Chạy Giặc của Nguyễn Đình Chiểu: Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích 

Chạy Giặc [Nguyễn Đình Chiểu] ❤️️ Nội Dung Bài Thơ Chạy Giặc, Nghệ Thuật, Phân Tích ✅ Giới Thiệu Đến Bạn Đọc Tuyển Tập Dàn Ý, Sơ Đồ Tư Duy Hay Nhất.

Nội Dung Bài Thơ Chạy Giặc

Có những tác phẩm văn chương bất tử khi nó trở thành chứng nhân lịch sử, nó gắn liền với nỗi vui, buồn của một dân tộc. Bài thơ “Chạy giặc” của Nguyễn Đình Chiểu là một bài thơ mang ý nghĩa như vậy. Nội Dung Bài Thơ Chạy Giặc như sau.

Chạy giặc
Tác giả: Nguyễn Đình Chiểu

Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế phút sa tay
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim dáo dác bay
Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Ðồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây
Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng?
Nỡ để dân đen mắc nạn này!

Đừng vội bỏ lỡ phân tích tác phẩm 🌷Lẽ Ghét Thương 🌷 đầy đủ nhất

Về Thi Sĩ Nguyễn Đình Chiểu

Cùng Thohay.vn tìm hiểu những thông tin chính Về Thi Sĩ Nguyễn Đình Chiểu nhé.

  • Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888), tục gọi là Đồ Chiểu, sinh tại quê mẹ ở làng Tân Thới, tỉnh Gia Định (nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh), quê cha ở xã Bồ Điền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế.
  • Ông thi đỗ tú tài năm 21 tuổi (1843), nhưng 6 năm sau (1849) ông bị mù.
  • Sau đó, ông về Gia Định dạy học và bốc thuốc chữa bệnh cho nhân dân.
  • Trong giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Nam Kỳ, ông tích cực tham gia phong trào kháng chiến cùng các vị lãnh tụ như bàn bạc việc đánh giặc hay sáng tác văn học để khích lệ tinh thần nhân dân.
  • Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ lớn của dân tộc. Khi Nam Kỳ bị giặc chiếm, ông về sống ở Ba Tri (Bến Tre).
  • Các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu chủ yếu truyền bá đạo lý làm người và cổ vũ tinh thần yêu nước.
  • Một số tác phẩm nổi tiếng: Truyện Lục Vân Tiên, Dương Từ – Hà Mậu, Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Thơ điếu Trương Định…

XEM TRỌN BỘ TUYỂN TẬP 👉 Thơ Nguyễn Đình Chiểu

Về Tác Phẩm Chạy Giặc [Chạy Tây]

Về Tác Phẩm Chạy Giặc [Chạy Tây], đây chính là một tác phẩm tiêu biểu của phong cách nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu, được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Tác phẩm đã trở thành nhân chứng lịch sử, gắn với niềm vui, nỗi buồn của dân tộc. Bài thơ mang một ý nghĩa sâu sắc lay động bạn đọc.

Bài thơ gợi lại một thời đau thương của dân tộc, gợi lòng căm thù kẻ thù xâm lược và tấm lòng yêu nước nồng nàn của người dân đất Việt nói chung và tác giả Nguyễn Đình Chiểu nói riêng.

Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Chạy Giặc

Tiếp theo là thông tin về Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Chạy Giặc.

  • Hiện nay chưa có tài liệu nào ghi rõ hoàn cảnh ra đời của bài thơ.
  • Nhưng căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử, cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu, đặc biệt là nội dung tác phẩm có người cho rằng bài thơ được viết ngay sau khi thành Gia Định bị thực dân Pháp bắt đầu tấn công (17 – 2 -1959).
  • Bài thơ “Chạy giặc” là một trong những tác phẩm đầu tiên của phong trào yêu nước chống thực dân Pháp nửa cuối thế kỉ XIX.

Đừng bỏ lỡ tác phẩm🌿Bài Ca Ngất Ngưởng🌿 Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị Nghệ Thuật 

Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Chạy Giặc

Tiếp tục cùng tìm hiểu Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Chạy Giặc nhé.

Nhan đề “Chạy Giặc” giúp người đọc dễ dàng hình dung hình ảnh chân thực một khung cảnh hoảng loạn của nhân dân, sự chết chóc, tang thương của đất nước trong buổi đầu có thực dân Pháp xâm lược.

Chúng ta có thể dễ dàng mường tượng được tiếng súng Tây nổ ra lúc vừa tan chợ, thấy được những bước chân chạy giặc vừa hoảng loạn, sợ hãi của người dân. “Chạy giặc” chính là một chứng tích về tội ác giặc Pháp trong những ngày tháng đầu chúng xâm lược đất nước ta.

Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật Của Chạy Giặc

Các Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật Của Chạy Giặc như sau:

Giá trị nội dung

  • Chạy giặc phản ánh hiện thực đau thương của nhân dân Nam Bộ trong những ngày đầu thực dân Pháp xâm lược. Đồng thời nói lên nỗi đau và lòng căm hận của tác giả trước tội ác của giặc; mong ước có một bậc anh hùng ra tay dẹp loạn.
  • Bài thơ còn thể hiện tình cảm yêu nước tha thiết của nhà thơ. Đó là những giây phút đau thương trước cảnh nước mất nhà tan. Ông đã lên tiếng kêu gọi những người có trách nhiệm đứng lên đánh giặc cứu nước và thức tỉnh lòng yêu nước trong mỗi người dân Việt.

Giá trị nghệ thuật

  • Các biện pháp tu từ: từ láy, phép đối
  • Hình ảnh thơ gợi hình, gợi cảm
  • Ngôn ngữ thơ tinh tế, giàu cảm xúc

Tham khảo phân tích tác phẩm🌻Vịnh Khoa Thi Hương🌻 Sơ Đồ Tư Duy, Các Bài Phân Tích Hay

Bố Cục Chạy Giặc

Bố Cục Chạy Giặc bao gồm 2 phần chính như sau:

  • Phần 1: Sáu câu đầu. Cảnh nhân dân và đất nước khi thực dân Pháp đến xâm lược.
  • Phần 2: Hai câu còn lại. Tâm trạng, thái độ của nhà thơ trước cảnh ngộ đất nước bị xâm lược.

Dàn Ý Chạy Giặc

Mời các bạn tham khảo Dàn Ý Chạy Giặc sau đây.

I. Mở bài

– Giới thiệu hoàn cảnh sáng tác: Năm 1859, thực dân Pháp đánh chiếm Gia Định, Nguyễn Đình Chiểu viết bài Chạy giặc.

– Dẫn đề (ghi lại bài thơ).

– Chuyển mạch: phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của bài thơ.

II. Thân bài

1. Hai câu đề

– Từ chính xác, gợi tả, hình ảnh thực, sinh động: tan chợ, vừa, tiếng súng Tây, cờ thế, phút sa tay.

– Tiếng súng của giặc Pháp đột ngột nổ vang, phá tan cuộc sống yên lành của nhân dân ta và đẩy nước nhà đến chỗ nguy nan, thất bại hoàn toàn.

– Cảm xúc mở đầu bài thơ: bàng hoàng, tuyệt vọng.

2. Hai câu thực

– Biện pháp ẩn dụ, đảo ngữ, những trạng từ gợi hình ảnh loạn li, tan tác của nhân dân ta: lơ xơ, dáo dác.

– Cách ngắt nhịp chẵn – lẻ của thơ Đường luật thể hiện lời than thở xót xa:

Bỏ nhà / lũ trẻ / lơ xơ chạy,
Mất ổ / đàn chim / dáo dác bay.

– Nỗi khổ của nhân dân ta trong cảnh chạy giặc.

3. Hai câu luận

– Biện pháp đảo ngữ được tiếp tục sử dụng, hình ảnh gợi tả: quê hương thân yêu Bến Nghé, Đồng Nai, bị giặc thiêu huỷ, cướp bóc, của tiền tan bọt nước, tranh ngói nhuốm màu mây.

– Sự tố cáo tội ác của giặc vừa cụ thể vừa khái quát bằng giọng thơ u uất, căm hờn.

– Tội ác dã man của giặc xâm lược.

4. Hai câu kết

– Ngôn ngữ châm biếm sắc cạnh (rày đâu vắng, nỡ để dân đen), than oán triều đình nhà Nguyễn sợ giặc, bỏ mặc dân tình khổ ải.

– Nỗi cảm khái trước cảnh điêu linh của nhân dân.

III. Kết luận

– Giá trị hiện thực: tái hiện cảnh chạy giặc của người dân trong những ngày thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Nam Bộ.

– Giá trị tư tưởng, tình cảm: biểu lộ lòng yêu nước, thương dân tha thiết, lòng căm thù giặc xâm lược bạo tàn.

Có thể bạn sẽ cần🌷Thương Vợ [Tú Xương] 🌷 đầy đủ nhất

Sơ Đồ Tư Duy Chạy Giặc

Lưu lại ngay các Sơ Đồ Tư Duy Chạy Giặc bên dưới.

Sơ Đồ Tư Duy Chạy Giặc Dễ Hiểu
Sơ Đồ Tư Duy Chạy Giặc Dễ Hiểu
Sơ Đồ Tư Duy Chạy Giặc Đầy Đủ
Sơ Đồ Tư Duy Chạy Giặc Đầy Đủ

Mời bạn đọc xem thêm tác phẩm 🌿Thu Vịnh [Nguyễn Khuyến]🌿 Nội Dung, Giá Trị Nghệ Thuật 

5 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Chạy Giặc Hay Nhất

Tổng hợp và chia sẻ cho bạn đọc thêm 5 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Chạy Giặc Hay Nhất.

Phân Tích Bài Thơ Chạy Giặc Đặc Sắc – Mẫu 1

Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ lớn của đất nước ta trong thế kỉ 19. Mắt bị mù lòa giữa thời trai trẻ, con đường, công danh sự nghiệp dở dang, nhưng ông đã không chịu khoanh tay trước những bất hạnh cay đắng. Ông đã mở trường dạy học, làm thầy thuốc săn sóc sức khỏe của nhân dân, viết văn làm thơ, tiếng tăm lừng lẫy, trở thành ngôi sao sáng trong nền văn nghệ Việt Nam cuối thế kỉ 19.

Tên tuổi Nguyễn Đình Chiểu gắn liền với những truyện thơ đậm đà màu sắc cổ điển như truyện “Lục Vân Tiên”, truyện “Ngư Tiều y thuật vấn đáp” … Đỉnh cao về tư tưởng và nghệ thuật của Nguyễn Đình Chiểu là những bài văn tế, những bài thơ yêu nước như “Chạy giặc”, “Xúc cảnh”, “Văn tế Trương Công Định”, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”, v.v…

Đánh giá giá trị các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu trong những năm thực dân Pháp xâm lược Nam Bộ, có ý kiến khẳng định: “Sáng tác của ông sống dậy và hướng tới chúng ta như những bài ca yêu nước…”. Nếu các truyện thơ “Lục Vân Tiên”, “ Ngư Tiều y thuật vấn đáp”…. sáng ngời tư tưởng nhân nghĩa cao đẹp thì những bài văn tế, những bài thơ như “Chạy giặc” đã làm “sống dậy và hướng tới chúng ta như những bài ca yêu nước…

Thơ, văn tế của Nguyễn Đình Chiểu “ca ngợi những người anh hùng, suốt đời tận trung với nước, và than khóc những người liệt sĩ đã trọn nghĩa với dân. Ngòi bút, nghĩa là tâm hồn trung nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu đã diễn tả, thật là sinh động và não nùng, cảm tình của dân tộc đối với người chiến sĩ của nghĩa quân vốn là người nông dân, xưa kia chỉ quen cày cuốc, bỗng chốc trở thành người anh hùng cứu nước.” (Phạm Văn Đồng).

Khi Tổ quốc bị xâm lăng “súng giặc đất rền”, những người áo vải chân đất “dân ấp dân lân” đã quật khởi đứng lên đánh giặc với ý chí căm thù sôi sục:

“Bữa thấy bòng bong che trắng lấp, muốn tới ăn gan,
Ngày xem ống khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ”

Họ đánh giặc là để bảo vệ “tấc đất ngọn rau”, để giữ lấy “bát cơm manh áo ở đời” Vì thế, chỉ một lưỡi dao phay, một gậy tầm vông cũng ào ào xung trận. Tư thế chiến đấu vô cùng hiên ngang lẫm liệt:

“Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia,
Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.”

(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)

Đất nước quê hương bị giặc Pháp giày xéo, tuy bị mù lòa, ông vẫn dùng ngòi bút và tấm lòng tham gia đánh giặc. Ông gọi lòng trung nghĩa của mình là “lòng đạo” chung thủy, sắt son, sáng ngời:

“Sự đời thà khuất đôi tròng thịt,
Lòng đạo xin tròn một tấm gương”

Có thể nói, những câu văn, vần thơ của Nguyễn Đình Chiểu chứa chan tinh thần yêu nước, đã làm “sống dậy và hướng tới chúng ta như những bài ca yêu nước… Vì thế mà niềm mơ ước của ông vẫn là niềm mơ ước của hàng triệu con người Việt trong thế kỉ qua:

“Chừng nào thánh đế ân soi thấu,
Một trận mưa nhuần rửa núi sông.”

(Xúc cảnh)

Phân Tích Bài Thơ Chạy Giặc Hay Nhất – Mẫu 2

Các nhà thơ, nhà văn được coi là những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa nghệ thuật, thật vậy, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu cũng là một trong số các tác giả như thế. Ông đã dùng ngòi bút sắc nhọn của mình để chĩa thẳng mũi súng căm thù vào quân xâm lăng, bài thơ “Chạy giặc” là một trong những bài thơ khắc họa khung cảnh khi quê hương bị thực dân Pháp xâm lược, đó cũng là lời tố cáo của Nguyễn Đình Chiểu về tội ác của chúng.

Bài thơ được viết sau khi thực dân Pháp tấn công vào thành Gia Định – quê hương của nhà thơ (17/2/1859). Chứng kiến cảnh tượng ấy, ông không khỏi xót xa. Là một người yêu quê hương, dân tộc có ai lại không đau đớn khi mảnh đất máu thịt bị xâm chiếm, nhân dân bị áp bức tàn bạo.

Hai câu thơ đầu bài thơ đã mở ra hiện thực đất nước đầy đau thương:

“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay”.

Thời điểm bắt đầu cuộc tấn công của thực dân Pháp vào Gia Định là thời điểm “tan chợ”. Mọi người trong phiên chợ vừa mới bước chân ra về thì tiếng súng bắt đầu nổ. Chắc hẳn nơi ấy đã diễn ra trận càn quét của quân địch.

Tiếng súng vang lên như xé tan cuộc sống yên ổn nơi đây vốn có, thay vào đó là sự lo sợ bởi chủ quyền đất nước bị xâm phạm. “Tiếng súng Tây” là tiếng súng của thực dân Pháp. Phép ẩn dụ bàn cờ phút “sa tay” ám chỉ triều đình đã để thành Gia Định rơi vào tay giặc. Nói cách khác, quân thực dân đã xâm chiếm được đất Gia Định.

Cảnh chạy giặc của nhân dân được tác giả miêu tả chi tiết mà đau xót biết nhường nào:

“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim dáo dác bay”.

Đảo ngữ “bỏ nhà” và “dáo dác” giàu sắc thái biểu cảm khiến cho câu thơ nhuốm màu bi thương. Tiếng súng phát ra như báo trước một điều không hay sẽ xảy đến. Nguyễn Đình Chiểu đã sử dụng nhiều từ ngữ có khả năng gợi hình cao cùng phép đảo ngữ khiến người đọc có thể hình dung ra sự chết chóc, hoang tàn mà tác giả miêu tả.

Đám trẻ con chạy không định hướng vì không có người dẫn dắt. Chúng chạy một cách thất thần để tránh sự nguy hiểm đang ập tới.

Không chỉ có con người hoảng loạn, những loài vật như đàn chim cũng bay một cách hốt hoảng, không phương hướng vì bị mất ổ, mất nơi cư trú. Từ láy “lơ xơ” và “dáo dác” đã gợi tả một khung cảnh tan tác, mọi thứ bị đảo lộn vì tiếng súng.

“Lũ trẻ” là những đứa trẻ hồn nhiên, ngây thơ, vô tội. Đáng lẽ chúng phải được hưởng cuộc sống thanh bình, no ấm nhưng sự xâm lược của thực dân đã khiến tuổi thơ của những đứa trẻ phải sống trong sợ hãi.

Hiện lên trước mắt người đọc còn là cảnh tượng chết chóc, điêu tàn:

“Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”.

Miền Nam đang chìm trong khói lửa nghi ngút. Thành Gia Định và miền Đông Nam Bộ đã chìm trong ngọn lửa. Đi đến đâu, quân địch thực hiện càn quét, cướp bóc, giết hại dân lành đến đấy. Hành động của chúng vô cùng tàn ác, gây bao thiệt hại cho nhân dân ta. Bến Nghé hay Đồng Nai đều rơi vào tình trạng tiền của, tài sản tan nhanh chóng như bọt nước.

Những tội ác của thực dân Pháp đã được diễn đạt qua hai câu thơ có sức khái quát lớn. Nhưng những tang tóc, đau thương nhân dân ta phải gánh chịu còn nhiều hơn thế gấp nhiều lần. Đến cả những gì vô tri vô giác như con rạch, con sông cũng ngùn ngụt chí căm thù. Các ngôi nhà đổ vỡ, ngập chìm trong lửa đốt. Phải chứng kiến cảnh tượng những mái nhà bị thiêu cháy, tiền bạc của mình bỗng chốc tiêu tan có mấy ai không xót xa?

Trước cảnh tượng tàn khốc như vậy, Nguyễn Đình Chiểu đã cất lên câu hỏi đầy mỉa mai:

“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mặc nạn này”.

Câu hỏi tu từ đã lột tả được khung cảnh tan tác, hoảng loạn khi nhân dân chạy giặc. Đây là câu hỏi không chỉ của riêng ông mà còn là câu hỏi của nhân dân nói chung đối với triều đình phong kiến lúc bấy giờ.

Nhân dân lầm than, khổ cực, rất cần một con đường giải thoát, chống lại ách áp bức nhưng “trang dẹp loạn” lại vắng bóng. Vua quan, triều đình nhà Nguyễn đi đâu vắng lại không xuất hiện và cứu giúp nhân dân đang chịu cảnh cơ cực?

Hai câu thơ cuối không chỉ thể hiện sự xót thương của tác giả trước cảnh nước mất nhà tan mà còn bộc lộ thái độ căm thù giặc sâu sắc, sự thất vọng khi triều đình không chăm lo cho cuộc sống nhân dân mà họ còn nhu nhược, bắt tay với thực dân Pháp. Sự hèn nhát của triều đình, của những người có trách nhiệm bảo vệ đất nước, chăm lo cho cuộc sống nhân dân thật đáng mỉa mai, khinh bỉ.

Sự bất lực của nhà Nguyễn đã khiến nhân dân ta rơi vào cảnh điêu đứng, không lối thoát. Câu hỏi tu từ đó cũng nhằm mục đích thức tỉnh những người con yêu nước đứng lên chống lại sự đô hộ, mang lại cuộc sống ấm no cho “dân đen”.

Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật có kết cấu đề – thực – luận – kết chặt chẽ. Là một người con của đất Gia Định nên ngôn ngữ trong thơ Nguyễn Đình Chiểu mang đậm màu sắc Nam Bộ. Bút pháp hiện thực – trữ tình được tác giả vận dụng rất triệt để và đạt hiệu quả cao. Ẩn chứa đằng sau bức tranh “Chạy giặc” là tấm lòng yêu nước thương dân sâu nặng.

Nguyễn Đình Chiểu không chỉ miêu tả chân thật cảnh tượng đất nước bị quân thực dân chà đạp, giày xéo mà còn thể hiện một tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Tuy rằng ông bị mù lòa, không thể trực tiếp ra trận nhưng ngòi bút chiến đấu của ông vô cùng sắc sảo. Bài thơ “Chạy giặc” là một bài thơ tiêu biểu của văn học yêu nước chống Pháp nửa cuối thế kỉ XIX, là lời tố cáo đanh thép, hùng hồn về tội ác của thực dân Pháp.

Phân Tích Bài Thơ Chạy Giặc Tiêu Biểu – Mẫu 3

Trong vườn hoa không phải tất cả những loài hoa đều có thể nở rộ, khoe sắc thắm và trong văn chương cũng vậy, không phải tác phẩm nào cũng có thể trường tồn cùng thời gian. Thế nhưng, Nguyễn Đình Chiểu – một ngôi sao sáng của dân tộc đã thổi hồn vào đứa con “Chạy giặc” của mình để nó trở thành một trong những bài thơ tiêu biểu của dòng thơ yêu nước trong thời kì kháng chiến chống Pháp.

Chúng ta từng biết đến Nguyễn Đình Chiểu với nhiều tập truyện thơ đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc như “Lục Vân Tiên”, “Chúng tử tế mẫu văn”,… Đặc biệt, vào thời khắc năm 1858 khi thực dân Pháp nổ súng mở đầu cho cuộc xâm lược nước ta với những thủ đoạn vô cùng dã man và tàn bạo khiến lòng căm thù giặc của nhà thơ ngày càng dâng cao.

Bằng ngòi bút điêu luyện, nhà thơ đã miêu tả hiện thực đất nước đầy đau thương trong buổi đầu bị xâm lược. Đó là khi giặc Pháp tấn công vào thành Gia Định lúc “tan chợ” ở hai câu đề:

“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay.”

Cảnh họp chợ báo hiệu một cuộc sống yên bình, ấm no của con người, nay chợ đã tan, “tiếng súng Tây” đã làm xáo trộn cuộc sống thường nhật của người dân. Tiếng súng bất ngờ ấy đã làm cảnh tượng khu chợ trở nên tan tác, thê lương.

Bằng biện pháp ẩn dụ nhà thơ gọi tiếng súng của giặc Pháp là “tiếng súng Tây” để lên án gay gắt và thể hiện một thái độ căm phẫn với những hành động xâm lăng của chúng. Thái độ căm thù giặc đó còn được thể hiện trong bài “Than đạo” của Nguyễn Đình Chiểu:

“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”.

“Tiếng súng Tây” bất ngờ nổ lên khiến mọi người đều chạy hoảng loạn. Đáng lẽ ra, sau giây phút họp chợ là giây phút mà nhà nhà vui vẻ, đám trẻ con háo hức vì được bà hay được mẹ mua quà vặt. Cho dù đó là những thứ nhỏ bé, dân dã của làng quê như mấy viên kẹo bột, kẹo lạc hay những bộ quần áo mới thì tất cả đều khiến lũ trẻ mong chờ.

Cả gia đình sẽ quây quần bên nhau để chế biến con cá vừa mới mua ở chợ hay kể về một người thân thích lâu không gặp nay bỗng gặp lại trong phiên chợ đó. Những khoảnh khắc ấy thật yên bình và hạnh phúc biết bao. Vậy mà tiếng súng lại vang lên phá tan đi những mái nhà yên ấm, những hạnh phúc bình dị đó. Có ai không đau lòng, không xót xa trước cảnh tượng ấy?

Nhà thơ đã so sánh thế nước như “một bàn cờ thế phút sa tay” để nói lên sự thất thủ của quân triều đình chỉ trong chớp nhoáng khiến cho vận nước rơi vào tay giặc. Đằng sau mỗi ý thơ đều ẩn chứa một tâm trạng đầy bất an và lo lắng của nhà thơ về vận nước lúc bấy giờ. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta cũng là lúc nhân dân ta bước vào thời kì nô lệ, họ luôn phải sống trong lầm than, khổ cực dưới ách áp bức của thực dân.

Nhà thơ đã tái hiện lại cảnh tượng con người chạy hoảng loạn đầy xót xa ở hai câu thực:

“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ bầy chim dáo dác bay”.

Các từ ngữ: “Bỏ nhà”, “lơ xơ chạy”, “mất ổ”, “dáo dác bay” đã đặc tả sự tan nát, hoang sơ đầy thương cảm khi lũ giặc xả súng tấn công tổ quốc. Nhà thơ đã sử dụng những hình ảnh điển hình, lấy “lũ trẻ” để đại diện cho sự sống con người, lấy “đàn chim” để đại diện cho thế giới tự nhiên.

Hai hình ảnh ấy đã trở thành điển hình cho nỗi đau thương của dân lành khi cả những đứa trẻ cũng phải chạy giặc, bầy chim cũng phải rời tổ để tìm chỗ ẩn náu cho mình.

Nghệ thuật đảo ngữ đã lên án tội ác của giặc khiến cho những đứa trẻ cũng phải toán loạn chạy tìm nơi ẩn náu, bầy chim trên kia mất ổ cũng phải bay đi nơi khác. Các từ láy “lơ xơ”, “dáo dác” có tính chất tạo hình cao giúp bạn đọc như được trở lại cùng người dân “chạy giặc” lúc bấy giờ.

Tác giả đã phác họa bức tranh ấy không chỉ ở những vùng quê, những khu chợ mà còn ở cả chốn đô thị sầm uất nay cũng trở nên tan tác ở hai câu luận:

“Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.”

Chúng ta biết đến Bến Nghé là nơi các hoạt động buôn bán, trao đổi hàng hóa diễn ra sầm uất với các tàu bè tấp nập khoảng hai trăm năm về trước, còn Đồng Nai là một trong những vựa lúa lớn của miền Nam. Thế nhưng chỉ trong nháy mắt đã bị giặc Pháp cướp bóc, phá tan hoang đến mức nhanh như “bọt nước”.

Sự càn quét của giặc Pháp như một cơn lũ, chúng cuốn trôi đi tất cả, cướp đi biết bao sinh mạng, tài sản của nhân dân. Chúng đốt những mái ấm của nhân dân ta khiến cho lửa khói dâng cao ngút trời bao phủ cả khoảng không rộng lớn. Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật so sánh độc đáo “của tiền tan bọt nước”, “tranh ngói nhuốm màu mây” để lột tả bộ mặt tàn ác của quân xâm lăng.

Sức tàn phá của chiến tranh thật ghê gớm. Chiến tranh không chỉ đảo lộn cuộc sống thường ngày mà chiến tranh còn làm mất mát bao của cải, tài sản của nhân dân, đẩy dân lành vào cảnh điêu đứng. Trước thảm cảnh đó, không ai có thể ngăn được sự xót xa, đau đớn dành cho hoàn cảnh của chính mình và dân tộc.

Tội ác quân giặc làm sao kể xiết, nhà thơ không khỏi lo lắng, đau xót trước cảnh nước nhà rơi vào tình trạng bi thương, thê thảm. Điều đó được thể hiện rõ ở hai câu kết:

“Hồi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nợ này?”

Câu hỏi tu từ ở cuối bài đã cho chúng ta thấy tấm lòng yêu nước tràn đầy nhiệt huyết, một dòng máu nóng đang chảy trôi trong tâm hồn nhà thơ, đó chính là tiếng lòng quặn thắt trước thực tại đầy đau xót của nhà thơ, đó cũng là sự thất vọng sâu sắc về phía triều đình.

Từ đó ta cảm nhận được một trái tim đang rực cháy tình yêu quê hương, đất nước, một tấm lòng nhân hậu đầy thương cảm khi chứng kiến cảnh “dân đen” phải chịu cảnh lầm than.

Những “trang dẹp loạn”, những anh hùng, vua quan nhà Nguyễn đi đâu vắng lại để cho dân đen gồng mình chịu nạn? Những con người sống bằng mồ hôi, công sức, xương máu của nhân dân lại bỏ mặc nhân dân khi họ lâm vào khốn khó. Triều đình ấy đã không đứng lên bảo vệ nhân dân, dẹp giặc ngoại xâm mà lại trở nên hèn nhát, bạc nhược.

Bài thơ “Chạy giặc” đã tái hiện chân thực thời kì đau thương của đất nước, thể hiện ngọn lửa của lòng yêu nước luôn cháy bỏng trong tâm hồn nhà thơ. Nguyễn Đình Chiểu tuy không trực tiếp chiến đấu với quân địch trên chiến trường nhưng ngòi bút của ông lại có tính chiến đấu mạnh mẽ.

Ông đã dùng ngòi bút của mình để lên án tội ác của giặc, thể hiện chí căm thù giặc đến ngút trời đồng thời thổi hồn vào đó một tình yêu quê hương đất nước mãnh liệt. Dưới ngòi bút của nhà thơ, “Chạy giặc” thật xứng đáng là áng văn yêu nước trường tồn mãi mãi cùng thời gian.

Phân Tích Bài Thơ Chạy Giặc Nổi Bật – Mẫu 4

Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), thường được gọi là Đồ Chiểu, ông là nhà thơ lớn và lỗi lạc nhất của miền Nam Việt Nam trong những năm nửa cuối thế kỷ XIX, giai đoạn nước nhà có nhiều biến động, triều đình phong kiến suy yếu, thực dân Pháp tràn vào xâm lược nước ta.

Ông là một nhà thơ có tấm lòng yêu nước sâu sắc, là nhà thơ tiêu biểu cho nghị lực sống mạnh mẽ, thơ văn của ông luôn hướng đến khẳng định các tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước thương dân, về sau khi Pháp xâm lược nước ta thì ngòi bút xuất sắc của ông lại chuyển sang khuynh hướng chiến đấu, lên án thực dân Pháp xâm lược, phê phán triều đình nhu nhược đồng thời hết lòng ca ngợi, ủng hộ các phong trào kháng chiến cứu quốc của nhân dân.

Có nhận định cho rằng: “Sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu sống dậy và hướng tới chúng ta những bài ca yêu nước”, chúng ta có thể nhận thấy rõ điều ấy thông qua tác phẩm Chạy giặc, một trong những bài thơ yêu nước xuất hiện đầu tiên trong thời kỳ chống Pháp.

Không rõ là bài thơ Chạy giặc được sáng tác vào khoảng thời gian nào, nhưng với nội dung có thể suy đoán rằng bài thơ ra đời vào lúc thành Gia Định bị thực dân Pháp tấn công và chiếm đóng. Xuyên suốt nội dung tác phẩm đó là cảnh tượng chạy giặc khốn khổ, đầy hoang mang lo sợ của nhân dân ta, vốn vẫn đang quen cảnh thái bình, ngờ đâu tai họa đã ập xuống ngay trước mắt.

“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế lúc sa tay”

Hai câu đề đã gợi lên thời điểm và hoàn cảnh chạy giặc lúc bấy giờ, đó là sau một buổi họp chợ như bình thường, là nơi đông đúc, người người nhà nhà quây quần với nếp sinh hoạt trao đổi mua bán, vốn là một cảnh bình yên, sung túc. Thế nhưng tất cả đã bị phá vỡ bởi một “tiếng súng Tây”, âm thanh khủng khiếp, xa lạ ấy đã làm kinh hồn bạt vía những con người lương thiện, vốn xưa nay chẳng biết đến đạn dược là gì.

Không chỉ xa lạ trong tiềm thức nhân dân Việt Nam thời bấy giờ, mà âm thanh kinh hoàng gợi sự chết chóc, hủy diệt hàng loạt ấy cũng lần đầu đầu xuất hiện trong văn học Việt Nam, mở ra một thời kỳ văn học kháng chiến, yêu nước đầy sôi nổi.

Hình ảnh “Bàn cờ thế lúc sa tay” mở ra một liên tưởng đến tình cảnh của đất nước lúc bấy giờ, cũng rơi vào thế bị động, bất ngờ, không kịp trở tay, nhân dân đang đứng trước khốn cảnh nước mất nhà tan, đất nước dường như bị rung chuyển tận gốc bởi “tiếng súng Tây”, tình thế hết sức nguy cấp.

Hai câu thực là cảnh chạy giặc trong nỗi kinh hoàng bạt vía của nhân dân.

“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim dáo dác bay”

Hàng loạt tiếng súng đinh tai nhức óc, khiến con người lâm vào hoảng loạn, khung cảnh chợ vốn đông đúc nhưng trật tự, yên bình giờ đây chẳng khác mấy so với đàn ong vỡ tổ, người người đều chạy, nhưng biết chạy về đâu?

Hình ảnh “lũ trẻ” và “bầy chim” là tiêu biểu cho số phận thảm thương của người dân lúc bấy giờ, đều chịu chung một cảnh mất nhà, mất tổ, buộc phải rời xa cái nơi mình gắn bó bấy lâu để hòng thoát thân, thoát khỏi cái âm thanh ma quỷ, giết chóc từ tiếng súng Tây.

Các tính từ “lơ xơ”, “dáo dác” đều gợi lên một cảm giác hoang mang, vô định, bỏ chạy trong thất thần, sợ hãi mà không có một ai dẫn dắt, mọi người mọi vật đều tán loạn, tan tác như gà con mất mẹ, như đàn ong vỡ tổ. Hai câu thơ tả thực nhấn mạnh nỗi ám ảnh cảnh chạy giặc điêu tàn, bi thương trong những năm đầu thực dân Pháp xâm lược nước ta, đó là ký ức kinh hoàng không thể nào phai mờ trong tâm trí những con người buổi ấy.

Hai câu luận là viễn cảnh đối lập của đất nước trước và sau khi giặc tới càn quét.

“Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”

Còn đâu một Bến Nghé giàu có, sung túc, nhân dân an yên vui vầy buôn bán, giặc dữ quét qua bao nhiêu “của tiền tan bọt nước”, cơ nghiệp xây dựng bao đời nay cũng tan thành mây khói. Còn đâu một Đồng Nai, nhà mái ngói đỏ tươi, mái tranh vàng ấm áp, nay cũng chỉ còn lại những cột khói ngút trời, tựa như màu mây xám, ảo não, bi thương vô cùng. Tất cả đã bị hủy diệt bởi tiếng súng kinh hoàng của quân xâm lược, nghĩ mà đau xót, thương tâm vô cùng.

Nếu như 6 câu thơ đầu Nguyễn Đình Chiểu đã sử dụng bút pháp tả thực, cùng những hình ảnh tiêu biểu, đặc trưng để vẽ nên bức tranh thành thị Gia Định tan hoang, thê thảm ngày giặc đến, thì hai câu thơ kết bài lại là nỗi lòng của tác giả trước thảm cảnh điêu tàn của dân tộc.

“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này”

Đó là một câu hỏi tu từ đầy đau xót, giọng điệu trầm buồn, day dứt, phẫn uất, phản ánh hiện thực đau lòng về một triều đình phong kiến vô năng, nhu nhược, nhẫn tâm giương mắt để giặc giày xéo lên quê cha đất tổ mà không dám phản kháng, không dám đứng lên lãnh đạo nhân dân cùng đấu tranh bảo vệ Tổ quốc.

Đó cũng là lòng trông mong những nhân tài kiệt xuất đứng ra cùng nhân dân chống lại quân xâm lược như bao lớp cha ông ngày trước, như lời Nguyễn Trãi đã từng viết “Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau/ Nhưng hào kiệt thời nào cũng có”.

Dẫu đất nước có nằm dưới một chính quyền thối nát yếu hèn, tuy nhiên Nguyễn Đình Chiểu vẫn tin tưởng và hy vọng vào những bậc anh hùng có lòng yêu nước sâu sắc, sẵn sàng đứng lên phụng sự khi Tổ quốc cần. Đồng thời hai câu thơ cuối này cũng là tiếng lòng yêu nước thương dân sâu sắc của tác giả, dẫu đôi mắt có không thấy được, nhưng trái tim ông thấu hiểu rõ tình cảnh khốn cùng của dân tộc.

Nguyễn Đình Chiểu đau đớn, xót xa đến tột cùng khi thấy cảnh đất nước điêu tàn, nhân dân phải chịu cảnh ly tán tang thương, điều đó lại càng thôi thúc ngòi bút tài năng sáng tác thêm nhiều tác phẩm thơ ca cổ vũ ca ngợi phong trào đấu tranh bảo vệ tổ quốc, thôi thúc và làm sống dậy tinh thần yêu nước của nhân dân ta cho đến tận ngày hôm nay.

Đồng thời đó cũng là những lời phê phán, lên án gay gắt cái chế độ phong kiến bù nhìn, những kẻ bán nước đổi lấy sự sang quý đớn hèn ngu nhục, cùng thực dân Pháp những kẻ cướp nước tàn ác, gây ra cuộc chiến tranh phi nghĩa, đầy ải nhân dân.

Phân Tích Bài Thơ Chạy Giặc Ấn Tượng – Mẫu 5

Đừng nói tới cảnh dân chạy giặc vội mà trước hết hãy chú ý đến tiếng súng Tây rộ lên vào thời điểm tan chợ. Nghĩa là trước lúc súng nổ, chợ búa vẫn họp bình thường. Cuộc sống hoàn toàn thanh bình yên ổn. Lúc tan chợ là bắt đầu sự sum họp của gia đình. Những đứa em ngóng anh chỉ, con cái đợi cha mẹ, cháu chắt đợi ông bà.

Cảnh hạnh phúc đầm ấm đơn sơ sẽ diễn ra ở mọi nhà với những món quà giản dị của chợ vùng quê: củ khoai, tấm bánh đúc ngô, dăm ba giống mía, mấy nắm bỏng rang trộn mật… cả nhà sẽ xúm quanh mâm cơm thanh đạm có bát canh chua, khúc cá kho; hay giản dị hơn chỉ có râu tôm nấu với ruột bầu… Tiếng súng Tây nổ đúng vào lúc đó, bất ngờ, đột ngột, dữ dội vô cùng.

Súng Tây thời ấy nổ ghê gớm lắm, súng giặc đất rền. Nghe tiếng súng thì bọn giặc đã ở ngay bên cạnh. Vừa nghe thế mà cả bàn cờ thế đã hỏng phút sa tay. Thất bại ập đến nhanh chóng. Thời gian ngắn ngủi càng tăng thêm tính chất đột ngột, bất ngờ, căng thẳng của tình thế. Và vì thế, thay cho cảnh sum họp đầm ấm là cảnh tượng hỗn loạn, lộn xộn sẻ nghé tan đàn:

Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất tổ đàn chim dáo dác bay

Hai câu đề nói lên thời cuộc và thế nước. Giặc Pháp tấn công thành Gia Định vào lúc tan chợ:

Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay.

Cảnh họp chợ, cảnh tan chợ là nhịp sống yên bình của nhân dân ta. Tiếng súng Tây bất ngờ nổ rền trời đã làm cho nhịp sống ấy bị đảo lộn. Cảnh chiến tranh đã bắt đầu. Một bàn cờ thế là hình ảnh ẩn dụ nói về thời cuộc, về cuộc chiến giằng co, ác liệt. Ba tiếng phút sa tay trong câu thơ “Một bàn cờ thế phút sa tay” nói lên sự thất thủ nhanh chóng của quân triều đình tại thành Gia Định.

Hai câu thơ đầu như một thông báo về sự kiện lịch sử bi thảm diễn ra vào năm 1859. Đằng sau câu thơ là nỗi lo lắng và kinh hoàng của nhà thơ trước thảm họa quê hương đất nước thân yêu của mình bị giặc Pháp chiếm đóng và giày xéo.

Hai câu trong phần thực đối nhau, phép đảo ngữ vận dụng sắc sảo: Vị ngữ bỏ nhà và mất ổ được đặt lên đầu câu thơ nhằm nhấn mạnh nỗi đau thương tang tóc của nhân dân ta khi giặc Pháp tràn tới:

Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ đàn chim dáo dác bay.

Nếu viết Lũ trẻ bỏ nhà lơ xơ chạy và Đàn chim mất ổ dáo dác bay thì ý vị câu thơ và giá trị biểu cảm sẽ không còn nữa! Cặp từ láy lơ xơ và dáo dác gợi tả sự hoảng loạn và kinh hoàng đến cực độ. Cảnh trẻ con lạc đàn, chim vỡ tổ là hai thi liệu chọn lọc điển hình theo cách nói của dân gian tả cảnh chạy giặc vô cùng thảm thương.

Hai câu luận, ý thơ được phát triển và mở rộng. Tác giả lên án tội ác của giặc Pháp càn quét, đốt nhà, giết người, cướp của, tàn phá quê hương. Phép đối và đảo ngữ được vận dụng sáng tạo. Nhà thơ không viết: Của tiền Bến Nghé tan bọt nước và Tranh ngói Đồng Nai nhuốm màu mây, mà đã viết:

Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.

Câu thơ đã vẽ lên một vùng địa lí bao la và trù phú (Bến Nghé, Đồng Nai) phút chốc biến thành đống tro tàn. Bến Nghé, Đồng Nai trong thế kỉ XIX vốn đã là vựa lúa và nơi buôn bán sầm uất trên bến dưới thuyền, thế mà chỉ trong khoảnh khắc đã bị giặc Pháp tàn phá tan hoang.

Tiền của, tài sản của nhân dân ta bị giặc cướp phá sạch tan bọt nước. Nhà cửa xóm làng quê hương nhà thơ bị đốt cháy, lửa khói nghi ngút nhuốm màu mây. Hai hình ảnh so sánh tan bọt nước và nhuốm màu mây là cách nói cụ thể của dân gian đặc tả cảnh điêu tàn do giặc Pháp gây ra.

Có thể nói hai cặp câu trong phần thực và phần luận là tiếng nói căm thù của nhà thơ lên án tội ác của giặc Pháp xâm lược. Người đọc cảm nhận một cách sâu sắc bài thơ Chạy giặc đã làm sống dậy và hướng tới chúng ta như một bài ca yêu nước. Các nhà thơ Việt Nam sau này đã học tập và kế thừa Nguyễn Đình Chiểu để viết nên những vần thơ căm giận quân xâm lược:

Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới,
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau.

(Núi đôi – Vũ Cao)

Giặc về giặc chiếm đau xương máu,
Đau cả lòng sông, đau cỏ cây.

(Quê mẹ – Tố Hữu)

Trong hơn một thế kỷ qua, có biết bao xương máu của nhân dân đã đổ xuống vì bom đạn lũ xâm lược. Cho nên tiếng nói căm thù là cảm xúc chủ đạo của các bài thơ yêu nước. Trở lại hai câu kết trong bài Chạy giặc, ta xúc động trước câu hỏi của nhà thơ:

Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này?

Trang dẹp loạn cũng là trang anh hùng hào kiệt. Rày đâu vắng: hôm nay, bữa nay đi đâu mà không thấy xuất hiện? Nhà thơ vừa trách móc quan quân triều đình hèn yếu, thất trận để giặc chiếm đóng quê hương, vừa mong đợi người anh hùng tài giỏi ra tay đánh giặc để cứu nước, cứu dân thoát khỏi cảnh lầm than.

Câu kết chứa đựng biết bao tình yêu thương của Nguyễn Đình Chiểu đối với nhân dân đang quằn quại trong bom đạn giặc! Chạy giặc là bài ca yêu nước mở đầu cho thơ văn yêu nước của dân tộc ta từ cuối thế kỉ XIX.

Bài thơ Chạy giặc được viết bằng một thứ ngôn ngữ bình dị, dân dã đậm đặc màu sắc Nam Bộ (lũ trẻ, lơ xơ, ổ, dáo dác, tan bọt nước, nhuốm màu mây, rày, nỡ, dân đen). Phép đối, phép đảo ngữ, ẩn dụ so sánh là những biện pháp nghệ thuật được tác giả vận dụng sáng tạo để viết nên những vần thơ hàm súc, biểu cảm.

Chạy giặc là bài thơ mang giá trị lịch sử to lớn. Nó ghi lại sự kiện đau thương của đất nước ta cuối thế kỉ XIX. Nó là bài ca yêu nước căm thù giặc sống dậy và hướng tới chúng ta khát vọng độc lập, tự do.

1 bình luận về “Chạy Giặc của Nguyễn Đình Chiểu: Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích ”

Viết một bình luận