Bài Thơ Thói Đời Của Tú Xương: Nội Dung, Phân Tích

Bài Thơ Thói Đời Của Tú Xương ❤️️ Nội Dung, Phân Tích ✅ Hướng Dẫn Tìm Hiểu Ý Nghĩa, Bố Cục, Nghệ Thuật Tác Phẩm Thói Đời.

Nội Dung Bài Thơ Thói Đời Của Tú Xương

Nhắc đến Tú Xương là nhắc đến thể loại thơ trào phúng, châm biếm, đả kích. Một trong số các bài thơ nổi tiếng của ông đó chính là Thói đời.

Thói đời
Tác giả: Tú Xương

Người bảo ông điên, ông chẳng điên,
Ông thương ông tiếc hoá ông phiền.
Kẻ yêu người ghét hay gì chữ,
Đứa trọng thằng khinh chỉ vị tiền.
Ở bể ngậm ngùi cơn tới lạch,
Được voi tấp tểnh lại đòi tiên.
Khi cười khi khóc khi than thở,
Muốn bỏ văn chương học võ biền!

Thông tin đầy đủ về 🌿Thơ Trần Tế Xương 🌿 Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ Hay

Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Thói Đời

Tú Xương sinh vào giai đoạn giao thời, xã hội có nhiều thay đổi. Xã hội phong kiến già nua chuyển mình trở thành xã hội thực dân phong kiến. Hàng ngày những điều ngang tai trái mắt cứ đập vào mắt ông, gây phản ứng trong tâm trạng. Xã hội đó khiến ông phải sống trong hoàn cảnh nghèo khổ, thất bại trên đường công danh, do đó ông đã sáng tác nên bài thơ Thói đời để châm biếm xã hội cũng như để than thân mình.

Ý Nghĩa Bài Thơ Thói Đời

Bài thơ Thói đời thể hiện sự chán nãn với thời cuộc cũng như nghề làm thơ của chính tác giả trong xã hội xưa. Qua đó, Tú Xương cho chúng ta thấy một sự thật về xã hội phong kiến xưa, nơi đó những người có tài văn chương như ông không được trọng dụng, vì vậy phải sống trong cảnh nghèo khổ, cùng cực.

Tìm hiểu 🌿Đi Thi Tự Vịnh [Nguyễn Công Trứ] 🌿 Nội Dung Bài Thơ, Phân Tích

Bố Cục Bài Thơ Thói Đời

Bố cục bài thơ Thói đời của Tú Xương có thể chia thành 4 phần đề, thực, luận, kết.

  • Phần 1 tức là phần đề: hai câu thơ đầu
  • Phần 2 tức là phần thực: câu thơ thứ 3 và 4
  • Phần 3 tức là phần luận: câu thơ thứ 5 và 6
  • Phần 4 tức là phần kết: hai câu thơ cuối

Nghệ Thuật Bài Thơ Thói Đời

Dưới đây là phần tổng kết một số nét nghệ thuật trong bài thơ Thói đời:

  • Bài thơ sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt bình dị, tự nhiên và giàu sức biểu cảm tiêu biểu cho hồn thơ của Trần Tế Xương
  • Giọng điệu bài thơ mang tính trào phúng, phê phán
  • Hình tượng thơ hàm súc, gợi cảm.
  • Sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú với cú pháp: Đề – thực – luận – kết

Đón hiểu tác phẩm🌿Chí Làm Trai [Nguyễn Công Trứ] 🌿 Nội Dung Bài Thơ, Phân Tích

Mẫu Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Thói Đời Hay Nhất

Tham khảo ngay mẫu phân tích bài thơ Thói đời của Tú Xương ngay sau đây nhé!

Trần Tế Xương (bút danh là Tú Xương) là nhà thơ trào phúng nổi tiếng, có lẽ ông là nhà thơ trào phúng đặc sắc nhất trong nền văn học của nước nhà. Thơ trào lộng, châm biếm, đả kích của Tú Xương sở dĩ được nhiều người yêu thích vì có tính chất trữ tình (trong tiếng cười có nước mắt).

Nhắc đến thơ trào phúng của Tú Xương thì phải nhắc đến bài thơ Thói đời – một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của thi sĩ này.

Thơ Tú Xương nặng về nhân tình thế thái, triết lý đạo làm người. Chủ đề này vốn dễ khô khan, nhưng ông đã vận dụng cách nghĩ, cách nói của nhân dân, giữ được tính sinh động thời sự của sự kiện, nên câu thơ đúc kết giáo lý mà vẫn gần gũi, giản dị.

Người bảo ông điên, ông chẳng điên,
Ông thương ông tiếc hoá ông phiền.
Kẻ yêu người ghét hay gì chữ,
Đứa trọng thằng khinh chỉ vị tiền.
Ở bể ngậm ngùi cơn tới lạch,
Được voi tấp tểnh lại đòi tiên.
Khi cười khi khóc khi than thở,
Muốn bỏ văn chương học võ biền!

Bài thơ có bố cục theo thể thơ Đường luật, thất ngôn bát cú: bốn câu đầu nếu lên cái nhìn của xã hội đối với những người có chữ nhưng nghèo khổ như ông; bốn câu sau nói đến thái độ chán chường với thời cuộc, với xã hội và với chính cái nghề làm thơ ca của ông.

Nói đến Tú Xương, chúng ta nghĩ ngay đến một số phận hẩm hiu, một cuộc đời với toàn những thất bại và trắc trở. Bao nhiêu tài sản của cha ông để lại, Tú Xương đã “hiến dâng” cả cho khoa cử, nhưng rồi khoa cử lại phụ bạc ông một cách tàn nhẫn và trắng trợn.

Từ thuở 15 tuổi (1885), ông đã bắt đầu con đường khoa cử và cũng chính trong lần này, nhà thơ đã đón nhận sự hắt hủi đầu tiên. Hai lần thất bại nữa, đến năm 24 tuổi (1894), ông mới nhận được của khoa cử cái tú tài, cái tú tài vô dụng, nhưng đã làm khổ ông không ít và cũng chỉ có chừng ấy, dù sau đó Tú Xương đã đến với khoa cử bốn lần nữa; lần cuối cùng là năm 1906, để rồi năm sau (1907) nhà thơ vĩnh viễn từ giã cõi đời.

Cũng chỉ bởi khoa cử mà con người đó đã phải “Kẻ yêu người ghét hay gì chữ,/Đứa trọng thằng khinh chỉ vị tiền”. Vì nghèo mà ông đã phải sống bám vào người vợ tảo tần suốt trọn cuộc đời. Tất cả sự thật này nhà thơ Vị Xuyên đã không một mảy may che dấu. Thi sĩ đã quay cái nhìn vào chính mình, ông không ngừng tìm cách xác định con người ông trong cuộc đời.

Mặc dù, từ thế kỉ XIX, các văn nhân nho sĩ nước ta đã có nói đến cái tôi thay vì cái ta chung chung như trước, nhưng không ai nói nhiều và nói kĩ như Tú Xương.

Bằng thơ phú, nhà thơ đã tự họa một bức chân dung với đầy đủ các chi tiết. Tuy nhiên không phải nhà thơ chỉ mô tả phần ngoại diện, trái lại ông còn chiếu rọi “đôi mắt” vào tận các hang cùng, ngõ hẻm của tâm hồn mình. Có thể nói nhà thơ đã cố tìm một bút pháp hay một ngôn từ để diễn tả cho trọn vẹn, chính xác những gì ông nhận thấy khi trực diện với chính bản thân.

Ở bể ngậm ngùi cơn tới lạch,
Được voi tấp tểnh lại đòi tiên.

Tú Xương không hề tìm cách nói quanh co để giấu che bớt sự thật hay để văn chương hóa. Trái lại, nhà thơ đã phô bày không úp mở, gạn lọc, ông còn muốn tô đậm nét nữa là khác. Ta nên hiểu sự nói thật của ông là một trực tính tự nhiên và cũng là sự liêm khiết của kẻ hiểu biết.

Hơn nữa, ông lại chính là nạn nhân, là người trong cuộc đã gánh chịu bao nhiêu bất hạnh, trắc trở: nạn nhân của một bản chất nghệ sĩ ngông nghênh, nạn nhân của một buổi giao thời và trực tiếp, gần gũi nhất là nạn nhân của nghèo túng và hỏng thi. Vậy thì nói ra, dĩ nhiên là nói trong niềm tin sẽ được nghe, được thông cảm, cũng là cách làm cho vơi bớt đi những “ngổn ngang trăm mối trong lòng” đó.

Phải chăng thất bại có to lớn đấy, nỗi đớn đau có dằn vặt mình đấy, song nhà thơ vẫn còn yêu đời và còn ham sống nên ông can đảm bộc bạch tất cả cái gì riêng tư của mình mà không sợ ai cười chê hay mai mỉa. Ông đã tự khách quan hóa chính mình để mà “tự trào”, tự cười mình.

Khi cười khi khóc khi than thở,
Muốn bỏ văn chương học võ biền!

Gia thế càng xuống dốc, càng quẫn bách thì khoa cử lại như toa rập để đẩy ông vào bước đường cùng. Công danh, sự nghiệp, nhân phẩm, tất cả thảy đều phải đi qua cổng trường thi. Nhưng khoa cử phụ bạc thì mọi công trình xây dựng cho chính bản thân cũng như xã hội đều tiêu tan.

Chính vì nền giáo dục theo lề thói phong kiến lạc hậu, quá khe khắt đã bóp nghẹt và bóp chết đi biết bao nhân tài, biết bao kẻ giàu thiện chí. Hơn nữa, nền giáo dục khuôn mẫu, từ chương đó cũng chẳng tạo ra được những người có sáng kiến kinh doanh, thực nghiệm và thực dụng.

Và nhà thơ, người đã đón nhận từ thất bại này đến thất bại khác, hầu như cứ mỗi lần đi thi là mỗi lần ông hỏng thi, hơn ai hết, ông đã thấm thía trọn nghĩa của sự đớn đau, cay đắng, chua chát, tủi hổ đến mức thốt lên rằng “Muốn bỏ văn chương học võ biền!”

Nhìn chung, Thói đời là một bài thơ mang tính chất đả kích, phê phán xã hội đương thời lúc bấy giờ, chính xã hội đó đã đẩy ông và gia đình vào cảnh lầm than, đói nghèo, bị người đời khinh rẻ. Có thể nói đây là một trong những bài thơ hay nhất của Tú Xương.

Gợi ý cách soạn bài 🍃Bài Ca Ngất Ngưởng 🍃 Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích 

Viết một bình luận