Nội Dung Tác Phẩm Vào Phủ Chúa Trịnh ❤️️ Đọc Hiểu, Giá Trị, Phân Tích ✅ Chia Sẻ Hoàn Cảnh Sáng Tác, Ý Nghĩa Nhan Đề, Sơ Đồ Tư Duy, Soạn Bài.
NỘI DUNG CHÍNH
Hoàn Cảnh Sáng Tác Vào Phủ Chúa Trịnh
Tác phẩm “Vào Phủ Chúa Trịnh” của Lê Hữu Trác (còn được biết đến với hiệu là Hải Thượng Lãn Ông) được sáng tác trong bối cảnh ông được triệu tập vào kinh đô để chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán.
Đoạn trích này thuộc phần đầu của tác phẩm “Thượng kinh kí sự”, kể về việc Lê Hữu Trác tới kinh đô và những gì ông mắt thấy tai nghe trong chốn phồn hoa của phủ chúa Trịnh.
Hoàn cảnh sáng tác phản ánh sự ngạc nhiên của Lê Hữu Trác trước cảnh xa hoa, tráng lệ nhưng cũng ngột ngạt và tù túng nơi phủ chúa. Tác phẩm ghi lại cảm nhận chân thật của ông trước hiện thực về cảnh vật, con người từ khi triệu vào kinh chữa bệnh cho thế tử.
Bức tranh hiện thực nơi phủ chúa hiện qua con mắt của Lê Hữu Trác rất xa hoa, tráng lệ nhưng tù túng và ngột ngạt. Đây là một tác phẩm có giá trị lịch sử và văn học, giúp người đọc hiểu rõ hơn về quá khứ và xã hội Việt Nam thời bấy giờ
Nội Dung Tác Phẩm Vào Phủ Chúa Trịnh
“Vào Phủ chúa Trịnh” là đứa con đẻ của Lê Hữu Trác, là sự nhức nhối trong lòng của một con người lương thiện yêu thương con người. Trong tác phẩm, ông đã miêu tả chi tiết về sự xa hoa cũng như những điều mà ông tai nghe mắt thấy đến kinh ngạc. Cùng xem Nội Dung Tác Phẩm Vào Phủ Chúa Trịnh bên dưới.
Sáng sớm tinh mơ mồng 1 tháng 2, tôi được lệnh là có thánh chỉ triệu tập về phủ chầu ngay lập tức. Tôi nhanh chóng chuẩn bị mũ áo chỉnh tề rồi được điệu đi trên một cái cáng chạy như ngựa lồng.
Đi vào cửa sau vào phủ, nhìn quanh tôi thấy cây cối um tùm, chim hót líu lo, muôn hoa đua thắm. Vốn là con quan tôi thực không lạ với chốn phồn hoa nhưng khi bước chân vào phủ thì quả mới hay cảnh giàu sang của vua chúa khác dường nào.
Qua mấy lần cửa, các hành lang dài miên man tôi được đưa tới một ngôi nhà thật lớn gọi là phòng trà. Đồ đạc trong phòng đều là những cổ vật quý giá chưa từng nhìn thấy, được sơn son thếp vàng. Lúc đó thánh thượng đang ngự phòng thuốc cùng các phi tần nên tôi không thể yết kiến.
Tôi được hầu hạ bữa sáng với mâm vàng, sơn hào hải vị. Ăn xong tôi được đưa đến yết kiến ở Đông Cung và khám bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Tôi thấy bệnh thế tử là do nằm trong chốn màn che trướng rủ, ăn quá no, mặc quá ấm, lười vận động nên phủ tạng yếu đi, bệnh phát đã lâu…
Sau một hồi suy nghĩ: sợ danh lợi ràng buộc không về núi được nhưng nghĩ lại còn chịu ơn nước nên cuối cùng đã kê đơn theo đúng bệnh. Sau đó tôi từ giã, lên cáng trở về kinh Trung Kiền để chờ thánh chỉ. Bạn bè ai ai trong kinh cũng đến thăm hỏi.
Nhất định đừng bỏ qua ❤️️ Bài Ca Phong Cảnh Hương Sơn ❤️️ Nội Dung Tác Phẩm, Nghệ Thuật
Tóm Tắt Vào Phủ Chúa Trịnh
Tham khảo bản Tóm Tắt Vào Phủ Chúa Trịnh sau đây.
Nhân vật trong câu chuyện là Lê Hữu Trác, thầy lang giỏi. Ông có lệnh vào phủ chúa Trịnh để chữa bệnh, ông đi vào chốn phồn hoa, vốn là quan trong triều đình nhưng khi thấy cảnh giàu sang, sung sướng, phồn hoa của vua chúa Trịnh cũng lấy làm ngạc nhiên.
Sau khi trải qua nhiều lớp cửa ông cũng đến được nơi chúa ở, phòng chúa ở rất đặc biệt được sơn son thếp vàng, đều là những đồ quý giá mà nhân gian chưa từng thấy. Trong khi chờ đợi chúa, ông được ăn những đồ ngon vật lạ hiếm có trên đời, qua đó biết được khẩu vị của những bậc quyền quý.
Ông có nhiệm vụ bắt mạch, tìm bệnh cho thế tử, nhận thấy bệnh của thế tử xuất phát từ chúa thường ở chốn màn che trướng phủ, ăn sướng, mặc ấm phủ tạng yếu, bệnh đã lâu nên trầm trọng. Vì nghĩ đến nước nhà, lòng trung thành đối với đất nước ông đã kê đơn thuốc giúp thế tử chữa trị bệnh. Sau khi hoàn thành công việc khám bệnh, ông từ giã trở về đợi thánh chỉ.
Đoạn trích Vào phủ chúa trịnh của tác giả Lê Hữu Trác đã tái hiện lại khung cảnh xa hoa, sang trọng của chúa Trịnh, nhưng đồng thời cũng thể hiện thái độ của tác giả coi thường danh lợi, địa vị.
Lưu lại bài phân tích🌱 Chạy Giặc [Nguyễn Đình Chiểu]🌱 Mẫu Phân Tích, Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật
Về Tác Giả Lê Hữu Trác
Sau đây là vài nét Về Tác Giả Lê Hữu Trác:
- Lê Hữu Trác (1724 – 1791) hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, người làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc huyện Yên Mĩ, tỉnh Hưng Yên).
- Dòng tộc ông vốn có truyền thống khoa bảng: ông nội, bác, chú, anh và em họ đều đỗ Tiến sĩ và làm quan to.
- Thân sinh của ông từng đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ, làm Thị lang Bộ Công triều Lê Dụ Tông, gia phong chức Ngự sử, tước Bá, khi mất được truy tặng hàm Thượng thư (năm 1739).
- Khi ấy, Lê Hữu Trác mới 20 tuổi, ông phải rời kinh thành về quê nhà, vừa trông nom gia đình vừa chăm chỉ đèn sách, mong nối nghiệp gia đình, lấy đường khoa cử để tiến thân.
- Nhưng xã hội bấy giờ rối ren, các phong trào nông dân nổi dậy khắp nơi. Chỉ một năm sau (1740), ông bắt đầu nghiên cứu thêm binh thư và võ nghệ.
- Chẳng bao lâu sau, ông nhận ra xã hội thối nát, chiến tranh chỉ tàn phá và mang bao đau thương, làm ông chán nản muốn ra khỏi quân đội, nên đã nhiều lần từ chối sự đề bạt.
- Đến năm 1746, nhân khi người anh ở Hương Sơn mất, ông liền viện cớ về nuôi mẹ già, cháu nhỏ thay anh, để xin ra khỏi quân đội, thực sự “bẻ tên cởi giáp” theo đuổi chí hướng mới.
- Ông là một danh y, không chỉ chữa bệnh mà còn soạn sách và mở trường dạy nghề thuốc để truyền bá y học.
- Ông để lại bộ sách “Hải thượng y tông tâm lĩnh” gồm 66 quyển; 65 quyển đầu nói về thuốc và các bài thuốc chữa bệnh; cuốn cuối là “Thượng kinh kí sự” một áng thơ văn đặc sắc và độc đáo.
Xem thêm về 🌷Lẽ Ghét Thương 🌷 phân tích đầy đủ nhất
Về Tác Phẩm Thượng Kinh Ký Sự
Văn bản Vào Phủ chúa Trịnh trích trong tập Thượng Kinh kí sự, một tập kí xuất sắc của Lê Hữu Trác. Cùng tìm hiểu Về Tác Phẩm Thượng Kinh Ký Sự bên dưới.
“Thượng kinh kí sự” ghi lại chuyến về kinh đô Thăng Long chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán (con của chúa Trịnh Sâm và nguyên phi Đặng Thị Huệ). Ngày 12 tháng Giêng năm Nhâm Dần (1782), Lê Hữu Trác từ Hương Sơn đi Thăng Long theo chỉ triệu của chúa, mãi đến mùng 2 tháng 11 mới trở lại được quê mẹ; một chuyến đi kéo dài 9 tháng 20 ngày.
Thượng kinh kí sự tả quang cảnh ở kinh đô, cuộc sống xa hoa trong phủ Chúa Trịnh và quyền uy, thế lực của nhà chúa – những điều Lê Hữu Trác mắt thấy tai nghe trong chuyến đi. Qua đó, người đọc thấy được thái độ coi thường danh lợi của tác giả. Tác phẩm kết thúc với việc Lê Hữu Trác được về lại quê nhà, trở về với cuộc sống tự do trong tâm trạng hân hoan, tiếp tục cống hiến đời mình cho y thuật.
Với lối viết theo thể ký, ghi chép lại những người thật việc thật, Thượng Kinh Ký Sự giúp cho ta có được một tài liệu quý vào thời vua Lê chúa ,Trịnh mà cho tới nay toàn bộ di tích này hầu như đã biến mất…
Mời bạn đọc xem thêm tác phẩm 💚 Bài Ca Ngắn Đi Trên Bãi Cát 💚 Những Mẫu Phân Tích Hay Nhất
Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm Vào Phủ Chúa Trịnh
Tiếp tục cùng Thohay.vn tìm hiểu Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm Vào Phủ Chúa Trịnh nhé.
Vào phủ chúa Trịnh vốn là một đoạn trích có vị trí nằm ở phần đầu của tác phẩm Thượng kinh kí sự. Ý nghĩa nhan đề nói về chuyến đi của tác giả đến phủ chúa Trịnh. Và thông qua nhan đề, tác giả cũng phần nào bày tỏ thái độ của mình trước hiện thực xa hoa nơi phủ chúa.
Ý nghĩa đó được thể hiện rất khéo léo thông qua việc tác giả thuật lại câu chuyện ông vào kinh đô, được dẫn vào phủ chúa Trịnh để bắt mạch, kê đơn cho thế tử Trịnh Cán.
Đừng vội bỏ lỡ phân tích tác phẩm🌿Bài Ca Ngất Ngưởng🌿 Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị Nghệ Thuật
Bố Cục Vào Phủ Chúa Trịnh
Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh nói về việc Lê Hữu Trác lên tới kinh đô, được dẫn vào phủ chúa để bắt mạch, kê đơn cho Trịnh Cán. Bố Cục Vào Phủ Chúa Trịnh có thể chia làm bốn đoạn nhỏ:
- Đoạn 1: Quang cảnh trong phủ chúa (từ Mồng 1 tháng 2 đến như phủ đào nguyên thuở nào).
- Đoạn 2: Cảnh xa hoa, tráng lệ trong phủ chúa từ khung cảnh đến sinh hoạt hàng ngày (từ Đi được vài trăm bước đến là không có dịp).
- Đoạn 3: Thế trạng của Trịnh Cán (từ Đang dở câu chuyện đến đưa tôi ra “phòng chè” ngồi).
- Đoạn 4: Tâm trạng và cảm nghĩ của Lê Hữu Trác sau lần chữa bệnh cho thế tử (từ Một lát sau đến thường tình như thế).
Những Giá Trị Nổi Bật Của Vào Phủ Chúa Trịnh
Mời bạn đọc cùng khám phá Những Giá Trị Nổi Bật Của Vào Phủ Chúa Trịnh sau đây.
Giá Trị Hiện Thực Của Vào Phủ Chúa Trịnh
- Cuộc sống sa hoa, quyền quý của chúa Trịnh và tầng lớp quan lại thực dân. Sự sa hoa trong cách bày trí, kiến trúc, nội thất ở đây hoàn toàn đối lập với sự nghèo đói, thiếu thốn, khổ cực của nhân dân ở ngoài kia
- Bộ máy quan lại, guồng máy phục vụ đông đúc, tấp nập với những nghi lễ kì lạ, sự kiểm soát nghiêm ngặt và những phép tắc , quy củ ngặt nghèo, ngay cả với việc khám bệnh cho thế tử
- Cuộc sống ăn chơi, trụy lạc, sa đọa dẫn tới bện tật của cha con chúa Trịnh Sâm, Trịnh Cán được hiện lên rõ nét chỉ bằng một vài chi tiết miêu tả của tác giả
Giá Trị Nhân Đạo Của Vào Phủ Chúa Trịnh
- Giá trị nhân đạo trước hết thể hiện qua việc dựng lên bức tranh chân thực về cuộc sống nguy nga nơi phủ chúa. Từ đó gián tiếp tố cáo uy quyền và sự lộng hành của chúa Trịnh
- Bằng sự quan sát và ghi chép về quang cảnh xa hoa lộng lẫy, tác giả đã gián tiếp thể hiện sự đồng cảm, thương xót đối với cuộc sống cơ cực, lầm than của nhân dân. Bức tranh về xã hội phong kiến đã được phác họa trong sự đối lập giữa đời sống của tầng lớp quan lại và cuộc sống của những người dân.
- Thông qua tác phẩm này, chúng ta càng thấm thía hơn nữa câu ca quen thuộc của người xưa về sự tàn bạo và trắng trợn trong lối sống của đại đa số tầng lớp quan lại
Giá Trị Nghệ Thuật Của Vào Phủ Chúa Trịnh
- Tài quan sát tinh tế và ngòi bút ghi chép chi tiết, chân thực, sắc sảo đã dựng nên bức tranh phủ chúa với hiện thực cuộc sống vô cùng sinh động
- Tác giả đã lựa chọn khắc họa những chi tiết đặc sắc tạo nên cái thần của cảnh vật. Những chi tiết đắt giá ấy đã giúp cho người đọc hình dung ngay về hiện thực, nhân vật mà tác giả đang nói tới.
- Sự đang xen thơ vào trong tác phẩm làm cho bài kí của ông đậm chất trữ tình.
Có thể bạn sẽ cần tác phẩm🌻Vịnh Khoa Thi Hương🌻 Sơ Đồ Tư Duy, Các Bài Phân Tích Hay
Sơ Đồ Tư Duy Vào Phủ Chúa Trịnh
Tổng hợp cho bạn đọc các mẫu Sơ Đồ Tư Duy Vào Phủ Chúa Trịnh.
Đừng bỏ lỡ tác phẩm🌷Thương Vợ [Tú Xương] 🌷 đầy đủ nhất
5 Mẫu Phân Tích Vào Phủ Chúa Trịnh Hay Nhất
Cùng tham khảo ngay 5 Mẫu Phân Tích Vào Phủ Chúa Trịnh Hay Nhất bên dưới.
Phân Tích Bài Thơ Vào Phủ Chúa Trịnh Tiêu Biểu – Mẫu 1
Lê Hữu Trác là một trong những danh y tài đức, sống vào thời vua Lê-chúa Trịnh. Không chỉ là một danh y tận tâm, ông còn là một văn với nhiều tác phẩm nổi bật. Tiêu biểu có thể kế đến cuốn “Thượng kinh kí sự” được ra đời vào năm 1782.
Qua tác phẩm, một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa cùng những thế lực, quyền uy trong phủ chúa Trịnh được tái hiện đầy chân thực. “Vào phủ chúa Trịnh” là một trong những trích đoạn hay nhất tác phẩm, qua đó Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác đã thể hiện được vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của mình.
Trước hết, có thể thấy Hữu Trác là một danh y là người giản dị, thanh sạch, coi thường danh lợi. Bước vào phủ chúa với lầu son, gác tía, tác giả không bày tỏ sự thán phục mà thể hiện thái độ ngỡ ngàng trước sự giàu sang, lộng lẫy của nơi đây: “Bước chân đến nơi này mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường.”
Ngoài ra, ông cũng bộc lộ rõ thái độ phê phán lối sống xa hoa trong phủ qua cách miêu tả quang cảnh nơi phủ chúa một cách đầy tỉ mỉ, chi tiết. Ngắm cảnh xa hoa đến đâu tác giả miêu tả chi tiết đến đấy, từ trong ra ngoài, từ xa tới gần, tất cả quang cảnh rất mực “thừa thãi” ấy khiến ông phải thốt lên tiếng xuýt xoa đầy ái ngại:
“Quê mùa cung cấm chưa quen
Khác chi ngư phủ đào nguyên thuở nào!”
Trong từng câu văn, ngôn từ, hình ảnh, thậm chí là cả giọng điệu đều toát lên sự giễu cợt, mỉa mai của Lê Hữu Trác đối với “những đứa con tinh thần” đầy mùi vật chất và khoe khoang nơi phủ chúa: “Mâm vàng chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ, tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia”. Nhìn tất cả những vật chất ấy, tác giả “chỉ dám ngước mắt nhìn rồi lại cúi đầu đi”.
Có thể thấy, cuộc sống xa hoa, quyền quý nơi phủ Trịnh không làm Lê Hữu Trác chìm đắm trong u mê, xuýt xoa khen ngợi, thán phục mà càng khiến ông thêm phần khinh khi, buồn nản, hẳn là một người coi thường vật chất, phú quý.
Hơn thế nữa, trước khi chữa bệnh cho thế tử Cán, ông cũng đã đấu tranh rất nhiều trước hai sự lựa chọn. Bởi ông sợ công danh trói buộc, không được trở về với cuộc sống ẩn dật, bình yên chốn núi rừng. Có thể thấy chốn “rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào” không dành cho kẻ tâm hồn thanh sạch, cao quý như ông.
Ở Lê Hữu Trác ta còn thấy được sự tận tâm, tài năng của một người thầy thuốc. Khi căn bệnh của thế tử rất nhiều người thầy thuốc không tìm ra phương cách, chấp nhận bó tay thì Lê Hữu Trác lại biết rất rõ nguyên căn bệnh. Trước những trăn trở, nghĩ suy giữa vòng danh lợi trói buộc và cuộc sống thanh bình chốn an yên thì ông đã chọn lòng trung thành, trượng nghĩa.
Gác lại những suy tính của bản thân, ông làm việc bằng lương tâm với nghề, bằng trách nhiệm của một trung thần với chúa. Điều đó được thể hiện rõ qua việc Lê Hữu Trác đã đưa ra phương thuốc hữu hiệu, cách thức chữa trị chính xác nhất để chữa bệnh cho thế tử .”Tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tế, sác. Thế là âm dương đều bị tổn hại, nay phải dùng thuốc thật bổ để bồi dưỡng tì và thận, cốt giữ cái căn bản tiên thiên và làm nguồn gốc cho cái hậu thiên….”.
Tài năng, kinh nghiệm và đức độ của ông trong nghề thầy thuốc được mọi người thán phục, ngay cả vị Quan chánh đường cũng phải thốt lên: “Phương thuốc và lập luận của cụ khác chúng ta nhiều.”
Qua đoạn trích ta thấy được rằng Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác là một người có tâm hồn và nhân cách cao đẹp – yêu tự do, ghét ràng buộc, sống bình dị, xem thường công danh phú quý và tận tâm với nghề. Vẻ đẹp về tâm hồn và nhân cách của danh y Lê Hữu Trác mãi là tấm gương sáng cho bao thế hệ học tập, noi theo.
Phân Tích Bài Thơ Vào Phủ Chúa Trịnh Nổi Bật – Mẫu 2
Con người phấn đấu làm việc cũng chỉ mong có cuộc sống khá giả hơn, thế nhưng có những người sinh ra vốn đã có tất cả. Họ có tiền tài, địa vị và có cả quyền lực, bởi thế cuộc sống trở nên quá dễ dàng. Và cuộc sống xa xỉ, sung sướng không tưởng của vua chúa thời xưa được khắc họa rõ nét qua tác phẩm “Vào phủ chúa Trịnh” của Lê Hữu Trác.
Bước vào trong tác phẩm “Vào phủ chúa Trịnh” là người đọc được đến với một thế giới khác, được chứng kiến một cuộc sống ở trên trời mà thường dân có mơ cũng không tưởng tượng nổi. Đó là những tòa cung điện nguy nga tráng lệ, là đồ đạc được sơn son thiếp vàng. Mọi thứ đều cao sang quyền quý, đến ngay cả hương thơm trong phủ cũng đậm chất quý tộc.
Đứng trước cảnh vật diễm lệ, lộng lẫy kiêu sa của phủ chúa không chỉ có người chứng kiến bị choáng ngợp mà đối với người đọc chỉ cần tưởng tượng ra thôi cũng thấy đó là cả một chân trời bát ngát quyền quý mà chúng ta có mơ cũng không tưởng tượng ra nổi. Người ta nói mỗi chuyến đi là một lần mở mang tri thức quả thật không sai, với chuyến đi chữa bệnh lần này Lê Hữu Trác đã được mở mang tầm mắt.
Đẳng cấp của phủ chúa không chỉ dừng lại ở cảnh vật mà còn thể hiện ở cả cung cách sinh hoạt. Khắp nơi trong phủ luôn có kẻ hầu người hạ tấp nập, Lê Hữu Trác được người dẫn đi bằng cửa sau, nhưng đứng trước cảnh tượng tráng lệ ấy khiến ông chỉ dám ngẩng đầu lên rồi lại cúi xuống bước đi từng bước trong sự choáng ngợp.
Có lẽ chu du khắp nơi cả cuộc đời, tận mắt chứng kiến nhiều thứ và tưởng rằng không còn thứ gì mà mình không biết, thế nhưng hiểu biết của ông vẫn còn quá hạn hẹp, ông cảm thấy mình trở nên nhỏ bé trước cảnh vật, nét đẹp cao sang khiến người chứng kiến nó cảm thấy bị áp lực. Và ông đã thực sự bị sốc trước những gì mà mình đang được nhìn thấy.
Buổi ấy, Lê Hữu Trác được ăn cơm ở trong phủ, dù chỉ là được quan Chánh đường san mâm cơm cho ăn thôi thế nhưng nó cũng sang trọng quá mức tưởng tượng. Mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn thứ sơn hào hải vị ở trên đời và ngon không tưởng.
Buổi đấy có lẽ là bữa cơm sang trọng nhất cuộc đời và khiến ông nhớ mãi. Lê Hữu Trác được triệu vào phủ để chữa bệnh cho thế tử, người là đứa trẻ khoảng tầm 5, 6 tuổi thôi thế nhưng lại được thờ phụng và chăm sóc tuyệt đối.
Thế tử không có tuổi thơ rong chơi, lăn lộn vui vẻ như những đứa trẻ khác. Vì thế tử cũng tức là con trời vậy nên vận mệnh của đứa con ấy phải hoàn toàn khác. Nó được nuôi nấng chu đáo từ nhỏ, được bao bọc và bảo vệ như những đứa bé được nuôi trong lồng kính, và có lẽ cũng vì sống quá sung sướng mà đâm sinh bệnh. Vì ít vận động lại thêm được bảo vệ quá mức nên gầy yếu, xanh xao, khí huyết bị tổn hại nghiêm trọng.
Cuộc sống quá sung sướng như vậy lại đối lập hoàn toàn với con dân thiên hạ. Trong khi ngoài kia nhiều đứa trẻ bị chết lạnh, chết đói thì lại có người sinh bệnh vì ăn ở quá “lành mạnh”. Và đó cũng là thực trạng xã hội lúc bấy giờ, người dân nghèo khổ bị bóc lột kiệt quệ, họ không còn làm chủ được cuộc đời của mình và phải chịu kiếp làm trâu làm ngựa cho kẻ khác. Tiền của, máu xương của họ bị bóc lột để hầu hạ những kẻ may mắn vốn sinh ra chốn quyền quý.
Qua “Vào phủ chúa Trịnh”, ta không chỉ thấy được sự thối nát, mục ruỗng của chế độ lúc đó mà còn thấy được giá trị tố cáo sâu sắc khi tước đoạt sức lực, của cải của con người. Thật đáng buồn cho kẻ làm vua nhưng không nắm được trong tay quyền lực mà chỉ loay hoay làm con rối cho kẻ khác, vua Lê tuy có tất cả nhưng thiếu đi mất cái ý chí, suy nghĩ của bản thân để rồi làm vật trang trí cho kẻ nắm giữ quyền lực.
Và cũng từ tác phẩm ta nhận ra được tâm hồn của một lương y yêu thương con người, trân trọng tự do của cuộc đời mình. Chẳng vậy mà khi chuẩn bệnh cho thế tử ông đã chọn phương thuốc hòa hoãn mà không một lần chữa khỏi cho thế tử, có lẽ vì ông sợ tiền tài danh vọng sẽ tước mát tự do của mình. Sau cũng thì tự do tự tại và sống vì người khác vẫn là lẽ sống của nhân tài bấy lâu nay.
Trong cuộc sống vẫn còn nhiều mảnh đời bất hạnh, vẫn còn bất công và đau đớn. Vậy nên con người phải không ngừng phấn đấu và cải thiện để cùng nhau tạo ra một xã hội văn minh hơn, loại bỏ đi bất công và bóc lột.
Và sau nhiều day dứt đấu tranh cuối cùng nhân loại cũng đã làm được, giờ đây chúng ta đã có cuộc sống no đủ, không còn phải vật vã đấu tranh để đòi quyền sống và quyền tự do của bản thân nữa. Nhưng bình yên nào mà không có đớn đau, chúng ta phải sống cho cả những người đã hy sinh xương máu để đấu lật đổ cái thối nát của xã hội. Tất cả phải sống tốt để không còn những cảnh bất công sống lệch như trong “Vào phủ chúa Trịnh”.
Phân Tích Bài Thơ Vào Phủ Chúa Trịnh Hay Nhất – Mẫu 3
Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác được biết đến không chỉ với danh tiếng của một danh y lỗi lạc, nhân từ và một ẩn sĩ thanh cao, cứng cỏi mà còn là tác giả của cuốn “Thượng kinh kí sự” nổi tiếng. Đầu năm 1782, do danh tiếng y thuật vang xa, ông được lệnh triệu ra kinh đô để chữa bệnh cho Thế tử Trịnh Cán và chúa Trịnh Sâm.
Nhờ những tư liệu, ghi chép trong chuyến đi, ông đã hoàn thành tác phẩm “Thượng kinh kí sự” với giá trị hiện thực sâu sắc. “Vào phủ chúa Trịnh” là một trong những trích đoạn đặc sắc thể hiện rõ điều này bằng việc lên án, tố cáo cuộc sống xa hoa, quang cảnh lộng lẫy cùng những tầng lớp vua quan trong bộ máy xã hội phong kiến.
Trước hết, dưới con mắt tỉnh táo, tinh tế của một ẩn sĩ, tác giả Lê Hữu Trác đã ghi lại và phản ánh trong tác phẩm của mình đời sống xa hoa, giả dối và đầy thị phi của tầng lớp vua quan thông qua những chi tiết về quang cảnh xa hoa, lộng lẫy trong các dinh thự và phủ các.
Đó là vườn hoa với “cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”, đó là những nhà “Đại đường”, “Quyển bồng”, “Gác tía” với kiệu son, võng điều, đồ nghi trượng sơn son thếp vàng và “những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy” cùng “mâm vàng, chén bạc” được dùng lúc tiếp khách ăn uống.
Tất cả khung cảnh vàng son lộng lẫy xa hoa của phủ chúa đã được phóng chiếu qua đôi mắt và sự quan sát, tinh tế và tỉ mỉ của tác giả.
Không chỉ dừng lại ở đó, giá trị hiện thực của tác phẩm còn được tạo nên thông qua những chi tiết về cung cách sinh hoạt trong phủ chúa. Ngay từ lúc tác giả lên cáng vào phủ theo lệnh chúa thì điều này đã được làm nổi bật: “có tên đầy tớ chạy đằng trước hét đường” và “cáng chạy như ngựa lồng”.
Khi đặt chân vào phủ chúa, tác giả quan sát thấy cảnh tượng “người giữa cửa truyền báo rộn ràng, người có việc qua lại như mắc cửi”. Quang cảnh đó đã khiến cho tác giả không khỏi ngạc nhiên:
“Lính nghìn cửa vác đòng nghiêm nhặt
Cả trời Nam sang nhất là đây”
Câu thơ của tác giả đã minh chứng rõ thêm về quyền uy nơi phủ chúa. Chính ông cũng đã bộc bạch trước cảnh xa hoa đó rằng: “Mình vốn cũng là con em nhà quan, sinh trưởng nơi phồn hoa, khắp chốn trong cấm thành, chỗ nào cũng từng quen thuộc, duy có quang cảnh phủ chúa thì chỉ được nghe nói tới mà thôi. Nay được đến đây, mới biết hết là sự giàu sang của vua chúa, quả là không ai sánh kịp”.
Những câu thơ hay lời bình luận của tác giả cũng đã làm nổi bật giá trị về mặt thời gian nghệ thuật của tác phẩm. Đó là sự xuất hiện của thời gian tâm lí. Bên cạnh thời gian vật lí là những con số về ngày giờ, năm tháng và niên hiệu, tác giả còn dành ra những khoảng không để chiêm nghiệm về các sự kiện đã diễn ra, khiến cho mỗi một sự miêu tả trong tác phẩm đều chứa đựng những suy nghĩ và cảm xúc của tác phẩm.
Bằng ngòi bút chân thực và sắc nét, trong đoạn trích này, tác giả còn gián tiếp lên án và tố cáo đời sống xa hoa, bệnh hoạn của giới quý tộc, quan lại đương thời.
“Bệnh” của Trịnh Cán đã được ông nhận xét như sau: “là do sinh trưởng ở nơi màn the trướng gấm, ấm nó quá sức, tạng phủ kém yếu, lại thêm bị ốm lâu nên tinh huyết hao kiệt,…”. Chúa Cán vốn là trẻ con hồn nhiên nghiễm nhiên trở thành nạn nhân của sự sung túc, thừa thãi và dưỡng dục sai lầm.
Trước những căn bệnh như thế này, việc cứu chữa sẽ được các ngự y tiến hành như thế nào? Tác giả lại tiếp tục khéo léo lên án đám thầy thuốc Bắc Hà với căn bệnh ngu dốt, nhưng ảo tưởng, tham lam và nhỏ nhen. Đó là đám “y lại” chuyên đố kị, dèm pha lẫn nhau, không vì đạo làm thuốc mà vì danh lợi.
Bằng những nét bút miêu tả khá tự nhiên, chân thực, Hải Thượng Lãn Ông đã bắt mạch, lên đơn những căn bệnh của chế độ phong kiến lúc bấy giờ. Bên ngoài lớp vỏ bọc hoàn hảo của quang cảnh xa hoa lộng lẫy và cung cách sinh hoạt đầy quyền uy, hòa nhoáng và thịnh trị là những mầm bệnh đang phát tác, thể hiện sự mục rỗng và báo hiệu sự khủng hoảng tất yếu của chế độ xã hội phong kiến đương thời.
Giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm “Vào phủ chúa Trịnh” đã làm nên tính chân thực của “Thượng kinh kí sự” qua bút pháp kí sự vô cùng đặc sắc của tác giả. Đó là sự kết hợp thành công của đôi mắt quan sát tỉ mỉ cùng ngòi bút ghi chép trung thực, tả cảnh sinh động, ngay cả những chi tiết nhỏ nhất để tạo nên cái thần của cảnh và vật thấm đẫm trong từng con chữ và xuyên suốt trang văn.
Phân Tích Bài Thơ Vào Phủ Chúa Trịnh Ấn Tượng – Mẫu 4
Lê Hữu Trác (1720-1791) hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, một đại danh y của Đại Việt. Ngoài những trước tác về y học trong bộ “Y tông tâm lĩnh” gồm 66 quyển, ông còn để lại nhiều thơ văn, trong đó có tác phẩm độc đáo “Thượng kinh kí sự”. Thơ văn của Lãn Ông nhẹ nhàng, hóm hỉnh, giàu tính hiện thực, phản ánh một nhân cách cao đẹp: coi thường công danh phú quý, yêu thiên nhiên, yêu quý đồng loại, thích cuộc sống thanh nhàn.
“Thượng kinh kí sự” ghi lại hành trình của ông lên kinh đô Thăng Long chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Đoạn văn “Vào phủ chúa Trịnh” trích trong cuốn kí sự ấy rất giàu giá trị hiện thực và cho thấy một ngòi bút đậm đà, tài hoa.
Lần đầu, Lê Hữu Trác được vào Trịnh phủ. Ông ngẫm nghĩ và quan sát rất kĩ càng. Cửa sau vào phủ chúa phải đi qua con đường bên trái, ông ngẩng đầu lên nhìn một khung cảnh tuyệt đẹp “đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”.
Nơi cung cấm, hành lang “quanh co nối nhau liên tiếp”, người giữ cửa, vệ sĩ canh giữ nghiêm ngặt, ai muốn vào ra phải có thẻ, người có việc quan qua lại như mắc cửi, “truyền báo rộn ràng”.
Quan sát cảnh cung cấm, Lê Hữu Trác ngẫm nghĩ: “Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”. Rồi ông làm thơ nói lên sự ngạc ngạc nhiên, xúc động của mình tựa như “ngư phủ Đào nguyên thuở nào”:
“Cả trời Nam sang nhất là đây!
Lầu từng gác vẽ tung mây,
Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào.
Hoa cung thoảng ngạt ngào đưa tới,
Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen!”
Ông thầy thuốc trên đường đi khám bệnh, mang tâm hồn thi sĩ, tả cảnh, vịnh thơ, ta tưởng như ông đang đi thăm thú cảnh đẹp. Cách viết kí sự của Lê Hữu Trác hấp dẫn ta vì thế!
Trong Trịnh phủ, cung điện nguy nga tráng lệ. Mỗi lâu đài, cung điện có một cái tên riêng. Đó là “Điếm Hậu mã quân túc trực” làm bên một cái hồ, cột và bao lơn “lượn vòng kiểu cách thật là xinh đẹp”, phía ngoài có những cây “lạ lùng”, có những hòn đá “kì lạ”. Nhà “Đại đường” còn gọi là “Quyển bồng”. Là cái lầu cao và rộng, “cột đều sơn son thiếp vàng” gọi là “Gác tía”, nơi Thế tử dùng “chè thuốc”, nên gọi là “Phòng trà”.
Lê Hữu Trác có phần choáng ngợp sợ hãi “chỉ dám liếc mắt nhìn rồi lại cúi đầu đi”. Cảnh đẹp nơi Trịnh phủ, từ vườn hoa đến hồ, từ lầu son đến gác tía là những công trình văn hoá nghệ thuật do tài trí công sức của nhân dân làm nên, vì thế Lê Hữu Trác đã xúc động ngắm nhìn.
Cảnh đẹp nơi Trịnh phủ được miêu tả còn mang ý nghĩa hiện thực phản ánh cuộc sống xa hoa của bọn vua chúa thời Lê – Trịnh, cảnh giàu sang “khác hẳn người thường”.
Phương tiện đi lại của vua chúa là hai cái kiệu; đồ nghi trượng đều sơn son thiếp vàng. Thứ để ngồi và nằm là một cái sập thiếp vàng, trên sập mắc một cái võng điều đỏ. Xung quanh cái sập bày bàn ghế vô cùng quý giá, sang trọng làm cho ông thầy thuốc phải tấm tắc và cảm thấy “những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy”.
Thế tử – con bệnh – là con Trời, mới lên 5, 6 tuổi mặc áo lụa đỏ, ngồi trên cái sập thiếp vàng. Bên cạnh sập đặt một cái ghế rồng sơn son thiếp vàng, trên ghế bày nệm gấm. Lê Hữu Trác phải đi qua năm, sáu lần trướng gấm mới đến được nơi thế tử ngồi để “lạy bốn lạy” trước và sau khi khám bệnh.
Nơi nội cung, đèn sáp chiếu sáng, sau chiếc màn là cung nhân đứng xúm xít, “mặt phấn, màu áo đỏ”. Cả một không gian “lấp lánh, hương hoa ngào ngạt”. Thật đúng “Cả trời Nam sang nhất là đây!”
Vua chúa và bọn quan lại trong phủ chúa ăn uống như thế nào? Tại điếm “Hậu mã” lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất trong cuộc đời, vị đại danh y được ăn một bữa cơm ngon nhớ mãi. Tuy chỉ được quan Chánh đường “san mâm cơm cho ăn” nhưng “mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ”. Ông thầy thuốc mà danh tiếng “như sấm động” đã suy nghĩ và nói: “Tôi bây giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia”.
Chốn đế đô cung cấm là nơi “lính nghìn cửa vác đòng nghiêm ngặt”. Lê Hữu Trác chỉ mới được đặt chân tới một vài cung điện, mới tiếp xúc một vài cảnh, một số ít người, nhưng ông đã nêu bật được cuộc sống xa hoa, hưởng lạc của vua chúa thời Lê – Trịnh.
Cuộc sống đế vương được xây dựng trên mồ hôi xương máu của nhân dân, mọi thứ của ngon vật lạ do người lao động cả nước làm ra bị tước đoạt cho một số ít người hưởng thụ. “Cơm ngự thiện bữa nghìn quan” xưa nay đều thế! Tác giả “Thượng kinh kí sự” có một lối viết rất hiện thực và ấn tượng, mọi chi tiết được ông nói đến rất sống động.
Lê Hữu Trác vốn dòng dõi thế tộc thời Lê, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, trong cấm thành chỗ nào cũng đã từng biết, nhưng Trịnh phủ thì “ông mới nghe nói thôi”, lần đầu đi vào ông choáng ngợp như bước vào cảnh thần tiên:
“Quê mùa cung cấm chưa quen,
Khác gì ngư phủ Đào nguyên thuở nào!”.
Coi thường danh lợi, ông đã vào tận Hương Sơn, Hà Tĩnh sinh sống, chuyên tâm nghề y, lấy chữa bệnh cứu người làm lẽ sống. Vì có tài, tiếng tăm như sấm động nên có thánh chỉ triệu vào cung chữa bệnh cho thế tử. Ông viết một cách hóm hỉnh về cái bả công danh: “Cáng chạy như ngựa lồng, tôi bị xóc một mẻ, khổ không nói hết”. Nửa thế kỉ sau, Cao Bá Quát chua chát viết: “ơn vua kèm theo sấm sét!”.
Tiếp xúc với cảnh và người nơi Trịnh phủ, Lê Hữu Trác có lúc mất tự nhiên, có lúc sợ sệt, hoặc “cúi đầu” hoặc “liếc mắt nhìn”. Lúc xem mạch thì “khúm núm” phải hai lần vái lạy một đứa bé độ 5,6 tuổi, mỗi lần bốn lạy!
Lúc kê đơn là một cuộc tự đấu tranh tư tưởng diễn ra vô cùng gay gắt xung quanh vấn đề danh lợi, y đức và chữ nhàn. Ông nghĩ: “Nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, không làm sao về núi được”, về núi để được sống tự do, thảnh thơi, chan hoà với thiên nhiên. “Lưng không uốn, lộc nên từ là thế!”
Lương tâm bậc danh y lại nhắc nhở ông “phải dốc hết cả cái lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của ông cha mình mới được”. Cái lòng thành mà ông nói đến là lương y như từ mẫu, là y đức coi việc chữa bệnh cứu người là lẽ sống cao đẹp.
Vì thế, mặc dù quan Chánh đường có gợi ý nên dùng những vị thuốc “phát tán mới xong”, mặc dù có năm, sáu vị lương y của sáu cung, hai viện đang ngày đêm chầu chực xung quanh con bệnh, nhưng Lê Hữu Trác vẫn có chủ kiến riêng, lập luận riêng của mình:
“Tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tế, sác. Thế là âm dương đều bị tổn hại, nay phải dùng thuốc thật bổ để bồi dưỡng tì và thận, cốt giữ cái căn bản tiên thiên và làm nguồn gốc cho cái hậu thiên…”.
Qua đó, ta thấy tài năng và đức độ của Lê Hữu Trác, một đại danh y coi thường danh lợi, sống thanh bạch, thích nhàn, lấy việc trị bệnh cứu người, đạt lên trên hết, lên trước hết. Biệt hiệu “Lãn Ông” thật giàu ý nghĩa: ông già lười, lười làm quan và biếng danh lợi.
Đoạn văn “Vào phủ chúa Trịnh” thật hay và thú vị, ta cảm thấy như được tác giả dẫn đi xem cung điện Thăng Long thời Lê – Trịnh. Đoạn văn cũng như toàn tác phẩm “Thượng kinh kí sự” vừa có giá trị văn chương vừa giàu giá trị lịch sử.
Đoạn văn rất giàu tính hiện thực, phản ánh chân thực cảnh vàng son nơi Trịnh phủ và cuộc sống xa hoa, phú quý của vua chúa, quan lại thời Lê – Trịnh. Cách viết của Lãn Ông rất đặc sắc hấp dẫn. Vừa tả, vừa kể, vừa lồng ý nghĩ cảm xúc, rất chân thực, hóm hỉnh. Ngôn ngữ văn chương, ngôn ngữ đời thường, ngôn ngữ cung đình, ngôn ngữ chuyên môn về y học được tác giả sử dụng rất sáng tạo, biến hoá.
“Vào phủ chúa Trịnh”, đoạn kí sự giàu chất thơ đã phản chiếu vào một tâm hồn đẹp, một nhân cách cao quý.
Phân Tích Bài Thơ Vào Phủ Chúa Trịnh Đặc Sắc – Mẫu 5
Lê Hữu Trác là nhà y học, nhà văn nhà thơ lớn cuối thế kỉ XVIII. Trong sự nghiệp sáng tác văn học, tác phẩm “Thượng kinh kí sự” là tác phẩm nổi bật nhất của ông. Tác phẩm đã phơi bày hiện thực đời sống xã hội cuối thế kỉ XVIII, đặc biệt là đời sống xa hoa trong phủ chúa. Tất cả những nét vẽ đó đã phác họa đầy đủ qua đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh”.
Mở đầu tác phẩm, tác giả thuật lại nguyên nhân phải vào phủ Chúa, thời gian được ghi lại hết sức chi tiết, tỉ mỉ: “Mồng 1 tháng 2. Sáng tinh mơ, tôi nghe tiếng gõ cửa rất gấp. Tôi chạy ra mở…. Có thánh chỉ triệu cụ vào….”. Và tiếp đó là khung cảnh trong phủ chúa lần lượt hiện ra dưới sự quan sát tỉ mỉ, kĩ lưỡng của tác giả.
Con đường vào phủ phải đi qua nhiều lần cửa, những hành lang quanh co nối nhau liên tiếp, ở mỗi cửa đều có người canh gác, khi ra vào phải có thẻ, khung cảnh hết sức nghiêm trang, được bảo mật kĩ càng. Không chỉ vậy dưới con mắt của Lê Hữu Trác ông còn tinh mắt nhận ra “đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm; gió đưa thoang thoảng mùi hương”.
Trước khung cảnh đó tác giả đã nhận xét: “Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”. Lời nhận xét hết sức bình thản của tác giả nhưng đã phần nào bộc lộ thái độ phê phán trước cuộc sống xa hoa, hưởng lạc nơi đây.
Nhưng khung cảnh càng trở nên choáng ngợp khi bước vào sâu trong phủ chúa, “những cái cây lạ lùng và những hòn đá kì lạ” mà ông chưa từng thấy lần lượt hiện ra trước mặt. Đồ vật sử dụng trong phủ chúa cũng hết sức đẹp đẽ, xa hoa: đồ nghi trượng đều được sơn son thếp vàng, trướng gấm, quyển bồng,… đây đều là những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy, khiến Lê Hữu Trác “chỉ dám ngước mắt nhìn rồi lại cúi đầu đi”.
Cảnh phủ chúa vô cùng tráng lệ, lộng lẫy, không đâu sánh bằng, đây chính là biểu hiện của cuộc sống xa hoa, cầu kì khác với cuộc sống đời thường. Song khung cảnh vàng son này lại tù hãm thiếu sinh khí và ngột ngạt.
Khung cảnh khiến ta liên tưởng đến Vũ Trung tùy bút của Phạm Đình Hổ với câu nhận xét: “Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất thường”. Khung cảnh đó cũng là sự báo hiệu của đời sống trụy lạc của xã hội, triều đại đã đi vào mạt vận và chẳng bao lâu nữa sẽ đến hồi diệt vong.
Cung cách sinh hoạt trong phủ chúa cũng hết sức khác thường. Khi vào phủ chúa phải có thánh chỉ, qua mỗi lần cửa cần phải có thẻ, phủ chúa được bảo vệ rất nghiêm ngặt. Kẻ hầu người hạ đông đúc, nhộn nhịp, khi tác giả lên cáng vào phủ chúa có “tên đầy tớ chạy đằng trước hét đường” và “cáng chạy như ngựa lồng”, còn trong phủ chúa “người giữ cửa truyền bá rộn ràng, người có việc quan qua lại như mắc cửi”.
Cách xưng hô hết sức kính cẩn, lễ phép “thánh thượng”, “đông cung thế tử” với một cậu bé chỉ hơn sáu tuổi, tôn ti trật tự được thiết lập hết sức rõ ràng, chặt chẽ. Bầu không khí khám bệnh hết sức trang nghiêm, khẩn trương, trước khi vào khám, Lê Hữu Trác phải quỳ lạy một đứa trẻ mặc dù tuổi đã cao.
Muốn xem thân hình thế tử phải có một viên quan đến xin phép cởi áo. Thủ tục vô cùng rườm rà, rắc rối. Qua đó ta thấy được quyền uy tột đỉnh cùng với cuộc sống xa hoa đến cực điểm và sự lộng quyền của nhà chúa.
Trước cuộc sống xa hoa, nhưng yếm khí đó ngay lập tức tác giả đã chuẩn đoán được chính xác căn nguyên căn bệnh mà Thế tử mắc phải: “ở trong trốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi”. Quả thật lời chuẩn đoán của ông vô cùng chính xác, do cuộc sống thừa thãi về vật chất mà lại thiếu đi sự vận động, sống trong không gian tăm tối, ngột ngạt, thiếu khí trời khiến cho phủ tạng ngày càng yếu, người ngày một gầy mòn.
Nhưng khi bắt bệnh xong ông rơi vào tình thế khó xử, tin vào khả năng chữa bệnh của mình nhưng sợ bị danh lợi ràng buộc, không tiếp tục cuộc sống tự do tự tại, ẩn dật mà ông yêu thích nữa; nếu không chữa sẽ không đúng với lương tâm người thầy thuốc.
Và cuối cùng ông đã quyết định làm theo đúng lương y của người thầy thuốc, khám và chữa bệnh cẩn thận cho thế tử. Qua đó ta thấy người Lê Hữu Trác là một lương y có tay nghề cao và tâm sáng luôn hết lòng vì người bệnh, đồng thời ông cũng là một người coi thường danh lợi.
Đoạn trích đã cho thấy tài năng nghệ thuật đặc sắc trong ngòi bút kí sự của Lê Hữu Trác. Nghệ thuật miêu tả, ghi chép rõ nét, trung thực, tạo sự tin cậy nơi người đọc. Lựa chọn chi tiết tiêu biểu, ấn tượng qua quang cảnh phủ chúa, hình ảnh thế tử,… tất cả đều ngầm lên án, phê phán cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa.
Kết hợp hài hòa giữa tự sự, miêu tả và biểu cảm tạo nên sự cuốn hút và tăng giá trị hiện thực cho tác phẩm. Giọng điệu châm biếm, hài hước nhẹ nhàng kín đáo cũng là một yếu tố góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm.
Qua đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh, Lê Hữu Trác không chỉ vẽ nên cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa với cung cách sinh hoạt hết sức rườm rà, cuộc sống đầy yếm khí ở nơi đây. Nhưng đồng thời sau những dòng chữ ấy còn cho thấy những nỗi niềm, cảm xúc của tác giả trước lối sống giàu sang, phú quý và tấm lòng, nhân cách cao cả của một bậc lương y.