Văn Tế Nghĩa Sĩ Trận Vong Lục Tỉnh [Nội Dung + Ý Nghĩa]

Văn Tế Nghĩa Sĩ Trận Vong Lục Tỉnh ❤️️ Nội Dung, Ý Nghĩa ✅ Bài Văn Tế Được Nguyễn Đình Chiểu Viết Vào Năm 1874.

Nội Dung Bài Văn Tế Nghĩa Sĩ Trận Vong Lục Tỉnh

Thohay.vn chia sẽ nội dung bài Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh  của Nguyễn Đình Chiểu bên dưới.

Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh 
Tác giả: Nguyễn Đình Chiểu

Hỡi ôi!
Tủi phận biên manh;
Căm loài dương tặc.

Ngoài sáu tỉnh hãy ngợi câu án đổ, dân nhờ vua đặng lẽ sống vui;
Trong một phương sao mắc chữ lục trầm, người vì nước rủ nhau chết ngặt!

Nhớ các linh xưa:
Tiếng đồn trung nghĩa đến xa;
Thói giữ cương thường làm chắc.

Từ thủa Tây qua cướp đất, xưng tân trào gây nợ oan cừu;
Chẳng qua dân mắc nạn trời, hoài cựu chúa mang lời phản trắc.

Các bậc sĩ nông công cổ, liền mang tai với núi song tâm;
Mấy nơi tổng lý xã thôn, đều mắc hại cùng cờ tam sắc.

Bọn tam giáo quen theo đường cũ, riêng than bất hạnh mang nghèo;
Bầy cửu lưu cứ nối nghề xưa, thầm tủi vô cô chịu cực.

Phạt cho đến người hèn kẻ khó, thâu của quay treo;
tội chẳng tha con nít đàn bà, đốt nhà bắt vật.

Trải mười mấy năm trầy khốn khó, bị khảo, bị tù, bị đày, bị giết, trẻ già nghe nào xiết đến tên;
Đem ba tấc hơi mọn bỏ liều, hoặc sông hoặc biển hoặc núi hoặc rừng, quen lạ thảy đều rơi nước mắt.

Khá thương thay!
Dân sa nước lửa chầy ngày;
Giặc ép mỡ giàu hết sức.

Đành những kẻ cha thù anh oán, nhảy vòng báo ứng đã cam;
Cực cho người vợ góa con côi, gây đoạn thảm sầu khôn dứt.

Man mác trăm chiều tâm sự, sống những lo trả nợ cho đời;
Phôi pha một mảnh hình hài, thác rồi bỏ làm phân cho đất.

Nghĩ nỗi anh hùng nạn nước, bãi khô lâu nào mấy kẻ khóc than;
Tưởng câu danh lợi tuồng đời, trường khối lỗi mặc dầu ai náo nức.

Trời hỡi trời!
Lòng nghĩa dân phải với ngô quân;
Tiếng nghịch đảng lỗi cùng địch vức.

Gần Côn Lôn xa đại hải, máu thây trôi nổi ai nhìn;
Hàng cai đội bậc quản cơ, xương thịt rã rời ai cất?

Sống thời chịu nắng sương trời một góc, khó đem sừng ngựa hẹn quy kỳ;
Thác rồi theo mưa ngút biển muôn trùng, khôn mượn thư nhàn đưa tin tức.

Thấp thoáng hồn hoa phách quế, lòng cố hương gửi lại bóng trăng thu;
Bơ vơ nước quỷ non ma, hơi âm sát về theo luồng gió bấc.

Như vậy thì:
Số dẩu theo sáu nẻo luân hồi;
Khi sau để trăm năm uất ức.

Trời Gia Định ngày chiều ráng bắn, âm hồn theo cơn bóng ác dật dờ;
Đất Biên Hòa đêm vắng trăng lờ, oan quỷ nhóm ngọn đèn trời hiu hắt.

An Hà quận đang khi bạch trú, gió cây vụt thổi cát xoáy bay con trốt dậy bên thành;
Long Tường Giang mỗi lúc hoàng hôn, khói nước sông mù, lửa huỳnh nháng binh ma chèo dưới vực.

Nhìn mất chặng cờ lau trống sấm, mỉa mai trận nghĩa gửi binh tình;
Thảm đòi ngàn ngựa gió xe mây, mường tượng vong linh về chiến lật.

Thôi!
Người lạc phách theo miền giang hải, cung ngao lẩn thẩn, dành một câu thân thế phù trầm;
Kẻ du hồn ở cõi sơn lâm, lũy kiến đồn ong, còn bốn chữ “âm dung phảng phất”.

Ôi!
Sống muốn cho an;
Thác sao rằng bức?

Dẫu sớm thấy ngọn cờ điếu phạt, phận thần dân đâu chẳng toan còn;
Chưa kịp nghe tiếng trống an hương, nghĩa quân phụ nào dè chết mất.

Hoặc là sợ như đất triêu Tần mộ Sở, cuộc can qua sông cũng ở ghê mình;
Hoặc là e như trời nam Tống bắc Kim, đường binh cách thác đi cho khuất mặt.

Tiếc non nước ấy nhân dân dường ấy, gây sự này nào thấy phép tẩy oan;
Biết cha mẹ đâu tộc loại ở đâu, chạnh tình đó mới ra ơn điếu tuất.

Tuy uổng mệnh hãy chờ khi sách mệnh, sẵn vòng quả báo vấn vương;
Song oan hồn chưa có kẻ chiêu hồn, khiến tấm linh đài bực tức.

Nhớ phận áo cơm đất nước, trọn mấy năm ngóng cổ trông quan;
So bề mồ mả ông cha, còn hơn đứa đành lòng theo giặc.

Đến nay:
Cám cảnh Nam Trung;
Trách lòng tạo vật.

Ví như sĩ sinh đời Đông Tấn, nay đánh Hồ mai dẹp Yết, thời phơi gan trong đám tinh chiên;
Nào phải dân ở cõi U Yên, sớm đầu Hạ, tối về Liêu, mà trây máu bên đường kinh cức.

Phải trời cho mượn cán quyền phá lỗ, Trương tướng quân còn cuộc nghĩa binh;
Ít người đặng xem tấm bảng phong thần, Phan học sĩ hết lòng mưu quốc.

Muôn dặm giang sơn triều thánh đố, gian sơn còn hơi chính đều còn;
Nghìn năm hồn phách nạn dân này, hồn phách mất tiếng oan nào mất.

Dẫu đặng ơn nhuần khô cốt, cơn trị bình mới thấy đạo vương;
Muốn cho phép vớt linh hồn, buổi ly loạn khôn cầu kinh Phật.

Ôi!
Trời xuống nàn quỷ trắng mấy năm;
Người uống giận suối vào vàng lắm bực.

Cảnh Nam thổ phơi màu hoa thảo, đọng tình oan nửa úa nửa tươi;
Cõi Tây thiên treo bức vân hà, kết hơi oán chặng thưa chặng nhặt.

Ngày gió thổi lao xao tin dã man, thoắt nhóm thoắt tan thoắt lui thoắt tới, như tuồng bán dạng linh tinh;
Đêm trăng lời giéo giắt tiếng đề quyên, dường hờn dường mến dường khóc dường than, đòi đoạn tỏ tình oan khuất.

Xưa nghe có bến sông Vị Thủy, lấy lễ nhân đầu tế lũ hồn oan;
Nay biết đâu bãi cát Trường Sa, mượn của âm phù độ bè quỷ ức.

Đốt lọn nhang trầm trời đất chứng, chút gọi là làm lễ vãn vong;
Đọc bài văn tế quỷ thần soi, xin hộ đó theo đường âm chất.

Hỡi ôi! Thương thay! Có linh xin hưởng.

Thohay.vn Tặng Bạn ❤️️Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh [Nguyễn Du] ❤️️ Nội Dung, Ý Nghĩa

Ý Nghĩa Bài Văn Tế Nghĩa Sĩ Trận Vong Lục Tỉnh 

Bài văn tế được viết để tưởng nhớ các anh hùng đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Pháp ở Nam Kỳ vào năm 1861. Bài văn tế thể hiện tình cảm sâu sắc của Nguyễn Đình Chiểu đối với các nghĩa sĩ, cũng như bày tỏ sự oán trách và bi phẫn trước sự bạc nhược của triều đình Nguyễn và sự tàn bạo của giặc Pháp.

Bài Thơ Văn Tế Nghĩa Sĩ Trận Vong Của Nguyễn Văn Thành

Văn tế tướng sĩ trận vong

Than ôi!
Trời Đông Phố vận ra sóc cảnh, trải bao phen gian hiểm mới có ngày nay;
Nước Lô Hà chảy xuống Lương Giang, nghĩ mấy kẻ điêu linh từ thuở nọ.
Cho hay sinh là ký mà tử là quy;
Mới biết mạng ấy yểu mà danh ấy thọ.
Xót thay!
Tình dưới viên mao;
Phận trong giới trụ.
Ba nghìn họp con em đất Bái, cung tên ngang dọc chí nam nhi;
Hai trăm vây bờ cõi non Kỳ, cơm áo nặng dày ơn cựu chủ.
Dấn thân cho nước, son sắt một lòng;
Nối nghĩa cùng thầy, tuyết sương mấy độ.
Kẻ thời theo cơ đích chạy sang miền khách địa, hăm hở mài nanh giũa vuốt chỉ non Tây thề chẳng đội trời chung;
Kẻ thời đón việt mao trở lại chốn sa cơ, dập dìu vén cánh dương vây, trong cõi Bắc quyết thu về đất cũ.
Nằm gai nếm mật chung nỗi ân ưu;
Mở suối bắc cầu riêng phần lao khổ.
Trước từng trải Xiêm La, Cao Miên về Gia Định mới dần ra Khánh – Thuận, đã mấy buổi sơn phong hải lễ, trời Cao – Quang soi rõ trí kiên trinh;
Rồi lại từ Đồ Bàn, Nam – Ngãi lấy Phú Xuân mà thẳng tới Thăng Long, biết bao phen vũ pháo vân thê, đất Lũng – Thục lăn vào nơi hiểm cố.
Phận truy tuỳ gẫm lại cũng cơ duyên;
Trường tranh đấu biết đâu là mệnh số?
Kẻ thời chen chân ngựa quyết giựt cờ trong trận, xót lẽ gan vàng mà mạng bạc, nắm lông hồng theo đạn lạc tên bay;
Kẻ thời bắt mui thuyền toan cướp giáo giữa đàng, thương thay phép trọng để thân khinh, phong da ngựa mặc bèo trôi sóng vỗ.
Hồn tráng sĩ biết bao miền minh mạc, mịt mù gió lốc, thổi dấu tha hương;
Mặt chinh phu không vẽ nét gian nan, lấp loé lửa trời soi chừng cổ độ.
Ôi!
Cùng lòng trung nghĩa khác số đoản tu;
Nửa cuộc công danh chia phần kim cổ.
Đoái là tiếc xương đồng da sắt, thanh bảo kiếm đã trăm rèn mới có, nợ áo cơm phải trả đến hình hài;
Những là khen dạ đá gan vàng, bóng bạch câu xem nửa phút như không, ơn dày đội cũng cam trong phế phủ.
Phận dù không gác khói đài mây;
Danh đã ngàn cây nội cỏ.
Thiết vì thuở theo cờ trước gió, thân chẳng quản màn sương đêm giá, những chờ xem cao thấp bức cân thường;
Tiếc cho khi lỡ bước giữa dòng, kiếp đã về cõi suối làng mây, nào kịp thấy ít nhiều ơn vũ lộ.
Vàng thượng đức hồi loan tháng trước, đoàn ứng nghĩa dẫu Quảng, Thuận, Nghệ, Thanh cũng vậy, giội ân quang gieo khắp xuống đèo Ngang;
Mà những người thượng trận ngày xưa, lớp tấu công từ Ngọ, Mùi, Thân, Dậu đến giờ, treo tính tự để nằm trong lá số.
Ngọn còi rúc nguyệt, nơi tẻ nơi vui;
Dịp trống phồn hoa, chốn tươi chốn ủ.
Đã biết rằng anh hùng thì chẳng quản, trăm trận một trường oanh liệt, cái sinh không, cái tử cũng là không;
Nhưng tiếc cho tạo hoá khéo vô tình, ngàn năm một hội tao phùng, phận thuỷ có, phận chung sao chẳng có?
Bản chức nay:
Vâng việc biên phòng;
Chánh miền viễn thú.
Dưới trướng nức mùi chung đỉnh, sực nhớ khi chén rượu rót đầu ghềnh;
Trong nhà rõ vẽ áo xiêm, chạnh nghĩ buổi tấm cừu vung trước gió.
Bâng khuâng kẻ khuất với người còn;
Tưởng tượng thầy đâu thì tớ đó.
Nền phủ định tới đây còn xốc nổi, vụ lòng một lễ, chén rượu thoi vàng;
Chữ tương đồng ngẫm lại vốn đinh ninh, khắp mặt ba quân, cờ đào nón đỏ.
Có cảm thông thì đến đó khuyên mời;
Dù linh thính hãy nghe lời dặn dỗ.
Buổi chinh chiến hoặc còn oan hay chẳng, cũng chớ nề kẻ trước người sau, hàng trên lên dưới, khen thưởng rồi sẽ tấu biểu chương cho;
Hội thăng bình đừng nghĩ rằng không, dù ai còn cha già mẹ yếu vợ goá con côi, an tập hết, cũng ban tồn tuất đủ.
Hồn phách đâu đều ngày tháng Thuấn, Nghiêu;
Hài cốt đó cũng nước non Thang, Vũ.
Cơ huyền diệu hoặc thăng trầm chưa rõ, thiêng thời về cố quận, để hương thơm lửa sáng, kiếp tái sinh lại nhận cửa tiền quân;
Niềm tôn thân dù sinh tử chớ nề, linh thì hộ cho Hoàng triều bể lặng sông trong, duy vạn kỷ chửa dời ngôi bảo tộ.
Thượng hưởng!

Thohay.vn Chia Sẽ ❤️️ Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc ❤️️ Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích 

Viết một bình luận