấy trùng,
Đò Cài mấy trượng thì tình bấy nhiêu.
Làm chi cắc cớ lắm điều,
Mới đêm hôm trước lại chiều hôm nay.
Khi xa xa đến thế này,
Tiếng xa nghe hãy rù rì bên tai.
Quê nhà nắng sớm mưa mai,
Đã buồn giở đến lịp tơi càng buồn.
Thờ ơ bó vọt đống sườn,
Đã nhàm bẹ móc lại hờn nắm giang.
Trăng tà chênh chếch bóng vàng,
Dừng chân thoạt nhớ đến đàng cửa truông.
Thẩn thơ gối chiếc màn suông,
Rối lòng như sợi ai guồng cho xong.
Phiên nào chợ Vịnh ra trông,
Mồng ba chẳng thấy lại hòng mười ba.
Càng trông càng chẳng thấy ra,
Cơi trầu quyệt đã vài và lần ôi.
Tưởng rằng nói thế mà chơi.
Song le đã động lòng người lắm thay.
Trông trời trời cách tầng mây,
Trông trăng trăng hẹn đến ngày ba mươi.
Vô tình trăng cũng như người,
Một ta ta lại ngậm cười chuyện ta.
Bật mí đến bạn đọc những bài 💫 Thơ Về Ngày 30/4 💫 mới nhất, ngoài 3 Tập Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Du