Cô Bé Bán Diêm ❤️️ Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích Truyện ✅ Chia Sẻ Bạn Đọc Về Hoàn Cảnh Sáng Tác, Bố Cục, Đọc Hiểu, Ý Nghĩa Nhan Đề.
NỘI DUNG CHÍNH
Nội Dung Truyện Cô Bé Bán Diêm
Cô bé bán diêm là một trong những truyện cổ An-đéc-xen được yêu thích nhất. Câu chuyện thể hiện tấm lòng nhân đạo, giàu tình yêu thương của nhà văn với những đứa trẻ con nghèo khổ trong xã hội lúc bấy giờ. Đọc nội dung truyện Cô bé bán diêm bên dưới nhé.
(Đêm giao thừa, trời rét mướt. một cô bé bán diêm nhà nghèo, mồ côi mẹ, đầu trần, chân đi đất, bụng đói, đang dò dẫm trong bóng tối. Suốt cả ngày em không bán được bao diêm nào…)
Cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn và trong phố sực nức mùi ngỗng quay. Chả là đêm giao thừa mà! Em tưởng nhớ lại năm xưa, khi bà nội hiền hậu của em còn sống, em cũng được đón giao thừa ở nhà. Nhưng Thần Chết đã đến cướp bà em đi mất, gia sản tiêu tán, và gia đình em đã phải lìa ngôi nhà xinh xắn có dây trường xuân bao quanh, nơi em đã sống những ngày đầm ấm, để đến chui rúc trong một xó tối tăm, luôn luôn nghe những lời mắng nhiếc chửi rủa.
Em ngồi nép trong một góc tường, giữa hai ngôi nhà, một cái xây lùi vào vào chút ít.
Em thu đôi chân vào người, nhưng mỗi lúc em càng thấy rét buốt hơn.
Tuy nhiên, em không thể nào về nhà nếu không bán được ít bao diêm, hay không ai bố thí cho một đồng xu nào đem về; nhất định là cha em sẽ đánh em.
Vả lại ở nhà cũng rét thế thôi. Cha con em ở trên gác sát mái nhà, và mặc dầu đã nhét giẻ rách vào các kẽ hở lớn trên vách, gió vẫn thổi rít vào trong nhà. Lúc này đôi bàn tay em đã cứng đờ ra.
Chà! Giá quẹt một que diêm mà sưởi cho đỡ rét một chút nhỉ? Giá em có thể rút một que diêm ra quẹt vào tường mà hơ ngón tay nhỉ? Cuối cùng em đánh liều quẹt một que.
Diêm bén lửa thật là nhạy. Ngọn lửa lúc đầu xanh lam, dần dần biến đi, trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt.
Em hơ đôi tay trên que diêm sáng rực như than hồng. Chà! Ánh sáng kì dị làm sao! Em tưởng chừng như đang ngồi trước một lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoáng. Trong lò, lửa cháy nom đến vui mắt và toả ra hơi nóng dịu dàng.
Thật là dễ chịu! Đôi bàn tay em hơ trên ngọn lửa; bên tay cầm diêm, ngón cái nóng bỏng lên. Chà! Khi tuyết phủ kín mặt đất, gió bấc thổi vun vút mà được ngồi hàng giờ như thế, trong đêm đông rét buốt, trước một lò sưởi, thì khoái biết bao!
Em vừa duỗi chân ra sưởi thì lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất. Em ngồi đó, tay cầm que diêm đã tàn hẳn. Em bần thần cả người và chợt nghĩ ra rằng cha em đã giao cho em đi bán diêm. Đêm nay về nhà thế nào cũng bị cha mắng.
Em quẹt que diêm thứ hai, diêm cháy và sáng rực lên. Bức tường như biến thành một tấm rèm bằng vải màu. Em nhìn thấu vào tận trong nhà. Bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa bằng sứ quý giá, và có cả một con ngỗng quay. Nhưng điều kì diệu nhất là ngỗng ta nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn, phuốc-sét cắm trên lưng, tiến về phía em bé.
Rồi… que diêm vụt tắt; trước mặt em chỉ còn là những bức tường dày đặc và lạnh lẽo.
Thực tế đã thay thế cho mộng tưởng; chẳng có bàn ăn thịnh soạn nào cả, mà chỉ có phố xá vắng teo, lạnh buốt, tuyết phủ trắng xoá, gió bấc vi vu và mấy người khách qua đường quần áo ấm áp vội vã đi đến những nơi hẹn hò, hoàn toàn lãnh đạm với cảnh nghèo khổ của em bé bán diêm.
Em quẹt que diêm thứ ba. Bỗng em thấy hiện ra một cây thông Nô-en. Cây này lớn và trang trí lộng lẫy hơn cây mà em đã được thấy năm ngoái qua cửa kính một nhà buôn giàu có. Hàng ngàn ngọn đèn sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi và rất nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ như những bức bày trong các tủ hàng hiện ra trước mắt em bé. Em với đôi tay về phía cây… nhưng diêm tắt. tất cả các ngọn nến bay lên, bay lên mãi rồi biến thành những ngôi sao trên trời.
– Chắc hẳn có ai vừa chết, em bé tự nhủ, vì bà em, người hiền hậu độc nhất đối với em, đã chết từ lâu, trước đây thường nói rằng: “Khi có một vì sao đổi ngôi là có một linh hồn bay lên trời với Thượng đế”.
Em quẹt que diêm nữa vào tường, một ánh sáng xanh toả ra xung quanh và em bé nhìn thấy rõ ràng bà em đang mỉm cười với em.
– Bà ơi! Em bé reo lên, cho cháu đi với! Cháu biết rằng diêm tắt thì bà cũng biến đi mất như lò sưởi, ngỗng quay và cây Nô-en ban nãy, nhưng xin bà đừng bỏ cháu ở nơi này; trước kia khi bà chưa về với Thượng đế chí nhân, bà cháu ta đã từng sung sướng biết bao! Dạo ấy bà đã từng nhủ cháu rằng nếu cháu ngoan ngoãn, cháu sẽ được gặp lại bà, bà ơi! Cháu van bà, bà xin Thượng đế chí nhân cho cháu về với bà. Chắc Người không từ chối đâu.
Que diêm tắt phụt, và ảo ảnh rực sáng trên khuôn mặt em bé cũng biến mất.
Thế là em quẹt tất cả những que diêm còn lại trong bao. Em muốn níu bà lại! diêm nối nhau chiếu sáng như giữa ban ngày. Chưa bao giờ em thấy bà to lớn và đẹp lão như thế này.
Bà cụ cầm lấy tay em, rồi hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét, đau buồn nào đe doạ họ nữa. họ đã về chầu Thượng đế.
Sáng hôm sau, tuyết vẫn phủ kín mặt đất, nhưng mặt trời lên, trong sáng, chói chang trên bầu trời xanh nhợt. mọi người vui vẻ ra khỏi nhà.
Trong buổi sáng lạnh lẽo ấy, ở một xó tường, người ta thấy một em gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. em đã chết vì giá rét trong đêm giao thừa.
Ngày mồng một đầu năm hiện lên trên thi thể em bé ngồi giữa những bao diêm, trong đó có một bao đã đốt hết nhẵn. mọi người bảo nhau: “Chắc nó muốn sưởi cho ấm!”, nhưng chẳng ai biết những cái kì diệu em đã trông thấy, nhất là cảnh huy hoàng lúc hai bà cháu bay lên để đón lấy những niềm vui đầu năm.
Đừng vội bỏ lỡ phân tích tác phẩm ✨ Lão Hạc [Nam Cao] ✨ Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật
Tóm Tắt Truyện Cổ Tích Cô Bé Bán Diêm
Sau đây là bản tóm tắt truyện cổ tích Cô bé bán diêm.
Đêm giao thừa, trời rét mướt. Một cô bé bán diêm nghèo, mồ côi mẹ, đầu trần, chân đất, bụng đói dò dẫm đi trong bóng tối. Em không dám về nhà vì sợ bố đánh, vì em không bán được que diêm nào. Ngồi nép một góc tường, em quẹt một que diêm sưởi ấm.
Quẹt que diêm đầu tiên, em tưởng như ngồi trước lò sưởi, vừa duỗi chân ra sưởi thì diêm vụt tắt. Que diêm thứ hai, em thấy bàn ăn thịnh soạn…rồi diêm vụt tắt.Que diêm thứ ba thấy cây thông Nô-en, em với tay về phía cây… diêm tắt. Que diêm thứ tư, thật kì diệu, em nhìn thấy người bà hiền hậu độc nhất với em, nhưng bà đã chết từ lâu.
Rồi diêm vụt tắt, em quẹt hết cả bao diêm để níu bà. Rồi em cùng bà bay lên cao. Sáng hôm sau, người ta đã thấy một cô bé bán diêm chết vì giá rét, má hồng và đôi môi mỉm cười.
Về Nhà Văn An-Đéc-Xen
Đừng bỏ qua những thông tin về nhà văn An-Đéc-Xen.
- An-đéc-xen (1805 – 1875) là nhà văn người Đan Mạch nổi tiếng với loại truyện kể cho trẻ em.
- Nhiều truyện của ông được biên soạn lại từ những truyện cổ tích, nhưng cũng có những truyện do ông sáng tạo ra.
- Truyện của An-đéc-xen nhẹ nhàng, trong trẻo, toát lèn lòng thương yêu con người – nhất là những người nghèo khổ và niềm tin, khát vọng những điều tốt đẹp nhất trên thế gian này sẽ thuộc về con người.
- Một số tác phẩm quen thuộc như: Cô bé bán diêm, Bầy chim thiên nga, Nàng tiên cá, Bộ quần áo mới của hoàng đế, Nàng công chúa và hạt đậu…
Chia sẻ cho bạn đọc 🌟 Tức Nước Vỡ Bờ 🌟 Khám Phá Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích
Về Tác Phẩm Cô Bé Bán Diêm
Về tác phẩm Cô bé bán diêm, truyện ngắn này được An-đéc-xen viết vào năm 1845, khi ông đã có trên 20 năm cầm bút, tên tuổi lừng danh thế giới.
Cô bé bán diêm đã cho người đọc thấy được lòng thương cảm đối với những số phận bất hạnh như cô bé trong câu chuyện. Đồng thời tác giả cũng là lời tố cáo xã hội đương thời khi con người trở nên lạnh lùng, vô cảm.
Xuất Xứ Và Hoàn Cảnh Sáng Tác Cô Bé Bán Diêm
Cùng Thohay.vn tìm hiểu xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác Cô bé bán diêm.
- Truyện được xuất bản lần đầu tiên năm 1848 trong phần năm của quyển Nye Eventyr (Những truyện cổ tích mới) với nhan đề Den Lille Pige Med Svovlstikkerne (Cô gái bé nhỏ với những que diêm).
- Cô bé bán diêm thuộc loại truyện vừa thực vừa ảo, vừa mang màu sắc cổ tích thần kì, vừa đậm đà chất thơ trữ tình, gợi lên một tình thương, một vẻ đẹp nhân văn sáng giá.
Tìm hiểu thêm phân tích 🌿 Trong Lòng Mẹ 🌿 Nội Dung, Nghệ Thuật
Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm Cô Bé Bán Diêm
Ý nghĩa nhan đề tác phẩm Cô bé bán diêm như sau:
Với nhan đề truyện “Cô bé bán diêm”, người đọc không thể không cảm nhận ý nghĩa của hình tượng những ngọn lửa diêm. Đó là ngọn lửa của ước mơ tuổi thơ về một mái ấm gia đình, về ấm no hạnh phúc, được ăn ngon mặc đẹp, được vui chơi và sống trong tình yêu thương của mọi người. Đây chính là ý nghĩa nhân văn sâu sắc của tác phẩm.
Bố Cục Truyện Cô Bé Bán Diêm
Bố cục truyện Cô bé bán diêm được chia thành 3 phần:
- Phần 1: Từ đầu đến “Lúc này đôi bàn tay em đã cứng đờ ra”. Hình ảnh cô bé bán diêm trong đêm giao thừa.
- Phần 2. Tiếp theo đến “Họ đã về chầu thượng đế”. Các lần em bé quẹt que diêm và mộng tưởng thành sự thật.
- Phần 3. Còn lại. Cái chết thương tâm của cô bé bán diêm.
Xem ngay phân tích tác phẩm 🔻 Mây Và Sóng [Ta-Go] 🔻 Nội Dung Bài Thơ, Nghệ Thuật, Phân Tích
Đọc Hiểu Tác Phẩm Cô Bé Bán Diêm
Mời bạn đọc tham khảo thêm nội dung đọc hiểu tác phẩm Cô bé bán diêm.
1. Hình ảnh cô bé bán diêm trong đêm gia thừa giá rét:
– Mẹ mất, bà nội cũng qua đời nên cô bé phải sống với bố
– Nhà em rất nghèo phải sống chui rúc tại một xó tối trên gác sát mái nhà
– Bố em khó tính, em luôn phải nghe những lời mắng nhiếc, chửi rủa và phải đi bán diêm để kiếm sống
⇒ Em có hoàn cảnh rất đáng thương, nghèo khổ, cô dơn và đói rét
– Thời gian bán diêm: Đêm giao thừa giá rét
– Không gian : Nơi đường phố, tuyết rơi rét buốt
+ Trời rét , tuyết rơi, giá lạnh thấu xương nhưng em chỉ mặc phong phanh với đôi chân trần
+ Những ngôi nhà xinh xắn có dây thường xuân bao quanh ở trên phố còn nhà em thì trong một xó tối tăm
⇒ Những hình ảnh tương phản làm nổi bật lên sự thiếu thốn khổ cực của em cả về mặt vật chất lẫn tinh thần. Qua đó lay động sự cảm thương nơi người đọc.
2. Các lần quẹt diêm, mộng tưởng và thực tại:
– Cô bé bán diêm có năm lần quẹt diêm trong đó có 4 lần quẹt một que và lần cuối cùng là quẹt hết những que diêm còn lại.
– Thực tế của em ở trong hoàn cảnh đau khổ nhưng mộng tưởng thì lại vô cùng tươi đẹp
+ Lần 1 quẹt diêm: Em mộng tưởng ra ngôi nhà có lò sưởi⇒ thể hiện mong ước được sưởi ấm
+ Lần 2 quẹt diêm: Em mộng tưởng thấy căn phòng với bàn ăn, có ngỗng quay ⇒ mong ước được ăn trong ngôi nhà thân thuộc với đầy đủ mọi thứ
+ Lần 3 quẹt diêm: Em mộng tưởng thấy cây thông Nô-en và nến sáng lung linh⇒ Mong ước được vui đón tết trong ngôi nhà của mình
+ Lần 4 quẹt diêm: Em thấy bà nội mỉm cười với em ⇒ mong được ở mãi bên bà
+ Lần 5: Em quẹt hết những que diêm còn lại vì em muốn níu bà em lại, bà cầm tay em rồi hai bà cháu vụt bay- họ về chầu thượng đế
⇒ Thực tại và mộng tưởng xen kẽ nối tiếp nhau lặp lại và có những biến đổi thể hiện sự mong ước nhưng vô vọng của cô bé.Nhưng ngay cả cái chết cũng được miêu tả một cách thật bay bổng và nhân văn
3. Cái chết thương tâm của cô bé bán diêm.
– Cô bé chết giữa đường phố, mọi người đi qua không một ai giúp đỡ em → Một xã hội lạnh lùng vô cảm, thơ ơ với nỗi bât hạnh của người nghèo
⇒ Tác giả đã dành cho em tất cả niềm cảm thương sâu sắc nhất thể hiện tính nhân văn của tác phẩm.
Giá Trị Truyện Ngắn Cô Bé Bán Diêm
Ngay sau đây là những giá trị truyện ngắn Cô bé bán diêm.
Giá trị nội dung
- Truyện kể về hình ảnh một cô bé bán diêm nghèo khổ, cô đơn, bất hạnh trong đêm giao thừa.
- Qua đó tác giả muốn gửi gắm một thông điệp giàu tính nhân đạo: hãy yêu thương và để trẻ thơ được sống hạnh phúc.
Giá trị nghệ thuật
- Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, đan xen giữa yếu tố thật và huyền ảo với các tình tiết diễn biến hợp lí
- Kết hợp tự sự, miêu tả và biểu cảm.
- Kết cấu truyện theo lối tương phản, đối lập
Chia sẻ cho bạn đọc tác phẩm 🌷 Tôi Đi Học 🌷 phân tích đầy đủ nhất
Soạn Bài Cô Bé Bán Diêm
Chia sẻ cho bạn đọc gợi ý soạn bài Cô bé bán diêm.
👉Câu 1 (trang 68 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):
Chia phần 2 của văn bản thành những đoạn nhỏ căn cứ vào từng lần quẹt diêm:
– Lần 1: hiện lên chiếc lò sưởi.
– Lần 2: hiện lên bàn ăn thịnh soạn.
– Lần 3: hiện lên cây thông Nô-en.
– Lần 4: em được gặp bà.
👉Câu 2 (trang 68 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):
– Gia cảnh: cô bé bán diêm nghèo, mồ côi mẹ, bà nội đã qua đời, em sống với người bố khó tính luôn mắng nhiếc, đánh đập.
– Thời gian: đêm giao thừa. Không gian: mọi nhà sáng đèn, ngỗng quay, ngoài đường tối tăm, lạnh lẽo.
* Những hình ảnh tương phản được sử dụng khắc hạ nỗi khổ cực của cô bé:
– Ngôi nhà đẹp đẽ trước kia em sống >< xó tối tăm trên gác sát mái nhà.
– Mọi nhà rực ánh đèn, mùi ngỗng quay >< em bé đói rét, dò dẫm trong đêm tối.
👉Câu 3 (trang 68 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):
Những mộng tưởng của cô bé qua các lần quẹt diêm diễn ra theo thứ tự hợp lí, phù hợp với hoàn cảnh thực tế và tâm lí em bé: Lạnh (lò sưởi) → đói (bàn ăn) → ao ước đêm giao thừa (cây thông Nô-en) → cô đơn, khổ cực (nhớ đến người bà hiền hậu). Trong đó, có điều thứ 4 (em gặp bà) thuần túy là mộng tưởng.
👉Câu 4 (trang 68 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):
– Truyện Cô bé bán diêm mang tính nhân đạo sâu sắc về những mảnh đời bất hạnh.
– Đoạn kết của truyện:
+ Là một bi kịch đau thương, cái chết một cô bé trong cô đơn giá lạnh, trong đói khát, trong đêm giao thừa, một cái chết đầy xót xa.
+ Nhìn một mặt khác, “đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười” , cái chết của sự giải thoát, em cùng bà về chầu Thượng đế, em đi vào cõi bất tử cùng người bà hiền hậu độc nhất với em.
Tìm hiểu thêm phân tích ✨ Tôi Và Chúng Ta ✨ Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật
Giáo Án Cô Bé Bán Diêm
Có thể bạn sẽ cần giáo án Cô bé bán diêm.
I. Mục tiêu bài học
1. Kiến thức
– HS có những hiểu biết bước đầu về “ người kể chuyện cổ tích” An-đéc-xen.
– Hiểu về nghệ thuật kể chuyện, cách tổ chức các yếu tố hiện thực và mộng tưởng trong tác phẩm.
– Lòng thương cảm của tác giả đối với em bé bất hạnh.
2. Kĩ năng
– Biết đọc diễn cảm, hiểu, tóm tắt được tác phẩm .
– Phân tích được một số hình ảnh tương phản( đối lập , đặt gần nhau, làm nổi bật lẫn nhau).
– Phát biểu cảm nghĩ về một đoạn truyện.
3. Thái độ
– HS có tình yêu thương con người, lòng thương cảm với những h/c bất hạnh.
II. Chuẩn bị tài liệu
1. Giáo viên
Giáo án, sách tham khảo, chuẩn kt kn.
2. Học sinh
Chuẩn bị bài (đọc vb , trả lời các câu hỏi sgk).
III. Tiến trình tổ chức dạy học
1. Ổn định tổ chức Sĩ số
2. Kiểm tra
H: Phân tích nguyên nhân cái chết của lão Hạc ?Từ đó em biết gì về số phận người nông dân trước cách mạng tháng 8?
3. Bài mới
– An- đéc-xen là nhà văn nổi tiếng của Đan Mạch- một nước nhỏ ở khu vực Bắc Âu, diện tích chỉ bằng 1/8 nước ta. Ông đã viết nhiều tác phẩm nhẹ nhàng, êm dịu , toát lên lòng yêu thương con người nhất là những người nghèo khổ. Một trong các tác phẩm nổi tiếng của ông đó là “Cô bé bán diêm” mà chúng ta sẽ học hôm nay.
Hoạt động của GV và HS | Kiến thức cần đạt |
---|---|
HĐ1.HDHS đọc và tìm hiểu chú thích: – GV hướng dẫn đọc: giọng nhẹ nhàng, diễn cảm → đọc mẫu. – HS đọc, nhận xét.- GV sửa chữa. | I. Đọc và tìm hiểu chú thích: 1. Đọc : |
H: Theo dõi chú thích SGK, nêu vài nét về tác giả An- đéc- xen? | 2. Tìm hiểu chú thích : a. Tác giả:An- đéc-xen (1805-1875) → là nhà văn nổi tiếng của Đan Mạch. – Ông nổi tiếng với loại truyện viết cho trẻ em, bạn đọc khắp năm châu quen thuộc với truyện của ông. – Truyện ông viết toát lên lòng thương yêu con người, nhất là những người nghèo khổ. |
H: Em biết gì về truyện cô bé bán diêm? | b. Tác phẩm: -“Cô bé bán diêm”là một trong những truyện nổi tiếng nhất của nhà văn An- đéc- xen. |
H:Em hiểu “gia sản” là gì? “tiêu tán” là gì? | c.Từ khó: SGK/ 67-68 |
HĐ2.HDHS đọc- hiểu văn bản: H: Văn bản viết theo thể loại nào? | II. Đọc- hiểu văn bản: 1.Thể loại: Truyện ngắn |
H: Văn bản có thể chia làm mấy phần? Xác định nội dung từng phần ? | 2.Bố cục: 3 phần: – P1: Từ đầu → “đờ ra”: Hoàn cảnh của cô bé bán diêm. – P2: Tiếp → “về chầu thượng đế” → Các lần quẹt diêm và mộng tưởng. – P3: Còn lại: Cái chết thương tâm của cô bé bán diêm. |
H:P2 có phải là trọng tâm không?Phần này có thể chia nhỏ như thế nào? – chia 5 phần nhỏ: 4 lần quẹt 1 que diêm và 1 lần quẹt tất cả những que còn lại. H: Em nhận xét gì về diễn biến của truyện?(Truyện diễn biến theo trình tự sự việc 3 phần hợp lí, mạch lạc) HS đọc phần 1 của truyện(64). | Phần 2: – Chia 5 phần nhỏ: 4 lần quẹt 1 que diêm và 1 lần quẹt tất cả những que còn lại. |
H: Cô bé bán diêm có hoàn cảnh như thế nào? H:Em nhận xét gì về gia cảnh của cô bé? | 3. Phân tích: a. Hoàn cảnh của cô bé bán diêm. – Nhà nghèo, mẹ chết sớm, sống với bố và bà nội rồi bà nội cũng qua đời. Người bố khó tính luôn chửi rủa, đánh đập → Em phải đi bán diêm kiếm sống. → Hoàn cảnh cô bé thật éo le: mồ côi, thiếu thốn tình thương, phải tự vất vả kiếm sống, bị người cha đối xử hết sức tàn nhẫn. |
H:Truyện được đặt vào bối cảnh như thế nào? – Đêm giao thừa, khoảnh khắc bắt đầu năm mới, là lúc mọi người đoàn tụ ấm cúng đón xuân. – GV: ở Đan Mạch, các nươc Bắc Âu, thời tiết rất lạnh, có khi âm mấy chục độ C, tuyết rơi dày đặc. | b. Bối cảnh của truyện: – Đêm giao thừa, ngoài đường phố rét mướt( nhiệt độ có khi xuống tới không độ) em bé “ngồi nép trong một góc tường, giữa hai ngôi nhà…” mong cho đỡ lạnh. |
H: T/g đặt truyện vào trong bối cảnh ấy có tác dụng gì? – Làm cho người đọc càng thấm thía sự cô đơn, tình cảnh tội nghiệp của cô bé . | ⇒ Bối cảnh truyện làm tăng sự cô đơn và tình cảnh tội nghiệp của cô bé. |
H:Đoạn truyện được xây dựng bằng nghệ thuật gì? – Tương phản đối lập. H: Chỉ ra những hình ảnh tương phản đó trong câu chuyện? | c.Các hình ảnh tương phản, đối lập: – Trời đông giá rét, tuyết rơi, cô bé đầu trần,chân đi đất. – Đường lạnh buốt tối đen >< cửa sổ mọi nhà đều sáng rực đèn. – Em bé bụng đói cả ngày chưa ăn >< bàn ăn thịnh soạn sực nức mùi ngỗng quay. – Xó tối tăm >< ngôi nhà có dây thường xuân bao quanh năm xưa khi bà nội còn sống. |
H: Mục đích của nhà văn khi sử dụng nhiều hình ảnh tương phản đó? GV: (em đã rét và khổ có lẽ còn rét và khổ hơn khi thấy mọi nhà rực ánh đèn; em đã đói có lẽ còn đói hơn khi ngửi thấy mùi ngỗng quay sực nức). Nhất là h/ả ngôi nhà có dây trường xuân bao quanh , h/ả này không chỉ làm nổi bật nỗi khổ về vật chất mà cả sự mất mát về tinh thần( chỉ có bà em là thương em) | ⇒ Các h/ả tương phản nhằm làm nổi bật tình cảnh hét sức tội nghiệp (đói, rét,khổ) của em bé, mất mát cả chỗ dựa về tinh thần.. |
4. Củng cố, luyện tập
– Đoạn truyện cho thấy hoàn cảnh của cô bé bán diêm như thế nào?
– Truyện đc đặt trong bối cảnh ntn?
– Nêu những h/ả đối lập tương phản trong vb? t/d của các h/ả đó?
5. Hướng dẫn học ở nhà
– Chuẩn bị: “Cô bé bán diêm” tiếp → tóm tắt vb, trả lời câu hỏi SGK còn lại.
Sơ Đồ Tư Duy Cô Bé Bán Diêm
Đừng vội bỏ lỡ các sơ đồ tư duy Cô bé bán diêm bên dưới.
Đừng vội bỏ lỡ phân tích 💚 Con Chó Bấc 💚 Những Mẫu Phân Tích Hay Nhất
5 Mẫu Phân Tích Cô Bé Bán Diêm Hay Nhất
Tổng hợp cho bạn đọc 5 mẫu phân tích Cô bé bán diêm hay nhất.
Phân Tích Cô Bé Bán Diêm Tiêu Biểu – Mẫu 1
An-đéc-xen còn là được biết đến là nhà kể chuyện cổ tích nổi tiếng cho trẻ em. Những tác phẩm của ông có sức sống lâu bền, được bạn đọc trên khắp năm châu biết đến và một trong số những tác phẩm như thế đó chính là truyện Cô bé bán diêm. Đọc Cô bé bán diêm, người đọc sẽ được cảm nhận một cách chân thực và sâu sắc thông điệp và tấm lòng nhân ái của nhà văn An-đéc-xen.
Trước hết, tấm lòng nhân ái của nhà văn An-đéc-xen trong Cô bé bán diêm được thể hiện ở niềm thương cảm với những con người nghèo khổ đặc biệt là trẻ em bất hạnh. Chắc hẳn, những ai đã từng một lần nghe kể hay một lần đọc truyện Cô bé bán diêm sẽ không thể nào quên nổi những dòng văn nhà văn kể về hoàn cảnh của cô bé bán diêm.
Giữa cái rực sáng của ánh đèn và mùi thơm của ngỗng quay ở khắp thành phố trong đêm giao thừa, cô bé bán diêm mồ côi mẹ ấy vẫn một mình trên đường dưới cái giá rét của trời đông “đầu trần, chân đất, bụng đói, đang dò dẫm trong bóng tối”. Khi nhà nhà đã bắt đầu chuẩn bị cho đêm giao thừa, cô bé tội nghiệp ấy vẫn không dám trở về nhà vì cả ngày em không bán được bao diêm nào rồi em sẽ bị bố đánh.
Bằng bút pháp đối lập, tương phản giữa hoàn cảnh đáng thương, tội nghiệp của cô bé với không gian rực rỡ ánh đèn, sự ấm áp trong mỗi ngôi nhà tác giả đã thể hiện niềm cảm thương sâu sắc của mình trước hoàn cảnh của cô bé, đồng thời, qua đó cũng gợi lên trong người đọc niềm cảm thương với những số phận nghèo khổ, đặc biệt là trẻ em.
Thêm vào đó, tấm lòng nhân ái của An-đéc-xen còn được thể hiện ở sự cảm thông và tình yêu thương sâu nặng đối với em bé đáng thương, bất hạnh. Giữa cái giá rét, trong màn đêm với làn tuyết mỗi lúc một dày đặc lên, “em ngồi nép trong một góc tường” – nơi có nhiều người qua lại với niềm hi vọng mong manh có ai đó sẽ nhìn thấy và giúp em.
Nhưng không, người qua đường vẫn cứ thế vội vã đi qua, tuyết vẫn cứ rơi mỗi lúc một dày thêm và rồi em bé đánh liều và quyết định đánh một que diêm để sưởi ấm cho mình.
Và để rồi, sau những lần quẹt diêm ấy, giữa hai bờ của hiện thực và mộng ảo, nhà văn đã để cho em bé có những giấc mơ thật đẹp nhưng cũng thật xót xa. Quẹt que diêm thứ nhất, em bé tưởng tượng mình đang ngồi trước một cái lò sưởi với “một hơi nóng dịu dàng” nhưng rồi ánh sáng của que diêm vụt tắt, để lại trong em nỗi sợ hãi sẽ bị bố đánh vì cả ngày không bán được que diêm nào.
Rồi trong cơn rét ấy, cái đói cũng bủa vây lấy em, em lại tiếp tục đốt que diêm thứ hai, lần này, em nhìn thấy một con ngỗng quay với mâm cỗ thịnh soạn nhưng rồi que diêm ấy cũng vụt tắt, “thực tế đã thay cho mộng mị: chẳng có bàn ăn thịnh soạn nào cả, chỉ có phố xá vắng teo, lạnh buốt, tuyết phủ trắng xóa, gió bấc vi vu và mấy người khách qua đường quần áo ấm êm vội vã đi đến những nơi hẹn hò, hoàn toàn lãnh đạm với cảnh nghèo khổ của em bé bán diêm”.
Dường như, ánh sáng của que diêm đã đem đến cho cô bé một thế giới mới – một thế giới ấm áp mà cô hằng ao ước nhưng đến cuối cùng, ánh sáng ngắn ngủi, chốc lát đã vụt biến mất, để lại em bé với màn đêm với những bức tường thờ ơ, lạnh lẽo trong đêm tối giá rét.
Chỉ còn lại một mình trong đêm tối, em bé lại quẹt que diêm thứ ba nhưng lần này em không còn mơ thấy lò sưởi, không còn thấy ngỗng quay hay bàn ăn thịnh soạn mà thay vào đó là “một cây thông Nô-en”, “cây này lớn và được trang trí lộng lẫy hơn cây năm ngoái em nhìn thấy” với “hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi”…
Có lẽ giờ đây, em bé tội nghiệp ấy ước mong được đón Nô-en, được đón một đêm giao thừa ấm áp. Nhưng ánh sáng của que diêm thứ ba cũng vội vụt tắt đi.
Lúc ánh sáng của que diêm ấy vụt tắt đi đó cũng là những ngọn nến trên cây thông kia “bay lên, bay lên mãi rồi biến thành những ngôi sao trên trời”. Rồi em bé ấy nghĩ đến cái chết như một lẽ tự nhiên bởi em nhớ người bà yêu quý của em đã từng nói “Khi có một vì sao đổi ngôi là có một linh hồn bay lên trời với Thượng đế”.
Rồi em quẹt thêm một que diêm nữa vào tường, lần này em đã được gặp người bà hiền hậu, yêu quý của em và em xin phép bà cho em được theo cùng “cháu van bà, bà xin Thượng đế chí nhân, cho cháu về với bà. Chắc người không từ chối đâu”. Nhưng rồi đến cuối cùng, ánh sáng của que diêm ấy cũng đã vụt tắt.
Cuối cùng, em bé tội nghiệp đã đốt hết những que diêm còn lại để níu chân bà ở lại nhưng điều đó là không thể, hai bà cháu đã nắm tay nhau về với Thượng đế.
Như vậy, bằng những yếu tố tưởng tượng, kì ảo, tác giả An-đéc-xen đã để cô bé bán diêm thực hiện được những mong ước của mình – những thứ mà trong cuộc sống đời thường cô bé tội nghiệp, đáng thương ấy chưa bao giờ có được. Điều ấy xét đến cùng là biểu hiện của sự cảm thông và tình yêu thương sâu sắc mà tác giả An-đéc-xen dành cho cô bé bán diêm tội nghiệp.
Và cuối cùng, nỗi xót xa trước cái chết của cô bé là minh chứng cuối cùng cho tấm lòng nhân ái của nhà văn An-đéc-xen. Truyện kết thúc với hình ảnh “một em bé gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười” và ở bên cạnh em bé ấy “một bao diêm đã đốt hết nhẵn” thì những người đang vội vã bước đi kia không thể nào biết được “những cái kỳ diệu mà em bé đã trông thấy, nhất là cảnh huy hoàng lúc hai bà cháu bay lên để đón những niềm vui đầu năm”.
Em bé đã chết không chỉ bởi cái lạnh lẽo, giá rét của tiết trời mà còn bởi sự vô tâm, thờ ơ của chính những con người trong xã hội ấy. Kết thúc tác phẩm bằng hình ảnh cái chết của cô bé và sự vô tâm của những người qua đường, tác giả đã thể hiện nỗi đau xót xa trước những số phận nghèo khó, đặc biệt là trẻ em và gián tiếp lên án sự vô tâm, thờ ơ, dửng dưng của những con người trong xã hội.
Tóm lại, trong truyện Cô bé bán diêm, nhà văn An-đéc-xen đã thể hiện sâu sắc tấm lòng nhân ái của mình với những số phận, cảnh đời nghèo khó, đặc biệt là trẻ em. Đồng thời, qua đó nhà văn muốn gửi tới người đọc mọi thế hệ bức thông điệp, bài học giàu ý nghĩa về tình yêu thương giữa con người với con người.
Phân Tích Cô Bé Bán Diêm Chọn Lọc – Mẫu 2
An-đéc-xen là nhà kể chuyện cổ tích nổi tiếng của thế giới phương Tây. Ngoài việc sưu tầm ông còn sáng tạo. Cô bé bán diêm là một sáng tác độc đáo, một câu chuyện cổ tích về thời hiện đại, thể hiện tài năng kể chuyện bậc thầy của ông.
Thời hiện đại ở đây chính là thời đại mà tác giả sống, thời đại mà con người đã biết chế tạo và sử dụng diêm, con người biết đi lại bằng những cỗ xe song mã, biết tổ chức đón giao thừa với những cây thông Noel lộng lẫy. Câu chuyện Cô bé bán diêm kể về xã hội ấy, kể lại cái chết thương tâm của một cô bé nghèo khổ.
Mở đầu câu chuyện, tác giả giới thiệu một bối cảnh khắc nghiệt và khác thường. Khắc nghiệt bởi vì “trời đã tối hẳn” mà “tuyết rơi” không ngừng, và “rét dữ dội”. Khác thường là vì: “Đêm nay là đêm giao thừa” nghĩa là một thời điểm đặc biệt đối với mỗi gia đình và đối với mỗi người.
Đêm giao thừa ở đâu cũng vậy, đều là thời điểm mà năm cũ với những buồn vui lẫn lộn lùi vào quá khứ và một năm mới với những hi vọng tràn trề đang chờ đợi mọi người được mở ra.
Nhưng đêm giao thừa ở phương Tây rất rét, vì lúc này đang giữa mùa đông. Khắp nơi đầy tuyết phủ, khắp nơi đầy giá lạnh. Ấy thế mà trong cái giá lạnh đó, trong cái đêm giao thừa đó “một em gái nhỏ đầu trần, chân đi đất, đang dò dẫm trong đêm tối”.
Em bé đi đâu vậy? Em phải đi bán diêm vì “nếu không bán được ít bao diêm, hay không ai bố thí cho một đồng xu nào” thì “em không thể nào về nhà”, bởi lẽ khi đó “nhất định là cha em sẽ đánh em”.
Bởi vì từ khi “Thần Chết đã đến cướp bà em đi mất, gia sản tiêu tan, và gia đình em đã phải lìa ngôi nhà xinh xắn có dây trường xuân bao quanh, nơi em đã sống những ngày đầm ấm, để đến chui rúc trong một xó tối tăm, luôn luôn nghe những lời mắng nhiếc chửi rủa”.
Hơn nữa “ở nhà cũng rét thế thôi. Cha con em ở trên gác sát mái nhũ vã mặc dầu đã nhét giẻ rách vào các kẽ hở lớn trên vách, gió vẫn thổi ríu vào trong nhà”. Như vậy em bé bán diêm này là một em bé có hoàn cảnh nghèo khổ.
Em bé đáng thương không tên tuổi này giống như kẻ lạc loài, bơ vơ trên mặt đất đầy tuyết phủ. “Em cố kiếm một nơi có nhiều người qua lại. Nhưng trời rét quá, khách qua đường đều rảo bước rất nhanh, chẳng ai đoái hoài đến lời chào hàng của em cả”. Vì thế “suốt ngày em chẳng bán được gì cả và chẳng ai bố thí cho em chút đỉnh. Em bé đáng thương vẫn bụng đói cật rét lang thang trên đường”.
Em đi dưới trời mưa tuyết tới mức: “bông tuyết bám đầy trên mái tóc dài thành từng búp trên lưng em, em cũng không để ý” và những người qua đường cũng không ai để ý đến một đứa trẻ đang bị tuyết phủ dần dần. Chắc chắn là em đã đi trong mưa tuyết như vậy rất lâu.
Giờ đây em không còn đi được nữa. “Em ngồi nép vào một góc tường giữa hai ngôi nhà, một cái xây lùi vào chút ít”. Đó là một nơi mà ai đi qua cũng phải tránh nhưng cũng buộc mọi người phải chú ý.
Em bé ngồi chỗ đó với hy vọng sẽ có người chú ý đến em, sẽ có người mua diêm cho em. Xung quanh em “cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn và trong phố sực nức mùi ngỗng quay”. Mùi ngỗng quay nhắc em “đêm nay là đêm giao thừa”.
Mùi ngỗng quay còn nhắc em nhớ tới thời kỳ đầm ấm của gia đình em trước đây. Còn hiện tại em đang ngập chìm trong tuyết lạnh. “Em thu đôi chân vào người, nhưng mỗi lúc em cảm thấy rét buốt hơn”. “Lúc này đôi bàn tay của em bé bán diêm tội nghiệp “đã cứng đờ ra”.
Em bé nghĩ tới việc đánh diêm để “hơ ngón tay”. Và “em đánh liều một que”. Ngọn lửa bùng lên trong đêm giao thừa giá lạnh, mang lại cho em một niềm vui. “Ngọn lửa lúc đầu xanh lam, dần dần biến đi, trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt”. Em bé hơ bàn tay giá lạnh trên ánh lửa nhỏ nhoi của que diêm mà tưởng tượng rằng em đang ngồi trước một cái lò sưởi nơi đó đang “tỏa ra một hơi nóng dịu dàng”.
Nhưng đây chỉ là một điều mong ước chỉ là một điều mộng tưởng. Bởi lẽ “em vừa duỗi chân ra sưởi thì lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất”. “Em bần thần cả người và chợt nghĩ ra rằng cha em đã giao cho em bán diêm”. Thật đặng buồn biết bao vì giữa ước mơ và hiện thực là một khoảng cách xa vời. Một cái lò sưởi trong đêm đông giá rét một mái nhà ấm cũng mãi mãi là ước mơ, là khát vọng của em bé.
Cùng với cái rét, cái đói cũng hiện về. Que diêm thứ hai “cháy và sáng rực lên”. Que diêm cho em thấỵ: “bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa sứ quý giá, và có cả một con ngỗng quay. Nhưng điều kỳ diệu nhất là ngỗng ta nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn, phuốc-sét cắm trên lưng, tiến về phía em bé”. Thật hấp dẫn biết bao.
Một bữa ăn vừa ngon vừa sang dành cho em bởi vì em đói lắm rồi, song bữa ăn đó cũng chỉ là ước mơ, mộng tưởng.
Vì thế khi que diêm vừa tắt thì “thực tế đã thay cho mộng mị: chẳng có bàn ăn thịnh soạn nào cả, chỉ có phố xá vắng teo, lạnh buốt, tuyết phủ trắng xóa, gió bấc vi vu và mấy người khách qua đường quần áo ấm êm vội vã đi đến những nơi hẹn hò, hoàn toàn lãnh đạm với cảnh nghèo khổ của em bé bán diêm”. Bên cạnh em giờ đây chỉ có đói và rét, và để chống lại em dùng ánh sáng và hơi ấm của que diêm.
Trong ánh sáng ngắn ngủi của que diêm, em tưởng tượng ra những thứ mình cần, em tạo ra thế giới cho riêng em, bởi lẽ gió rét ngăn cản mọi người đến với em, cái đói cũng ngăn cản những người khác đến với em, trước mặt em cũng như sau lưng em chỉ còn lại “những bức tường dày đặc và lạnh lẽo”.
Những bức tường câm lặng, những bức tường không biết nói do chính con người tạo ra để che chở cho người này và để tạo ra sự cách ngăn với người khác.
Em bé còn lại một mình trong cái thế giới của em, thế giới đó bị tuyết trắng và đêm đen bao phủ. Để xua đi màn đêm và giá rét, “em bé quẹt que diêm thứ ba”. “Em thấy hiện ra một cây thông Nô en”, “cây này lớn và trang trí lộng lẫy” với “hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi, và rất nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ”…
Cây thông Noel gợi nhớ một truyền thông tặng quà và quan tâm đến trẻ em của phong tục phương Tây, nhưng có lẽ câu chuyện về ông già Nô en cũng chỉ là một huyền thoại xa vời còn trong thực tại em bé bán diêm còn đang ngập chìm trong tuyết lạnh. Em cũng chẳng cần đến những món quà của ông già Tuyết nữa bởi lẽ tuyết và giá rét quanh em đã quá thừa rồi.
Que diêm thứ ba cũng tắt. Sự sống của nó cũng quá ngắn ngủi. Nó không xua đi được màn đêm, nhưng màn đêm không thắng nổi nó.
Que diêm tắt thì tất cả những ngọn nến mà cô bé bán diêm thấy trên cây thông Nô en cũng “bay lên, bay lên mãi rồi biến thành những ngôi sao trên trời”. Khi đó em nghĩ tới cái chết, vì bà em, “người hiền hậu độc nhất đối với em” thường nói: “Khi có một vì sao đổi ngôi là có một linh hồn bay lên trời với Thượng đế”.
Nhưng thật buồn vì bà em đã chết từ lâu. Nhưng cũng chẳng hề gì bởi những người đang sống không ai nghĩ về em, không ai nghĩ đến em thì em đi tìm nguồn an ủi nơi người bà yêu quý. Và thế là em quẹt diêm. “Em thấy rõ ràng là bà em đang cười với em”, “em reo lên” và van xin bà “cho cháu đi với”, “cháu van bà, bà xin Thượng đế chí nhân, cho cháu về với bà. Chắc người không từ chối đâu.
Thật đau đớn xiết bao khi em bé bán diêm bị xã hội bỏ rơi, bỏ quên trong tuyết phủ đã quyết khước từ cuộc sống, quyết tâm tìm về thế giới bên kia. Trong thế giới của những người sống em không có chỗ đứng, không có điều kiện để sống.
Bởi lẽ chỉ cần bán được vài bao diêm thôi cũng đủ mang lại cho em cuộc sống, nhưng cả cái thế giới đi xe song mã ấy, cả cái thế giới nấp sau những cánh cửa sổ sáng rực ánh đèn ấy “chẳng ai đoái hoài đến lời chào hàng của em”.
Không giao tiếp được với thế giới những người đang sống, em bé bán diêm tìm cách xác lập mối quan hệ giao tiếp với bà em “Em quẹt tất cả những que diêm còn lại trong bao để níu bà em lại”. Kết quả là “Chưa bao giờ em thấy bà em to lớn và đẹp lão như thế này. Bà cụ cầm tay em, rồi hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét đau buồn nào đe dọa họ nữa”.
Em bé đã chết một cách thê lương như vậy trong đêm giao thừa. Cái chết mang trong nó sức mạnh tố cáo xã hội. Cho dù người ta nhìn thấy trong xó tường “một em bé gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. Bên cạnh “một bao diêm đã đốt hết nhẵn” thì những người đang sống cũng không thể nào biết được “những cái kỳ diệu mà em bé đã trông thấy, nhất là cảnh huy hoàng lúc hai bà cháu bay lên để đón những niềm vui đầu năm’.
Bởi vì những người đó ngoài việc sử dụng cái đói, cái rét để tạo sự ngăn cách của họ với em bé thì họ còn xây dựng những bức tường hoặc hữu hình hoặc vô hình để tạo ra sự ngăn cách mới giữa họ và em bé.
Họ không có quyền được nhìn thấy, được tận hưởng những gì do mộng tưởng của em tạo ra. Bởi vì em thuộc về một thế giới khác. Cái chết của em bé còn là sự phê phán lối sống ích kỷ, có cụm, chỉ biết mình của thế giới hiện đại. Đó là sự cảm thông sâu sắc của nhà kể chuyện thiên tài.
Phân Tích Cô Bé Bán Diêm Ấn Tượng – Mẫu 3
Nhắc đến truyện cổ tích ta không chỉ nhớ đến anh em nhà Grim mà còn nhớ đến một An-đéc-xen thiên tài, với những thiên truyện chứa đựng giá trị nhân văn cao cả. Trong những tác phẩm của ông chắn hẳn ta không thể quên truyện Cô bé bán diêm gây nhiều xúc động và bài học ý nghĩa cho người đọc.
Mở đầu tác phẩm là hoàn cảnh cuộc sống đầy khắc nghiệt của cô bé bán diêm. Trời đã tối, nhưng tuyết vẫn không ngừng rơi, cô bé bán diêm lầm lũi bán những hộp diêm của mình.
Bối cảnh đó càng trở nên đặc biệt hơn khi đó là đêm giao thừa, ai cũng được ở trong căn nhà ấm cúng, quay quần bên gia đình, chỉ có mình em là phải đối mặt với cái lạnh thấu xương của những cơn gió lạnh lẽo ùa về. Cô bé đầu trần, chân đất, mò mẫm đi trong đêm tối, cô bé không dám về nhà vì: “nếu không bán dược bao nào sẽ bị cha em mắng chửi”.
Sau khung cảnh khắc nghiệt đó, ngược về quá khứ, tác giả vẽ nên một khung cảnh cuộc sống hoàn toàn trái ngược với hiện tại. Khi ấy em được ở trong căn nhà khang trang, đẹp đẽ, có bà và mẹ luôn yêu thương.
Nhưng “Thần chết đã đến cướp bà em đi mất, gia sản tiêu tan, và gia đình em phải lìa xa ngôi nhà xinh xăn có dây trường xuân bao quanh, nơi em đã sống những ngày đầm ấm” , hạnh phúc và giờ đầy phải “chui rúc trong một xó tối tăm, luôn luôn nghe những lời mắng nhiếc chửi rủa” . Cô bé không những không được yêu thương mà còn bị đối xử tàn tệ, tuổi còn nhỏ nhưng bố em đã bắt em ra đường mưu sinh.
Cả một ngày dài em miệt mài trên những con phố, hòng mong tấm lòng thương cảm của một người, nhưng không một ai giúp đỡ em. Đêm đã về khuya, cô bé ngồi nép mình dưới một góc tường để tránh cái lạnh lẽo giá rét. Xung quanh khung cảnh đều sáng rực, các nhà đang chuẩn bị cho đêm giao thừa thật ấm áp và hạnh phúc.
Lúc này toàn thân em đã lạnh cóng, cô bé đánh liều lấy một que diêm ra để hơ bàn tay cho đỡ lạnh. Ngọn lửa bùng lên mới vui mắt làm sao, em tưởng tượng rằng mình đang ngồi trước một lò sưởi ấm áp.
Nhưng khi em vừa duỗi chân ra thì ngọn lửa vụt tắt, cái lạnh lại ùa về, bao trùm lấy cơ thể em. Không chỉ phải chịu đựng cái rét, em còn phải chịu đứng cái đói cồn cào, que diêm thứ hai bùng cháy, trước mắt em là: “bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa sứ quý giá, và có cả một con ngỗng quay.
Nhưng điều kì diệu nhất là ngỗng ta nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn, phuốc-sét cắm trên lưng, tiến về phía em” . Bữa tiệc thật thịnh soạn, hấp dẫn, chắc chắn nó sẽ làm vơi bớt cái đói cồn cào trong em. Nhưng thực tế đó cũng chỉ là bữa ăn trong tưởng tượng mà thôi. Bởi vậy khi que diêm tắt, mọi cảnh tượng huy hoàng, bữa ăn thịnh soạn cũng đều biến mất.
Que diêm thứ ba bật sáng, hình ảnh cây thông noel lấp lánh, được trang hoàng lung linh hiện lên trước mắt em. Và que diêm thứ tư bật lên là khuôn mặt thân thương của người bà mà em hằng yêu quý. Em vui sướng reo lên và mong mỏi được đi theo bà, để thoát khỏi cuộc sống khổ sở, đau đớn này.
Lời em van xin đáng thương, và tội nghiệp quá. Một đứa bé ngây thơ, non nớt, mà lại có suy nghĩ về cái chết để trốn tránh hiện thực đầy khổ đau. Em khước từ cuộc sống để tìm về với cõi thanh thản, nơi đó có bà, có tình yêu thương: “Chưa bao giờ em thấy bà em to lớn và đẹp lão như thế này. Bà cụ cầm tay em, rồi hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét đau buồn nào đe dọa họ nữa”.
Cô bé đã chết, trên gương mặt vẫn nở nụ cười tươi, đôi má hồng hồng đầy mãn nguyện. Bởi em đã thoát khỏi cuộc sống đầy đau khổ và vô cảm này. Thực ra cô bé vẫn có thể sống nếu cha em biết chăm lo làm ăn, nếu những con người qua đường động lòng thương cảm giúp đỡ em mua lấy một bao diêm.
Nhưng tuyệt nhiên không một bàn tay yêu thương nào đưa ra để cứu vớt số phận của cô bé tội nghiệp. Cái kết của tác phẩm như gióng lên hồi chuông về lối sống thờ ơ, vô trách nhiệm, vô cảm của con người.
Với mô tip quen thuộc trong truyện cổ tích về cô bé mồ côi nghèo khổ, cùng các chi tiết kỉ ảo, nhưng tác phẩm vẫn thấm đẫm tinh thần hiện đại. Bởi cô bé không có cái kết viên mãn, hạnh phúc ở trần thế mà phải chết đi mới được hưởng hạnh phúc. Giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc của tác phẩm cũng chính là ở chỗ đó.
Phân Tích Cô Bé Bán Diêm Nổi Bật – Mẫu 4
Andersen là nhà văn nổi tiếng người Đan Mạch với các tác phẩm chuyên dành cho thiếu nhi, từ thời thơ bé Andersen đã dành một tình yêu nồng nhiệt đối với các tác phẩm văn học nổi tiếng.
Mặc dù phải hứng chịu nhiều thăng trầm trong cuộc sống từ khi chưa trưởng thành, trải qua đủ các nghề kiếm sống từ công nhân nhà máy thuốc lá, hoạt động trong nhà hát hoàng gia, sáng tác thơ, nhưng đến cuối cùng đầu óc nhạy bén, giàu sức tưởng tượng đã đưa tài năng của Andersen đạt đến độ chín khi trở thành một nhà văn chuyên sáng tác truyện cho thiếu nhi, được rất nhiều độc giả nhí trên thế giới yêu thích.
Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Andersen phải kể đến Cô bé bán diêm, bộc lộ sẽ những khao khát, ước mơ bé nhỏ của nhiều đứa trẻ có số phận bất hạnh, đồng thời cũng thể hiện được tấm lòng nhân ái, yêu thương con người của Andersen.
Nhân vật trung tâm của tác phẩm là một cô bé bán diêm, không tên, không tuổi, thay vào đó tác giả tập trung làm nổi bật hoàn cảnh đáng thương của cô bé tội nghiệp, cũng là hoàn cảnh bất hạnh chung của hàng ngàn, hàng vạn những đứa trẻ bất hạnh khác nhau trên thế giới này.
Sự bất hạnh của cô bé được khắc họa rõ nét với hình ảnh một bé gái, ngay giữa đêm giao thừa rét mướt, nhưng đầu trần, chân đất, bụng thì đói meo, đang dò dẫm trong bóng tối với hi vọng bán được vài bao diêm.
Trái ngược với cảnh khốn khổ ấy, thì khắp nơi trong thành phố, người ta đang nô nức, quây quần chờ đón giáng sinh, những đứa trẻ khác đang hạnh phúc trong quần áo ấm, bên mâm bàn thịnh soạn. Mà sự bất hạnh của cô bé lạ bắt nguồn từ việc em mồ côi mẹ, người bà thân yêu đã qua đời, người thân duy nhất còn lại của em là bố thì lại không yêu thương em, suốt ngày rượu chè, bài bạc, đánh mắng em.
Em sợ hãi khi phải trở về căn gác tối om, lạnh buốt, bởi ở đó cũng chẳng khác gì lang thang ngoài đường, khi mà từ sáng đến giờ em vẫn chưa bán được bao diêm nào, em biết chắc chắn điều gì đang chờ em nếu em trở về nhà với hai bàn tay không. Sự tủi thân và tuyệt vọng khiến cô bé tuyệt vọng chán nản ngồi xuống một góc hẹp giữa hai căn nhà để bớt đi những cơn gió rét buốt.
Cũng trong giây phút ấy em nhớ lại những ký ức hạnh phúc và vui vẻ khi người bà còn sống, em cũng từng có một gia đình hạnh phúc, ấm êm, đủ đầy, nhưng khi bà đi rồi cuộc sống của em bỗng chốc trở thành địa ngục.
Càng nghĩ em càng thấy xót xa, tủi phận mình, ngay lúc này đây em cần một chút hơi ấm, để xua đi cái giá lạnh đã làm đôi bàn tay em đông cứng. Đêm giao thừa, nỗi khốn khổ, tuyệt vọng đã khiến cô bé dũng cảm hơn, mặc dù biết rằng dùng diêm để sưởi ấm thì sẽ không tránh khỏi trận đòn từ người cha độc ác. Thế nhưng khao khát tìm hơi ấm giữa đêm đông và sự cô đơn tột cùng đã thôi thúc em quẹt một que diêm. Ngọn lửa bừng sáng, ban đầu xanh lam màu của hi vọng sau đó biến trắng rực rỡ, thật đẹp, giấc mơ đầu tiên của cô bé bắt đầu.
Em hơ nhẹ tay mình bên ánh lửa, mà tưởng như mình đang ngồi cạnh một lò sưởi ấm áp, thật khoan khoái dễ chịu biết bao, thế nhưng niềm hạnh phúc trong mơ ấy cũng chẳng kéo dài được bao lâu, que diêm vụt tắt, kéo theo những tưởng tượng tốt đẹp trả cô bé về lại với thực tại lạnh lẽo, đói rét, và cơn giận của người cha độc ác.
Sự thật phũ phàng ấy càng khiến người ta thấy thương cảm cho một số phận bất hạnh, dù chỉ là một nhu cầu cấp thiết nhất giữa đêm đông như sưởi ấm mà cô bé hằng khao khát cũng thật khó khăn và xa vời.
Nuối tiếc làn hơi ấm mà que diêm đầu tiên mang lại, cô bé quẹt tiếp que diêm thứ hai, khi ánh lửa vừa bùng lên bức tường lạnh giá đã biến thành một bức rèm xinh đẹp, bên trong căn phòng sáng trưng, có một bàn thức ăn bày biện thịnh soạn, còn có một con ngỗng quay – món ăn truyền thống đêm giao thừa. Và kỳ diệu thay em thấy con ngỗng nhảy ra khỏi đĩa, trên lưng cắm dao nĩa tiến dần về phía mình…
Rồi que diêm phụt tắt trả lại em bức tường lạnh lẽo, những cơn gió rét thấu xương, chẳng có ngỗng, chẳng có bàn ăn nào cả, tất cả đều chỉ là do em tự tưởng tượng ra, lần nữa cô bé lại rơi vào hụt hẫng tuyệt vọng.
Cũng từ đó chúng ta nhận ra rằng, việc tưởng tượng ra bàn thức ăn và căn phòng ấm áp chính là những khao khát mãnh liệt từ sâu trong đáy lòng cô bé. Là những nhu cầu bình thường nhất của những đứa trẻ đang tuổi ăn tuổi lớn, được ăn no, được ở trong một căn phòng ấm áp, được bảo vệ che chở, chứ không phải là lăn lộn kiếm sống, bán từng bao diêm ngay giữa trời đông buốt giá.
Que diêm thứ ba vụt sáng, lần này cô bé nhìn thấy một cây thông Nô-en được trang trí rực rỡ, bên cạnh đó là những bức tranh đầy màu sắc được bày trong những tủ hàng, thứ mà biết bao lâu rồi êm không được chạm vào. Thế nhưng ánh diêm vụt tắt cũng mang theo tất cả những tráng lệ rực rỡ, không có cây thông, không có ánh nến, chỉ còn lại màn đêm đen tối, cùng dòng người vội vã tìm về tổ ấm, để lại một mình em.
Ở giấc mơ thứ ba, mọi thứ diễn ra thật ngắn ngủi, nhưng nó đã bộc lộ rất rõ một khao khát, một nhu cầu khác trong tâm hồn cô bé tội nghiệp ấy là nhu cầu được thỏa mãn những giá trị tinh thần.
Với một đứa trẻ đang trong tầm phát triển, ngoài việc được ăn no, mặc ấm, chúng còn cần những niềm vui mang giá trị tinh thần, như được vui chơi, được ngắm nhìn những thứ đẹp mắt. Mà đối với cô bé bán diêm, em chẳng được nhận bất cứ một thứ gì cả, ngoài những cơn gió lạnh buốt, cái bụng đói meo, sự khắc nghiệt đến từ chính người cha ruột.
Và để kết thúc hết những đau khổ, bất hạnh trên cuộc đời, hình ảnh que diêm thứ tư được quẹt lên, ngọn lửa bừng sáng, em nhìn thấy người bà yêu quý đã rời bỏ em đi từ lâu.
Có thể nhận thấy ở lần quẹt diêm này là khao khát được yêu thương, được chăm sóc, thứ mà cô bé bán diêm đã rất lâu rồi không còn cảm nhận được. Trong thâm tâm cô bé, chỉ có ở trong vòng tay bà, cô mới được hạnh phúc, điều đó vượt lên trên tất cả những khao khát vật chất tầm thường khác.
Niềm khao khát mãnh liệt ấy được bộc lộ rất rõ khi mà cô bé điên cuồng quẹt hết tất cả số diêm còn lại trong bao, chỉ mong níu giữ được hình ảnh của người bà đã mất. Và khi que diêm cuối cùng vụt tắt cũng là lúc cô bé rời bỏ hết những tối tăm, đau khổ ở thế giới này, theo bà về một thế giới khác tốt đẹp hơn bớt đau khổ hơn.
Cô bé chết vì cái giá rét đêm giao thừa đã để lại trong lòng người đọc nhiều suy ngẫm, có lẽ rằng chỉ khi chết đi em mới hoàn toàn thoát khỏi hết tất thảy những bất hạnh mà em phải gánh chịu. Điều đó không khỏi khiến người ta xót xa cho một số phận con người, và ở thế giới ngoài kia còn biết bao nhiêu những mảnh đời cơ cực, khổ sở như thế nữa.
Truyện ngắn Cô bé bán diêm đã mở ra cho chúng ta một bài học sâu sắc về tầm quan trọng của gia đình đối với trẻ em, mỗi đứa trẻ trên thế giới đều xứng đáng có một gia đình đầy đủ, được hưởng những nền giáo dục tốt đẹp nhất, được thỏa mãn cả nhu cầu vật chất và tinh thần để phát triển và trưởng thành trong xã hội.
Đồng thời tác phẩm cũng thể hiện tấm lòng nhân ái, đồng cảm với những số phận bất hạnh, đặc biệt là với những trẻ em có cuộc sống không may mắn của tác giả, bộc lộ mong muốn rằng tất cả trẻ em trên thế này này đều được hưởng một cuộc sống hạnh phúc, đủ đầy.
Phân Tích Cô Bé Bán Diêm Đặc Sắc – Mẫu 5
An-đéc-xen nhà văn nổi tiếng với những câu chuyện dành cho thiếu nhi. Các tác phẩm của ông luôn để lại những ấn tượng sâu đậm, những bài học sâu sắc cho các bạn nhỏ. Khi nhắc đến kho tàng truyện của ông ta không thể không nhắc đến truyện Cô bé bán diêm, một câu chuyện giàu giá trị nhân văn, nhân bản.
Truyện kể về số phận bi thương, bất hạnh của cô bé bán diêm. Cô bé vốn cũng có một gia đình hết sức êm ấm, hạnh phúc, với người bà hiện hậu, trong “ngôi nhà xinh xắn có dây thường xuân bao quanh”, nhưng tất cả chỉ còn là quá khứ xa xôi. Người bà, người mẹ yêu thương em lần lượt đã qua đời, em sống với người bố trong cảnh nghèo khổ, túng quẫn trên một căn gác tồi tàn, em phải đi bán diêm để kiếm sống.
Sự khốn cùng của em được tác giả đậm tô hơn nữa trong đêm giao thừa. Trong đêm đông lạnh giá, từng cơn gió thấu xương vù vù thổi, cô bé đầu trần, chân đất, bụng đói đang mang những phong diêm đi bán. Em không dám về nhà vì người cha nghiện rượu sẵn sàng đánh em nếu em chưa bán được gì. Em ngồi sát góc tường, mong mỏi mọi người rủ lòng thương mà mua cho mình.
An-đéc-xen đã xây dựng một loạt các hình ảnh tương phản, đối lập để làm nổi bật lên hoàn cảnh đáng thương của cô bé: ngôi nhà xinh xắn, ngập tình yêu thương chỉ còn trong quá khứ, hiện tại chỉ là tầng áp mái tồi tàn, với người cha luôn mắng chửi, đánh đập em; mọi người đang ngồi trong ngôi nhà sáng ánh đèn còn em một mình với bóng đêm, lạnh giá; trong mỗi căn nhà sực nức mùi ngỗng quay, mùi của gia đình hạnh phúc còn cô bé bụng đói cả ngày, cô đơn, buồn tủi.
Với nghệ thuật tương phản tác giả đã làm rõ hơn nỗi bất hạnh của em. Cô bé không chỉ thiếu thốn, khốn khổ về vật chất mà con sống trong cảnh bị mọi người hờ hững, trong đó có cả bố – người đã sinh ra em.
Tác giả có sự kết hợp hài hòa giữa hiện thực và mộng tưởng thông qua các lần quẹt diêm của cô bé. Trong tác phẩm, cô bé quẹt diêm tất cả năm lần: lần một thấy chiếc lò sưởi, lần hai thấy ngỗng quay, lần thứ ba thấy cây thông, lần bốn thấy bà, lần năm em quẹt tất cả các que diêm còn lại để níu kéo người bà ở lại với mình.
Trình tự quẹt diêm của em là hoàn toàn hợp lí, đi từ vật chất đến tinh thần: em muốn có lò sưởi, ngỗng quay bởi em đang phải chịu cái đói, cái lạnh; em thấy cây thông, người bà bởi nó gợi ra không khí gia đình ấm áp, tràn ngập tình yêu thương.
Sự đan cài giữa hiện thực và mộng tưởng đem đến cho người đọc niềm xót xa, cảm thông sâu sắc trước số phận em bé. Những mộng tưởng của em bé đều xuất phát từ thực tế khổ đau: em mơ lò sưởi, bữa tiệc, cây thông,… vì em phải sống trong cảnh thiếu thốn, nghèo khổ.
Em mơ thấy bà vì khi bà mất, em luôn sống trong cảnh thiếu tình yêu thương. Sau mỗi lần que diêm tắt là thực tế khắc nghiệt đổ ập vào em, khiến cho số phận của cô bé càng trở nên bất hạnh. Bởi vậy, em cố gắng quẹt những que diêm cuối cùng để níu kéo bà ở lại, để em được sống trong tình yêu thương.
Nhưng cô bé cũng hiểu rằng, chỉ cần que diêm tắt đi thì hình ảnh bà cũng mất như tất cả những sự vật trước đó. Bởi vậy, em đã ước mình được đi cùng bà mãi mãi. Niềm mong ước của em vừa phản ánh khát khao được sống trong tình yêu thương, vừa thể hiện số phận bi kịch, bất hạnh của cô gái bé nhỏ, tội nghiệp.
Cái chết của cô bé cũng vô cùng thương tâm, gây ám ảnh với bạn đọc. Buổi sáng đầu tiên của năm mới, mọi người ai cũng vui vẻ, rạng rỡ nhưng em bé lại một mình chết ở xó tường, em chết vì lạnh, vì lòng người vô cảm không ai quan tâm, giúp đỡ em.
Nhưng khi chết trên mặt em đôi má vẫn hồng, đôi môi như đang mỉm cười, vì em đã thoát khỏi cuộc sống bất hạnh, được đến với người bà yêu quý của mình. Thực tế đây là một cái kết mang tính chất bi kịch. Hạnh phúc với mỗi con người là ở thực tại, ở trần thế này nhưng em phải đến thế giới khác mới được hưởng trọn vẹn niềm hạnh phúc ấy.
Tác phẩm được xây dựng một kết cấu phù hợp với diễn biến sự việc và tâm lí nhân vật. Nghệ thuật tương phản đối lập càng làm nổi bật hơn nỗi bất hạnh của em bé: mồ côi, trong đêm tối một mình lang thang bán diêm đối lập với đường phố rực rỡ ánh đèn, những người xung quanh vui vẻ, hạnh phúc.
Sự đan xen hài hòa hợp lí giữa hiện thực và mộng tưởng vừa làm rõ số phận bi thương, vừa khắc họa khát khao hạnh phúc của cô bé bán diêm.
Truyện Cô bé bán diêm thể hiện tình yêu thương sâu sắc của nhà văn đối với những số phận bất hạnh. Truyện truyền tải đến người đọc thông điệp giàu ý nghĩa, thấm đẫm giá trị nhân đạo: hãy yêu thương trẻ thơ và để cho chúng được sống một cuộc sống đủ đầy, hạnh phúc.