Bài Thơ Tiếng Việt Của Lưu Quang Vũ [Nội Dung, Ý Nghĩa, Cảm Nhận]

Nội Dung Bài Thơ Tiếng Việt Của Lưu Quang Vũ ❤️️ Ý Nghĩa Bài Thơ ✅ Những Cảm Nhận Bài Thơ Tiếng Việt Của Lưu Quang Vũ.

Nội Dung Bài Thơ Tiếng Việt Của Lưu Quang Vũ

Bài thơ Tiếng Việt Lưu Quang Vũ được đánh giá là một trong những bài thơ hay nằm trong tập Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi. Hãy cùng thohay.vn tìm hiểu về những nét đặc sắc của bài thơ Tiếng Việt Lưu Quang Vũ nhé!

Tiếng mẹ gọi trong hoàng hôn khói sẫm
Cánh đồng xa cò trắng rủ nhau về
Có con nghé trên lưng bùn ướt đẫm
Nghe xạc xào gió thổi giữa cau tre.

Tiếng kéo gỗ nhọc nhằn trên bãi nắng
Tiếng gọi đò sông vắng bến lau khuya
Tiếng lụa xé đau lòng thoi sợi trắng
Tiếng dập dồn nước lũ xoáy chân đê.

Tiếng cha dặn khi vun cành nhóm lửa
Khi hun thuyền, gieo mạ, lúc đưa nôi
Tiếng mưa dội ào ào trên mái cọ
Nón ai xa thăm thẳm ở bên trời.

“Ðá cheo leo trâu trèo trâu trượt…”
Ði mòn đàng dứt cỏ đợi người thương
Ðây muối mặn gừng cay lòng khế xót
Ta như chim trong tiếng Việt như rừng.

Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói
Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ
Ôi tiếng Việt như bùn và như lụa
Óng tre ngà và mềm mại như tơ.

Tiếng tha thiết, nói thường nghe như hát
Kể mọi điều bằng ríu rít âm thanh
Như gió nước không thể nào nắm bắt
Dấu huyền trầm, dấu ngã chênh vênh.

Dấu hỏi dựng suốt ngàn đời lửa cháy
Một tiếng vườn rợp bóng lá cành vươn
Nghe mát lịm ở đầu môi tiếng suối
Tiếng heo may gợi nhớ những con đường.

Một đảo nhỏ ngoài khơi nhiều kẻ nhận
Vẫn tiếng làng tiếng nước của riêng ta
Tiếng chẳng mất khi Loa thành đã mất
Nàng Mỵ Châu quỳ xuống lạy cha già.

Tiếng thao thức lòng trai ôm ngọc sáng
Dưới cát vùi sóng dập chẳng hề nguôi
Tiếng tủi cực kẻ ăn cầu ngủ quán
Thành Nguyễn Du vằng vặc nỗi thương đời.

Trái đất rộng giàu sang bao thứ tiếng
Cao quý thâm trầm rực rỡ vui tươi
Tiếng Việt rung rinh nhịp đập trái tim người
Như tiếng sáo như dây đàn máu nhỏ.

Buồm lộng sóng xô, mai về trúc nhớ
Phá cũi lồng vời vợi cánh chim bay
Tiếng nghẹn ngào như đời mẹ đắng cay
Tiếng trong trẻo như hồn dân tộc Việt.

Mỗi sớm dậy nghe bốn bề thân thiết
Người qua đường chung tiếng Việt cùng tôi
Như vị muối chung lòng biển mặn
Như dòng sông thương mến chảy muôn đời.

Ai thuở trước nói những lời thứ nhất
Còn thô sơ như mảnh đá thay rìu
Ðiều anh nói hôm nay, chiều sẽ tắt
Ai người sau nói tiếp những lời yêu?

Ai phiêu bạt nơi chân trời góc biển
Có gọi thầm tiếng Việt mỗi đêm khuya?
Ai ở phía bên kia cầm súng khác
Cùng tôi trong tiếng Việt quay về.

Ôi tiếng Việt suốt đời tôi mắc nợ
Quên nỗi mình quên áo mặc cơm ăn
Trời xanh quá môi tôi hồi hộp quá
Tiếng Việt ơi tiếng Việt xót xa tình…

Mời đọc giả cùng tìm hiểu thêm 👉Thơ Lưu Quang Vũ ❤️️ Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ Hay.

Ý Nghĩa Bài Thơ Tiếng Việt Lưu Quang Vũ

Bài thơ đã ngợi ca sự giàu đẹp của tiếng Việt: vừa giản dị, mộc mạc, vừa phong phú, sâu sắc. Tiếng Việt có sức sống mạnh mẽ, thẫm đẫm vẻ đẹp linh hồn dân tộc, có giá trị bồi đắp tâm hồn, tình yêu dân tộc. Bằng lời thơ chân thành, hình ảnh thơ giàu giá trị biểu cảm, Lưu Quang Vũ đã thể hiện tình yêu, niềm tự hào, sự trân trọng đối với tiếng Việt thiêng liêng.

Ngày nay khi đất nước trong thời kỳ hội nhập chúng ta lại càng phải gìn giữ những bản sắc riêng của chính mình.

Ai đã được tiếp xúc với Tiếng Việt của Lưu Quang Vũ dù chỉ một lần đều không dễ quên. Bài thơ được rất nhiều người yêu mến thuộc lòng…

Bên cạnh việc sử dụng tiếng Việt để sáng tạo nên những tác phẩm văn hoá, văn học bất hủ, các nghệ sĩ của chúng ta luôn đến với tiếng nói của dân tộc như một nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn. “Họ (các nhà thơ mới – TQĐ) yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt” (Hoài Thanh). Có lẽ mọi nghệ sĩ đều có tình cảm tương tự đối với tiếng Việt. Đã có nhiều tác phẩm hay viết về tiếng Việt nhưng có một sáng tác đã đem lại cho tôi nhiều điều mới mẻ và xúc động nhất là bài thơ Tiếng Việt của nhà thơ, nhà viết kịch tài hoa bạc mệnh Lưu Quang Vũ.


Nhà thơ đã sáng tạo nên một thế giới hình ảnh sinh động, gợi cảm để tái hiện cội nguồn lịch sử tiếng nói dân tộc. Tiếng Việt không phải là một khái niệm trừu tượng mà là tiếng mẹ gọi, tiếng cha dặn, tiếng kéo gỗ, tiếng gọi đò, là câu hát lời ru “rung rinh nhịp đập trái tim”… nghĩa là tất cả những gì gần gũi, thân thiết, máu thịt nhất đối với mỗi người; là thứ tiếng lấm láp giọt mồ hôi mặn chát, những giọt nước mắt cay đắng và cả những tâm tình sâu lắng, ngọt ngào, say đắm.

Tiếng Việt là thứ tiếng của Tình yêu và Lao động. Có thể xem hai câu thơ: “Ôi tiếng Việt như đất cày, như lụa/ Óng tre ngà và mềm mại như tơ” là những câu thơ hay nhất của bài thơ. Đó là một sự phát hiện, đúc kết sâu sắc về đặc trưng tiếng nói, bản sắc dân tộc: vừa mộc mạc, chân chất, khoẻ khoắn, vừa mềm mại, dịu dàng, mát mẻ, vừa cứng cỏi lại vừa óng ả, tinh tế, bay bổng… Những hình ảnh “đất cày”, “lụa”, “tre ngà”, “tơ” đều gần gũi, quen thuộc, mang đậm bản sắc dân tộc. Hai câu thơ đẹp, lung linh sắc màu, càng đọc, càng suy ngẫm càng thấy thấm thía, xúc động. Lưu Quang Vũ đã có những phát hiện mới mẻ về sức mạnh kì diệu của tiếng Việt: là dòng sông chảy muôn đời lưu giữ truyền thống yêu nước, nhân ái của con người Việt Nam, là biển lớn của tinh thần hoà hợp dân tộc. Sức mạnh quân sự của kẻ thù có thể chia cắt đất nước về mặt ranh giới địa lí nhưng không thể chia cắt khối thống nhất vĩ đại của lịch sử, văn hoá, ngôn ngữ dân tộc. Tiếng Việt trở thành sợi dây nối liền tâm hồn, tư tưởng của mọi thành viên trong cộng đồng cũng như những người con xa xứ, lưu lạc.

Từ mối liên hệ với lịch sử, tác giả đã xem tiếng Việt như là một nhân tố tạo nên sự bền vững muôn đời của dân tộc. Tính nhân dân là hạt nhân tư tưởng của bài thơ. Tác phẩm thấm đẫm cảm xúc kính trọng, tự hào, yêu thương nhân dân. Nhân dân là những người đã lao động, sáng tạo, đã đổ mồ hôi, công sức vun đắp cho tiếng Việt ngày càng giàu đẹp hơn và chịu đựng gian khổ, hi sinh, đổ máu để cho tiếng Việt mãi mãi là tiếng nói của một dân tộc có chủ quyền. Tiếng Việt là thứ tiếng cất lên từ bờ tre, mái rạ, từ trong cuộc sống lam lũ, khổ nghèo của những người kéo gỗ, chèo đò, dệt lụa, lặn ngòi ngoi nước, ăn cầu ngủ quán… trải qua những ngày chia cắt, giặc giã, khói lửa với những nỗ lực, hi sinh âm thầm của bao thế hệ con người. Điều kì diệu là tiếng Việt sản sinh trong cuộc sống lao động và chiến đấu ấy lại là một thứ tiếng ngọt ngào, đằm thắm, tha thiết, thấm đẫm yêu thương dịu dàng, trong trẻo “như dòng sông thương mến chảy muôn đời”.

Suy cho cùng thì vẻ đẹp, sự kì diệu của tiếng Việt cũng là vẻ đẹp, sự kì diệu của tâm hồn nhân dân, dân tộc. Bài thơ cũng phản ánh không khí của một thời, khi mà cả dân tộc đang phải vận dụng, phát huy tất cả nguồn sức mạnh tổng hợp để đối đầu với một kẻ thù hùng mạnh hơn gấp nhiều lần.

Tiếng Việt thể hiện những nét đặc sắc trong bút pháp, phong cách nghệ thuật thơ Lưu Quang Vũ. Bài thơ “…đầy ắp hình ảnh, ảnh thực và ảnh ảo, hiện thực và tưởng tượng, sách vở và đời sống hoà quyện thúc đẩy nhau trong các câu thơ dồn dập” (Vũ Quần Phương, Lưu Quang Vũ – thơ và đời, NXB Văn hoá – Thông tin, 1999). Bên cạnh đó, độc giả còn bị chinh phục bởi tính nhạc phong phú, tinh tế. Thể thơ tám chữ với lối gieo vần phóng khoáng và cách ngặt nhịp biến hoá khiến cho bài thơ trở thành một bản nhạc không bao giờ dứt. Nhịp thơ khi trầm lắng, khoan thai, tha thiết, khi sôi nổi, dồn dập, mạnh mẽ… Nội dung tư tưởng lớn lao, sâu sắc được diễn tả bằng một bút pháp nghệ thuật điêu luyện, tài hoa.

Ngoài thơ Tiếng Việt mời bạn đọc thêm 💚Thơ Lưu Quang Vũ Viết Cho Xuân Quỳnh💚Chùm Thơ Tình Hay Nhất.

Những Cảm Nhận Bài Thơ Tiếng Việt Của Lưu Quang Vũ

Bài thơ Tiếng Việt Lưu Quang Vũ được viết bằng cái tình đậm đà và thắm thiết và cũng chứa đựng đầy nét nhân ái của con người Việt Nam. Tuy viết về tiếng Việt nhưng nhà thơ đã không bắt đầu bằng những khái niệm trừu tượng mà đó chính là những hình ảnh giản dị và thân thuộc. Đó là những câu thơ giàu sức gợi để con người ta có thể cảm nhận được cuộc sống sinh hoạt của người dân Việt Nam. Bởi chính cuộc sống áy đã hình thành và nuôi dưỡng tiếng nói của dân tộc. Đó cũng chính là lý do nhà thơ đã gợi lên một không gian làng quê thân thuộc và dấu yêu:

Tiếng mẹ gọi trong hoàng hôn khói sẫm
Cánh đồng xa cò trắng rủ nhau về
Có con nghé trên lưng bùn ướt đẫm
Nghe xạc xào gió thổi giữa cau tre.

Tiếng kéo gỗ nhọc nhằn trên bãi nắng
Tiếng gọi đò sông vắng bến lau khuya
Tiếng lụa xé đau lòng thoi sợi trắng
Tiếng dập dồn nước lũ xoáy chân đê.

Tiếng cha dặn khi vun cành nhóm lửa
Khi hun thuyền, gieo mạ, lúc đưa nôi
Tiếng mưa dội ào ào trên mái cọ
Nón ai xa thăm thẳm ở bên trời.

Vâng tiếng việt được cất lên từ bờ tre, gốc rạ, dòng sông… Đó là những âm thanh đậm tâm tình và sự sâu lắng của người Việt Nam. Đó cũng chính là tiếng mẹ gọi khi hoàng hôn buông xuống, tiếng cha dặn khi nhóm lửa… Và cũng là tiếng mưa, tiếng xào xào gió thổi… Và mọi mặt của cuộc sống đều góp phần tạo nên hồn cốt của tiếng Việt. Đó là cái hay của tiếng dân tộc mình.

Chính ngôn ngữ là một trong những nhân tố quan trọng tạo nên cái gọi là bản sắc dân tộc, tinh hoa văn hóa của dân tộc. Hơn nữa vấn đề mà Tiếng việt Lưu Quang Vũ chuyển tải được ở đây chính là ý thức xã hội, ứng xử và cách giao tiếp bởi “Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói”. Và cũng bởi vì nó là kết quả của hoạt động vật chất và tinh thần của người Việt Nam.

Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói
Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ
Ôi tiếng Việt như bùn và như lụa
Óng tre ngà và mềm mại như tơ.

Có lẽ nói điểm tài hoa của nhà thơ này chính là đã khái quát được đặc trưng của tiếng Việt thông qua hai câu thơ: “Ôi tiếng Việt như đất cày, như lụa. Óng tre ngà và mềm mại như tơ”. Ở đây tác giả vừa mượn hình ảnh giản dị và thân quen như đất cày, lụa, tre… để nói về tiếng Việt. Từ đó mà nhà thơ đã gợi cho người đọc có thể cảm nhận được sự mộc mạc và giản dị, chân chất mềm mạ của thứ tiếng này.

Tiếng Việt là một ngôn ngữ giàu nhạc điệu, điều này cũng được thể hiện thông qua hệ thống nguyên âm, phụ âm, thanh điệu đa dạng. Nên ta có htheer cảm nhận được độ trầm bổng, réo rắt, sâu lắng của ngôn ngữ này. Và để chứng minh cho nhận định đó nhà thơ Đã dẫn ra những câu nói rất giàu tính liên tưởng. Chẳng hạn như:

Một tiếng vườn rợp bóng lá cành vươn
Nghe mát lịm ở đầu môi tiếng suối
Tiếng heo may gợi nhớ những con đường.

Nhiều người đánh giá rằng nhân dân chính là hạt nhân trong bài thơ Tiếng Việt Lưu Quang Vũ. Bởi nhân dân chính là bộ phận lao động, họ đã chịu đựng gian khổ và hy sinh để cho tiếng Việt thêm phần giàu đẹp và thân thương. Đó cũng chính là lý do tại sao tiếng Việt lại thân thuộc và gần gũi như vật. Và cũng chính thần thái của tiếng Việt cũng là sức sống mảnh liệt của con người Việt Nam kiên cường bất khuất.

Bởi đó cũng chính là một chứng nhân lịch sử cho các thăng trầm của cuộc sống này. Đó là khi loa thành đã mất, Mỵ Châu quỳ xuống cha già. Đó cũng chính là vẻ lấp lánh, thăng trầm của đời người. Và chung quy lại nó đã làm nên một dòng chảy văn hóa “Như vị muốn chung lòng biển mặn, như dòng sông thương mến chảy muôn đời”.

Bằng tất cả sự trân quý tiếng mẹ đẻ, Tiếng Việt Lưu Quang Vũ đã thành công trong việc chuyển tải cảm xúc tha thiết ân tình khi nhắc về ngôn ngữ này.

Ôi tiếng Việt suốt đời tôi mắc nợ
Quên nỗi mình quên áo mặc cơm ăn
Trời xanh quá môi tôi hồi hộp quá
Tiếng Việt ơi! Tiếng Việt ân tình…

Có thể nói bài thơ Tiếng Việt Lưu Quang Vũ là một trong những áng văn thơ hay và nổi tiếng. Đọc nó ta có thể cảm nhận được một nét giản dị, đậm đà và hồn hậu như chính về con người Việt Nam.

Thohay.vn giới thiệu đến bạn đọc ☘Gió Và Tình Yêu Thổi Trên Đất Nước Tôi☘ Nội Dung, Phân Tích.

Viết một bình luận