Đi Thi Tự Vịnh Của Nguyễn Công Trứ [Nội Dung Bài Thơ + Phân Tích]

Đi Thi Tự Vịnh [Nguyễn Công Trứ] ❤️️ Nội Dung Bài Thơ, Phân Tích ✅ Chia Sẻ Ý Nghĩa, Hoàn Cảnh Sáng Tác, Cách Đọc Hiểu Tác Phẩm.

Nội Dung Bài Thơ Đi Thi Tự Vịnh Của Nguyễn Công Trứ

Nói về chí làm trai của Nguyễn Công Trứ thì bài thơ Đi thi tự vịnh là một trong số những bài thơ nổi bật nhất. Hãy cùng Thohay.vn tìm hiểu ngay nội dung bài thơ sau đây nhé!

Đi thi tự vịnh
Tác giả: Nguyễn Công Trứ

Cái nợ cầm thư phải trả xong!
Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt
Trót đem thân thế hẹn tang bồng
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
Trong cuộc trần ai, ai dễ biết?
Rồi ra mới rõ mặt anh hùng

Chia sẻ thông tin đầy đủ về 🔰Thơ Nguyễn Công Trứ 🔰 Tác Giả, Tác Phẩm

Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Đi Thi Tự Vịnh

Bài thơ “Đi thi tự vịnh ” được Nguyễn Công Trứ viết từ thuở hàn vi, đầy chí khí hăm hở của kẻ sĩ. Ông viết bài thơ này trong hoàn cảnh trên đường đi thi để trả nợ công danh bởi vì theo ghi chép thì con đường thi cử của Nguyễn Công Trứ khá lận đận và gian truân.

Ý Nghĩa Bài Thơ Đi Thi Tự Vịnh

Ý nghĩa bài thơ Đi thi tự vịnh là gì? Cùng tìm hiểu ngay sau đây nhé!

Có thể nói bài thơ Đi thi tự vịnh chính là những quan điểm thời bấy giờ của Nguyễn Công Trứ. Thông qua bài thơ, ông muốn khẳng định rằng:

  • Sinh là đấng nam nhi, phải là người ngang dọc trời đất có một tầm hoạt động rộng rãi ở trong trời đất cho nên phải có tiếng tốt đối với núi sông. Danh mà tác giả đề cập ở đây là công danh, là tiếng thơm, tiếng tốt, tên tuổi của một con người gắn liền với thời đại. 
  • Chí làm trai thể hiện ở sự cống hiến, hi sinh vì quê hương đất nước …. Với kẻ sĩ đi thi, “phải có danh” trước hết là đỗ đạt, được ghi tên vào bảng vàng bia đá, được vinh quy bái tổ “võng anh đi trước, võng nàng theo sau”. “Phải có danh gì với núi sông” là có tài năng đích thực, giúp vua, giúp nước, cứu đời, cứu dân. Có danh là có tài kinh bang tế thế, trị loạn, an dân, làm cho dân giàu nước mạnh.

Đón đọc thêm bài 🌿Chí Làm Trai [Nguyễn Công Trứ] 🌿 Nội Dung Bài Thơ, Phân Tích

Bố Cục Bài Thơ Đi Thi Tự Vịnh

Bố cục bài thơ Đi thi tự vịnh có thể chia thành 3 phần:

  • Phần 1: Từ đầu đến “thế hẹn tang bồng”
  • Phần 2: Tiếp theo đến “danh gì với núi sông”
  • Phần 3: Phần còn lại của bài thơ

Đọc Hiểu Bài Thơ Đi Thi Tự Vịnh

Gợi ý cách đọc hiểu bài thơ Đi thi tự vịnh của Nguyễn Công Trứ:

👉Câu 1. Xác định thể thơ của bài thơ trên.

Đáp án: Thể thơ thất ngôn bát cú đường luật.

👉Câu 2: Chỉ ra phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong bài thơ.

Đáp án: Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong bài thơ là: Biểu cảm.

👉Câu 3: Chỉ ra biện pháp tu từ và nêu tác dụng của chúng.

Đáp án: Biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn thơ trên là: 

  • Câu hỏi tu từ: Đi không há lẽ trở về không?
  • Phép đối: Điền vui – tang bồng.

=> Tác dụng: làm cho câu thơ thêm sinh động và giàu tính biểu cảm hơn.

👉Câu 4: Nhận xét quan niệm về chí làm trai của Nguyễn Công Trứ trong hai câu thơ.

Đáp án: Quan niệm về chí làm trai của Nguyễn Công Trứ trong hai câu thơ.”Đã mang tiếng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông” là: 

Là một đấng nam nhi, phải là người dũng mãnh, đầy trách nhiệm, tài chí vẹn toàn, phải có tiếng tốt đối với núi sông, người đời kính phục. Nếu không học hành đỗ đạt, làm quan to giúp dân giúp nước thì cũng phải mà một công dân tốt, xây dựng và gánh vác gia đình, giúp ích cho đất nước. 

👉Câu 5: Thông điệp nào của bài thơ có ý nghĩa nhất đối với anh/chị ?

Đáp án: Thông điệp của bài thơ có ý nghĩa nhất đối với em là: Người con trai nên có ý chí và những phẩm chất, hoài bão tốt đẹp, giúp ích cho xã hội và đất nước.

👉Câu 6: Nhận xét thái độ của nhà thơ.

Đáp án: Thái độ của nhà thơ qua những vần thơ được thể hiện là người thông minh, tự tin. Qua đó cho thấy ông là người chí đức vẹn toàn.

Tìm hiểu chi tiết 🍃Bài Ca Ngất Ngưởng 🍃 Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích 

4 Mẫu Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Đi Thi Tự Vịnh Hay Nhất

Xem ngay 4 mẫu cảm nhận, phân tích bài thơ Đi thi tự vịnh hay nhất được sưu tầm mới nhất dưới đây.

Mẫu Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Đi Thi Tự Vịnh Hay – Mẫu 1

Nguyễn Công Trứ (1778-1858) và Cao Bá Quát (1808-1855) là hai nhà thơ lớn nhất trên thi đàn Việt Nam trong nửa đầu thế kỉ 19. Nguyễn Công Trứ có tài kinh bang tế thế, lập nên bao công nghiệp hiển hách, khi về trí sĩ đã sống một đời tài tử thanh cao:

“Đường mây rộng thênh thênh cử bộ,
Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu”

Ông để lại một số bài thơ chữ Hán, trên 50 bài thơ Nôm, trên 60 bài hát nói và bài phú “Hàn nho phong vị phú” bằng chữ Nôm. Thơ văn Nguyễn Công Trứ “ý tứ mạnh mẽ, từ điệu rắn rỏi, khiến cho người đọc cũng thấy phấn khởi, hăng hái lên” (Dương Quảng Hàm).

Thời trai trẻ, chật vật trong cảnh nghèo, lận đận mãi trong thi cử, nhưng lúc nào ông cũng hăm hở công danh sự nghiệp, mãi đến năm 41 tuổi mới đỗ giải nguyên. “Đi thi tự vịnh” là một bài thơ ứng tác được Nguyễn Công Trứ viết vào thuở hàn vi, trước lúc bước vào khoa thi Hương trường Nghệ An.

“Đi thi tự vịnh” là một trong nhiều bài thơ nói về chí nam nhi và niềm hăm hở lập công danh của Nguyễn Công Trứ. Hai câu đề thể hiện một quyết tâm, một niềm tin của kẻ sĩ trước lúc bước vào hội công danh, đua tài:

“Đi không há lẽ trở về không,
Cái nợ cầm thư phải trả xong.”

 “Đi không” – lúc lên đường ứng thí, “không” công danh. Vào trường thi chỉ có một văn tài, một bản lĩnh đua tranh, như cá chép vượt Vũ Môn, tác giả tự tin khẳng định: “há lẽ trở về không”. Chữ “không” thứ 2 là không công danh, không sự nghiệp. Chữ “không” thứ 7 là trắng tay, chẳng đỗ đạt gì! Hai chữ “há lẽ” vang lên như một thách thức.

“Nợ cầm thư” là nợ đàn sách của sĩ tử ngày xưa. Nợ cầm thư cũng như nợ bút nghiên, nợ đèn sách. “Cầm thư ” đã trở thành “cái nợ”, vì thế có nghĩa vụ phải trả, phải hoàn thành xong xuôi, sòng phẳng. Tiếng “cái” trong “cái nợ cầm thư” nói lên sức nặng, cái giá ghê gớm của nợ đèn sách, nợ công danh.

Câu thơ thứ 2 “Cái nợ cầm thư phải trả xong” với 4 thanh trắc (cái, nợ, phải, trả) làm cho thanh điệu của câu thơ trĩu xuống, 3 thanh bằng (cầm, thư, xong) đã nâng giọng điệu câu thơ lên thanh thoát, nhẹ nhàng. Câu thơ biểu lộ một sự đĩnh đạc, hào hùng và phơi phới. Đó là sĩ khí của tác giả trước khi bước vào cuộc đọ trí đua tài. Một sĩ tử có tài năng đích thực mới có sự thách thức và niềm tin mạnh mẽ như vậy.

Hai câu trong phần thực, 4 tiếng Hán Việt: điền viên, tuế nguyệt, thân thế, tang bồng – được đặt trong thế đối xứng hài hòa, ý thơ trở nên trang trọng. Thời trai trẻ, Nguyễn Công Trứ đã mấy phen nếm cay đắng trong chốn trường thi.

“Thi không ăn ớt thế mà cay”. (Tú Xương). Có lẽ vì thế đã có lúc, tác giả “Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt”, lấy ruộng vườn vui với năm tháng. Nhưng đã trót, đã “Dở đem thân thế hẹn tang bồng” – Tang bồng là cung bằng gỗ dâu, tên bằng cỏ bồng, tượng trưng cho chí lớn, sức mạnh vẫy vùng, tung hoành khắp thiên hạ, ôm hoài bão giúp nước, cứu đời.

Ở trên đã nói đến “nợ cầm thư”, ở dưới lại nói “tang bồng”, tính hệ thống của ngôn ngữ đã làm hiện lên một tâm thế rất đẹp của một kẻ sĩ mang chí nam nhi, mang nợ tang bồng muốn thi thố tài năng với đời. Trong thơ, Nguyễn Công Trứ nhiều lần nhắc đến nợ cầm thư, chí tang bồng, chí nam nhi với tất cả niềm tự hào và niềm vui phơi phới:

“Chí tang bồng hẹn với giang san,
Đường trung, hiếu, chữ quản thân gánh vác.
Nợ sách đèn đem nghiên bút trả xong,
Cầu xe ngựa lúc đi về mới tỏ …”
(Nợ tang bồng)

“Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc,
Nợ tang bồng vay giả, giả vay,
Chí làm trai nam bắc đông tây,
Cho phỉ sức vẫy vùng tronq bốn bể …”
(Chí anh hùng)

Mở rộng ý thơ nói về nợ tang bồng, nợ cầm thư ở hai phần trước, Nguyễn Công Trứ nói lên một lẽ sống đẹp, một mục đích sống cao cả trong phần luận. Đã hai thế kỉ nay, câu thơ của Nguyễn Công Trứ được mến mộ, được truyền tụng như một châm ngôn về hoài bão công danh:

“Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông”

Với kẻ sĩ đi thi, “phải có danh” trước hết là đỗ đạt, được ghi tên vào bảng vàng bia đá, được vinh quy bái tổ “võng anh đi trước, võng nàng theo sau”. “Phải có danh gì với núi sông” là có tài năng đích thực, giúp vua, giúp nước, cứu đời, cứu dân.

Có danh là có tài kinh bang tế thế, trị loạn, an dân, làm cho dân giàu nước mạnh. Kẻ tầm thường không có danh mà chỉ có lợi. Kẻ sĩ chân chính, có tài năng, có lẽ sống, có hoài bão trang trải nợ cầm thư, nợ tang bồng … mới có đanh tiếng, danh vọng, để lại tiếng thơm cho đời, lưu danh trong sử sách, làm rạng rỡ mẹ cha, dòng họ và quê hương.

Trong xã hội phong kiến, có đi thi đỗ đạt, đổ cử nhân, tiến sĩ mới được ra làm quan để giúp nước, cứu đời, để “có danh” với thiên hạ.

Với Nguyễn Công Trứ, công danh luôn luôn gắn liền với đạo làm con, đạo làm tôi:

“Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái — Cái công danh là cái nợ nần — Nặng nề thay hai chữ: quân thân — Đạo vi tử, vi thần đâu có nhẹ! ” (Trên vì nước, dưới vì nhà). Với Nguyễn Công Trứ, người quân tử, đấng trượng phu, trang nam nhi là phải “có danh”, bởi lẽ:

“Chẳng công danh chi đứng giữa trần hoàn …
Trong vũ trụ đã đành phận sự
Phải có danh mà đối với núi sông …
Có trung hiếu nên đứng trong trời đất,
Không công danh thời nát với cỏ cây …”

Nguyễn Công Trứ là một tài năng đích thực: “Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông – … Lúc Bình Tây, cờ Đại tướng – Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên …”

Chính ông đã di dân, khẩn hoang, lập ra 2 huyện Tiền Hải (Thái Bình) và Kim Sơn (Ninh Bình). Như vậy, Nguyễn Công Trứ là một con người có công danh: ông đã sống một đời sống phong phú, mãnh liệt như câu thơ ông đã viết.

Chẳng thế mà năm 1858, Pháp nổ súng xâm lược nước ta đánh vào bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng, lúc bấy giờ Nguyễn Công Trứ đã 80 tuổi vẫn xin vuạ Tự Đức cho cầm quân ra trận đánh giặc. Mặc dù chữ “danh” trong quan niệm của Nguyễn Công Trứ mang ý thức hệ phong kiến nhưng khá tích cực, còn có nhiều ý nghĩa đối với chúng ta trong việc nỗ lực học tập thành tài để phục vụ sự nghiệp đổi mới, phấn đấu cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Hai câu kết thể hiện khẩu khí của một con người giàu tài năng, rất tự tin, luôn luôn hướng về phía trước với tất cả tinh thần lạc quan mà lý tưởng cuộc đời đã lựa chọn:

“Trong cuộc trần ai ai dễ biết
Rồi ra mới biết mặt anh hùng”

Câu cuối có văn bản khác ghi là: “Rồi ra mới tỏ mặt anh hùng”. Có lẽ chữ “tỏ” đúng hơn, hay hơn. “Tỏ” là sáng tỏ, là hiện lên rõ ràng. Chữ “tỏ” mới thể hiện được niềm tự hào của con người “đi thi tự vịnh”. Hai chữ “ai” dùng rất thần tình.

“Trần ai” là bụi bậm, chỉ cuộc đời gian nan khổ sở. Chữ “ai” trong “ai dễ biết” là đại từ nhân xưng phiếm chỉ, là các sĩ tử đang cùng tác giả vác lều chõng đi thi, là mọi người trong thiên hạ. Câu thơ ẩn chứa một sự thách thức, đua tài. Xưa nay, đã mấy ai trước lúc đi thi dám nói bằng cái giọng điệu như nhà thơ Nguyễn Công Trứ?

Bài thơ “Đi thi tự vịnh” là bức chân dung tự họa của Nguyễn Công Trứ thời hàn vi, lều chõng. Bài thơ cho ta thấy một con người có tài năng, giàu chí khí,có lí tưởng và hoài bão đẹp về công danh, tự tin và lạc quan trong học tập và thi cử. Con người ấy đáng để ta học tập.

Bài thơ hay ở giọng điệu đĩnh đạc, hào hùng: hay ở cách dùng từ. Có chữ thuần Nôm bình dị: há lẽ, rắp, dở, ai dễ biết, rồi ra… Có từ Hán Việt gợi tả sự trang trọng, tự hào: cầm thư, điền viên, tuế nguyệt, thân thế, tang bồng, danh, trần ai, anh hùng,..

Đối với học sinh chúng ta, sức hấp dẫn của bài thơ là ở 2 câu trong phần luận, đó là 2 câu thơ tuyệt cú sáng bừng lên như một câu danh ngôn:

Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.”

“Núi sông” là đất nước, ngày nay là Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa cần có nhiều tài năng lỗi lạc “có danh” và làm nên sự nghiệp lớn “đào núi và lấp biển” như Bác Hồ đã dạy thanh niên.

Mẫu Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Đi Thi Tự Vịnh Chọn Lọc – Mẫu 2

Nguyễn Công Trứ người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh ra vào thời điểm đất nước có nhiều biến động, thăng trầm. Ông là người có tài có đức, là vị quan hết lòng vì dân vì nước. Ông để lại cho đời rất nhiều bài thơ Nôm và hát nói cũng như phú. Thơ ông có nhiều chủ đề khác nhau, đặc biệt là nói về chí nam nhi, nợ công danh. Bài thơ Đi thi tự vịnh dưới đây là một ví dụ điển hình.

“Đi không há lẽ trở về không
…..
Chúng ta phân tích bài thơ trên.”

Nguyễn Công Trứ đã dùng thể thơ thất ngôn bát cú đường luật để thể hiện nỗi niềm tâm trạng của mình, theo nhà thơ chí làm trai là phải đỗ đạt để trả cái nợ sách đèn, đem kiến thức học được mà làm những việc tốt giúp ích cho đời, để lại tiếng tốt với núi sông. Nhan đề bài thơ Đi thi tự vịnh, tác giả nêu lên ý chí của mình khi lều chõng lên đường đi ứng thí. Bài thơ mở đầu:

“Đi không há lẽ trở về không
Cái nợ cầm thư quyết trả xong”

Chí làm trai đã được nhiều nhà thơ nhắc đến, mỗi người có cách nói riêng, nhưng đều có muốn nhắc nhở phận nam nhi rằng đã làm trai là phải làm được việc lớn, có ích với đời với dân với nước, là phải ngang dọc trời đất.

“Chí làm trai nam bắc đông tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể.”

Trong cuộc đời của mình Nguyễn Công Trứ đã làm được nhiều điều có ích với dân với nước. Ông đã từng làm quan, đi đánh giặc, làm doanh điền sứ mở rộng đất đai trồng trọt. Ông là người nói được và làm được, những gì ông để lại vời đời đều được người đời trân trọng, gìn giữ. Những gì ông khẳng định là những gì ông làm được và điều này những một lời răn dạy cho thế hệ đi sau:

“Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.”

Nam nhi là người phải ngang dọc trời đất có một tầm hoạt động rộng rãi ở trong trời đất cho nên phải có tiếng tốt đối với núi sông. Danh mà tác giả đề cập ở đây là công danh, là tiếng thơm, tiếng tốt, tên tuổi của một con người gắn liền với thời đại.

Có lần ông nói: Không công danh thà nát với cỏ cây. Trong một bài thơ nói về quan niệm sống của người con trai, tác giả từng khẳng định: Con người sinh ra sau cùng ai cũng phải chết nhưng phải được lưu tiếng thơm trong sử sách.

Ngày nay trong thành phố ta cũng như nhiều nơi trong nước đều có tên đường Nguyễn Công Trứ. Ở hai huyện Kim Sơn và Tiền Hải còn có đền thờ của ông hương khói nghi ngút quanh năm. Đó chính là cái danh của Nguyễn Công Trứ. Trong hai câu thực và hai câu luận đều có phép đối nhau gọi là bình đối hay đối ngẫu từng cặp. Tất nhiên không quá gò bó đẽo gọt như Bà Huyện Thanh Quan.

Cách sử dụng từ ngữ trong câu giữa từ đi không, về không nối liền nhau bằng từ há lẽ tác giả đã lập luận theo cách phản đề. Đi không nghĩa là lúc lên đường chưa có bằng cấp trong tay, lúc trở về thì không thể trở về không mà phải là đỗ đạt.

Lúc ra đi chưa làm được gì, lúc trở về phải làm được điều gì lớn lao, có ích. Từ há lẽ trong câu thơ là để tác giả nhắc nhở mình, tự hỏi mình phải làm gì để có kết quả. Đó là sự tự cao tự đại, có thể gọi là chất ngông trong con người của nhà thơ. Thật khác với Tú Xương. Trong lúc Tú Xương lên đường ứng thí thì cười cợt đùa nhã, không tin tưởng vào thực lực của mình:

“Tấp tểnh người đi tớ cũng đi
Cũng lều cũng chõng cũng vô thi.”

Đối với Nguyễn Công Trứ ta thấy hiện lên một đấng nam nhi với ý chí quyết tâm, hăm hở quyết liệt hơn, khẳng định điều bắt buộc phải làm, không làm được thì không trở về: phải trả xong cái nợ đèn sách nghĩa là phải thi đậu. Cụm từ phải trả xong thật dứt khoát, có tính kiên quyết không do dự. Tác giả luôn luôn quan niệm rằng người con trai có nợ với đời: nợ đèn sách, bút nghiên. Trong một bài thơ khác ông cũng đề cập đến cái nợ khác là nợ tang bồng.

“Nợ tang bồng vay trả, trả vay.”

Trong thời phong kiến, những kẻ sĩ có ý chí luôn luôn nung nấu một bầu nhiệt huyết, phải thi đậu sao bao nhiêu năm đèn sách miệt mài – Nguyễn Công Trứ lúc còn hàn vi lại càng nung nấu ý chí ấy nhiều hơn nữa. Khi sáng tác lên bài thơ này ông đang còn ở độ tuổi sung sức, đường gân thớ thịt đang căng tràn nhựa sống. Dù có một chút tiêu cực nho nhỏ muốn làm ẩn sĩ vui thú điền viên, nhưng vốn bản tính bồng bột sôi nổi, ông viết:

“Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt
Dở đem thân thế hẹn tang bồng”

Trong hai câu thực của bài thơ, tác giả đã sử dụng nhiều từ Hán Việt điền viên, tuế nguyệt, thân thế tang bồng làm cho câu thơ có vẻ trang trọng hơn. Tác giả muốn vui thú với cảnh cỏ cây mây nước cho phôi pha ngày tháng. Ý niệm này không đúng với con người tích cực của Nguyễn Công Trứ thời trai trẻ chưa lập được công danh. Huống chi tác giả chỉ rắp mượn mà thôi.

Vốn là con người hăm hở nên muốn làm một cái gì đó to lớn vĩ đại. Bàng bạc trong bài thơ có tính ngang tàng rất phù hợp với bản chất của Nguyễn Công Trứ đặc biệt là ở hai câu thơ cuối cùng. Trong lúc làm quan cũng như trong các sáng tác của Nguyễn Công Trứ ông luôn thể hiện một niềm lạc quan yêu đời, dấn thân vào mọi hoạt động, cái tôi trong con người ông luôn được thể hiện bởi sự tự hào đĩnh đạc.

Bài thơ có một giọng điệu mạnh mẽ, rắn rỏi, ngôn ngữ thơ chắc nịch, khẳng định, ý thơ lưu loát trôi chảy một mạch liên tục liền nhau từ đầu đến cuối đã nêu lên một ý chí vững chắc đầy niềm tin tưởng của một con người: phải thi đỗ để lập công danh với đời. Bài thơ đã gợi cho thanh thiếu niên học sinh chúng ta một suy nghĩ: học tốt thi đậu đem kiến thức xây dựng nước nhà. Và không thể bắt chước cái tôi Nguyễn Công Trứ phô trương thách thức mà phải khiêm tốn hơn.

Qua bài thơ ta thấy Nguyễn Công Trứ là người có tài có đức, ông không chỉ có đóng góp trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước mà ông còn để lại những áng thơ văn có giá trị vô giá. Bài thơ Đi thi tự vịnh như một lời nhắc nhở, một động lực cho đấng nam nhi không chỉ trong xã hội phong kiến mà cả xã hội hiện nay cố gắng phấn đấu, có ích cho xã hội.

Mẫu Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Đi Thi Tự Vịnh Ngắn Hay – Mẫu 3

Tác giả Nguyễn Công Trứ là một gương mặt tiêu biểu trong nền văn học Việt Nam giai đoạn cuối thế 19 đầu thế kỉ 20. Thơ của ông chứa chất cái nợ tang bồng, khát vọng công danh và khát vọng cống hiến tài năng, trí tuệ của mình cho non sông, đất nước. Bài thơ “Đi thi tự vịnh” là một bài thơ tiêu biểu, thể hiện cho những tư tưởng ấy của ông.

Bài thơ không chỉ thể hiện “chí làm trai” của nhà thơ mà còn thể hiện quyết tâm đỗ đạt, khát khao về “nợ tang bồng”. Đó không phải là cái gì “ngông cuồng” của kẻ sĩ mà được xuất phát từ chính trách nhiệm với tư cách là một người “công dân”. Ngay phần mở đầu, tác giả đã bộc lộ quan điểm và khát vọng của mình:

“Đi không há lẽ trở về không
Cái nợ cầm thư quyết trả xong”.

Hình ảnh “đi không” tượng trưng cho kẻ sĩ khi lên đường đi ứng thứ, mong mỏi một ngày đỗ đạt làm quan. Câu thơ nhấn mạnh quyết tâm của kẻ sĩ, sự tự tin có pha chút ngang tàng và “ngông cuồng” khi quá đề cao bản thân. Tuy nhiên Nguyễn Công Trứ thể hiện niềm tin thái quá ấy không vì danh vọng mà vì “cái nợ cầm thư”, cái nợ với công lao đèn sách, có lỗi với chính mình. “Quyết trả xong” là lời tuyên bố hùng hồn, quyết tâm trả nợ công danh này.

“Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt
Dở đem thân thế hẹn tang bồng”

Các từ hán việt như “điền viên”, “tuế nguyệt”, “tang bồng” đã làm câu thơ có sắc thái trang trọng. Cái vui thú với cỏ cây, hoa lá, sống chan hòa với thiên nhiên đối với một người sống tích cực, có phần ngang tàng như ông có vẻ như mâu thuẫn. Chính vì vậy từ “rắp” đã mang lại ý vị hài hước, vui đùa của nhà thơ, câu thơ chỉ là lời nói đùa đầy hài hước của Nguyễn Công Trứ, bởi ông rất nghiêm túc trong việc thể hiện quan điểm sống cá nhân, một quan điểm tích cực và đầy nhiệt huyết.

“Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”

Đối với Nguyễn Công Trứ, ông quan niệm rằng đã sinh ra là một công dân của đất nước đồng nghĩa với việc mang trong mình trách nhiệm cống hiến, xây dựng cho đất nước. Ông tự khẳng định giá trị của bản thân đồng thời nhắc nhở chính mình về trách nhiệm to lớn ấy. Tuy giọng điệu vẫn mang tính ngông cuồng và cao ngạo nhưng ta cảm nhận rõ được sự chân thành trong lời tâm sự của nhà thơ. Đó là một người sống tích cực với những mục đích cao cả, đáng trân trọng.

“Trong cuộc đời trần ai, ai dễ biết
Rồi ra mới biết mặt anh hùng”

Đó là hai câu thơ cuối bài mà Nguyễn Công Trứ đã nhấn mạnh đến những cống hiến trên thực tế, bởi nói thì lúc nào cũng dễ, ai cũng nói được, nhưng để thực hiện được thì không phải ai cũng làm được. Vì thế cần phải xem những cống hiến trên thực tế rồi mới đánh giá mới “biết mặt anh hùng”.

Có thể nói, bài thơ “Đi thi tự vịnh” đã mang đậm phong cách của Nguyễn Công Trứ, đó là cái ngông nghênh trong suy nghĩ, cái ngang tàng trong hành động. Tuy nhiên cái ngông nghênh và ngang tàng ấy không hề phù du và vô lý, nó có chỗ dựa là tài năng và trí tuệ xuất chúng, bản lĩnh hơn người của Nguyễn Công Trứ.

Mẫu Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Đi Thi Tự Vịnh Tiêu Biểu – Mẫu 4

Nguyễn Công Trứ là một gương mặt nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Nổi bật lên trong thơ Nguyễn Công Trứ, đó chính là nợ tang bồng, khát vọng công danh, khát vọng cống hiến tài năng, trí tuệ của mình cho đất nước, non sông. Bài thơ “Đi thi tự vịnh” là một bài thơ tiêu biểu của Nguyễn Công Trứ thể hiện được đầy đủ tư tưởng, quan điểm ấy của nhà thơ.

Nguyễn Công Trứ đã sáng tác bài thơ “Đi thi tự vịnh” như để thể hiện được hoài bão, quan niệm của mình về cái “chí làm trai”, cũng như cái quyết tâm đỗ đạt, khát khao mang tài năng, sức lực của mình cống hiến cho đất nước. Khát khao về “nợ tang bồng” này không phải là cái “ngông cuồng” của kẻ sĩ mà nó xuất phát từ chính trách nhiệm mà nhà thơ cho rằng phải thực hiện cho đất nước, với tư cách là một người “công dân”. Mở đầu bài thơ, Nguyễn Công Trứ đã bộc lộ ngay quan điểm, khát vọng của mình:

“Đi không há lẽ trở về không
Cái nợ cầm thư quyết trả xong”

“Đi không” gợi ra hình ảnh của một kẻ sĩ khi lên đường ứng thí, mong mỏi có một ngày đỗ đạt làm quan. “Trở về không” là không đạt được kết quả gì, nghĩa là ra về trắng tay, nếu có đủ quyết tâm thì lại ra về ôn luyện, “dùi mài kinh sử” tiếp, để sang năm tiếp tục dự thi. Tuy nhiên, câu thơ này không nhấn mạnh đến quá trình thi mà nhấn mạnh đến cái quyết tâm của kẻ sĩ.

Ta có thể thấy ở đây, Nguyễn Công Trứ thể hiện được sự tự tin, quyết tâm đỗ đạt của mình. Song, ta cũng thấy ở đây giọng điệu ngang tàng, có chút “ngông cuồng” khi quá đề cao bản thân. Tuy nhiên, khi đọc đến câu thơ sau, ấn tượng về sự ngông cuồng này được giảm đi phân nửa khi biết được lí do, ngọn nguồn của nó: “Cái nợ cầm thư quyết trả xong”.

Như vậy, Nguyễn Công Trứ thể hiện sự tự tin thái quá ấy không phải vì danh vọng, mà vì cái “nợ cầm thư”. Nghĩa là cái nợ đối với công lao miệt mài đèn sách, nếu không nỗ lực hết mình, nếu không đạt được kết quả tốt nhất thì là có lỗi với chính mình, với chính công lao đèn sách ấy. “Quyết trả xong” là lời tuyên bố hùng hồn, thể hiện quyết tâm đến cùng trên hành trình  “trả nợ công danh” này.

“Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt
Dở đem thân thế hẹn tang bồng”

Tác giả đã sử dụng một loạt các từ Hán Việt như “điền viên”, “tuế nguyệt”, “tang bồng” làm cho câu thơ hiện lên với sắc thái trang trọng. Tác giả muốn vui thú với cỏ cây, hoa lá, sống chan hòa với thiên nhiên.

Tuy nhiên, đối với con người sống tích cực, có phần ngang tàng, ngông nghênh của Nguyễn Công Trứ thì có vẻ hơi mâu thuẫn. Có lẽ, cũng do vậy mà nhà thơ dùng từ “rắp”. Chỉ một từ thôi nhưng đã làm cho câu thơ mang ý vị hài hước, vui đùa của nhà thơ “Dở đem thân thế hẹn tang bồng”. Sở dĩ câu thơ có ý vị hài hước vì chỉ ngay câu trên thôi, nhà thơ đã thể hiện sự tin tưởng, vô cùng quyết tâm của mình khi muốn chinh phục “nợ tang bồng”.

Thật vậy, câu thơ trên chỉ là lời nói đùa đầy hài hước của Nguyễn Công Trứ, vì ngay sau đó ông đã rất nghiêm túc thể hiện quan điểm sống của cá nhân nhà thơ, đó là một quan điểm đầy tích cực, nhiệt huyết:

“Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”

Với Nguyễn Công Trứ, khi sinh ra với thân phận là một công dân của đất nước thì đã mang trong mình trách nhiệm cống hiến, xây dựng cho đất nước “mang tiếng ở trong trời đất”. Không những vậy, ông còn khẳng định giá trị của bản thân cũng là lời nhắc nhở với chính mình về cái trách nhiệm to lớn ấy “Phải có danh gì với núi sông”.

Vẫn là giọng điệu ngông cuồng, cao ngạo nhưng ta cũng có thể cảm nhận được sự chân thành trong lời tâm sự của Nguyễn Công Trứ, đồng thời cũng thể hiện được con người sống tích cực với những mục đích cao đẹp, thật đáng để trân trọng.

“Trong cuộc đời trần ai, ai dễ biết
Rồi ra mới biết mặt anh hùng”

Hai câu thơ cuối Nguyễn Công Trứ cũng nhấn mạnh đến những cống hiến trên thực tế. Bởi “Trong cuộc đời trần ai, ai dễ biết” , nói thì dễ nhưng thực hiện được lại chẳng phải ai cũng làm được. Vì vậy mà phải xem những cống hiến thực tế mà đánh giá “Rồi ra mới biết mặt anh hùng”.

Như vậy, bài thơ “Đi thi tự vịnh” mang đậm phong cách rất Nguyễn Công Trứ, vẫn là cái ngông nghênh trong suy nghĩ, ngang tàng trong hành động. Tuy nhiên, qua bài thơ, ta cũng thấy được cái ngông nghênh ấy không hề vô lí mà nó có chỗ dựa là tài năng, trí tuệ xuất chúng. Cái ngang tàng là do bản lĩnh hơn người của nhà thơ.

Đừng bỏ lỡ bài thơ 🌷Thương Vợ [Tú Xương] 🌷Nội dung, ý nghĩa

Viết một bình luận