Đời Thừa [Nam Cao]: Nội Dung Tác Phẩm + Tóm Tắt + Phân Tích

Đời Thừa [Nam Cao] ❤️️ Nội Dung Tác Phẩm, Tóm Tắt, Phân Tích ✅ Chia Sẻ Đến Bạn Đọc Tuyển Tập Sơ Đồ Tư Duy, Ý Nghĩa Tác Phẩm.

Nội Dung Tác Phẩm Đời Thừa Của Nam Cao

Đời thừa của Nam Cao là tác phẩm gần gũi về đề tài, giọng điệu, tư tưởng. Tác phẩm đã ghi lại chân thực hình ảnh buồn thảm của người trí thức tiểu tư sản nghèo. Dưới đây là nội dung đầy đủ của tác phẩm Đời thừa.

Từ ngẩng đầu lên nhìn Hộ ba lần. Ba lần, Từ muốn nói nhưng lại không dám nói. Hắn đang đọc chăm chú quá. Ðôi lông mày rậm của hắn châu đầu lại với nhau và hơi xếch lên một chút. Ðôi mắt sáng quắc có vẻ lồi ra. Cái trán rộng hơi nhăn. Ðôi lưỡng quyền đứng sừng sững trên bờ hai cái hố sâu của má thì bóng nhẫy. Cả cái mũi cao và thẳng tắp cũng bóng lên như vậy. Cái mặt hốc hác ấy, nghiêng nghiêng bên trên quyển sách, trông khắc khổ đến thành dữ tợn. Từ thấy sợ…

Từ yêu chồng bằng một thứ tình yêu rất gần với tình của một con chó đối với người nuôi. Từ bản tính rất dịu dàng, rất tận tâm. Vả lại Hộ, đối với Từ, còn là một ân nhân nữa. Hộ đã cúi xuống nỗi đau khổ của Từ. Hộ đã cúi xuống và đã đưa một bàn tay cầm lấy cái bàn tay mềm yếu của Từ, giữa lúc Từ đau đớn không bờ bến: Từ bị tình nhân bỏ với một đứa con vừa mới đẻ. Gã tình nhân vô liêm sỉ ấy, Từ đã yêu hắn bằng cả tấm lòng yêu lúc ban đầu. Từ đã tin như người ta tin một vị thần. Từ đã hiến mình một cách dè dặt tâm hồn và xác thịt. Và khi biết mình sắp có một đứa con, Từ không hề hối hận một mảy may: Từ rất bằng lòng. Ấy thế mà hắn đã phụ từ, phụ một cách hèn nhát và khốn nạn, ngay chính vào lúc Từ cần đến hắn để bảo tồn sự sống và danh dự, lúc đứa con ra đời. Từ sửng sốt vô cùng. Từ không tin ở sự thật rành rành. Rồi khi sự sửng sốt qua thì Từ khóc. Từ khóc như mưa, khóc tưởng chẳng bao giờ còn lặng được. Từ khóc, và ôm con ngồi nhịn đói, bởi vì Từ chẳng còn biết trông cậy vào ai, trừ bà mẹ già mù và quanh năm nay ốm, mai đau, mà Từ vẫn phải nuôi. Bà mẹ già biết làm sao? Bà chỉ còn một cách là còn được ít nước mắt nào thì rỏ cả ra mà khóc với con, và cả mẹ lẫn con chỉ có một cách là khóc cho đến khi nào bao nhiêu xương thịt đều chảy ra thành nước mắt hết, để rồi cùng chết cả. Giữa lúc ấy thì Hộ mở rộng đôi cánh tay, đón lấy Từ. Hộ nuôi Từ, nuôi mẹ già, con dại cho Từ. Hộ nhận làm bố cho đứa con thơ. Vì muốn yên ủi Từ và cứu lấy danh dự của Từ, Hộ đã chính thức nhận Từ làm vợ. Rồi Hộ đứng ra làm ma cho bà mẹ Từ, khi bà cụ mất. Biết bao nhiêu là ân nghĩa! Từ có yêu Hộ đến đâu, có chịu khó đến đâu, có làm nô lệ cho Hộ suốt đời Từ nữa, thì cũng chưa đủ để đền ơn. Bởi thế, nên luôn mấy năm trời, Hộ thấy Từ là một người vợ rất ngoan, rất phục tùng, rất tận tâm. Và đáng lẽ thì Hộ phải sung sướng lắm.

Nhưng Hộ chỉ sung sướng được ít lâu thôi. Sau cái hành vi đẹp của hắn, và cái hành vi ấy được trả công bằng một tình yêu rất êm đềm, hắn chỉ còn nghĩ đến gia đình, chỉ cốt làm sao nuôi được gia đình. Hộ vốn nghèo. Hắn là một nhà văn, trước kia, với cách viết thận trọng của hắn, hắn chỉ kiếm được vừa đủ để một mình hắn sống một cách eo hẹp, có thể nói là cực khổ. Nhưng bấy giờ hắn chỉ có một mình. Ðói rét không có nghĩa lý gì đối với gã trẻ tuổi say mê lý tưởng. Lòng hắn đẹp. Ðầu hắn mang một hoài bão lớn. Hắn khinh những lo lắng tủn mủn về vật chất. Hắn chỉ lo vun trồng cho cái tài của hắn ngày một thêm nảy nở. Hắn đọc, ngẫm nghĩ, tìm tòi, nhận xét và suy tưởng không biết chán. Ðối với hắn lúc ấy, nghệ thuật là tất cả; ngoài nghệ thuật không còn gì đáng quan tâm nữa. Hắn băn khoăn nghĩ đến một tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời… Thế rồi, khi đã ghép đời Từ vào cuộc đời của hắn, hắn có cả một gia đình phải chăm lo. Hắn hiểu thế nào là giá trị của đồng tiền; hắn hiểu những nỗi đau khổ của một kẻ đàn ông khi thấy vợ con mình đói rách. Những bận rộn tẹp nhẹp, vô nghĩa lý, nhưng không thể không nghĩ tới, ngốn một phần lớn thì giờ của hắn. Hắn phải cho in nhiều cuốn văn viết vội vàng. Hắn phải viết những bài báo để người ta đọc rồi quên ngay sau lúc đọc. Rồi mỗi lần đọc lại một cuốn sách hay một đoạn văn ký tên mình, hắn lại đỏ mặt lên, cau mày, nghiến răng vò nát sách và mắng mình như một thằng khốn nạn… Khốn nạn! Khốn nạn! Khốn nạn thay cho hắn! Bởi vì chính hắn là một thằng khốn nạn! Hắn chính là một kẻ bất lương! Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện. Chao ôi! Hắn đã viết những gì? Toàn những cái vô vị, nhạt nhẽo, gợi những tình cảm rất nhẹ, rất nông, diễn một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi. Hắn chẳng đem một chút mới lạ gì đến văn chương. Thế nghĩa là hắn là một kẻ vô ích, một người thừa. Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có… Hắn nghĩ thế và buồn lắm, buồn lắm! Còn gì buồn hơn chính mình lại chán mình? Còn gì đau đớn hơn cho một kẻ vẫn khát khao làm một cái gì nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt? Hắn để mặc vợ con khổ sở ư? Hắn bỏ liều, hắn ruồng rẫy chúng, hắn hy sinh như người ta vẫn nói ư? Ðã một vài lần hắn thấy ý nghĩ trên đây thoáng qua đầu. Và hắn nghĩ đến câu nói hùng hồn của một nhà triết học kia: “Phải biết ác, biết tàn nhẫn để sống cho mạnh mẽ”. Nhưng hắn lại nghĩ thêm rằng: Từ rất đáng yêu, rất đáng thương, hắn có thể hy sinh tình yêu, thứ tình yêu vị kỷ đi; nhưng hắn không thể bỏ lòng thương; có lẽ hắn nhu nhược, hèn nhát, tầm thường, nhưng hắn vẫn còn được là người: hắn là người chứ không phải là một thứ quái vật bị sai khiến bởi lòng tự ái. Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thỏa mãn lòng ích kỷ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình. Và lại hèn biết bao là một thằng con trai không nuôi nổi vợ, con thì còn mong làm nên trò gì nữa?… Hắn tự bảo: “Ta đành phí đi một vài năm để kiếm tiền. Khi Từ đã có một số vốn con để làm ăn! Sự sinh hoạt lúc này chẳng dễ dàng đâu!”. Từ khi đứa con này chưa kịp lớn lên, đứa con khác đã vội ra, mà đứa con nào cũng nhiều đẹn, nhiều sài, quấy rức, khóc mếu suốt ngày đêm và quanh năm uống thuốc. Từ săn sóc chúng đã đủ ốm người rồi, chẳng còn có thể làm thêm một việc khác nữa. Hộ điên người lên vì phải xoay tiền. Hắn còn điên lên vì con khóc, nhà không lúc nào được yên tĩnh để cho hắn viết hay đọc sách. Hắn thấy mình khổ quá, bực bội quá. Hắn trở nên cau có và gắt gỏng. Hắn gắt gỏng với con, với vợ, với bất cứ ai, với chính mình. Và nhiều khi, không còn chịu nổi cái không khí bực tức ở trong nhà, hắn đang ngồi bỗng đứng phắt lên, mắt chan chứa nước, mặt hầm hầm, vùng vằng đi ra phố, vừa đi vừa nuốt nghẹn. Hắn đi lang thang, không chủ đích gì. Rồi khi gió mát ở bên ngoài đã làm cái trán nóng bừng nguội bớt đi và lòng trút nhẹ được ít nhiều uất giận, hắn tạt vào một tiệm giải khát nào mà uống một cốc bia hay cốc nước chanh. Hắn tìm một người bạn thân nào để nói chuyện văn chương, ngỏ ý kiến về một vài quyển sách mới ra, một vài tên ký mới trên các báo, phác họa một cái chương trình mà hắn biết ngay khi nói là chẳng bao giờ hắn có thể thực hành, rồi lặng lẽ nghĩ đến cái tác phẩm dự định từ mấy năm nay để mà chán ngán. Hắn thừ mặt ra như một kẻ phải đi đày, một buổi chiều âm thầm kia, ngồi trong một làn khói nặng u buồn mà nhớ quê hương. Hắn cũng nhớ nhung một cái gì rất xa xôi… những mộng đẹp ngày xưa… một con người rất đáng yêu đã chẳng là mình nữa. Hắn lắc đầu tự bảo: “Thôi thế là hết! Ta đã hỏng! Ta đã hỏng đứt rồi”. Và hắn nghĩ đến cái tên hắn đang mờ dần đằng sau những tên khác mới trồi ra, rực rỡ hơn… Rồi hắn ra về, thờ thẫn. Những sự bực tức đã chìm đi. Lòng hắn không còn sôi nổi nữa, nhưng rũ buồn…

** *

Ít lâu nay, mỗi lần ra đi, Hộ không chỉ trở về buồn bã mà thôi. Hắn say mềm. Thường thường hắn đã ngủ một nửa ngay từ khi còn ở dọc đường; và vừa về đến nhà, chưa kịp thay quần áo, tháo giày, đã đổ như một khúc gỗ xuống bất cứ cái giường nào, ngủ say như chết. Từ phải chờ khi con ngủ mê, rón rén lừa con, dậy lại tháo giày, cởi quần tây cho hắn, luồn một cái gối xuống gáy hắn, và cố nhấc chân, nhấc tay hắn, đặt cho hắn nằm ngay ngắn lại… Nhưng cũng có đêm hắn chưa ngủ vội. Hắn lảo đảo bước vào nhà, mắt gườm gườm, đôi môi mím chặt. Hắn đi thẳng lại trước mặt Từ. Hắn cúi xuống, quắc mắt nhìn Từ, gõ gõ một ngón tay trỏ vào trán Từ và dọa như người ta dọa trẻ con:

– Ngày mai… mình có biết không?… Chỉ ngày mai thôi! Là tôi đuổi tất cả mấy mẹ con mình ra khỏi cái nhà này… Tôi đuổi tất, không chừa một đứa nào, kể cả con bé Thảo là con ngoan nhất… Mấy đứa kia đều đáng vật một nhát cho chết cả! Chúng nó chỉ biết ăn với hét! Cả con mẹ nữa, con mẹ là mình ấy… cũng đáng vật một nhát cho chết cả! Chúng nó chỉ biết ăn rồi ngồi ôm con như nhện ôm khư khư bọc trứng, không chịu làm thêm việc gì cho có tiền. Chỉ khổ thằng này thôi!

Hắn rít lên như vậy. Rồi hắn mím chặt môi, đôi mắt ngầu ngầu nhìn vào tận mắt Từ. Từ chẳng dám cãi nửa lời, chỉ lẳng lặng cúi mặt nhìn xuống, như một đứa trẻ con biết mình có lỗi khi nghe người ta quở phạt. Bởi vậy hắn trừng trộ một lúc rồi quay ra, loạng choạng cởi quần, cởi áo, hắn vất bừa bộn xuống giường. Rồi hắn tháo giày, quăng từng chiếc một vào một xó nhà. Có khi máy tay, hắn quăng cả những vật gì thấy trên bàn, rồi lải nhải mắng Từ về tội không biết thu dọn nhà cho gọn ghẽ. Hắn nói chán rồi đi ngủ. Bấy giờ Từ mới dám đứng lên, treo quần áo cho hắn lên mắc và thu dọn tất cả những thức hắn đã vứt lổng chổng ra đầy nhà.

Lần đầu, Từ sửng sốt. Từ chẳng hiểu ra sao. Từ đoán chồng nghe ai nói nên ghen bóng, ghen gió chi đây. Từ khóc suốt đêm và dự định sẵn những câu để sáng hôm sau nói. Nhưng sáng hôm sau, hắn không để cho Từ phải nói. Hắn bẽn lẽn kêu mình đã quá chén hôm qua, hỏi Từ về những thủ đoạn vũ phu của mình rất buồn cười, rồi xin lỗi Từ, hôn hít các con như một người cha tốt. Hắn tuyên bố từ giờ chừa rượu và giữ được khá lâu, nhưng rồi lại uống và say như lần trước để làm những trò vừa buồn cười, vừa đáng sợ như lần trước. Cứ thế mãi, Từ quen đi, không giận nữa. Nhưng Từ lờ mờ hiểu nỗi đau khổ mà có lẽ chính Từ đã gây ra cho chồng. Từ hiểu và Từ buồn lắm, buồn lắm lắm. Còn gì buồn cho bằng mình biết mình làm khổ cho người mà mình yêu? Nhưng Từ biết làm sao được? Ðã nhiều lần Từ muốn ẵm con đi. Ðã nhiều lần, Từ muốn bỏ liều con để đi làm, Từ muốn hy sinh. Nhưng lòng Từ mềm yếu biết bao! Từ là vợ! Từ là mẹ. Từ sống với những tình cảm thông thường của đàn bà. Từ rất yêu chồng và thường nhận ra rằng chồng Từ cũng yêu Từ, cũng muốn có Từ. Những khi Từ ốm đau chẳng hạn. Hộ lo xanh mắt và thức suốt đêm để trông coi thuốc thang cho vợ. Ðối với các con cũng vậy. Chỉ xa chúng mấy ngày, Hộ đã nhớ và lúc về thấy các con chạy ra reo mừng và nắm lấy áo mình, thường thường Hộ cảm động đến ứa nước mắt. Hắn hôn hít chúng vồ vập lắm… Biết đâu hắn sẽ sung sướng khi không con, không vợ? Từ nghĩ về hắn: nghĩ thế nhưng Từ cũng chẳng dám tìm cách mà xa hắn. Mới nghĩ đến sự xa hắn, Từ đã phải thổn thức đến bật tiếng khóc ra được rồi… Từ đành chỉ cố ngoan ngoãn hơn, đáng yêu hơn. Từ nhịn mặc, nhịn ăn để bớt những món tiêu. Từ thu xếp cửa nhà ngăn nắp, sạch sẽ, gọn gàng. Nhất là Từ hết sức ngăn những tiếng khóc, tiếng nô đùa của lũ con. Từ sợ cả nói với chồng. Bởi vậy ba lần nhìn chồng để toan nói, Từ thấy chồng đang đọc sách chăm chú quá, không dám nói lại cúi mặt xuống nhìn đứa con đang nằm trong lòng Từ.

Cao hứng Hộ bỗng ngoảnh mặt lên. Hắn vừa gặp được một đoạn hay lắm nên ngừng đọc, ngẫm nghĩ và để cho cái khoái cảm ngân ra trong lòng. Ðôi mắt hắn, tuy mới rời trang sách đã nhìn ngay lại phía Từ. Hắn mỉm cười, Từ cũng mỉm cười. Hắn bảo:

– Này, Từ ạ… Nghĩ cho kỹ, đời tôi không đáng khổ mà hóa khổ, chính tôi làm cái thân tôi khổ, tôi mê văn quá nên mới khổ. Ấy thế, mà tuy khổ thì khổ thật, nhưng thử có người giàu bạc vạn nào thuận đổi lấy cái địa vị của tôi, chưa chắc tôi đã đổi. Tôi cho rằng: những khi được đọc một đoạn văn như đoạn này, mà lại hiểu được tất cả cái hay, thì dẫu ăn một món ăn ngon đến đâu cũng không thích bằng. Sướng lắm! Sao thiên hạ lại có người tài đến thế? Mình tính: người ta tả cái cảnh một người nhớ quê hương chỉ mất có ba câu, đúng ba câu!… Mình có hiểu không? … Ba câu giản dị một cách không ngờ mà hay được đến như thế này…

Hắn đọc lại đoạn văn. Hắn định nghĩa để Từ nghe. Hắn giảng giải cho Từ. Tuy Từ chẳng hiểu được bao nhiêu, nhưng cũng tin lời hắn lắm. Từ giữ mãi nụ cười hiền dịu trong khi nghe hắn nói. Khi hắn ngừng nói đã được một lúc khá lâu, Từ mới làm như chợt nhớ ra:

– Có lẽ hôm nay đã là mồng hai, mồng ba tây rồi, mình nhỉ?

– À phải! Hôm nay mồng ba… Giá mình không hỏi tôi thì tôi quên… Tôi phải đi xuống phố.

Từ nhắc khéo:

– Hèn nào mà em thấy người thu tiền nhà sáng nay đã đến…

Hộ sầm mặt lại:

– Tiền nhà… tiền giặt… tiền thuốc… tiền nước mắm… Còn chịu tất! Tháng vừa rồi tiêu tốn quá, mới mồng mười đã hết tiền. May mà còn có đất mua chịu được.

Hắn nghĩ đến món tiền hắn đã tiêu phí mấy hôm đầu tháng. Mỗi lần hắn bực tức hay chán nản, hắn lại đi uống rượu, thành thử hết tiền sớm. Từ không hé môi phàn nàn nửa tiếng, nhưng cả tháng Từ ăn và bắt các con ăn kham khổ, thường thường đói nữa! Quà sáng thì bỏ hẳn, có khi bữa tối cũng chịu nhịn cơm, ăn cháo. Hộ trông thấy thế, thương vợ, thương con quá, và ân hận vì mình đã tiêu quá trớn. Bởi vậy suốt từ mồng mười đến hết tháng, hắn không ra khỏi nhà để chẳng phải tiêu thêm tí gì…

Hắn vừa mặc quần áo, vừa nhắc thầm trong trí:

– Nhất định hôm nay không đi đâu cả… Lấy tiền xong là về ngay…

Nhưng Từ bảo:

– Mình đi phố thì đi ăn nhé. Còn có ít gạo chỉ đủ cho lũ trẻ. Em chả đong thêm nữa, để mai trả tiền rồi lấy thêm luôn một thể… Em không để cơm mình đâu đấy… Nhà chẳng còn gì ăn…

Hộ hơi cau mày. Bởi vì hắn sợ bước vào tiệm ăn lắm. Hắn có thể gặp ở đây một vài người bạn… và khi ấy thì… ôi thôi! Mặc kệ gia đình và những cái gì còn lại!… Hắn sẽ uống rất khỏe, nói toàn những chuyện vá trời lấp biển, rồi đi la cà đến hết đêm mới về. Hắn nghĩ ngợi một chút rồi hắn bảo:

– Ðược! Tôi sẽ mua cái gì về để cả nhà cùng ăn.

– Ðừng phiền nữa! Em cứ cho chúng nó ăn cơm trước rồi đi ngủ.

– Ðừng ăn trước… Ðợi tôi đem thức ăn về, ăn một thể. Tôi về sớm. Cả tháng chúng nó đói khát, khổ sở, hôm nay có tiền cũng nên cho chúng nó một bữa ăn ra hồn.

– Vẽ chuyện!

Hắn mỉm cười, đáp lại. Hắn lại gần Từ, cúi xuống nắm lấy tay đứa bé và gọi nó. Mặt hắn và mặt Từ ghé sát. Hắn cố ý khẽ chạm môi mình vào má Từ một cái. Từ vờ giũ mấy cái bụi ở tay áo hắn. Vợ chồng nhìn nhau âu yếm. Hắn vuốt má Từ một cái rồi ra đi.

Ở tòa báo ra, Hội đi thẳng tới một hiệu thịt quay. Hắn định mua mấy hào thịt, vài cái bánh tây, gói đem về. Lòng hắn sáng bừng. Hắn tưởng tượng ra cái cảnh lũ con háu ăn và đói khát, rón thịt bằng tay và ăn những miếng bánh thật to, miệng phụng phịu và môi bóng nhờn những mỡ. Cái cảnh thô tục và cảm động! Hắn sẽ cười thỏa thích. Còn Từ sẽ ngồi bên hắn mà nhìn chúng, đôi mắt sung sướng và thương hại loang loáng ướt… Ðến trước cửa hiệu thịt quay, Hộ dừng lại. Hắn cẩn thận nhìn trước, nhìn sau, trước khi vào. Một người quen có thể đi qua, và nếu họ bắt gặp hắn đang cố nhét một gói thịt vào túi áo!… Không! Không có gì đáng ngại, ngoài đường phố… Nhưng trong hiệu, một thiếu nữ đẹp đang mặc cả… Hắn đành đợi vậy. Trong khi đợi, hai tay chắp sau lưng, hắn làm ra vẻ đợi một người bạn vừa vào một nhà nào gần đấy. Bỗng một bàn tay đập vào vai khiến hắn giật mình quay lại. Trung nhếch cười lặng lẽ và Mão cười ầm ĩ, cùng đưa tay cho hắn bắt:

– Mải ngắm nàng thơ nào mà ngây người ra thế?

Hộ ấp úng:

– À! Các anh!…

– Không theo gót sen nào đấy chứ?

– Cái ấy không quan hệ! Thi sĩ là người giữ được mình trẻ mãi và đến muôn năm cũng vẫn còn trinh bạch.

– Cũng may tôi lại cũng không là thi sĩ nốt.

– Nghĩa là chẳng theo nàng nào cả?

– Chẳng theo nàng nào cả!

– Thế thì đi theo hai thằng này!

Hộ nhìn Trung và Mão một thoáng rồi mới hỏi:

– Làm chi?

– Chẳng làm chi cả!

– Thế thì đệ kiếu. Ðệ phải về kẻo hết tàu điện.

Trung cau mày nhìn Hộ một cách kinh ngạc và khinh bỉ:

– Sao lại có người điên đến thế? Về giữa lúc chiều thì đẹp mà phố thì vui thế này!

Hộ trở nên đứng đắn:

– Không đùa nữa… Thật ra thì tôi có việc phải về, thế thôi.

– Ờ! Nói vậy còn dễ nghe… Thôi thế anh về nhé!… Nhưng mà… này! Anh đã biết gì chưa?

Hộ đã toan đi, quay đầu lại nhìn Trung…

– “Ðường về” sắp được dịch ra tiếng Anh đấy nhé! Bản quyền tác giả ba nghìn đồng.

Hộ trợn mắt lên. Người hắn bổi hổi. Một lúc lâu hắn mới hỏi được Trung:

– Có đích không?

– Ðích xác rồi. Chính Quyền đưa cái thư điều đình cho chúng tôi xem.

Hộ có vẻ hoài nghi:

– Không mà lại!… Tôi biết lắm… Nhưng lại đằng này đã, về làm gì vội? Chúng mình làm cốc bia…

Hộ đã quên hẳn vợ con. Hắn chỉ còn háo hức muốn biết thêm về việc quyển “Ðường về” của Quyền được dịch ra tiếng Anh. Hắn bám lấy Mão và Trung. Ba người vào một tiệm giải khát ở Bờ Hồ. Và chỉ độ nửa giờ sau, Mão và Trung đã thấy Hộ đỏ tai, giộng một cái vỏ chai bia xuống mặt bàn:

– Cuốn “Ðường về” chỉ có giá trị địa phương thôi, các anh có hiểu không? Người ta dịch nó vì muốn biết phong tục của mọi nơi. Nó chỉ tả được cái bề ngoài của xã hội. Tôi cho là xoàng lắm! Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái , sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn. Như thế mới thật là một tác phẩm hay, các anh có hiểu không? Tôi chưa thất vọng đâu! Rồi các anh xem… Cả một đời tôi, tôi sẽ chỉ viết một quyển thôi, nhưng quyển ấy sẽ ăn giải Nobel và dịch ra đủ mọi thứ tiếng trên hoàn cầu!

Trung gật gù cười, vẫn cái cười lặng lẽ của y. Mão thì cười hô hố. Hộ không cười, mặt căng lên vì hứng khởi. Hắn nói say sưa lắm. Và đến lúc đèn phố bật, Trung và Mão muốn về, Hộ bảo luôn:

– Thong thả đã! Ði đâu mà vội? Chúng mình đi uống rượu… Tôi có tiền…

** *

Sáng hôm sau. Hắn thức dậy trên cái giường nhà hắn. Hắn thấy mình mẩy đau như dần, đầu nặng, miệng khô và đắng. Cổ thì ráo và rát cháy. Hắn đưa tay với ấm nước ở trên bàn để uống. Ấm nước đầy và nước hãy còn ấm. Ðó là sự ý tứ của Từ. Hộ hiểu thế, và lòng buồn nao nao. Bởi hắn lờ mờ nhớ ra rằng: hình như đêm qua hắn say rượu, đi la cà chán rồi về, lại gây sự với Từ; hình như hắn lại đánh cả Từ, đuổi Từ đi, rồi mới đóng cửa lại và đi ngủ… Hắn đột nhiên hoảng sợ, nhổm dậy, mắt nhớn nhác tìm Từ. Nhưng không! Từ vẫn còn nhà… Chắc hẳn trong lúc quá say, hắn gài cửa nhưng chưa gài được, thành thử khi thấy hắn ngủ mệt rồi, Từ lại bế con vào. Bây giờ Từ đang thiếp đi trên võng, đứa con nhỏ nằm bên. Từ vốn dậy sớm quen. Sáng nay, chắc Từ mệt quá, vừa mới lịm đi, nên mới ngủ trưa như thế. Ðầu Từ ngoẹo về một bên. Một tay Từ trật ra ngoài mép võng, sã xuống, cái bàn tay hơi xòe ra lỏng lẻo. Dáng nằm thật là khó nhọc và khổ não. Hắn bùi ngùi. Chao ôi! Trông Từ nằm thật đáng thương! Hèn chi mà Từ khổ cả một đời người! Cái tướng vất vả lộ ra cả đến trong giấc ngủ. Hộ nhớ ra rằng: một đôi lúc, nếu nhìn kỹ thì Từ khó mặt lắm. Ðột nhiên Hộ nảy ra ý muốn lại gần Từ, nhìn kỹ xem mặt Từ lúc bây giờ ra sao? Hắn rón rén, đi chân không lại. Hắn ngồi xổm ngay xuống đất, bên cạnh võng và cố thở cho thật khẽ. Hắn ngắm nghía mặt Từ lâu lắm. Da mặt Từ xanh nhợt; môi nhợt nhạt; mi mắt hơi tim tím và chung quanh mắt có quầng, đôi má đã hơi hóp lại khiến mặt hơi có cạnh. Hộ khẽ thở dài và lắc đầu ái ngại. Hắn dịu dàng nắm lấy tay sã xuống của Từ. Cái bàn tay lủng củng rặt những xương! Trên mu bàn tay, những đường gân xanh bóng ra, làn da mỏng và xanh trong, xanh lọc. Cái cổ tay mỏng manh. Tất cả lộ một cái gì mềm yếu, một cái gì ẻo lả, cần được hắn che chở và bênh vực… Một vẻ bạc mệnh, một cái gì đau khổ và chật vật, cần được hắn vỗ về an ủi… Thế mà hắn đã làm gì để cho đời Từ đỡ khổ hơn? Hắn đã làm gì để cho Từ khỏi khổ? Nước mắt hắn bật ra như nước một quả chanh mà người ta bóp mạnh. Và hắn khóc… Ôi chao! Hắn khóc! Hắn khóc nức nở, khóc như thể không ra tiếng khóc. Hắn ôm chặt lấy cái bàn tay bé nhỏ của Từ vào ngực mình mà khóc. Từ thức dậy, Từ hiểu ngay, không cần hỏi một câu nào cũng hiểu. Và Từ cảm động. Mắt Từ giàn giụa nước. Từ khẽ rút tay ra, vòng lên cổ chồng, nhẹ nhàng núi hắn vào, để hắn gục đầu lên cạnh ngực Từ. Hắn lại càng khóc to hơn và cố nói qua tiếng khóc:

– Anh… anh… chỉ là… một thằng… khốn nạn!…

– Không!… Anh chỉ là một người khổ sở!… Chính vì em mà anh khổ…

Từ bảo thế. Tay Từ níu mạnh hơn một chút. Ngực Từ thổn thức. Từ chực ngả đầu sát vào vai Hộ. Nhưng đứa con, bị giằng, khóc thét lên. Từ vội buông chồng ra để vỗ con. Tiếng vẫn còn ướt lệ, Từ dỗ nó:

– A! Mợ đây! Mợ đây mà! Ôi chao! Con tôi nó giật mình… Mợ thương…

Hộ đã tránh chỗ để Từ đưa võng… Từ vừa đưa vừa hát:

Ai làm cho gió lên giời,
Cho mưa xuống đất, cho người biệt li;
Ai làm cho Nam, Bắc phân kỳ,
Cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thân…

Đọc thêm 🔰Đôi Mắt [Nam Cao]🔰Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích

Về Nhà Văn Nam Cao

Một số thông tin chính về nhà văn Nam Cao:

  • Nam Cao (1915 – 1951) là một nhà văn lớn và tài năng của văn học Việt Nam. Ông đã có những đóng góp to lớn trong sự nghiệp văn chương với những quan niệm tư tưởng của một “nhà văn chân chính”.
  • Ông sinh ra tại làng Đại Hoàng- Cao Đà – Nam Sang – Lý Nhân. Xuất thân từ một gia đình công giáo bậc trung.
  • Năm 18 tuổi ông bắt đầu viết văn với những bút danh như Thúy Rư, Xuân Du…
  • Cuộc đời ông điển hình cho cuộc đời của những trí thức tiểu tư sản những năm trước cách mạng tháng Tám.
  • Các sáng tác của ông chia làm hai giai đoạn:
    • Giai đoạn trước cách mạng tháng Tám: hai đề tài lớn người tri thức và người nông dân với các tác phẩm: Chí Phèo, đời thừa, giăng sáng, sóng mòn, một bữa no…
    • Giai đoạn sau cách mạng tháng tám: tập trung viết cho cách mạng tiêu biểu có Đôi mắt.
  • Vật lộn với gánh nặng cơm áo để giữ mình và rồi được đến với cách mạng, cống hiến hết mình cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Sáng tác của ông chủ yếu thể hiện tấn bi kịch của con người bị tha hoá, ông chú ý đến hai đối tượng rất gần gũi với cuộc đời ông là người nông dân và người trí thức nghèo.

Về Truyện Ngắn Đời Thừa

Về truyện ngắn Đời thừa, đây là một trong những sáng tác đặc sắc về đề tài trí thức tiểu tư sản của Nam Cao. Tác phẩm thể hiện khá đầy đủ tư tưởng nghệ thuật của nhà văn Nam Cao.

Nội dung chính:

  • Hộ là một văn sĩ nghèo mang trong mình nhiều hoài bão ước mơ. Anh là người có lý tưởng sống cao đẹp. Là một nhà văn, anh đã từng ước mơ có những tác phẩm lớn, có giá trị vượt thời gian. Nhưng từ khi cứu vớt cuộc đời Từ, cưới Từ về làm vợ, anh phải lo cho cuộc sống của cả gia đình chỉ với những đồng tiền ít ỏi của nghề viết văn.
  • Hộ đã rơi vào tình trạng khốn khổ. Tạm gác ước mơ hoài bão để nuôi gia đình, nhưng rồi nỗi lo cơm áo và những dằn vặt lương tâm của một nhà văn đã biến anh thành một người đàn ông vũ phu. Anh uống say rồi hành hạ, đánh đập vợ con, rồi lại ân hận. Hộ rơi vào cái vòng luẩn quẩn, không lối thoát.

Chia sẻ thêm cho bạn tác phẩm 🍃Lão Hạc [Nam Cao]🍃Nội Dung, Giá Trị

Xuất Xứ Và Hoàn Cảnh Sáng Tác Đời Thừa

Truyện ngắn Đời thừa được viết trước cách mạng tháng Tám, khi chính nhà văn phải chịu cảnh cơm áo gạo tiền trên sự nghiệp viết văn nên ông thấy được tấn bi kịch của người tri thức. Truyện ngắn sau đó được đăng trên tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy số 409 ra ngày 4/12/1943.

Ý Nghĩa Tác Phẩm Đời Thừa Nam Cao

Tổng kết ý nghĩa tác phẩm Đời thừa của Nam Cao như sau:

Đời thừa thể hiện tấn bi kịch tinh thần của người trí thức tiểu tư sản, nguyên nhân của tấn bi kịch ấy là gánh nặng cơm áo. Hộ đồng thời rơi vào hai tấn bi kịch: Bi kịch của người nghệ sĩ phải đang tâm chà đạp lên nguyên tắc sáng tạo của nghệ thuật chân chính, bi kịch của người cha người chồng phải chà đạp lên nguyên tắc tình thương do chính mình đề ra.

=>Qua bi kịch của nhà văn Hộ, Nam Cao thể hiện một tư tưởng nhân văn đẹp đẽ: Tố cáo hiện thực, lên án sự tha hoá, cảm thông với những con người bất hạnh và khẳng định những những quan điểm nghệ thuật chân chính…

Đừng bỏ lỡ phân tích ✨ Tôi Và Chúng Ta ✨ Giá Trị Nội Dung, Nghệ Thuật

Tóm Tắt Đời Thừa

Bạn đọc có thể xem thêm bản tóm tắt truyện ngắn Đời thừa sau đây để nắm bắt nội dung nhanh hơn.

Đời thừa viết về cuộc sống của một trí thức nghèo, một nhà văn. Hộ là một con người trung thực, thương yêu vợ con, rất có trách nhiệm đối với gia đình, là một người cầm bút có suy nghĩ đúng đắn, nghiêm túc về nghề nghiệp, có hoài bão xây dựng được một tác phẩm thật có giá trị “sẽ làm mờ hết các tác phẩm cùng ra một thời”, thậm chí có thể được trao giải Nobel. Nhưng trong thực tế, Hộ phải chịu bao nhiêu cảnh buồn lo, cực nhục trong cuộc sống.

Hộ phải làm quần quật nhưng vẫn không kiếm đủ tiền để nuôi sống gia đình, chạy chữa thuốc men cho một bầy con nhỏ quặt quẹo, ốm luôn. Là một người đàn ông, một người chồng, một người cha có tinh thần tự trọng, Hộ rất khổ tâm trước cảnh nhà túng thiếu, nhất là nhìn thấy Từ, vợ mình, người đàn bà đã chịu nhiều đau khổ với người tình cũ, đến với mình đầy ân nghĩa, lại phải chịu đựng, lầm lũi, vất vả quá. Lúng túng, khổ tâm vì chuyện gia đình.

Hộ không mấy khi được ngồi viết văn một cách thanh thản, thực hiện được những điều mình ưa thích, mong muốn. Và bất chấp động cơ, ý nghĩa tốt đẹp, Hộ phải viết một cách cẩu thả, bôi bác, đế kiếm tiền, tạo ra những sản phẩm mà mỗi lần đọc lại “hắn lại đỏ mặt lên, cau mày, nghiến răng, vò nát sách mà mắng mình như một thằng khốn nạn”.

Những sự dằn vặt trong gia đình vì nghèo, vì cảnh vợ con nheo nhóc, thêm sự bất mãn, sự xấu hổ trong việc viết văn mà Hộ thiết tha và đặt bao nhiêu hi vọng, càng ngày càng biến Hộ thành một người bẩn tính, thô bạo, bất cần. Hộ mắng chửi vợ con, say rượu liên miên. Nhưng mỗi khi tỉnh lại, Hộ lại buồn bã, hối hận, càng thương vợ thương con và tự trách mình.

Bố Cục Truyện Ngắn Đời Thừa

Bố cục truyện ngắn Đời thừa có thể chia thành 3 phần như sau:

  • Phần 1: Từ đầu đến “không còn sôi nổi nữa, nhưng rũ buồn”
  • Phần 2: Tiếp theo đến “Chúng mình đi uống rượu… Tôi có tiền…”
  • Phần 3: Phần còn lại

Đọc hiểu văn bản 🌟 Tức Nước Vỡ Bờ 🌟 Khám Phá Nội Dung, Nghệ Thuật

Đọc Hiểu Tác Phẩm Đời Thừa

Gợi ý cách đọc hiểu tác phẩm Đời thừa chi tiết nhất. Tham khảo nhé!

1. Bi kịch tình thương của nhà văn Hộ.

  • Trước khi lấy Từ vợ của mình anh luôn quan niệm phải đặt tình thương lên hàng đầu.
  • Và cũng chính vì quan niệm đó mà trước hoàn cảnh Từ bị người yêu phụ bạc đang mang thai, mẹ già mù lòa côi cút, Hộ không ngần ngại dang tay cứu vớt lấy cuộc đời của người thiếu phụ.
  • Tuy nhiên từ khi lấy Từ về thì bi kịch tình thương cũng diễn ra. Hộ phải chịu gánh nặng cơm áo gạo tiền lo cho cả gia đình, mà tiền viết văn thì cũng chẳng được là bao.
  • Đã thế những đứa con của Hộ và Từ cứ lên sài lên đẹn liên tục ốm triền miên.
  • Một mình Hộ phải lo cho tần ấy người đâm ra bế tắc.
  • Hộ bắt đầu thay đổi thành một con người khác, Hộ chán đời nên lao vào uống rượu, mà mỗi lần uống rượu anh lại đánh vợ mình.
  • Từ cắn răng chịu đựng không trách một câu, Hộ khi tỉnh rượu thì trách bản thân mình tự chửi mình là một thằng khốn nạn.

=> Từ một con người luôn xem trọng tình thương nhưng cuộc sống đã khiến cho Hộ thay đổi thành một con người khác, trở thành con sâu rượu, trở thành một kẻ vũ phu. Xã hội bất công có sức tàn phá con người vô cùng lớn, qua đây cũng thấy giữa lý tưởng và cuộc sống hiện thực rất xa vời.

2. Bi kịch về văn chương

  • Trước khi lấy Từ, Hộ quan niệm anh phải viết một tác phẩm vượt lên mọi giá trị bờ cõi, phải đạt giải thường Noben.
  • Một tác phẩm mà chưa có ai viết về vấn đề mà anh viết, đặc biệt nó còn được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.
  • Sự cẩu thả trong bất kì nghề gì đã là bất lương riêng sự cẩu thả trong văn chương là đê tiện.
  • Tuy nhiên từ khi lấy Từ cuộc sống cơm áo gạo tiền bỗng dưng bắt Hộ phải viết những bài văn nhanh chóng để kiếm tiền.
  • Những bài văn ấy đăng lên khiến cho người ta đọc rồi lại quên -> điều đó làm anh xấu hổ.
  • Gặp gỡ bạn bè nói về văn chương anh lại càng đâm chán nản.
  • Anh tự chửi mình là thằng đê tiện.

=> Người trí thức trẻ cùng một lúc mắc phải hai bi kịch lớn, một nhà văn chân chính làm sao chịu nổi cú sốc này, Nên việc anh tìm đến rượu để giải sầu là một chuyện hết sức tự nhiên và hợp lẽ.

3. Tổng kết

Nam Cao đã khắc họa thành công tấn bi kịch cuộc đời của nhà văn Hộ nói riêng và các bậc trí thức thời xã hội thực dân phong kiến nói chung. Tác phẩm không chỉ nói lên tấn bi kịch mà còn có tác dụng tố cáo xã hội bất công cướp đi ước mơ hoài bão và quyền sống hạnh phúc của con người.

Giá Trị Tác Phẩm Đời Thừa

Điểm lại các giá trị của tác phẩm Đời thừa – Nam Cao.

Giá trị nội dung

  • Phản ánh những bi kịch tinh thần dai dẳng, thầm lặng và đau đớn của người trí thức tiểu tư sản trong xã hội cũ, Nam Cao đã đem đến cho tác phẩm của mình những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.
  • Tác phẩm vừa phơi bày cuộc sống cơ cực, bế tắc của con người trong xã hội Việt Nam trước cách mạng, vừa ca tụng lòng thương, tình bác ái.

Giá trị nghệ thuật

  • Lối viết tự nhiên, dung dị không có dáng vẻ tân kì, nhưng đó là sự dung dị của cây bút già dặn.
  • Cốt truyện đơn giản, khung cảnh hẹp, nhân vật ít hành động. Tác giả khai thác những chi tiết bình dị của cuộc sống để khái quát thành những vấn đề có tính nhân sinh sâu sắc.
  • Truyện có sắc thái chân thật, đậm triết lí trong cuộc sống.
  • Qua nhân vật Hộ, Nam Cao thể hiện quan điểm tiến bộ về nghệ thuật. Quan điểm ấy có tầm vóc và chiều sâu của một nhà văn tự giác về những nguyên tắc sáng tác hiện thực và nhân đạo.

Gợi ý phân tích❤️️ Chí Phèo [Nam Cao] ❤️️ Nội Dung, Nghệ Thuật

Soạn Bài Đời Thừa

Hướng dẫn trả lời các câu hỏi trong phần soạn bài Đời thừa một cách cụ thể:

👉 Câu 1: Nêu ý nghĩa nhan đề “Đời thừa” của Nam Cao.

Đáp án: Đời thừa” có nghĩa là vô ích, vô tích sự, không có ý nghĩa gì cho cuộc đời nữa. Với nhân vật Hộ là một người trí thức đã rơi vào tấn bi kịch “đời thừa” thật đau khổ.Tấn bi kịch vô cùng bi đát của người trí thức nghèo rơi vào tình trạng sống “thừa”.

👉 Câu 2: Nêu những mâu thuẫn giằng xé trong nội tâm nhân vật hộ để làm nổi bật ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm.

Đáp án:

– Mâu thuẫn không thể giải quyết đẩy nhân vật vào bi kịch tinh thần chính là việc khát vọng sống có ích, có ý nghĩa và trách nhiệm chăm lo cuộc sống gia đình:

  • Hộ là nhà văn có hoài bão, ước mơ lớn, cố gắng để biến ước mơ thành hiện thực. Nhưng đối ngược với sự cố gắng ấy là áp lực mà Hộ phải ánh vác là việc kiếm tiền nuôi vợ con. Hy sinh sự nghiệp của mình rồi nhưng Hộ vẫn không thể nuôi sống, chẳng cứu được gia đình của mình.
  • Biến hành động của Hộ chính là việc viết những thứ văn rẻ tiền bỏ đi ước mơ và hơn nữa biến một con người tốt bụng, một người chồng, người cha tràn đầy tình yêu thương thành một kẻ vũ phu.Trong Hộ bây giờ chỉ còn những nỗi dằn vặt, luôn tự mắng chửi mình.

– Lý tưởng và hiện thực. Hộ có nhiều mơ ước, có lý tưởng hoài bão đẹp nhưng thực tế cuộc sống khổ cực đã vùi dập, đè nén. Họ phải vật lộn với cuộc sống nghèo túng nên không thể thực hiện được những hoài bão cao đẹp. Họ từ dằn vặt mình khiến ngày càng chìm sâu vào bi kịch.

 – Là nhà văn, Hộ trở thành kẻ vô tích sự. Hoài bão tiêu tan, phải viết một cách vô trách nhiệm. Hộ viết rồi lại tự dằn vặt mình. Hộ là điển hình cho số phận những người trí thức tiểu tư sản nghèo trước cách mạng. Họ là những con người chân chính, có hoài bão, ước mơ, có nhân cách nhưng xã hội đã đối xử tàn nhẫn với những người trí thức ấy. Xã hội đã lưu manh hoá những con người có nhân cách ấy.

👉 Câu 3: Nỗi đau của Hộ trong tác phẩm là nỗi đau gì?

Đáp án: Nỗi đau của Hộ là nỗi đau của một trí thức không được sống cho ra sống. Với trách nhiệm là một người chồng, người cha phải lo cho gia đình và là một nhà văn cống hiến cho xã hội. Hộ không thể làm tròn hai trách nhiệm đó, anh không thể là một nghệ sĩ chân chính tạo ra những tác phẩm kiệt suất như mong ước mà cũng chẳng thể nào là một con người sống với đúng những nguyên tắc mình đặt ra .Hộ là một kẻ tự nhận thấy sự bất lực của mình mà không tài nào thoát ra khỏi được.

👉 Câu 4: Nêu bút pháp nghệ thuật của nhà văn Nam Cao sử dụng trong tác phẩm.

Đáp án:

  • Nam Cao là nhà văn có biệt tài trong việc miêu tả tâm lý nhân vật. Trong đoạn bốn, nhà văn tập trung miêu tả tâm trạng ăn năn hối hận của Hộ khi tỉnh rượu. Trong lúc say, tinh thần bị ức chế, Hộ đã đánh đuổi vợ con. Khi tỉnh lại, Hộ lại tự dằn vặt, tự trách mình là thằng khốn nạn.
  • Nhà văn đã miêu tả rất thành công tâm trạng này của nhân vật Hộ bằng cách kết hợp giọng kể gián tiếp với ngôn ngữ nửa trực tiếp. Độc thoại nội tâm của nhân vật lồng ghép với ngôn ngữ kể chuyện. Nhà văn hóa thân vào nhân vật để diễn tả những diễn biến tâm lý của Hộ.
  • Hộ tỉnh rượu, cảm giác mệt mỏi, khát nước, nao nao lòng khi nhận ra sự ân cần của vợ, lờ mờ hiểu ra sự tình, hoảng sợ, nhìn dáng vẻ vất vả tội nghiệp của Từ, Hộ ăn năn và tự mắng mình. Hộ đã khóc và tự trách mình… =>Những sắc thái tình cảm của nhân vật đã được nhà văn thể hiện một cách tinh tế và sâu sắc.

👉 Câu 5: Nêu quan điểm nghệ thuật của nhà văn Nam Cao qua tác phẩm.

Đáp án:

  • Thời gian trần thuật của câu chuyện kéo dài trong khoảng một ngày: Bắt đầu từ buổi sáng Hộ đọc sách rồi đi ra phố, uống say trở về đến buổi sáng hôm sau khi Hộ tỉnh rượu. Nhà văn đã sử dụng xen kẽ các đoạn hồi ức nên câu chuyện được kể kéo dài cả một quãng đời của Hộ. Điều đó đã làm nên tính hàm súc cho thiên truyện.
  • Một truyện ngắn truyền tải được nội dung của cả một tiểu thuyết. Đây là một thành công của Nam Cao trong sáng tác truyện ngắn nhờ nhà văn biết cách kết hợp khéo léo các đoạn kể, hồi tưởng, độc thoại nội tâm.

Giáo Án Truyện Ngắn Đời Thừa

Các giáo viên có thể tham khảo mẫu giáo án truyện ngắn Đời thừa mà Thohay.vn chia sẻ sau đây:

A/ Phần chuẩn bị
I. Yêu cầu bài dạy:

1.Yêu cầu về kiến thức, kĩ năng, tư duy:

  • Hs thấy: đây là một tác phẩm tiêu biểu và xuất sắc của NC viết về người TTTTS nghèo trước CMT8.
  • Quan điểm nghệ thuật của NC.
  • Tư tưởng nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của ngòi bút NC.

2. Yêu cầu GD tư tưởng: Hiểu một cách đúng đắn về bi kịch của những con người trước CMT8, từ đó có niềm cảm thương sâu sắc với nhưng số phận của họ.

II. Chuẩn bị:

  • Thầy: sgk, sgv, giáo án
  • Trò: sgk, bài soạn

B/ Phần thể hiện trên lớp:
I. Kiểm tra bài cũ:
II. Bài mới:

Lời vào bài: NC có một quan điểm nghệ thuật rất tiến bộ, nó có tác dụng định hướng cho sự nghiệp sáng tác của ông, “Đời thừa” là tác phẩm thể hiện đầy đủ nhất quan điểm của NC.

1. Giới thiệu chung

a. Xuất xứ:

  • Truyện ngắn “Đời thừa” xuất hiện trên văn đàn khi nào?=>Đăng trên tuần báo “Tiểu thuyết thứ 7” số 490 ra ngày 4/12/1943

b. Đề tài:

  • Truyện tiêu biểu cho đề tài nào trong stác của NC? => Người TTTTS
  • Đây có phải là đề tài mới ko? => Không: (đương thời đã có)

c. Nhan đề: “Đời thừa”: cuộc sống vô ích. Không có ý nghĩa gì.

2. Phân tích

a. Bi kịch của nhân vật Hộ

*Bi kịch của một nhà văn:

? Hộ là nhà văn ntn?

  • Có tài và có ý thức rất cao về nghề nghiệp
  • Đầy tâm huyết với nghề

? Sự tâm huyết của Hộ được thể hiện qua đâu?

=> Dù nghèo, Hộ vẫn say mê và dốc lòng phụng sự cho NT

? Niềm đam mê này đã giúp Hộ quên đi những khó khăn nào?

=> Hộ vượt qua tất cả: những khó khăn nghèo túng, những nhỏ nhen của cs

? Em thấy văn chương có vị trí ntn trong cđ Hộ?

  • Văn chương với Hộ là tất cả: 1 sự sống, 1 lẽ sống, lí tưởng sống của đời anh
  • Biết quý trọng nghề văn
  • Đầy khó khăn vất vả song Hộ vẫn ko hề nản chí, anh yêu văn chương bằng 1 t/cảm, nhiệt huyết sôi nổi.

? Tình cảm đó được thể hiện qua đâu?

=>Qua lời tâm sự của anh với Từ (T208)

? Tình yêu và niềm đam mê ấy đã khiến Hộ ôm ấp điều gì?

=>Ôm ấp hoài bão lớn lao và khát vọng đẹp đẽ về sự nghiệp văn chương

? Hộ có hoài bão ntn về sự nghiệp văn chương?

  • Khao khát viết 1 tp sẽ làm mờ đi các tác phẩm cùng ra 1 thời
  • Khao khát viết 1 tp sẽ ăn giải Noben và dịch ra mọi thứ tiếng trên toàn cầu => Đấy là khát khao vinh quang chính đáng.

? Hộ đã làm gì để thực hiện những hoài bão của mình?

=> Hộ say mê tìm tòi, học hỏi..

? Thái độ lđ NT này còn xuất phát từ qđ nào?

=>Hộ quan niệm đúng đắn về nghề văn

? Hộ có quan niệm ntn về nghề văn?

  • Văn chương phải là sự sáng tạo.
  • Người cầm bút phải có trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp.

? Hộ có thực hiện đc hoài bão của mình hay ko?

=>Hộ không thực hiện đc giấc mơ, hoài bão của mình. Nguyên nhân:

  • Hộ gặp Từ, từ đó phải lo lắng tủn mủn về vật chất
  • Không còn viết thận trọng như trước nữa mà phải: viết vội, viết vàng..

=> Là Sự tha hóa về ngòi bút trước sự tấn công của miếng cơm, manh áo, của đồng tiền

? Hộ có phản ứng ntn trc những tác phẩm đó của mình?

  • Hốt hoảng, ngạc nhiên
  • Hổ thẹn, đau đớn

? Em thấy đây là nỗi đau như thế nào?

=>Là Đây là nỗi đau âm ỉ, tủi nhục, xót xa trong tâm can

? Hộ nhận ra đó là nỗi đau ntn?

=> Hộ nhận ra mình là một kẻ vô ích, một người thừa

b. Bi kịch của một con người chân chính

  • Cáu bẳn vô cớ: Đánh đuổi vợ con ra khỏi nhà trong đêm
  • Tuyệt vọng vì cơ hội trở lại nghề văn ngày một xa
  • Uống rượu
  • Hộ đã vi phạm và chà đạp lên lẽ sống tình thương
    Đau đớn, dằn vặt và ân hận

3. Tổng kết:

a. Nghệ thuật:

  • Lối viết truyện tự nhiên sinh động.
  • Đặc sắc về khả năng xây dựng nhân vật điển hình.
  • Biệt tài về phân tích diễn biến tâm lí của nhân vật.

b. Nội dung:

  • Tác phẩm giàu giá trị hiện thực và nhân đạo.
  • Đặt ra vấn đề muôn thủa, ý nghĩa sống còn của nghệ thuật => Bài học: con người sống phải biết ước mơ, sống có tình thương và có khát vọng vươn tới cái thiện, cái chân.

Có thể bạn quan tâm 🌿 Hạnh Phúc Của Một Tang Gia 🌿 Nội Dung, Nghệ Thuật 

Sơ Đồ Tư Duy Đời Thừa

Bạn có thể xem thêm mẫu sơ đồ tư duy tác phẩm Đời thừa dưới đây để nhanh nắm bắt nội dung, nghệ thuật tác phẩm.

Sơ Đồ Tư Duy Đời Thừa
Sơ Đồ Tư Duy Đời Thừa

5 Mẫu Phân Tích Đời Thừa Của Nam Cao Hay Nhất

Sưu tầm 5 mẫu phân tích tác phẩm Đời thừa của Nam Cao hay nhất chia sẻ cho bạn đọc.

Mẫu Phân Tích Đời Thừa Của Nam Cao Hay

Từ khi viết những tác phẩm đầu tiên (1936) cho đến khi ngã xuống trên đường đi công tác (1951) Nam Cao cầm bút vỏn vẹn có 15 năm. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi ấy, ông đã làm nên sự nghiệp của một đời văn. Người ta xem ông là nhà văn hiện thực xuất sắc, là nhà văn hàng đầu Việt Nam thế kỉ XX.

Nhiều tác phẩm của ông cho đến nay vẫn tràn đầy sức sống. Nhiều nhân vật của ông vẫn sống giữa cuộc đời hôm nay. Tạo được những trang viết như thế chứng tỏ bút lực của Nam Cao có sức sống mãnh liệt. Đó là bút lực của một nhà văn có quan niệm nghệ thuật sâu sắc và đúng đắn.

   Nam Cao không viết thành hệ thống quản lí luận tư tưởng nghệ thuật của mình. Nhưng tư tưởng ấy được bộc lộ khá rõ nét trong nhiều tác phẩm của ông đặc biệt như trong truyện ngắn “Đời thừa”. Chính vì thế, nhiều người xem “Đời thừa” là một tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao.

Đọc “Đời thừa” của Nam Gao người đọc có thể tìm thấy nhiều quan niệm nghệ thuật sâu sắc ẩn chứa trong đó, trước hết là quan niệm của ông về nghệ thuật cuộc đời. Ông cho rằng nghệ thuật phải gắn bó với cuộc đời.

Trước đây, trong truyện ngắn “Trăng sáng” ông đã phê phán thứ nghệ thuật thoát ly cuộc đời. Theo ông nghệ thuật mà không thoát ra từ những kiếp lầm than, đau khổ thì chỉ là thứ “ánh trăng lừa dối”. Ông cho rằng nghệ thuật phải miêu tả chân thật cuộc đời.

Ở “Đời thừa”, ông lại phê phán thứ văn chỉ mới miêu tả được cái bề ngoài của xã hội. Ông để cho nhân vật Hộ trong truyện ngắn này đánh giá cuốn “Đường về” của nhân vật Quyên chỉ là một cuốn sách xoàng “xoàng lắm”, chỉ có giá trị địa phương thôi, vì nó mới chỉ miêu tả được cái bề ngoài của xã hội.

Như vậy, ở “Trăng sáng”, ông phê phán văn chương thoát ly, thì ở “Đời thừa” ông lại phê phán thứ văn chương tả chân hời hợt. Trước sau ông đều khẳng định văn chương phải gắn bó với cuộc đời, phản ánh được chiều sâu của cuộc đời.

Từ đó ông cho rằng một tác phẩm có giá trị phải là một tác phẩm thể hiện được những “rung động của đời”. Hơn thế nữa một tác phẩm thật sự có giá trị là tác phẩm “vượt lên trên tất cả mọi bờ cõi và giới hạn, phải là tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi… Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn”.

Giá trị của văn chương chính là ý nghĩa của nó đối với cuộc đời. Văn chương chỉ có giá trị khi nó vượt lên mọi bờ cõi và giới hạn, khi nó là của chung của loài người. Nó phải có giá trị nhân loại.

Hơn thế nữa văn chương có giá trị khi tác động mạnh mẽ đối với con người và cuộc đời: chứa đựng cái gì đó lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, vừa phấn khởi. Nó làm cho người gần người hơn.

Giá trị của văn chương còn là ý nghĩa nhân dân mà nó mang đến cho đời khi nó ca tụng lòng thương, tình bác ác và sự công bình.

Những lời lẽ tưởng như là bốc đồng của nhân vật Hộ giữa đám bạn bè hóa ra lại là những tuyên ngôn nghệ thuật sâu sắc và tiến bộ của Nam Cao. Gần như ông đã nói đến những điều cơ bản nhất, chủ yếu nhất cái làm nên giá trị đích thực của văn chương. Quan niệm ấy của ông rất gần gũi với quan niệm chúng ta ngày nay.

Nhưng Nam Cao không chỉ tuyên ngôn về ý nghĩa của văn chương đối với cuộc đời, mà ông còn đề cập khá sâu sắc đến nghề văn và sáng tạo trong văn chương.

   Ông cho rằng nghề văn là một nghề cao quý. Nghề văn đòi hỏi nhà văn phải lương tâm và trách nhiệm. Nam Cao cho rằng sự cẩu thả trong bất cứ nghề cũng là một sự bất lương, nhưng cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện. Nhân vật đã phải đau đớn, xót xa, day dứt như thế nào khi phải cho in g cuốn văn viết vội, khi phải viết những “bài báo để người ta đọc rồi quê ngay”. Anh mắng mình, xỉ vả mình như xỉ vả một kể khốn nạn.

   Mặt khác Nam Cao cũng cho rằng nghề văn cũng là một nghề sáng tạo. Ông viết: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, sáng tạo ra những gì chưa có”.

   Theo Nam Cao, Văn chương không phải là nghề của những người thợ khéo tay làm theo những khuôn mẫu có sẵn. Bởi vì dù “khéo tay” đến đâu mà làm theo những “khuôn mẫu có sẵn” thì còn đâu là sáng tạo nữa, mà chỉ tạo nên những trang viết nhợt nhạt, thiếu sức sống mà thôi.

Nhận thức này của Nam Cao có lẽ phần nào có sự chiêm nghiệm của chính ông về những năm tháng cầm bút đầu tiên trong cuộc đời. Lúc này, Nam Cao viết nhiều bài thơ, truyện ngắn theo cách thức khuôn mẫu của văn chương đương thời, nhưng rồi ông đã nhận ra những tác phẩm ấy thiếu hơi thở của cuộc đời nhợt nhạt thiếu sức sống vì chưa thoát khỏi sự khéo tay, chưa vượt qua những “khuôn mẫu có sẵn”.

Từ đó, ông chuyển sang khuynh hướng hiện thực. Và từ đây những trang viết của ông mang cái ấm nóng hơi thở cuộc đời. Ông nhận ra rằng văn chương không thể rập khuôn, càng không thể là “thấy người ta ăn khoai mình cũng vác mai đi đào”.

Từ nhận thức đó ông khẳng định, văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, biết sáng tạo. Nhà văn phải là người khám phá những nét bản chất của đời sống ở cái bề sâu của nó, chứ không phải chỉ nhìn cái hời hợt bề ngoài.

Đó không chỉ là quan niệm mà đã trở thành nỗi trăn trở trong suốt cuộc đời cầm bút của ông. Hình như ở trang viết nào của ông cũng lấp lánh sự sáng tạo.

Cũng như nhiều nhà văn cùng thời, ngòi bót Nam Cạo thường hướng về số phận những con người cùng khổ. Cũng như nhiều nhà văn khác, ông nhận la bao nhiêu xót xa, đắng cay đối với sộ phận con người. Nhưng có lẽ ít ai nhìn thấy nỗi đau tinh thần của con người thấm thía như ông.

Ông nhận ra cả nỗi đau không được làm người trên gương mặt một con quỉ dữ như Chí Phèo, ông nhận ra trong giọt nước mắt khóc cho một con chó của lão Hạc có bao nhiêu day dứt. Ông nhìn một bữa. Những nỗi đau ấy đã đọng lại thành những dòng nước mắt trên những trang viết của ông.

Hay ở nghệ thuật viết truyện của ông, chúng ta cũng thấy bao nhiêu là sáng tạo. Ông ít chọn cho mình những câu chuyện có cốt truyện như thường gặp, mà đi chọn những chuyện không có cốt truyện để rồi qua đó đưa ra những độc thoại nội tâm, những phân tích tâm lí đặc sắc, tạo nên nét riêng trong cách viết. Có thể nói ở đây ta cũng có thể gặp những sáng tạo như vậy trong những trang viết của Nam Cao.

Từ đây có thể nói rằng “Đời thừa” không chỉ là truyện ngắn mà còn là tuyên ngôn nghệ thuật. Tuyên ngôn nghệ thuật của một nhà văn đã xem văn chương là cuộc đời, xem nghề văn là nghề cao quý của con người có thiên lương và trách nhiệm.

Mẫu Phân Tích Đời Thừa Của Nam Cao Ngắn Hay

Nam Cao là nhà văn tuyệt vời của nền văn chương Việt Nam, ông mang hầu hết tác phẩm viết trong thời kỳ trước năm 1945, trong những sáng tác của ông với thể nhắc tới tác phẩm Đời Thừa. Tác phẩm đã miêu tả sự hà khắc của phố hội lúc bấy giờ, biến con người trở thành các người bị tha hóa do phố hội đưa đẩy, biến người tri thức phải chịu cảnh nặng nằn nì về cơm áo gạo tiền.

Tác phẩm xoay quanh nhân vật Hộ, một nhà văn trẻ có tài, viết thận trọng, ủ ấp 1 lí tưởng, một hoài bão xây dựng nên một sự nghiệp văn học. Nhưng từ khi mở mang đôi cánh tay, đón lấy Từ, một cô gái lỡ dở bị nhân tình phụ bạc, Hộ nuôi vợ, nuôi mẹ già, con dại cho vợ, Hộ mới hiểu thế nào là giá trị của đồng bạc.

Hộ phải viết đa dạng cuốn văn viết vội. Hắn đỏ mặt xấu hổ lúc đọc văn mình, tự mắng mình là 1 thằng khốn nạn. Vốn thương vợ con thế nhưng rồi Hộ tìm tới rượu, thay đổi dần tính tình. Hắn say rượu, ngủ say như chết, có lần hắn đòi đuổi mấy mẹ con ra khỏi nhà, đòi vật 1 nhát cho chết cả. Nhưng sáng hôm sau tỉnh giấc rượu hắn bẽn lẽn kêu mình đã quá chén, xin lỗi trong khoảng, hắn hứa hẹn sẽ chừa rượu, nhưng rồi lại uống, lại say, lại làm những trò đáng sợ như lần trước.

Lúc Từ ốm đau, Hộ lo xanh mắt thức suốt đêm chăm nom thuốc men cho vợ. Đi xa vài ngày, lúc về nhà hắn hôn hít những đứa con, cảm động đến ứa nước mắt. Hắn đọc sách và nghiền ngẫm, hắn bộc bạch dẫu ăn 1 món ăn ngon tới đâu cũng không thích bằng đọc và hiểu được 1 câu văn hay.

Có lần, trước khi đi lấy tiền nhuận bút, hắn hứa sắm bánh và giết mổ quay về cho các con. Nhưng hắn gặp Trung và Mão, bạn văn, bao lăm tiền đem tiêu sạch. Say mèm mới trở về nhà. Lần này, hắn đánh và đuổi vợ con ra khỏi nhà khi đang đêm, gần sáng, thức giấc rượu, hắn nhao nhác đi kiếm Từ.

Thấy Từ xanh mét ôm ấp con thơ đang thiếp đi trên võng, hắn thương cảm, ngắm nghía mặt Từ lâu lắm rồi khẽ thở dài, lắc đầu ái ngại và khóc. Từ thức giấc, choàng tay ấp ủ lấy cổ chồng. Nước mắt từ dầm dề. Nức nở trong khoảng nói: “Chính em mà anh khổ”.. giật thột, con thơ khóc. Từ vừa dỗ con, vừa đựng tiếng ru qua làn nước mắt:

“Ai làm cho khói lên giời”
Cho mưa xuống đất, cho người biệt li;
Ai cho Nam, Bắc phân kì,
Cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thân.”

Chính chiếc nghèo đói đã làm những người tri thức ấy bị tha hóa, không mang một lối thoát nào. Nam Cao đã xây dựng thành công nên hình tượng nhân vật của mình, mang những nét tinh tế trong sáng tác, ông để cho nhân vật của mình biểu lộ rõ tâm trạng, mô tả tình cảm nội tâm, qua ấy toát lên được diễn biến tâm lý.

Khi nhân vật Hộ ngộ ra được cuộc sống hiện thực, ông thoát ly hoàn toàn sở hữu cuộc sống trong văn học. Trước hiện thực cuộc sống, nhà văn đã phản ảnh sâu sắc được hiện thực xã hội lúc bấy giờ. Đúng như quan niệm của Nam Cao về cuộc sống, nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật phải là kiếp thống khổ, thoát lên trong khoảng những kiếp lầm than

Quả đúng như vậy, mỗi sáng tác của ông đã để lại cho người đọc các suy ngẫm về cuộc sống, tương lai và giá trị hiện thực được phản ảnh sâu sắc, tinh tế nhất.

Đời thừa là tác phẩm phản ảnh sâu sắc hiện thực cuộc sống thời kỳ trước CMT8, ở đó người kiến thức bị thị trấn hội hóa, bị đẩy vào tấm bi kịch, họ rơi vào sức ép cơm áo gạo tiền, mà giày xéo lên nghệ thuật chân chính, chính loại nghèo đói, đã biến những người làm nghệ thuật chân chính phải phá vỡ lệ luật mà mình đã đề ra.

Đời Thừa là một tác phẩm đề đạt rất rõ các số phận của con người làm văn chương trước năm 1945, do đói nghèo, con người bị tha hóa, các người nghệ sĩ chân chính cũng luôn phải chịu áp lực tiền bạc, cơm áo hàng ngày, để rồi bị tha hóa đi tâm hồn của các người nghệ sĩ.

Mẫu Phân Tích Đời Thừa Của Nam Cao Chọn Lọc

Nam cao là một nhà văn nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam, ông đi sâu vào chủ nghĩa hiện thực, lột tả hết những cái khốn khổ của lớp dân lành trong xã hội cũ từ người nông dân cho đến người trí thức. Hầu hết những tác phẩm ấy đều có cốt truyện là tấn bi kịch của cuộc đời nhân vật chính, tuy nhiên vẫn thấm đượm tính nhân văn sâu sắc trong từng câu chữ, đặc biệt là tấm lòng yêu thương đồng loại và Đời thừa chính là một tác phẩm như vậy.

Đời thừa được viết và đăng báo lần đầu tiên vào năm 1943, đây là một tác phẩm đặc sắc của Nam Cao nói về số phận của giới tri trức trong nhưng năm trước cách mạng, được ví như một tác phẩm văn học dành cho cả loài người bởi nó đã vượt qua khỏi mọi ranh giới của lòng bao dung giữa người với người, đấy là thứ tình cảm đáng trân quý biết bao.

Càng khẳng định được công việc làm nghệ thuật không phải chỉ làm qua loa đại khái cho có lệ, mà đó là cả một công trình dày đặc tâm sức mà người nghệ sĩ phải bỏ ra bao gồm cả máu và nước mắt. Nếu viết văn mà cẩu thả thì đó gọi là vô lương tâm, là bất lương, là đê tiện bởi tác phẩm là đứa con tinh thần bất diệt của nhà văn.

Tất cả những điều kể trên đều được thể hiện trong tác phẩm Đời thừa mà nhân vật chính là Hộ, một trí thức có niềm đam mê văn học nhưng lại phải đi ngược lại với cái mong muốn của mình vì phải kiếm tiền cưu mang vợ con, điều đó đã đẩy Hộ vào tấn bi kịch cuộc đời, vào một cái vòng luẩn quẩn không lối thoát.

Câu chuyện mở đầu bằng ánh mắt của Từ, vợ Hộ nhìn anh bằng ánh mắt rụt rè mà trong đó là niềm thương yêu sự nhẫn nhịn, hình ảnh nhân vật Hộ hiện lên thật rõ nét, điều ấy cũng phần nào bao quát được cuộc sống hiện tại của Hộ. Đôi mày rậm chau lại, trán có nếp nhăn, đôi gò má cao bóng nhẫy, mũi cũng cao mà thẳng tắp, đôi mắt sáng hơi lồi. Tất cả những nét đó đem đến cho Hộ một vẻ “hốc hác” và “trông khắc khổ đến thành dữ tợn”, đến cả người hàng ngày đầu ấp tay gối với anh cũng thấy sợ “Từ thấy sợ” .

Nói đến Từ người phụ nữ có số phận bất hạnh, từng khóc cạn nước mắt, định chết cùng đứa con mới đẻ khi bị kẻ nhân tình sở khanh ruồng bỏ. Nhưng đời Từ đã chuyển sang một hướng khác, khi được Hộ một chàng trai tốt bụng lại yêu văn chương cưu mang, nhận làm vợ và trở thành một người mẹ, người vợ cam chịu, nhẫn nhịn.

Nam Cao so sánh tình yêu của Từ dành cho chồng gần như tình cảm của một con chó đối với chủ nhân của nó. “Từ là một người vợ rất ngoan, rất phục tùng, rất tận tâm”, suốt mấy năm trời Từ chưa một lần nào có ý nghĩ khác, hay cãi lại chồng, bởi đối với Từ, Hộ không chỉ là người cứu vớt cuộc đời mình ra khỏi vũng bùn lầy mà còn là người mà Từ phải mang ân suốt đời, thay cho cả mẹ gìa và con thơ của mình.

Từ không có gì cả, Từ chỉ có đôi bàn tay trắng, sự dịu dàng đúng mực và lòng biết ơn sâu sắc nên dù có phải làm nô lệ cho Hộ, cô cũng chẳng từ nan.

Thế nhưng cũng không sung sướng được bao lâu, bởi sau cái hành vi đầy nhân đạo của mình, cùng với tình yêu của vợ thì Hộ lại rẽ vào một con đường khác và đó không phải là lý tưởng của anh. Hộ nghèo, đúng vậy nhà văn thuở trước cách mạng làm gì có ai giàu, may mắn lắm thì đủ bữa ăn, bữa mặc, nuôi thân còn khó huống chi đến việc nuôi cả một gia đình, vừa vợ vừa mấy đứa con thơ dại đang chờ Hộ mang tiền về.

Từ đây Hộ bước ra khỏi con đường viết văn chân chính với những tác phẩm tràn đầy tâm huyết, từ bỏ thứ hoài bão lớn lao mà anh từng theo đuổi cả tuổi trẻ, để viết những thứ văn chương mà theo anh là “toàn những cái vô vị, nhạt nhẽo, gợi những tình cảm rất nhẹ, rất nông, diễn một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi”.

Hộ thấy xấu hổ đỏ cả mặt khi đọc lại những đoạn văn ấy, Hộ tự thấy sao mình khốn nạn quá, bất lương quá, sự cậu thả trong văn chương khiến Hộ thấy mình thật đê tiện. Suốt mấy năm trời Hộ không có một tác phẩm nào ra hồn, anh tự thấy mình thật thừa thãi trong giới văn chương nơi mà không cần “những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho” mà chỉ dung nạp những kẻ biết tìm tòi ra cái mới.

Hộ nghĩ thế thế và thấy sao đau đớn quá, những suy nghĩ tự trách cứ mãi quẩn quanh trong cái đầu óc của một người đàn ông khắc khổ vì phải lo cơm áo gạo tiền và ti tỉ những thứ khác cho vợ con vừa phải vật lộn với nỗi đau trái lương tâm nghề nghiệp. Nhưng Hộ có thể quay lại với hoài bão của mình mà bỏ vợ con nheo nhóc được hay sao? Lương tâm và trách nhiệm của một người chồng người cha không cho phép anh làm như vậy.

Hộ tự an ủi mình bằng suy nghĩ cố gắng làm vài ba năm kiếm tiền cho đủ vốn để Từ buôn bán nhỏ, rồi anh sẽ rảnh rỗi để thực hiện tiếp ước mơ văn chương một cách tử tế nhất. Nhưng cuộc sống luôn nghiệt ngã như vậy khi mà những đứa con của hai vợ chồng cứ lần lượt ra đời, chúng cứ liên tục quấy khóc, bệnh vặt liên miên, khiến Từ gần như không còn đủ sức để lo thêm việc nào nữa.

Nhà cửa ồn ào, khiến Hộ không thể tập trung mà viết một thứ nào cho ra hồn, đã nhiều lúc Hộ vì thấy bực dọc và uất ức trong lòng mà “đang ngồi bỗng đứng phắt lên, mắt chan chứa nước, mặt hầm hầm, vùng vằng đi ra phố, vừa đi vừa nuốt nghẹn”.

Hộ ban đầu chỉ đi tìm mấy người bạn bàn về văn chương, uống đôi cốc bia cốc chanh giải khát, rồi đến khi đã vơi hết nhọc nhằn, khó chịu Hộ lại về nhà trong nỗi buồn miên man. Nhưng dần dà Hộ đã thay đổi, Hộ đi ra ngoài và về nhà trong cái say mèm chẳng biết trời trăng rồi đổ ập xuống giường thiếp đi, Từ ở nhà đợi chồng phải rón rén lừa con ngủ mới dám thay áo quần và đắp chăn, kê gối cho chồng.

Đấy là những hôm Hộ đã ngủ, còn có những buổi chẳng hiểu cớ sự gì, Hộ cũng về nhà trong men say rồi nhìn gườm gườm nhìn vợ, nói những lời như dọa trẻ con, Từ không dám nói lời nào, bởi cô nghĩ âu tất cả cũng do mình.

Hộ dọa đuổi, dọa giết, chắc có lẽ vì túng quẫn và đau khổ quá mà Từ đã thốt ra những lời như vậy, đọc vào đôi khi ta cảm thấy đó không phải là lời thật lòng của Hộ, phải chăng Hộ chỉ đang đùa, đùa cho vơi bớt cái khổ tâm sầu não của anh, bởi ngữ điệu của câu nói trong lúc say khướt ấy chẳng mang tính điên cuồng nào cả, tưởng như Hộ chỉ đang dọa nạt mấy đứa con nít xíu xiu chưa biết gì.

Thế nhưng lúc tỉnh cơn say Hộ lại trở về là người cha người chồng mẫu mực, thương yêu vợ con như chưa từng có những lời nói hôm qua, riết rồi cũng thành quen Từ không giận nổi nữa. Bởi chính Từ cũng tự nghĩ rằng bi kịch của Hộ chính là do Từ mang đến, nhiều lần Từ muốn bồng con đi thật xa, có lẽ thế thì Hộ sẽ hết khổ, sẽ trở lại là chàng trai tươi sáng năm nào, chứ không phải gã đàn ông khắc khổ, rượu chè như bây giờ.

Nhưng cái thứ tình cảm mềm yếu trong Từ đã giữ chân không cho Từ đi lấy nửa bước và Từ lại tiếp tục ở lại ngoan ngoãn chăm sóc chồng con bằng một tình yêu và sự hi sinh trung thành nhất. Từ nhớ đến lúc Hộ hôn hít, bế bồng các con, lúc Hộ xanh mặt thức đêm chăm sóc mình ốm bệnh, Từ nhận ra cả hai vợ chồng đều yêu và cần nhau đến mức nào, như vậy Từ càng không thể bỏ đi được, Từ sẽ ở lại đến tận cùng với chồng với con, đói rách cũng chẳng sao chỉ cần được ở bên nhau.

Câu chuyện lại tiếp tục tiến vào cái vòng luẩn quẩn của nó khi Từ nhắc đến tiền nhà, Hộ lại tỏ ra khó chịu, bởi biết bao nhiêu thứ cần đến tiền, mà tiền thì đã hết từ hôm mồng 10 đầu tháng. Hộ ân hận vì mình đã tiêu pha quá trớn để vợ con phải nheo nhóc, thậm chí đói, thế nên anh quyết tâm hôm nay lấy được tiền lương thì sẽ về thẳng nhà, ăn cơm với vợ con, mua thêm chút đồ ăn nữa và cứ thế Hộ nằng nặc đòi vợ phải đợi mình về ăn cơm.

Thế rồi mọi chuyện lại chẳng được như Hộ nghĩ anh lại tiếp tục lao vào cuộc nhậu với bạn bè của mình, quên béng đi rằng vợ con anh đang háo hức chờ cha về trong mỏi mòn. Sáng hôm sau Hộ thức dậy tại nhà, anh giật bắn mình dáo dác đi tìm vợ, Hộ sợ Từ bỏ đi mất, bởi hình như anh lờ mờ nhớ ra hôm qua mình đã đánh và đuổi cả Từ đi nữa.

Thật may Từ vẫn ở nhà, ôm con thiếp đi trên chiếc võng, lúc này Hộ ân hận biết bao nhiêu, sao anh lại có thể làm như thế với người vợ tào khang chân yếu tay mềm, người chưa từng cãi anh một lời mà chỉ biết vâng dạ chăm sóc cho cha con anh ngày này qua tháng khác.

Hộ khóc, khóc vì bất lực trước cuộc sống, khóc vì thương vợ cũng khóc cho cái bi kịch trái ngang của cuộc đời mình, anh đã làm khổ mình cũng làm khổ cả vợ con bởi cái bản ngã cái tự trách đầy tiếc nuối về hoài bão xưa kia.

Thế mới nói co người chỉ thực sự làm tốt khi họ hoàn toàn chú tâm vào chúng, còn Hộ anh vừa muốn sống cho lý tưởng vừa muốn sống cho thực tế (kiếm tiền), mà hai thứ ấy nào có dung hòa được với nhau. Cuối bài lời ru con của Từ đã dấy lên nhiều suy nghĩ:

“Ai làm cho khói lên giời”
Cho mưa xuống đất, cho người biệt li;
Ai cho Nam, Bắc phân kì,
Cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thân.”

Cuộc sống đau khổ của vợ chồng Hộ có lẽ nguồn cơn to lớn nhất ấy là bối cảnh đất nước những năm trước cách mạng, cái xã hội ấy đã kìm kẹp người nông dân và người trí thức khiến họ phải sống trong kiếp vật vờ, đầy bi kịch, tiêu biểu là nhân vật Hộ, một trí thức với nhiều hoài bão ước mơ, nhưng cuối cùng vì sự khốn khó xuất phát từ tấm lòng thương người của mình mà phải đau khổ.

Truyện ngắn Đời thừa là một trong những tác phẩm xuất sắc của Nam Cao về đề tài hiện thực xã hội trước Cách mạng tháng 8, năm 1945, ở đó ta thấy được một nghịch lý rất lạ, lòng nhân đạo của nhân vật cũng chính là sợi dây dẫn đến bi kịch cho chính cuộc đời họ, rồi từ trong cái bi kịch ấy ta lại thấy hiện lên những thứ tình cảm khác, ấy là tình vợ chồng, tình cha con, tình người.

Và có lẽ ấn tượng nhất ấy là tấm lòng yêu văn chương sâu sắc đến day dứt của nhân vật Hộ, nhấn mạnh một quan điểm nghệ thuật rất tâm đắc của Nam Cao: Văn chương không được phép cẩu thả, cẩu thả là vô lương tâm, là đê tiện.

Mẫu Phân Tích Đời Thừa Của Nam Cao Tiêu Biểu

Nam Cao là một nhà văn lớn của Việt Nam. Những tác phẩm của ông đem lại những giá trị lớn cho kho tàng văn chương Việt Nam. Tác phẩm truyện ngắn “Đời thừa” mà ông viết vào năm 1943 là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách văn chương của ông.

Tác phẩm đã thể hiện rõ hình ảnh của những trí thức nghèo. Với những hoài bão lớn lao đã bị nhấn chìm bởi chính cái nghèo đeo bám. Hôm nay chúng ta hãy cùng nhau phân tích tác phẩm truyện ngắn “Đời thừa” của Nam Cao. Phân tích tác phẩm truyện ngắn “Đời thừa” của Nam Cao.

Tác phẩm “Đời thừa” nói về cuộc sống của một nhà văn, một trí thức nghèo. Nhà văn đó là một người có trách nhiệm với gia đình. Yêu vợ thương con và là một con người trung thực. Anh luôn ấp ủ trong mình những hoài bão lớn. Và thực sự nghiêm túc về công việc văn chương của mình. Anh có mong muốn viết nên một tác phẩm để đời. Một tác phẩm có thể làm lu mờ những tác phẩm khác cùng thời, và tác phẩm đó sẽ đoạt giải Nobel.

Nhưng một cái thực tế thực sự phũ phàng. Cuộc sống này dường như đã nhấn chìm giấc mơ ấp ủ của anh. Một cảnh đời với bao buồn lo suy nghĩ về cuộc sống. Làm quần quật suốt ngày để kiếm tiền, nhưng vẫn không đủ tiền để nuôi gia đình. Không có tiền để chạy chữa cho đàn con lúc ốm đau bệnh tật. Một hình ảnh người đàn ông, một người chồng, một người cha có lòng tự trọng rất cao.

Nhân vật Hộ, được xây dựng nên thực sự là một người đàn ông mẫu mực trong cái xã hội đó. Anh rất khổ tâm trước cảnh cơ cực của gia đình, buồn rầu trước cảnh nhà túng thiếu. Và anh cũng thực sự buồn rầu khi vợ mình là Từ. Một người phụ nữ đau khổ với người tình cũ đã đến bên anh nhưng lại phải cùng anh chịu đựng sự cực khổ, vất vả lầm lũi.

Cuộc sống khổ cực, túng thiếu khiến cho Hộ không thể nào có thời gian viết lách văn chương một cách thanh thản. Và chính vì thế, Hộ viết nhanh, viết cẩu thả. Những tác phẩm văn của anh không được chỉnh chu, thậm chí là người ta đọc xong đã quên luôn. Hộ cảm thấy xấu hổ với chính bản thân mình. Cảm thấy thực sự tủi nhục vì nghĩ đến những hoài bão lớn lao của mình trước đây.

Có thể nói rằng trong hoàn cảnh như vậy, những người như Từ chỉ biết chịu đựng, nhẫn nhục, và càng hiểu chồng, thương chồng. Nhưng dường như ở Hộ là một nhà văn. Hộ như đã càng thấy hoàn cảnh sống thật là nặng nề, như không có lối thoát, một bi kịch thật sự. Văn sĩ Hộ có lúc nói ra miệng là vợ con làm khổ mình, nhưng trong thâm tâm anh biết không phải như vậy. Có lẽ chẳng biết trách ai, anh tự trách mình, xỉ vả mình. Gặm nhấm một mình nỗi bất bình và đau khổ.

Nhân vật chính trong tác phẩm là nhà văn. Chính vì vậy cho nên, tác phẩm đã thông qua cuộc sống và nhất là suy nghĩ của nhân vật Nam Cao. Như cũng đã đề cập trực tiếp đến một vấn đề mà ông thường xuyên quan tâm. Đó chính là vấn đề sáng tạo nghệ thuật, quan niệm và yêu cầu của ông về văn chương. Hộ rất thiết tha với nghề văn. Sáng tạo văn chương là khát vọng, là lí tưởng của đời Hộ.

Lúc đầu, Hộ coi khinh những lo lắng tủn mủn về vật chất. Dồn hết tâm sức vun trồng cho cái tài mỗi ngày một thêm nảy nở. Hộ đọc, ngẫm nghĩ, tìm tòi, nhận xét và suy tưởng không biết chán. Hộ biết đi vào nghề văn sẽ nghèo, sẽ khổ, nhưng Hộ chấp nhận. Và chính với văn chương cũng mang lại cho Hộ niềm vui không gì sánh được. Mỗi lần Hộ tâm sự với vợ nhân đọc được một đoạn văn hay cả.

Và để rồi khi Hộ đã phải viết cẩu thả cho nhanh những tác phẩm không ra sao để có thể có thêm tiền lo cho cuộc sống. Chính cái nghèo đói đã là Hộ trở thành một “kẻ đê tiện” trong văn chương. Và đây cũng chính là quan niệm của nhà văn Nam Cao gửi gắm vào đó.

Người đọc như cũng đã chắc chắn đó cũng là mong ước. Là yêu cầu của Nam Cao về một tác phẩm hay, về văn chương. Văn chương đối với Hộ hay chính là nhà văn Nam Cao không chỉ là nghề mà còn là nghiệp. Một sự ràng buộc, một nhu cầu nội tại văn chương. Và cả về phương diện sáng tác cũng như thưởng thức. Là nỗi đau mà cũng là niềm vui, là hạnh phúc, tự nguyện của từng người.

Văn chương dường như đã được xem là lĩnh vực của tài năng, của sự liên tài. Ta như đã có thể thấy tác dụng cao quý của văn chương là nhân đạo hóa xã hội và cuộc sống ngày nay. Làm cho con người cảm thông với nhau, gần gũi nhau. Nhà văn Nam Cao dường như cũng đã phê phán nghiêm khắc bệnh cẩu thả trong văn chương. Xem những người viết văn cẩu thả là những tên bất lương. Ông viết: “Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện”.

Nam Cao cũng đã khẳng định quyết liệt và rất rõ ràng viết văn. Làm nghệ thuật là tìm tòi phát hiện, sáng tạo, và đặc biệt là phải không ngừng mang đến cho người đọc một cái gì lạ. Và đó chính là một cái gì mới, một cái gì độc đáo, mà điều này thì chỉ có tài năng và công phu mới làm được.

Nam Cao viết rằng “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu. Biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”!

Có thể nói rằng đó là quan niệm rất chính xác, một yêu cầu rất cao về văn chương. Là nhà văn là nhà nghệ sĩ tất nhiên phải biết “hành nghề” thì tất nhiên phải am hiểu về kĩ thuật. Phải “khéo tay” ở một mức độ nhất định, nhất là trong một số ngành nghệ thuật nào đó. Chẳng hạn như điêu khắc, biểu diễn âm nhạc rồi,… Nhưng dường như đối với các nhà văn, nghệ sĩ, về bản chất hoạt động mà nói.

Không phải là người thợ, cho dù là thợ khéo tay, làm theo những kiểu mẫu có sẵn. Làm theo “đơn đặt hàng” của người khác. Văn chương nghệ thuật là hoạt động tinh thần, là “Thôi thúc bên trong”. Dường như đó chính là tình cảm, tư tưởng không nén nổi của người nghệ sĩ cất lên thành lời, thành nhạc, thành tranh… Có lẽ đó chỉ có thứ văn chương “gan ruột”. Không viết ra không được đó mới rung động được tâm hồn người khác, mới có giá trị.

Hơn nữa, đặc biệt và quan trọng hơn thì trong lĩnh vực văn chương. Chỉ có thật, chân thành, chưa đủ, mà còn phải sâu sắc, phải mới, “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Nếu như mà không sâu sắc, không phát hiện và tạo được cái mới, và không có được một cách nhìn mới. Và lại không tiếng nói mới, thì cũng không thể nào có được một chỗ đứng thật sự trong thế giới nghệ thuật.

Nam Cao như trong lúc này cũng đã cảm nhận sâu xa ý nghĩa và bi kịch của cuộc đời trong những cái tư tưởng chừng nhỏ nhặt, vô nghĩa hằng ngày ở xung quanh.

Dường như những cảnh bực bội, thương tâm trong gia đình mà Hộ và Từ đã trải qua. Lòng tự tin đến ngông nghênh và sự chán chường. Những ý nghĩ cao quý và lại quá tầm thường luôn giằng xé tâm trí Hộ trong khi cầm bút. Dường như cũng là chuyện thường tình, không có gì đáng nói. Nhưng qua tài năng và tâm hồn của Nam Cao đã trở thành nỗi đau, bi kịch của con người, của cuộc sống. Nỗi đau và bi kịch của con người thừa, của đời thừa.

Tác phẩm nào của Nam Cao luôn luôn đã khiến cho mọi người ta chú ý hơn. Nhìn sâu hơn vài cái bình thường, cái hằng ngày ở xung quanh và ở chính mình. Và phải như sống có ý thức hơn, nhân ái hơn. Kéo con người ra khỏi tình trạng nhỏ nhen, lố bịch, độc ác. Và đã lại tự bằng lòng một cách vô lối, tức là làm cho người ta “bất an” như là một nhà văn có tên tuổi đã nói về chức năng của văn chương vậy.

Tác phẩm “Đời thừa” sau khi đọc xong, người đọc cảm thấy nó có một kết cấu rất tự nhiên. Một câu truyện ngắn không có cốt truyện và những sự việc hầu như diễn ra hầu như không có gì.

Nam Cao đã miêu tả về quá khứ bất hạnh của Từ. Nói về quá trình gặp gỡ nên duyên vợ chồng giữa Hộ và Từ. Miêu tả về cuộc gặp gỡ với bạn làng văn của Hộ. Nhưng xoáy sâu vào câu truyện đó chính là viết nên nỗi khổ tâm của một nhà văn nghèo đó là Hộ. Chính vì cuộc sống nghèo khổ mà đã không thể thực hiện được những nguyện vọng lớn lao của cuộc đời mình. Hộ đã không thể hoàn thành nổi một tác phẩm văn chương nào thực sự có giá trị.

Lẽ ra với một nhà văn yêu nghề, tâm huyết như Hộ. Mọi nỗ lực đều sẽ hướng tới việc viết văn, dành hết tâm huyết cho nghề viết văn. Thế nhưng cảnh đời cơ cực, một người chồng, một người cha bắt buộc phải lo lắng cho miếng cơm manh áo gia đình. Nhưng trong cái xã hội đó, việc nuôi sống cả gia đình với một người nghèo khó lại càng khó. Tất tưởi vì cuộc sống mưu sinh, luôn luôn bị cái cảnh nghèo quấy rầy, sự túng quẫn. Một trí thức cũng chính vì thế mà trở nên thô bỉ hèn kém, những mộng tưởng và những khát khao dần cũng lụi tàn.

Người đọc có thể nhận thấy tâm trạng của Hộ bị giằng xé một bên là khát khao sáng tạo. Vươn tới những đỉnh cao trong văn chương và bên kia là những đòi hỏi thực dụng, cấp bách của cuộc sống gia đình. Đó là sự vất vả và cả những thiếu thốn hàng ngày. Có thể thấy đặc sắc và chiều sâu của tác phẩm là ở sự giằng xé trong tâm trạng của Hộ. Và còn nằm ở chất lượng những suy nghĩ của nhân vật chính phát ngôn cho tác giả về cuộc đời, về sáng tạo văn chương.

Những sự mới mẻ, những chiều sâu về suy nghĩ. Với cách tạo hình nhân vật, sự đơn giản trong lối văn chương đã khiến cho tác phẩm “Đời thừa” của Nam Cao diễn ra một cách rất tự nhiên. Tạo ra một sức hút đối với người đọc. Khi đọc “Đời thừa” của Nam Cao dường như người đọc sẽ có những cảm nhận vô cùng sâu sắc về những số phận nghèo khổ của tri thức trong xã hội xưa. Và những cảm thông sâu sắc về những số phận này.

Mẫu Phân Tích Đời Thừa Của Nam Cao Hay Đặc Sắc

Đời thừa ‘là truyện ngắn xuất sắc của Nam Cao viết về người trí thức tiểu tư sản nghèo trước cách mạng. Tác phẩm. không chỉ thành công về mặt nội dung mà đặc biệt thành công về mặt nghệ thuật, nhất là nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật.

Nét độc đáo của Nam Cao khi ông xây dựng tính cách nhân vật là việc nhà văn để nhàn vật vào những tình huống bộc lộ những mâu thuẫn giằng xé trong nội tâm dữ dội và sâu sắc, Hộ – nhân vật chính của Đời thừa – cũng được xây dựng theo bút pháp như vậy.

Trong số những chi tiết tạo tính cách của Hộ thì chi tiết về giọt nước mắt Hộ là chi tiết mang nhiều ý nghĩa sâu sắc nhất. Đây là chi tiết ‘đắt’ nhất tác phẩm, thể hiện sự tinh tế và năng lực sở trường của nhà văn trong việc tìm kiếm và phát hiện những góc khuất của nội tâm con người.

Đời thừa chủ yếu tập trung xoay quanh tấn bi kịch tinh thần của văn sĩ Hộ: đó là bi kịch nghề nghiệp và bi kịch tình thương. Tấn bi kịch ấy sẽ mãi đeo đuổi Hộ cho đến khi giọt nước mắt ở cuối tác phẩm trở thành sự giải thoát cho anh.

Trong một truyện ngắn khác cũng viết về đề tài người trí thức nghèo, Nam Cao đã dẫn lời của một nhà văn Pháp như sau: Người ta chỉ xấu xa hư hỏng trước đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỉ, và nước mắt là một tấm kính biến hình vũ trụ. Tác phẩm ấy được Nam Cao đặt tên là Nước mắt.

Giọt nước mắt của những người trí thức đương thời trở thành nỗi ám ảnh đối với nhà văn, để ông đưa vào tác phẩm như một chi tiết nghệ thuật độc đáo ở Đời thừa, giọt nước mắt của Hộ là sự tự thức tỉnh, là sự cứu rỗi anh trước những sa ngã. Điều ấy có ý nghĩa quan trọng đối với nhân cách con người.

Hộ là một nhà văn trẻ, nghèo nhưng có hoài bão, có lí tưởng về nghề nghiệp. Anh bỏ qua những lo lắng về vật chất để chăm chút cho sự nghiệp của mình. Anh ao ước có một tác phẩm để đời, được giải Nobel và dịch ra mọi thứ tiếng. Và đáng lẽ Hộ sẽ có cơ hội để thực hiện ước mơ của mình nếu như anh không có gánh nặng gia đình. Ấy là khi Hộ cưới Từ về làm vợ và những đứa con lần lượt ra đời.

Hộ có cả một gia đình phải gánh trên vai. Anh buộc phải thay đổi cách viết để lo cho cuộc sống gia đình. Anh phải viết vội, viết cho nhanh mà không có thời gian sửa chữa. Đó là một thứ văn nhạt nhẽo, vô vị và khiến người ta đọc một lần rồi quên ngay.

Hộ có thể sẽ không quan tâm đến điều ấy nếu như anh là người vô trách nhiệm. Nhưng tiếng nói của một người cầm bút chân chính khiến anh day dứt, đau đớn. Anh tự sỉ vả mình, tự coi mình là một kẻ ‘khốn nạn’, một kẻ ‘bất lương’, bởi cách viết cẩu thả ấy là vi phạm nguyên tắc nghề nghiệp của anh. Song hiện thực cuộc sống không cho anh lựa chọn nào khác.

Chuyện cơm áo muôn đời không đùa với những nhà văn nghèo như anh. Anh buộc phải hi sinh khát vọng nghề nghiệp để thực hiện trách nhiệm của người đàn ông trong gia đình. Bi kịch của Hộ là ở chỗ hiện thực cuộc sống không cho phép anh sáng tạo nghệ thuật, đè bẹp ý chí, mài mòn ước mơ của một người sẵn sàng hiến dâng cho nghệ thuật như anh.

Bi kịch nghề nghiệp đã khiến Hộ vô cùng đau đớn, nhưng anh lại còn phải chịu đựng một bi kịch thứ hai, đó là bi kịch tình thương. Đối với Hộ, tình thương là nguyên tắc sống, là lẽ sống cao đẹp nhất. Nó là ranh giới phân biệt giữa con người và loài vật.

Anh coi trọng triết lí sống của mình, rằng kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai người khác để thỏa mãn lòng ích kỉ, kẻ mạnh phải là kẻ nâng đỡ người khác trên đôi vai mình. Chính vì vậy, anh đã cúi xuống nỗi đau của một người phụ nữ bất hạnh như Từ, bảo tồn danh dự và mang lại hạnh phúc cho Từ. Đấy là một việc làm cao cả mà người khác khó có thể làm được.

Tuy nhiên, để nuôi sống gia đình, anh phải hi sinh nghệ thuật. Và trong anh mơ hồ hiểu rằng cái gia đình nhỏ bé ấy là nguyên nhân của sự đổ vỡ nghề nghiệp mà anh đang gánh chịu. Vậy là, vô tình, mọi uất ức trong anh, lúc thì dồn nén,lúc thì bùng lên không gì ngăn nổi.

Anh uống rượu, anh tiêu tiền quá mức, anh cáu giận vô cớ. có lúc quát mắng, đánh đuổi vợ con. Hộ đang dần từng bước vi phạm vào nguyên tắc sống. Những việc làm, những hành động của anh đã không còn là biểu hiện của một người coi trọng tình thương nữa rồi.

Hộ cứ mãi như thế nếu không có lần anh mải đi theo bạn và uống rượu say. Khi tỉnh dậy, anh giật mình sợ hãi khi nhớ ra hôm qua hình như mình đã đuổi vợ con đi. Anh đưa mắt tìm kiếm và nhìn thấy Từ đang ôm con ngủ trên võng. Hộ tuôn trào nước mắt khi nhìn khuôn mặt và dáng hình mềm yếu gầy gò của vợ. Anh nhận ra sai lầm của mình.

Không, gia đình không phải là nguyên nhân mọi nỗi bất hạnh của anh. Đấy là nơi anh sống để thực hiện nhân cách con người. Giọt nước mắt ấy không phủi là sự yếu đuối nhất thời trong Hộ mà nó nâng đỡ, bảo vệ nhân cách của anh.

Hiện thực cuộc sống không cho phép Hộ thực hiện ước mơ nghề nghiệp, nhưng anh vẫn được làm người theo nghĩa đầy đủ. Nhưng nếu anh tiếp tục vi phạm cả vào nguyên tắc sống thì anh sẽ vượt qua ranh giới của con người. Giọt nước mắt đã thanh lọc tâm hồn anh, cứu anh thoát khỏi những sai lầm bế tắc. Sự thức tỉnh, sám hối ấy chính là quá trình tự đấu tranh của người trí thức trước những cám dỗ của cuộc đời.

Điền trong Nước mắt hay Hộ trong Đời thừa là minh chứng cho số phận của người trí thức nghèo trong xã hội đương thời. Giọt nước mắt của những con người ấy trở thành một ‘mã’ nghệ thuật để nhà văn thể hiện ý nghĩa tác phẩm

. Trở đi trở lại trong tác phẩm Nam Cao là vấn đề người nghệ sĩ chân chính trước hiện thực cuộc sống, và người ta thấy trong đó thấp thoáng cả hình ảnh của bản thân nhà văn. Qua đó nhà văn đã lên án tố cáo xã hội đương thời không tạo điều kiện cho người trí thức thực hiện ước mơ, nguyện vọng chính đáng của mình, không cho họ có cơ hội được đem tài năng cống hiến cho xã hội, khiến họ phải sống kiếp sống mòn, một cuộc đời thừa.

Nói tóm lại, chi tiết giọt nước mắt của nhân vật Hộ không chỉ là chế tiết để nhà văn thể hiện tâm lí nhân vật mà nó còn chứa đựng nội dung tư tưởng sâu sắc. Đối với tác phẩm của Nam Cao, nước mắt không phải là biểu liên của những yếu đuối, đớn hèn, ủy mị mà nó là vũ khí bảo vệ danh dự và nhân phẩm của con người. Chính điều đó đã làm nên một cá tính sáng tạo riêng của nhà văn, một gương mặt không thể trộn lẫn.

Đọc thêm văn bản✨Vào Phủ Chúa Trịnh✨ Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật

Viết một bình luận