Nội Dung Bài Thơ Tiếng Nghệ Của Nguyễn Bùi Vợi ❤️️ Ý Nghĩa Bài Thơ Tiếng Nghệ ✅ Những Cảm Nhận Về Bài Thơ.
NỘI DUNG CHÍNH
Nội Dung Bài Thơ Tiếng Nghệ Của Nguyễn Bùi Vợi
Cái gầu thì bảo cái đài
Ra sân thì bảo ra ngoài cái cươi
Chộ tức là thấy mình ơi
Trụng là nhúng đấy đừng cười nghe em
Thích chi thì bảo là sèm
Nghe ai bảo đọi thì mang bát vào
Cá quả lại gọi cá tràu
Vo troốc là bảo gội đầu đấy em…
Nghe em giọng Bắc êm êm
Bà con hàng xóm đến xem chật nhà
Răng chưa sang nhởi nhà choa
Bà o đã nhốt con ga trong truồng
Em cười bối rối mà thương
Thương em một lại trăm đường thương quê
Gió Lào thổi rạc bờ tre
Chỉ nghe giọng nói đã nghe nhọc nhằn
Chắt từ đá sỏi đất cằn
Nên yêu thương mới sâu đằm đó em.
Thohay.vn gửi tặng bạn những bài ❤️️Thơ Về Nghệ An, Thành Phố Vinh❤️️ 50+ Bài Thơ, Ca Dao Tục Ngữ hay.
Ý Nghĩa Bài Thơ Tiếng Nghệ
Đây là bài thơ rất đặc sắc viết về giọng nói đặc trưng của người miền Trung mà cụ thể là vùng đất Nghệ Tĩnh của Nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi. Từ giọng nói, tiếng nói ấy mà suy tưởng đến tính cách của người dân xứ Nghệ là tình thương yêu, thủy chung sắc son trong quan hệ giữa người với người.
Đừng bỏ lỡ những bài Thơ Về Con Gái Xứ Nghệ ❤️️30+ Bài Thơ Về Gái Nghệ An Hay Nhất.
Những Cảm Nhận Về Bài Thơ Tiếng Nghệ
Cảm Nhận Về Bài Thơ Tiếng Nghệ Đặc Sắc
“Tiếng nói là của cải vô cùng lâu đời và quý báu của dân tộc” (Bác Hồ). Ở mỗi vùng, mỗi miền, mỗi tỉnh đều có “thổ âm” riêng. Ta còn gọi đó là “phương ngữ”. Năm mươi tư dân tộc anh em, từ miền ngược tới miền xuôi, từ rừng núi tới hải đảo, dù tiếng nói có khác nhau, phát âm khác nhau, song tất cả đều là con Rồng, cháu Lạc, đều chung tay xây dựng Tổ quốc Việt Nam. Tiếng Việt của ta giàu đẹp lắm:
Tiếng tha thiết nói thường như hát
Kể mọi điều bằng ríu rít âm thanh
(Lưu Quang Vũ)
Nhà thơ, nhà giáo Nguyễn Bùi Vợi, người con của xứ Nghệ đã đằm sâu trong một tình thương quê đến da diết, tình yêu “Tiếng Nghệ” nói riêng và tiếng Việt nói chung đến nao lòng. Bài “Tiếng Nghệ” chính là máu thịt của anh gắn với quê hương:
Cái “gầu” thì gọi là cái “đài“
Ra “sân” thì bảo ra ngoài cái “cươi“
“Chộ” tức là “thấy” em ơi
“Trụng” là “nhúng” đấy, đừng cười nghe em
“Thích” chi thì bảo là “sèm“
Khi ai bảo “đọi” thì đem “bát” vào
“Cá quả” lại gọi “cá tràu“
“Vo troốc” là bảo “gội đầu” đấy em.
Nghe em giọng Bắc êm êm
Bà con hàng xóm đến xem chật nhà
Khi “mô” sang “nhởi” bên “choa“
Bà “o” đã nhốt “con ga” trong “truồng”!
Em cười bối rối mà thương
Thương em một, lại trăm đường thương quê
Gió Lào thổi rạc bờ tre
Chỉ qua giọng nói đã nghe nhọc nhằn
Chắt từ đá sỏi đất cằn
Nên yêu thương mới sâu đằm đó em.
Từ xưa tới nay, mảnh đất xứ Nghệ đã sản sinh ra nhiều anh hùng hào kiệt. Đây là nơi “làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá” (Chính Hữu), nhưng con người xứ Nghệ rất thẳng thắn, bộc trực, có ý chí học hành thành tài để vượt lên nghèo đói. Và ở họ không chỉ giàu tình yêu thương mà còn có cả sự thâm thúy sâu sắc. Tiếng nói của người dân Nghệ nặng nề thổ âm trọ trẹ với những chộ, nhởi, o, bọ… Chính “bà xã” của Nguyễn Bùi Vợi cũng đã nhận xét rất hóm hỉnh về ông chồng nhà thơ của mình:
… Nói thì giọng nặng như bổ củi
Mô, tê, răng, rứa nghe nhức đầu.
… Đã nói khi nào cũng nói to
Đã nhìn ai là nhìn thẳng mặt.
Chính cái chất Nghệ “thẳng như ruột ngựa” ấy của anh nhiều lúc lại dễ tạo được sự đồng cảm chân thành với bạn bè và khi nó đi vào thơ một cách hồn nhiên, mộc mạc thì rất dễ đến với “điệu tâm hồn” của quần chúng. Tuy nhiên những “khẩu ngữ” ấy nhà thơ phải đặt nó đúng lúc, đúng chỗ với một liều lượng nhất định trong bài thơ, thì nó mới “phát sáng”, và vang lên một giai điệu đa thanh. Có khi những tiếng thông thường ấy lại lung linh một sắc màu mới của cuộc sống mà ngôn ngữ bác học không có được. Bài “Tiếng Nghệ“ của Nguyễn Bùi Vợi cũng như bài “Nhớ” của Hồng Nguyên là những bài thơ như thế! Cứ đọc lên là ta như thấy có ngay “đồng hương” bên cạnh để cùng xẻ chia buồn, vui, sướng, khổ.
Tám câu đầu của bài thơ là lời tự sự, giải thích và phiên ngang một số từ ngữ của Nghệ An sang “giọng Bắc”: đài ~ gầu, cươi ~ sân, chộ ~ thấy, trụng ~ nhúng, đọi ~ bát, cá tràu ~ cá quả, sèm ~ thích v.v… Chất thơ chưa ló ra nhưng tác giả đã tạo được sự gần gũi dân dã với bạn đọc, kích thích trí tò mò về những từ khẩu ngữ của một vùng đất mà “Gió Lào thổi rạc bờ tre”. Từ ngữ ở những câu này cứ sần sùi, thô ráp, khắc khổ, mộc mạc như chính cuộc sống vốn có. Nhân vật “em” ở đây không ai khác, đó chính là vợ của nhà thơ, một cô giáo người Bắc chính cống có giọng nói “êm êm” vừa lạ vừa dễ thương đối với người “quê choa”. Bởi thế nên mới có chuyện “Bà con hàng xóm đến xem chật nhà”.
Ở phần hai của bài thơ tác giả đã có sự chuyển “gam” như một bản nhạc chuyển từ giọng “trưởng” sang giọng “thứ”. Chất bình luận trữ tình nổi lên át chất tự sự. “Giọng Bắc êm êm” của em đã làm dịu đi cái gồ ghề, thô ráp của giọng anh, tạo nên sự hòa tấu vui tai. Bà con, hàng xóm, bà o với lời mời mọc chân tình, cởi mở:
Khi mô sang nhởi bên choa
Bà o đã nhốt con ga trong “truồng”!
Từ chuyện tiếng nói quê mình, nhà thơ nâng lên một tầng liên tưởng mới vừa triết lý về tình ”thương quê” đằm thắm vừa cảm thông về nỗi “thương em”. Nhưng ở đây thương em chỉ có một, còn thương quê lại gấp trăm lần. Thế mới biết tình yêu thương quê nhà của người con xa xứ sâu nặng xiết bao:
Em cười bối rối mà thương
Thương em một, lại trăm đường thương quê
Gió Lào thổi rạc bờ tre
Chỉ qua giọng nói đã nghe nhọc nhằn.
Người xứ Nghệ dù đi đâu và xa cách bao nhiêu, họ vẫn nhớ về “nhút Thanh Chương, tương Nam Đàn”, vẫn không quên bánh đa, bánh đúc, kẹo Cuđơ… cho dù nơi ấy “đất sỏi, đất vôi, bạc màu” với những trận gió Lào cháy bỏng tới hừng hực như lửa cháy đã từng đi vào bao lời văn, ý thơ của dải đất miền Trung. Nhưng lần đầu tiên tôi thấy Nguyễn Bùi Vợi có một miêu tả và nhận xét về gió Lào chính xác và hay đến thế:
Gió Lào thổi rạc bờ tre
Chỉ qua giọng nói đã nghe nhọc nhằn
Nhà thơ Chế Lan Viên cũng đã từng viết về gió Lào thật cảm động:
Ôi! gió Lào ôi! ngươi đừng thổi nữa!
Những ruộng đói mùa, đồng đói cỏ
Những đồi sim không đủ quả nuôi người.
Cái độc đáo ở tứ thơ của Nguyễn Bùi Vợi là anh đã tạo được sự liên tưởng giữa cái thấy được và cái cảm nhận được. Hình ảnh “gió Lào” và âm thanh của “giọng nói” là một sự chuyển đổi cảm giác tinh tế trong hư cấu nghệ thuật. Chỉ có những ai đã từng gắn bó, máu thịt với quê hương thật nặng nghĩa, nặng tình, và đắm mình trong dòng sông tiếng Mẹ, mới có được trí tưởng tượng phong phú và sự cảm nhận sâu sắc như thế! Thơ nói ít mà gợi nhiều là vậy. Nó phát khởi từ trái tim của một tình thương quê, tình yêu tiếng mẹ đẻ rất lớn.
Bài thơ kết thúc như một lời nhắc nhở đối với “em” và với mỗi chúng ta:
Chắt từ đá sỏi đất cằn
Nên yêu thương mới sâu đằm đó em
Quê ta cũng như bao làng quê khác còn nghèo lắm, nhưng ta rất đỗi tự hào khi ta được sinh ra và lớn lên ở đó. Mẹ cha ta đã từng “bắt sỏi đá phải thành sắn, gạo” (Tố Hữu). Đồng bào Nghệ An đã một thời “vắt đất ra nước, thay trời làm mưa” để xây đắp lại giang san, để xóa bỏ đói nghèo và lạc hậu. Quê hương ấy là máu thịt ta, là nghĩa, là tình, là biết bao thương nhớ, khát khao đằm thắm đó em!
Bài thơ nói về “Tiếng Nghệ” nhưng thực ra là nói về tình thương quê, tình yêu tiếng mẹ đẻ da diết. Chất Nghệ như thấm đẫm trên từng câu, từng chữ thật dung dị, sâu lắng như câu hò lên thác xuống ghềnh, như câu hát dặm, hát ví nơi làng quê Thanh Chương (Nghệ An) – quê nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi. Tôi tin rằng đây là một bài thơ sẽ vượt thời gian bởi nó nói được với ta rất nhiều về tình yêu và trách nhiệm đối với quê hương, đối với tiếng Việt. Đúng như nhà thơ Đỗ Trung Quân đã viết:
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nỗi thành người.
Mời bạn cùng đọc 💚Thơ Về Làng Sen Quê Bác 💚Chùm Thơ Về Quê Bác Hay Nhất.
Cảm Nhận Về Bài Thơ Tiếng Nghệ Ngắn Hay
Thiên nhiên, con người xứ Nghệ đã đi vào thơ ca với nhiều hình ảnh độc đáo, thân thương. Nét độc đáo tạo nên bản sắc văn hoá của xứ Nghệ còn thể hiện qua giọng nói. Bài thơ “Tiếng Nghệ” của cố nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi là tác phẩm thể hiện những nét riêng của tiếng Nghệ và tình người xứ Nghệ một cách sâu sắc, ấn tượng.
Cái gầu thì bảo cái đài
Ra sân thì bảo ra ngoài cái cươi
Chộ tức là thấy em ơi
Trụng là nhúng đấy đừng cười nghe em
Thích chi thì bảo là sèm
Khi ai bảo đọi thì mang bát vào
Cá quả lại gọi cá tràu
Vo troốc là bảo gội đầu đấy em…
Nghe em giọng Bắc êm êm
Bà con hàng xóm đến xem chật nhà
Khi mô sang nhởi bên choa
Bà o đã nhốt con ga trong truồng
Em cười bối rối mà thương
Thương em một, lại trăm đường thương quê
Gió Lào thổi rạc bờ tre
Chỉ qua giọng nói đã nghe nhọc nhằn
Chắt từ đá sỏi đất cằn
Nên yêu thương mới sâu đằm đó em.
Mở đầu bài thơ là một trật tự khác thường khi tác giả chú thích tiếng phổ thông bằng tiếng Nghệ. Với một loạt cấu trúc: A – “thì bảo”; “tức là”; “gọi là” – B, tác giả đã giới thiệu một loạt từ tiếng Nghệ trong giao tiếp đời thường.
Cái gầu thì bảo cái đài…
Vo troốc là bảo gội đầu đấy em…
Tiếng Nghệ là một ngôn ngữ còn bảo lưu nhiều yếu tố cổ của tiếng Việt. Nhiều âm tiết nghe rất lạ so với từ phổ thông. Mở đầu bải thơ, tác giả đã trang bị một loạt từ mang tính địa phương, với cách phát âm phong phú về vần điệu, chỉ có ở vùng Nghệ Tĩnh. Người đọc chắc phải bật cười vì những tiếng Nghệ lần đầu mới bắt gặp và băn khoăn vì sao tác giả bắt chước theo kiểu “tam tự kinh” của các cụ ngày xưa như vậy. Xin hãy đọc hai câu thơ tiếp theo:
Nghe em giọng Bắc êm êm
Bà con hàng xóm đến xem chật nhà
Hai câu thơ như một nhịp cầu nối liền tiếng Nghệ với con người xứ Nghệ. Lúc này, chúng ta mới vỡ lẽ vì sao tác giả không dịch các từ tiếng Nghệ thành ngôn ngữ phổ thông mà từ tiếng phổ thông lần về với tiếng Nghệ quê mình. Thì ra có một người đang cần biết tiếng Nghệ quê anh. Đó là người vợ tương lai anh đang muốn đưa về “ra mắt” người thân ở quê nhà. Tình huống thật vui nhưng cũng có phần lúng túng vì cô gái là người miền Bắc. Phải trang bị cho “người Tràng An” những từ “đặc sệt” tiếng Nghệ Tĩnh để cô dâu mới không bỡ ngỡ khi giao tiếp với người thân ở quê nhà. Phần đầu bài thơ chủ yếu tác giả trang bị kiến thức về tiếng Nghệ cho vợ. Chuẩn bị chu đáo nhưng vợ anh vẫn gặp tình huống khó xử. Bà con ở quê khi nghe tin có “cô dâu tương lai” từ xa về đã đến để “xem mặt” và thật khó xử cho cô gái khi nghe giọng quê vồn vã, tíu tít:
Khi mô sang nhởi bên choa
Bà o đã nhốt con ga trong truồng
Chỉ hai câu thơ nhưng có sáu âm tiết nghe lạ tai “mô, nhởi, choa, o, ga, truồng”. Tình huống thật khó lường trước “Ta như chim trong tiếng Việt như rừng” (Lưu Quang Vũ). Cô gái ngỡ ngàng trước những từ tiếng Nghệ vừa lạ, vừa quen, ngỡ ngàng trước sự cởi mở, vô tư của “bà con” bên chồng đối với mình. Trong tình huống ấy, cô chỉ biết cười “bối rối” mà thôi. Cái cười thật đôn hậu, dễ thương. Chàng trai thấy thương người yêu vô cùng nhưng từ tình thương ấy lại trỗi dậy một tình thương cao cả hơn: “Thương em một, lại trăm đường thương quê”. Cái hay, cái đẹp của tác phẩm chính là đời thường mà lại nên thơ… Nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi quê ở Thanh Chương – Nghệ An còn vợ ông là người Hà Nội. Bài thơ này ông làm tặng vợ yêu của mình. Thông điệp của bài thơ không chỉ là tiếng Nghệ mà còn là con người và tình người xứ Nghệ.
Người xứ Nghệ lớn lên trong một vùng thiên nhiên nhiều núi non sông nước, nhiều đá sỏi đất cằn, nhiều nắng gió, nhiều mưa bão. Họ luôn phải gồng mình lên chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt. Ai đã được chứng kiến những trận gió Lào miền Trung hẳn không bao giờ quên được cái nóng, cái phờ phạc của cỏ cây, cái gian nan vất vả của con người nơi đây. Thiên nhiên ấy đã tạo nên một chất giọng riêng:
Gió Lào thổi rạc bờ tre
Chỉ qua giọng nói đã nghe nhọc nhằn
Chắt từ đá sỏi đất cằn
Nên yêu thương mới sâu đằm đó em.
Tiếng Nghệ có âm sắc điệu nặng trầm, khi nói không rõ thanh điệu, ngữ điệu, tạo cảm giác “trọ trẹ” nhưng ẩn sau vẻ thô mộc, giản dị là sự chắt chiu của một vùng “nhân kiệt địa linh” của bao thế hệ con người tảo tần, chịu thương, chịu khó để tạo nên những tiếng nói đằm sâu tình đời, tình người. Sự “Yêu thương sâu đằm của người Nghệ” được thể hiện qua tình yêu đôi lứa thuỷ chung, yêu những con người thật thà chất phác, yêu thiên nhiên, yêu những truyền thống tốt đẹp của quê hương. Trong bài thơ “Lấy chồng xứ Nghệ”, Nguyễn Bùi Vợi viết:
Nói giọng thì nặng như bổ củi
Mô, tê, răng, rứa nghe nhức đầu
Được cái trời cho tài chịu khó
Nhà tranh cơm độn chẳng kêu đâu!
Nhà thơ Trần Lê Văn đã từng viết tặng Nguyễn Bùi Vợi: “Vắt máu tim mình làm mực viết”. Có lẽ “mực từ tim” của Nguyễn Bùi Vợi đã làm nên những vần thơ hay, những nét tính cách riêng của người xứ Nghệ. Người Nghệ dù đi xa vẫn không để phai nhạt những dấu ấn ngôn ngữ quê mình. Đó là mạch nguồn tinh tuý được chắt lọc từ sức sống mãnh liệt, từ tình yêu thuỷ chung son sắt đối với quê hương. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Bác đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, trước Quốc dân Đồng bào, Bác nói: “Tôi nói Đồng bào nghe rõ không!”. Âm sắc tiếng Nghệ hùng hồn, trầm ấm, thiết tha của Người còn vang vọng tới muôn đời sau.
Tiếng Nghệ phản ánh bản sắc văn hoá và phẩm chất, cốt cách của con người xứ Nghệ. Người Nghệ luôn tự hào về truyền thống hay chữ, hiếu học của quê mình
“Ông đồ xưa xứ Nghệ
Càng dạy, chữ càng nhiều”.
Tiếng Nghệ đã nuôi dưỡng tâm hồn và góp phần hình thành nên phong cách văn chương của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, thi sĩ Nguyễn Công Trứ, danh nhân văn hoá Hồ Chí Minh. Và chính nó cũng góp phần hình thành nên các làn điệu dân ca như hò, ví, dặm, hát Phường Vải…bộc lộ tình người nơi đây và làm say đắm bao người.
Bài thơ “Tiếng Nghệ” của Nguyễn Bùi Vợi đã đưa tiếng Nghệ hội nhập ngôn ngữ văn hóa dân tộc như một thứ “đặc sản”. Tiếng Nghệ thân thương hoà quyện những tình cảm của người xứ Nghệ sẽ trở thành một thứ của cải vô giá. Giọng người xứ Nghệ với những cung bậc tình cảm nên thơ đã hoà vào tiếng Việt tạo nên vẻ đẹp chung:
Ôi tiếng Việt như đất cày, như lụa
Óng tre ngà và mềm mại như tơ.
(Tiếng Việt – Lưu Quang Vũ)