Chúc Văn Tế Thành Hoàng Làng [Bài Văn Mẫu + Nghi Thức]

Chúc Văn Tế Thành Hoàng Làng ❤️️ Bài Văn Mẫu, Nghi Thức ✅ Dưới Đây Bô Siêu Tập Về Chúc Văn Tế Thành Hoàng Mời Các Đọc Giả Tham Khảo Thêm

Nghi Thức Tế Lễ Thành Hoàng

Chúc văn tế thần là một thể loại đặc biệt, nó không có các từ cảm thán như ô hô, ai tai… như các bài văn tế đám ma. Bố cục của bài văn tế thần gần như cố định gồm các phần mà Thohay.vn sưu tầm và chia sẽ bên dưới.

1/ PHẦN MỞ ĐẦU

Gồm có Quốc hiệu, thời gian, địa danh và chủ thể. Ở phần này cần lưu ý cách ghi ngày tháng phải có đủ kiến sóc và ngày âm lịch. Có câu “hết xơ thì vơ lấy việt”- nghĩa là từ ngày mùng 1 đến ngày mùng 10 thì đứng chữ “sơ” 初. Từ ngày 11 đến 30 thì đứng chữ “việt” 越. Về chủ thể làm lễ không phải là cá nhân mà là toàn dân, hoặc một bộ phận nào đó trong làng (phe, giáp, hội tư văn, hội lão v.v…).

Điểm nữa cần lưu ý: mở đầu bài văn bao giờ cũng là chữ “Duy” 維 mà chữ này đứng 1 mình một dòng, ở đây 維 không có nghĩa cụ thể mà chỉ làm nhiệm vụ đệm âm, tiếp ngữ cho bài văn. Ví dụ bài văn tế ngày hôm nay 20 tháng 6 âm lịch thì viết như sau:

DUY
VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỘNG HÒA QUỐC. TUẾ THỨ ĐINH DẬU NIÊN, LỤC NGUYỆT KIẾN ĐINH MÙI, SÓC NHÂM NGỌ, VIỆT NHỊ THẬP NHẬT TÂN SỬU.  Trong đó Đinh Mùi là tên tháng, Nhâm Ngọ là ngày đầu tháng, Tân Sửu là ngày 20 (xong phần Quốc hiệu và thời gian)
…….. TỈNH ….. HUYỆN ….. XÃ ….. THÔN. KỲ LÃO, NHÂN DÂN THƯỢNG HẠ ĐỒNG THÔN ĐẲNG. (xong phần địa danh và chủ thể làm lễ)

2/ PHẦN LỄ VẬT (phần này mở đầu bằng 2 chữ “Cẩn dĩ”)

Nói chung trong ngày tiệc của dân làng thì phẩm vật dâng cúng rất đa dạng, trong bài văn không thể kể lể dài dòng, liệt kê hết được mà chỉ viết đại diện, miễn là có đủ chay mặn là được. Tiếp tục bài văn trên nhé.

CẨN DĨ: HƯƠNG HOA, THANH CHƯỚC (rượu), PHÙ LƯU (trầu cau), KIM NGÂN, TRAI BÀN (tiền vàng mã và các loại đồ chay, ngọt nói chung), ………….PHI NGHI THỨ PHẨM (có nghĩa là còn nhiều thứ khác nữa không kể ra đây). Cái đoạn chấm chấm lưu không là để ghi lễ mặn. Chẳng hạn ban khánh tiết tu lễ chay, nhưng dân thôn lại dâng lễ mặn thì ta cũng tả thêm vào chỗ này.

Ví dụ:
a/ Lễ xôi gà thì viết là: HÀN HÂM (gà) TƯ THÌNH (xôi)
b/ Mâm xôi, thủ lợn thì viết là: KHIẾT SINH (sỏ lợn) TƯ THÌNH (xôi)…..

3/ PHẦN TÔN XƯNG THÁNH HIỆU: 

Phần này mở đầu bằng câu :”Cảm chi cốc vu” , kết thúc bằng hai chữ “Vị tiền”. Phần này viết Duệ hiệu của Đức Ngài. Trong phần này ngoài miếu hiệu (nếu có), chức tước (nếu có) hoặc hồng danh (nếu có) thì còn liệt kê tất cả các mỹ tự do các triều đại đã bao phong truy tặng Đức Ngài (nguồn mỹ tự này ở trong các đạo sắc phong) Riêng tên húy của Đức Ngài (nếu có) thì phải viết nhỏ đi và khi đọc chúc văn không đọc thành tiếng.

Một điều nữa cần chú ý là trong suốt bản văn hễ gặp các chữ như TÔN THẦN, THÁNH ĐẾ, HOÀNG ĐẾ … hoặc hồng danh, tự hiệu riêng của Đức Ngài, đều “đài lọng” nghĩa là phải viết tôn cao hơn (bằng 1 con chữ). Tiếp theo ví dụ trên nhé

CẢM CHI CỐC VU
QUỐC VƯƠNG THIÊN TỬ…… HÚY…… LŨY TRIỀU SẮC CHỈ GIA PHONG ……….
HOÀNG ĐẾ BỆ HẠ VỊ TIỀN.

4/ PHẦN NÊU LÝ DO TẾ LỄ

Phần này bắt đầu bằng chữ “Viết, tư nhân….” có nghĩa là “Rằng nhân vì” (tuần, tiết gì đó) và kết thúc bằng mấy chữ “Tất cốc lễ dã” Ví dụ:
VIẾT, TƯ NHÂN KHÁNH HẠ THÁNH ĐẢN TẤT CỐC LỄ DÃ.

5/ PHẦN TÁN VĂN VÀ CẦU NGUYỆN

Mở đầu bằng hai chữ “Cung duy”
Đây chính là linh hồn cốt tủy của bài văn, nói mang tính đặc thù của riêng tuần tế đó, không thể dùng vào tuần tiết khác được. Bốn phần trên là công thức cố định, chỉ thay năm, tháng, ngày. Nhưng phần này, được các bậc danh Nho trước tác riêng biệt cho từng lễ tiết cụ thể.

Nhìn chung, đây thường là đoạn văn biền ngẫu rất hay, viết theo thể phú, nội dung ca ngợi công tích của Đức Ngài, sau đó cầu mong Đức Ngài thị tứ ân trạch, bảo hộ dân thôn, ấp nội được bình an, thịnh vượng.

Mỗi địa phương, có một tập văn tế riêng gắn liền với sự tích của vị Phúc Thần bảo hộ. Tập văn này có thể do các trí thức địa phương hay hội tư văn phụng soạn, hoặc cũng có nơi được triều đình ban xuống cho địa phương phụng sự. Thường thì các gia đình có học ở làng nắm giữ tập văn này.

6/ KẾT THÚC

Bài văn tế thường là các câu: CẨN CỐC hoặc PHỤC DUY THƯỢNG HƯỞNG.

7/ ĐỌC VĂN TẾ

a/ Nếu bài văn được tả bằng chữ Nho thì tốt nhất người đọc cũng biết chữ Nho. Người ta thường chỉ chú trọng tới giọng đọc, cho rằng ông này đọc hay, ông kia đọc hay, nhưng không biết chữ, ngừng nghỉ không đúng chỗ, làm câu văn hay trở thành câu què câu cụt thì phải tội thêm. Cho nên giọng tốt là cần nhưng chưa đủ, phải đọc tròn vành rõ chữ và nhất là phải trọn vẹn câu văn.

b/ Khi bóc tờ văn để đem hóa, chủ văn không được lật tấm khăn phủ diện lên, mà luồn tay vào lần lần tách tờ văn khỏi chúc bản xong rút ngang ra, gấp mặt có chữ ở ngoài rồi mới hóa. Cầm tờ văn cho cháy gần hết mới thả vào thau đồng, Cẩn thận không cháy tay áo.

Thohay.vn Chia Sẽ ❤️️ Văn Tế Tổ Họ Nguyễn ❤️️ Nội Dung Bài Văn, Ý Nghĩa Ngoài Chúc Văn Tế Thành Hoàng Làng

Chúc Văn Tế Thành Hoàng Làng – Mẫu 1

Dưới đây là mẫu chúc văn tế Thành Hoàng làng mà Thohay.vn muốn chia sẽ tới các bạn trẻ hiện nay.

Văn khấn lễ Thành Hoàng

Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!

Con lạy chín phương trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
Con kính lạy Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn Thần.
Con xin kính lạy ngài Kim Niên Đương cai Thái tuế chí đức Tôn Thần.
Con kính lạy ngài Bản cảnh Thành Hoàng chư vị Đại Vương.

Hương tử con là: …………

Ngụ tại: ………………………

Hôm nay là ngày …… tháng ….. năm …………..

Hương tử con đến nơi …………….

Thành tâm kính nghĩa: Đức Đại Vương nhận mệnh Thiên Đình giáng lâm trên đất nước Việt Nam làm Bản cảnh Thành Hoàng chủ tể một phương bấy nay ban phúc lành che chở cho dân.

Nay hương tử chúng con thành tâm dâng lên lễ bạc, hiến tế hương hoa, phẩm oản……

Cầu mong đức Bản cảnh Thành hoàng chư vị Đại Vương chứng giám, rủ lòng thương xót, phù hộ che chở cho chúng con sức khỏe dồi dào, mọi sự tốt lành, lắm tài nhiều lộc, an khang thịnh vượng, sở cầu như ý, sở nguyện tòng tâm.

Hương tử con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.

Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!

Bài Văn Tế Thành Hoàng Làng – Mẫu 2

Dưới đây là mẫu bài văn tế Thành Hoàng làng mà Thohay.vn chia sẽ thêm

CHÚC VĂN TỀ LỄ

THÀNH HOÀNG LÀNG SỒI CẦU ( LỖI DƯƠNG)

Duy Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

– Tuế thứ Nhâm Thìn niên cửu nguyệt Canh Tuất, Cửu nguyệt Canh Tuất, kiến Nhị Thập Tứ nhật, Nhâm Thân sóc, Hải Dương tỉnh, Bình Giang huyện, Thái Học xã, Sồi Cầu thôn,

– Tiết thuộc thu thiên, tuân tong cửu lệ, hương lão đồng thôn, nam nữ thượng đẳng hạ, chỉnh biện lễ nghi, phù tựu hương đăng, chi nghi quả phẩm

– Kim ngân lễ vật minh suy chư thủ, cảm chiên cáo vu văn vũ thánh thần, hộ quốc an dân. Thức tuần cửu lệ, hóa nhật thích phùng.

– Ngọc Tề dựng tú, kim quết trung kỳ/ âm dương hợp đức, văn vũ du nghi, công tồn xã tắc, uy hiếp hoa di.

– Lũy triều đăng trật vạn cổ lưu huy, tư phùng hóa nhật kiền cụ phi nghia, mặc kỳ diệu tướng, tích dĩ hồng huy, khương phù hương ấp.

– Nhân vật phồn vinh, cung thỉnh đương cảnh thành hoàng, uy minh hiển ứng, hộ quốc an dân, tuy khánh hậu đức, phong công thần hỗ, phù cảm linh ứng.

– Đốc bật đương hiển, chiêu hữu phổ trạch, hiển khánh, phi anh, hựu hướng tuấn lương, dực bảo trung hưng, Trần Trung Công

– Hiệu Cảnh Trung Đại Vương, thượng đẳng phúc Thần, vị tiền hàm hòa địch thuận, trung tĩnh đoan nhu, Tụy mỹ nhân uyên, ôn hòa trinh thuận.

– Nhan tĩnh nhu thuận, tuân thục trinh thuần, dực bảo trung hưng Đinh Thị Quế, hiệu Vạn Phúc phu nhân, tôn linh công chúa vị tiền.

– Cung thỉnh thân phụ Trần Trung Công húy Chí, Thân mẫu thị Húy Phương, vị tiền.

– Cung thỉnh bản thổ, thần ninh, long mạch, thổ địa, thổ công, thổ kỳ,chư vị bộ hạ, đồng lai thượng hưởng, ủng hộ đồng thôn.

Nhân khang vật thịnh

Cẩn cáo!

Bên Cạnh Chúc Văn Tế Thành Hoàng Làng, Gợi Ý Thêm ❤️️ Bài Xướng Lễ Tế Tổ ❤️️ Các Bài Văn Tế Họ Hay Nhất

Nghi Lễ Thờ Cúng Thành Hoàng Tại Đình

Tế thần – Nghi lễ thờ cúng Thành Hoàng tại đình.

Một trong những nghi lễ quan trọng ở đình làng là Tế thần. Tế là cúng theo một nghi thức long trọng có âm nhạc. “Tế thần” người ta còn gọi là “Tế kỳ phúc” để cầu cho dân làng bình an.

Gần đây, những làng mà trước có truyền thống tế thì gần như đã phục lại hết. Tuy nhiên, một số nơi tế sai động tác, bởi vì một thời gian dài ở các làng quê tế đã bị lãng quên (thậm chí có khi còn bị cấm đoán), nay những người biết tế còn rất ít, chỉ dựa vào trí nhớ thì không đảm bảo được nguyên bản. Chúng tôi xin giới thiệu một cách tóm tắt về tế truyền thống của dân ta để mọi người tham khảo:

Tế phải có người đứng mạnh bái – gọi là chủ tế, 2 hoặc 4 người bồi tế (đông xướng, tây xướng), hai người nội tán (để dẫn người chủ tế khi ra vào và trợ xướng), và 10 tới 12 người chấp sự (những người đứng hai bên phụ trách việc dâng hương, dâng rượu, chuyển chúc (chúc văn), đọc chúc…)

Sau những nghi thức thắp nhang trên hương án và các bát hương tại các vị trí thờ tự thì buổi tế bắt đầu.

Khởi sự tế, một người rung lên 3 hồi trống.

Người Đông xướng, xướng lên: Khởi chinh cổ!

Hai người chấp sự đứng hai bên lập tức đi vào chỗ giá chiêng, trống. Một người đánh 3 hồi chiêng, người kia đánh 3 hồi trống, rồi cùng vái và đi ra.

Người Đông xướng lại xướng: Nhạc sinh tựu vị!

Phường bát âm tấu nhạc và cùng đánh trống nổi lên một lúc.

Tiếp đó lại xướng: Củ soát tế vật (tức là kiểm soát lễ vật)!

Hai người chấp sự, một người cầm nến, một người cầm cái ống để cắm bó hương, rồi dẫn chủ tế vào tận nội điện để kiểm tra thêm một lần nữa các đồ tế lễ dâng thần đã đầy đủ chưa, đã thành kính và có thiếu gì không. Sau khi xong, lui ra. Khi vào bên phải, khi ra theo bên trái, bước chân đi cũng theo nghi thức – gọi là “Xuất Á”, “Nhập Ất”.

Rồi xướng tiếp: Ế mao huyết!

Một người cầm đĩa đựng một ít huyết và ít lông trâu, bò đổ đi.

Rồi lại xướng: Chấp sự giả tư kỳ sự!

Nghĩa là những người chấp sự, ai được cắt cử phụ trách việc gì thì tập trung vào việc ấy.

Người xướng lại xướng tiếp: Tế chủ giữ chấp sự giả các nghệ quán tẩy sở!

Lúc đó người chủ tế và các chấp sự cùng đến chỗ cạnh hương án. Tại đó có một chiếc kỷ trên đặt một chậu nước và treo một cái khăn.

Lại xướng: Quán tẩy!

Người chủ tế rửa tay vào chậu nước.

Xướng tiếp: Thuế cân!

Người chủ tế lấy khăn lau tay.

Người chủ xướng lại tiếp: Bồi tế viên tựu vị!

Những người bồi tế bước vào đứng vào hàng chiếu quy định của mình. (Bốn chiếc chiếu đã được trải sẵn trước hương án – dùng cho việc tế, được đánh số từ 1 đến 4).

Lại xướng: Chủ tế viên tại vị!

Lúc này chủ tế lui về chiếu quy định của mình theo đúng vị trí.

Lại xướng: Thượng hưởng!

Lúc đó hai người chấp sự: Một bưng 1 hương, một bưng hộp trầm đem đến trước mặt chủ tế. Chủ tế bỏ trầm vào 1 hương, đốt lên rồi hai tay nâng 1 nén hương vái một vái. Tiếp đó đưa nén cho người chấp sự mang vào dâng đặt ở hương án giữa.

Người xướng lại xướng tiếp: Nghinh thần cúc cung bái!

Tất cả chủ tế và bồi tế đều đứng cả lên.

Lại xướng: Bái!

Chủ tế và bồi tế lại làm như trước.

Xướng: Hưng!

Chủ tế và bồi tế lại đứng lên.

Cứ lặp đi lặp lại như vậy đến 4 lễ.

Lại xướng: Bình thân!

Mọi người đứng lên trong tư thế thật nghiêm trang. Lại xướng: Hành sơ hiến lễ!

Làm lễ dâng rượu lần đầu.

Xướng tiếp: Nghệ tử tôn sở, tư tôn giá cử mịch!

Chủ tế bước tới chỗ án để rượu, lúc đó người chấp sự mở cái miếng trên mâm đài ra.

Rồi lại xướng: Chước tửu!

Rượu được rót ra.

Kế lại xướng: Nghệ đại Vương thần vị tiền!

Hai người nội tán chủ tế lên chiếu nhất.

Lại xướng: Quỵ!

Chủ tế và bồi tế đều quỳ cả xuống.

Lại xướng: Tiến tước!

Một người chấp sự dâng đài rượu ra cho chủ tế. Chủ tế vái một vái rồi giao trả đài rượu cho người chấp sự.

Xướng tiếp: Hiến tước!

Các vị chấp sự đi hai bên, hai tay nâng cao đài rượu đi vào nội điện. Xong, trở ra.

Lại xướng: Hưng, bình thân, phục vị!

Chủ tế và bồi tế cùng phục xuống rồi đứng dậy. Chủ tế lui ra chiếu ngoài.

Xướng: Độc chúc!

Hai người chấp sự vào bàn trong kính cẩn bưng văn tế ra. (Văn tế phải do một bậc đại khoa hoặc một người văn tự trong làng, có chân trong Ban tư vấn, được dân làng cử ra để soạn bài văn tế thần. Văn tế soạn xong, được đặt trên long đình rước rất tôn nghiêm về đình làng).

Lại xướng: Nghệ độc chúc vị!

Người chủ tế và bồi tế hai người bưng chúc, đọc chú đều quỳ cả xuống.

Lại xướng: Chuyển chúc!

Người bưng chúc đa cho chủ tế. Chủ tế cầm lấy chúc vái một vái, rồi đưa cho người đọc chúc.

Xướng: Độc chúc!

Đọc xong chúc văn, chủ tế lạy hai lạy rồi ra phía ngoài. Sau đó lại lễ xướng trở lại để dâng hai tuần rượu nữa, gọi là Á hiến lễ và chung hiến lễ.

Sau khi xong cả ba tuần rượu lại xướng: Ẩm phúc!

Hai người chấp sự vào nội điện bưng ra một chén rượu và một khay trầu.

Xướng: Quỵ!

Chủ tế quỳ xuống. Hai người đưa chén rượu, khay trầu cho chủ tế.

Xướng: Ẩm phúc!

Chủ tế bưng lấy chén rượu, vái, lấy tay áo che miệng uống một hơi hết chén rượu.

Lại xướng: Thụ tộ!

Chủ tế cầm khay trầu, vái, rồi ăn một miếng. Sau đó chủ tế lễ hai lễ rồi lui ra chiếu ngoài.

Xướng: Tạ lễ cúc cung bái!

Chủ tế và bồi tế đều cùng lạy tạ 4 lạy.

Lại xướng: Phần chúc!

Người đọc chúc đem văn tế đi hoá (đốt đi).

Xướng: Lễ tất!

Dân làng, du khách thập phương đến dự lễ theo thứ tự trước sau bước vào làm lễ.

Đọc Văn Tế Thành Hoàng Làng

Đọc văn tế thành hoàng làng.

I. CÁC TIẾN TRÌNH CỦA CUỘC TẾ:

– Lễ Cáo yết (còn gọi là lễ Cáo tế): Là lễ trình với Thần linh về việc dân làng sẽ tổ chức Tế lễ sự thần. Thường vào buổi chiều hoặc buổi đêm trước ngày Chính tế. Lễ thường chỉ có 1 tuần hương, 1 tuần rượu và sau đó là tuyên Chúc văn nói rõ lý do của cuộc Đại tế.

– Lễ Chính tế: Lễ tế vào ngày chính, ngày của công việc sự thần. Để có một cuộc tế, mỗi năm dân làng phải họp công đồng một ngày để bầu ra một ban tế, nhiệm kỳ là một năm, với các chức danh được bầu chọn.

II. NHỮNG THIẾT CHẾ HẠ TẦNG:

Các đồ tự khí: 2 cái Đẳng gỗ, đặt hai bên Đông xướng – Tây xướng có lọng che. Đẳng gỗ bên Đông đặt cây đèn, bình hương, bình hoa và Tam sơn đặt 3 đài rượu gọi là bàn Đông bình. Quan viên Đông xướng đứng xướng tế ở đây. Trống hiệu đặt bên dưới bàn Đông bình.
Trên cái Đẳng gỗ bên Tây đặt cây đèn hoặc nến, bình hoa, đĩa trầu cau gọi là bàn Tây quả. Quan viên Tây xướng đứng ở đây. Chiêng hiệu đặt bên Tây, trống đặt bên Đông. Hai cây đèn hoặc nến dùng để dẫn khi lên hương, lên rượu.

Cây quán tẩy: Là cái giá để đựng chậu nước cho Chủ tếBồi tếChấp sự rửa tay sạch sẽ khi vào hành tế.

Lỗ bộ (chấp kích, bát bửu): trưng bày hai bên Đông – Tây xướng cho uy nghi.

Bảng chúc: Mộc bảng có dạng hình chữ nhật nằm ngang, đặt đứng nghiêng, trên cái giá đỡ là thân hai con ly đứng hai bên, mặt bảng ngửa về phía sau. Ngày tế lễ, bài văn chúc dán lên bảng chúc. Còn có một miếng vải thêu hình hổ phù che lấy bài văn chúc, khi đọc mở ra, thể hiện sự tôn kính Thần linh.

Ngoài ra còn một số đồ dùng khác như: Bốn chiếc chiếu cói mới dùng cho hành lễ, trải thành hàng dọc trước Đình đền. Chủ tế và Bồi tế thực hiện nghi lễ trên đó. Mỗi kỳ tế lại thay mới một lần cho tinh khiết.

Y phục của các quan viên tế: Thường dùng trong vài hoặc 10 năm thay mới 1 lần cho sang trọng. Chủ tế: Riêng một màu, thường là màu đỏ, có cân đai, bối tử. Các viên Bồi tế: Dùng chung một màu cho mũ áo, thường là màu tím. Các Chấp sự: Dùng chung một màu, thường là màu xanh lam. Tất cả đều đội mũ kiểu phốc đầu, áo tay thụng, quần màu trắng kiểu ống sớ, chân đi hia. Các loại quần áo này dùng xong đóng hòm, quản ở di tích.

Chiếu tế: Khi vào cuộc tế, trải 4 chiếc chiếu theo hàng dọc trước Đền đình: Chiếu thứ nhất: Gọi là chiếu Nghinh thần dành riêng chỉ khi làm lễ nghinh thần, đọc chúc, vị chủ lễ đứng hiến lễ ở đây. Chiếu thứ 2: Gọi là chiếu Thụ tộ tức là nơi Chủ tế lên hưởng lộc của Thần ban cho (thụ rượu thịt, ăn miếng trầu cau đã tế lễ). Chiếu thứ 3: Gọi là chiếu Phục vị hay chiếu Tế chủ là chiếu giành riêng cho Chủ tế trở về (điểm xuất phát). Chiếu thứ tư: Gọi là chiếu Bồi tế, chiếu giành riêng cho các vị Bồi tế hành lễ (các chiếu này chỉ dùng 1 lần nên đều là đồ mới tinh khiết).

Âm nhạc dùng trong lễ tế:  Âm nhạc tế được dùng theo một quy chế nhất định, có thể thức với thiết chế Lên âmXuống nhạcLên là khi dâng hương, hiến lễ. Xuống là trở về vị trí khi công việc hoàn thành. Các loại âm nhạc dùng có tính chất lễ nghi, thờ cúng trong việc tế lễ nơi đền miếu đều thuộc phạm trù nhạc lễ.

Nhạc cụ: Bộ gõ gồm các loại trống, chiêng, Sênh tiền (3 loại). Sênh tiền dùng trong lễ tế (cả lễ rước kiệu) là để điểm nhịp trong hành lễ, múa theo vị Chủ tế hoặc các Chấp sự lên hương, lên rượu. Bộ hơi gồm Kèn và sáo. Nhạc gồm bài Lưu thuỷ dùng khi tiến tước, gọi là Lên âm, bài Ngũ đối dùng khi tiến tước hoàn thành, gọi là Xuống nhạc.

III. THÀNH PHẦN BAN TẾ:

Đội tế là một nhóm gồm khoảng 20 người. Thông thường Tế thần là đàn ông (gọi là đội Tế ông), đàn bà chỉ tế Mẫu, nữ Thần (gọi là đội Tế bà). Đội tế gồm:

  1. Chủ tế: Còn gọi là mạnh bái, là người đứng vái lạy Thần – Thành Hoàng. Chủ tế thứ bậc xã hội là hàng mệnh quan, thứ bậc tâm linh là vị con trưởng nhà Thánh. Về nhân thân, Chủ tế là người được dân làng kén chọn kỹ càng nhất trong thành phần ban tế. Thường là bậc cao niên, khoẻ mạnh, vóc dáng phương phi, có chức sắc phẩm hàm, có học vị ngoài xã hội càng quý, gia đình song toàn, đông đúc, thê vinh, tử vượng. Các tiêu chí làng xã đều xếp bậc cao, gia đình có văn hoá.
  2. Bồi tế: 2 -4 người, là người đứng, đứng hàng chiếu dưới của Chủ tế giúp Chủ tế và trông theo người Chủ tế mà làm lễ, lễ theo Chủ tế. Thường bầu 2 Bồi tế, tối đa là 4 Bồi tế đều thuộc hàng số chẵn, đứng 2 bên.
  3. Nội tán: 2 người phụ Chủ tế. 1 đứng đằng Đông, 1 đứng đằng Tây để dẫn Chủ tế ra, vào chiễu tế khi hành lễ và trợ xướng khi Chủ tế vào chiếu trong (chiếu nghinh Thần) và chuyển chúc.
  4. Đông xướng:1 người, đứng ở bàn bên Đông, ngang với chiếu phục vị, làm phận sự xướng tế, điều hành cuộc tế theo nghi thức có trong bài tế đã định sẵn. Bàn có lọng che, Đông xướng đứng dưới lọng. Trên bàn bày đèn hương, bình rượu tế, cái Đẳng rượu, trong đài đựng các chén rượu, nên bàn Đông xướng còn gọi là Đông bình.
  5. Tây xướng:Người này đứng ở bàn bên Tây đối xứng với bàn Đông xướng cũng làm phận sự xướng tế, phụ giúp cho người Đông xướng. Bàn có lọng che, Tây xướng đứng dưới lọng. Trên bàn bày cây đèn, đĩa trầu cau nên còn gọi là Tây quả.
  6. Chấp sự:Là người giúp việc ở 2 bàn Đông – Tây xướng, chia đứng 2 bên, mỗi bên 3 người, giúp việc dâng hương, dâng rượu.
  7. Thủ hiệu: 2 người. Bên trống: Điều hành cuộc tế bằng trống cái. Bên chiêng: đánh chiêng theo lệnh của trống cái.
  8. Đọc chúc:1 người thông văn tự vì phải đọc bài văn tế bằng nguyên bản chữ Hán Việt theo âm điệu, có giọng đọc sang sảng vang xa, gây truyền cảm và xúc động.

Ngoài ra còn có phường Bát âm, đội múa…

THIẾT CHẾ CỦA MỘT LỄ TẾ – QUI TRÌNH TẾ THẦN – THÀNH HOÀNG LÀNG

Khởi sự tế, phải chuẩn bị đồ Tế, Hương án. Thắp hương xong, một người đánh lên 3 hồi trống cái, trống trước, chiêng sau. Thường thì người Đông xướng xướng hoặc người Đông xướng, người Tây xướng thay nhau xướng (nếu có một người thì xướng từ đầu đến cuối). Xướng lần lượt (phần chữ đậm). Lễ Tế thần gồm 36 bước như sau:

1. Khởi chinh cổ (Nổi chiêng, trống): 2 Chấp sự làm phận sự của Thủ hiệu (đánh trống, chiêng, cầm hiệu lệnh dẫn tế) đứng ở 2 bàn Đông – Tây, đi vào chỗ đặt giá trống, giá chiêng cùng đánh 3 hồi, 3 tiếng nữa, rồi vái đi ra.

2. Nhạc sinh tựu vị (Ban nhạc vào vị trí): Phường Bát âm tấu nhạc và chiêng, trống.

3. Củ soát Tế vật (Kiểm soát lễ vật Tế thần): Một vị Chấp sự bưng cây đèn dẫn Chủ tế từ bàn Đông xướng đi lên theo hướng Đông, đến bên bàn để tế vật, xem xét lại đồ lễ có đầy đủ, tinh khiết hay không rồi trở về theo bên Tây gọi là Thăng đôngGiáng tây. (Hoặc 2 Chấp sự, 1 người cầm nến, 1 người cầm ống hương cắm bó hương dẫn Chủ tế.

4. Ế mao huyết (Chôn lông tiết trâu bò lợn – nghi thức ít dùng): Đem đổ lông tiết trâu bò lợn (lợn, trâu, bò được làm thịt sạch sẽ, khiêng để trước bàn thờ, lấy một ít lông và tiết để trên 1 cái đĩa nhỏ đặt dưới đất sau đuôi hoặc đặt ở bàn bên Tây để cẩn cáo Thần – Thành Hoàng rằng đây là lợn, trâu, bò sống được làm chọc tiết thịt chứ không phải bị chết).

5. Chấp sự giả các ty kỳ sự (những Chấp sự vào vị trí): Những Chấp sự ai được cắt cử phụ trách gì thì vào vị trí ấy thành 2 hàng.

6. Tế chủ dữ Chấp sự giả các nghệ quán tẩy sở (Chủ tế và những Chấp sự vào chỗ rửa tay)Chủ tế và những Chấp sự vào chỗ rửa tay cạnh hương án có một chiếc kỷ, trên đặt một chậu nước và treo một cái khăn.

7. Quán tẩy (Rửa tay)Chủ tế rửa tay ở chậu nước.

8. Thuế cân (Lau tay)Chủ tế lấy khăn lau tay.

9. Bồi tế viên tựu vị (Bồi tế vào vị trí): Các vị Bồi tế bước vào đứng ở chiếu thứ 4 (chiếu dưới cùng).

10. Chủ tế viên tại vị (Chủ tế vào vị trí)Chủ tế bước vào chiếu của mình, chiếu Phục vị (thứ 3), đi từ bên Đông vào theo hình chữ Ất () gọi là Nhập ất (để không quay đằng lưng vào ban thờ). Trong cùng lúc đó, các Chấp sự viên cũng về đúng chỗ của mình. Đến đây, cuộc hành lễ bắt đầu. Đi thì có nhiều cách tùy theo chân phải hay chân trái trước. 2 cách bước 1 chân còn chân kia kéo lên bằng chân bước tức là 1 bước 1, 2 cách bước 2 bước 1. Tuy nhiên cách bước thẳng (lùi hoặc tiến hoặc sang trái) bằng chân trái và kéo chân phải theo (trừ khi bước ngang sang phải) là đúng nhất.

11. Thượng hương (Dâng hương): Hai Chấp sự: 1 người bưng lư hương, 1 người bưng hộp trầm đem đến trước mặt Chủ tếChủ tế bỏ trầm vào lư hương, đốt lên rồi 2 tay nâng lư hương dâng đặt ở hương án giữa trước Đình.

12. Nghinh Thần cúc Cung bái (Chủ tế và Bồi tế bái)Chủ tế và Bồi tế đều bái lạy lần thứ nhất (đầu gối quỳ, mặt sát đất, 2 bàn tay ngửa đan vào nhau). Chủ tế theo 2 Nội tán (theo sau viên bên Đông) dẫn lên chiếu thứ nhất rồi quỳ xuống, các Bồi tế quỳ theo.
Khi bước đi cũng theo nghi thức riêng gọi là Xuất Á (亞 – để không quay đằng lưng vào ban thờ).

Xuất Á là đi hình chữ (亞): Khi trong chiếu bước ra thì đi ngang sang phải (phía Đông) và tiến thẳng vào cửa bên phải của Đình đền; quan cửa thì lại đi ngang sang trái (phía Tây) rồi tiến thẳng vào Hậu cung. Hoặc từ giữa chiếu đi thẳng sang phải (phía Đông) và rồi rẽ trái tiến thẳng vào cửa bên phải của Đình đền… Từ trong Đình đền quay lại rồi mới đi thẳng vào chiếu thứ nhất theo lối Nhập Ất ().

Trong khi ấy các Chấp sự 2 bên bàn Đông – Tây cử hành Dâng hương vào Thượng điện theo nhịp trống khẩu điều hành và tấu bài nhạc lễ Lưu thuỷ (gọi là Lên âm). Khi đoàn Chấp sự hoàn thành việc dâng hương trở về bàn của mình. (tiếp là 4 lễ nghinh Thần)

– Tây xướng – xướng: Hưng (đứng dậy)Chủ tế và Bồi tế đứng dậy.
– Đông xướng – xướng: Bái (lạy)Chủ tế và Bồi tế đều bái lạy lần thứ 2.
– Tây xướng – xướng: Hưng (đứng dậy)Chủ tế và Bồi tế đứng dậy.
– Đông xướng – xướng: Bái (lạy)Chủ tế và Bồi tế đều bái lạy lần thứ 3.
– Tây xướng – xướng: Hưng (đứng dậy): Chủ tế và Bồi tế đứng dậy.
– Đông xướng – xướng: Bái (lạy)Chủ tế và Bồi tế đều bái lạy lần thứ 4.
– Tây xướng – xướng: Hưng (đứng dậy): Chủ tế và Bồi tế đứng dậy.

13.Đông xướng – xướng: Bình thân (đứng dậy tại vị trí cũ).

14. Đông xướng – xướng: Hành sơ Hiến lễ (dâng rượu lần đầu): Chuẩn bị dâng rượu.

15. Nội tán xướng: Nghệ tửu Tôn sở – Tư tôn giá cử mịch (xem lại bình rượu quý – mở đài rượu, bình rượu): Chủ tế đi đến chỗ Hương án để bình rượu, vào vị trí rót rượu. Chấp sự mở cái miếng phủ trên mâm đài, đài rượu, bình rượu. Chủ tế bước tới chỗ án để rượu, Chấp sự mở nắp đài ra.

16. Đông xướng – xướng: Chước tửu (rót rượu): Chấp sự rót rượu vào 2 chén ở Đài rượu.

17. Đông xướng – xướng: Nghệ Đại vương Thần vị tiền (hướng trước Uy thần Thành Hoàng): Hiệu lệnh để nhắc nhở vị Chủ tế, 2 người Nội tán. 2 Nội tán dẫn Chủ tế lên chiếu nhất.

18. Nội tán xướng: Quỵ (Chủ tế và Bồi tế đều quỳ): Chủ tế và Bồi tế đều quỳ xuống

19. Đông xướng – xướng: Tiến tửu (hoặc Tiến tước là rước kiệu): Chấp sự dâng đài rượu cho Chủ tế để Chủ tế vái một vái, xong lại giao cho Chấp sự.

20. Đông xướng – xướng: Hiến tửu (dâng rượu lên Thành Hoàng): Chấp sự đi thành 2 hàng (mỗi hàng 1 Đài rượu), 2 tay nâng 2 Đài rượu (rước kiệu) đi vào ban thờ trong Đền đình đi theo nghi thức Xuất Á. Đến bàn thờ thì Quỳ dâng rượu lên Thành Hoàng.

21. Đông xướng – xướng: Hưng (đứng dậy): Chủ tế và Bồi tế đứng dậy.

– Đông xướng – xướng: Bình thân (đứng dậy về vị trí cũ)Chủ tế và Bồi tế đứng dậy về vị trí cũ.
– Đông xướng – xướng: Phục vị (về vị trí cũ): Chủ tế và Bồi tế quay về chỗ cũ ở chiếu tế theo nghi thức Nhập Ất.

22. Đông xướng – xướng: Độc Chúc (dâng Văn tế): Chấp sự vào trong đình kính cẩn rước Văn tế ra. (Văn tế phải do một bậc đại khoa hoặc một người văn tự trong làng, có chân trong ban tư vấn, được dân làng cử ra để soạn bài Văn Tế thần. Văn tế soạn xong, được đặt trên Long đình rước rất tôn nghiêm về đình làng)

23. Nội tán xướng: Nghệ độc Chúc vị (chuẩn bị đọc Chúc): 2 người Nội tán dẫn Chủ tế lên chiếu nhất.

24. Đông xướng – xướng: Giai quỵ (đều quỳ)Chủ tếBồi tế, hai Chấp sự bưng Chúc – Văn tế cùng quỳ.

25. Đông xướng – xướng: Chuyển Chúc (chuyển Văn tế): 2 Chấp sự bưng trao bảng Văn tế cho Chủ tếChủ tế cầm Chúc – Văn tế, vái một vái rồi đưa cho người đọc Chúc- Văn tế.

26. Đông xướng – xướng: Tuyên Chúc (đọc Chúc): Đọc Văn tế, đọc xong Chủ tế lạy 2 lạy rồi lui ra chiếu của mình.

– Đông xướng – xướng: Hưng (đứng dậy): Chủ tế và Bồi tế đứng dậy.
– Đông xướng – xướng: Bái (lạy)Chủ tế và Bồi tế đều bái lạy.
– Đông xướng – xướng: Bình thân (đứng dậy về vị trí cũ)Chủ tế và Bồi tế đứng dậy về vị trí cũ.”
– Đông xướng – xướng: Phục vị (về vị trí cũ): Chủ tế và Bồi tế quay về chỗ cũ ở chiếu tế.

27. Á hiến lễ (dâng rượu tuần thứ 2):

 Đông xướng – xướng:  Nghệ tửu tôn sở (xem lại bình rượu quý): Chủ tế đi đến chỗ án để rượu, vào vị trí rót rượu.
 Đông xướng – xướng: Tư tôn giá cử mịch (mở đài rượu, bình rượu): Chấp sự mở cái miếng phủ trên mâm đài, đài rượu, bình rượu. Chủ tế bước tới chỗ án để rượu, Chấp sự mở nắp đài ra.
 Đông xướng – xướng: Chước tửu (Rót rượu): Chấp sự rót rượu vào 2 chén.
– Đông xướng – xướng: Nghệ Đại vương Thần vị tiền (hướng trước Uy thần Thành Hoàng): Hiệu lệnh để nhắc nhở vị Chủ tế, 2 người Nội tán.
– Nội tán xướng: Quỵ (Chủ tế và Bồi tế đều quỳ xuống)
– Đông xướng – xướng: Tiến tửu (hoặc Tiến tước là rước kiệu): Chấp sự dâng đài rượu cho Chủ tế để Chủ tế vái một vái, xong lại giao cho Chấp sự.
– Đông xướng – xướng: Hiến tửu (dâng rượu lên Thành Hoàng): Chấp sự đi thành 2 hàng (mỗi hàng 1 Đài rượu), 2 tay nâng 2 Đài rượu (rước kiệu) đi vào ban thờ trong Đền đình đi theo nghi thức Xuất Á. Đến bàn thờ thì Quỳ dâng rượu lên Thành Hoàng.
– Đông xướng – xướng: Hưng (đứng dậy): Chủ tế và Bồi tế đứng dậy.
– Đông xướng – xướng: Bình thân (đứng dậy về vị trí cũ)Chủ tế và Bồi tế đứng dậy về vị trí cũ.
– Đông xướng – xướng: Phục vị (về vị trí cũ): Chủ tế và Bồi tế quay về chỗ cũ ở chiếu tế theo nghi thức Nhập Ất.

28. Chung hiến lễ (dâng rượu tuần thứ 3):

 Đông xướng – xướng:  Nghệ tửu tôn sở (xem lại bình rượu quí): Chủ tế đi đến chỗ án để rượu, vào vị trí rót rượu.
 Đông xướng – xướng: Tư tôn giá cử mịch (mở đài rượu, bình rượu): Chấp sự mở cái miếng phủ trên mâm đài, đài rượu, bình rượu. Chủ tế bước tới chỗ án để rượu, Chấp sự mở nắp đài ra.
 Đông xướng – xướng: Chước tửu (Rót rượu): Chấp sự rót rượu vào 2 chén.
– Đông xướng – xướng: Nghệ Đại vương Thần vị tiền (hướng trước Uy thần Thành Hoàng): Hiệu lệnh để nhắc nhở vị Chủ tế, 2 người Nội tán.
– Nội tán xướng: Quỵ (Chủ tế và Bồi tế đều quỳ xuống)
– Đông xướng – xướng: Tiến tửu (hoặc Tiến tước là rước riệu): Chấp sự dâng đài rượu cho Chủ tế để Chủ tế vái một vái, xong lại giao cho Chấp sự.
– Đông xướng – xướng: Hiến tửu (dâng rượu lên Thành Hoàng): Chấp sự đi thành 2 hàng (mỗi hàng 1 Đài rượu), 2 tay nâng 2 Đài rượu (rước kiệu) đi vào ban thờ trong Đền đình đi theo nghi thức Xuất Á. Đến bàn thờ thì Quỳ dâng rượu lên Thành Hoàng.
– Đông xướng – xướng: Hưng (đứng dậy): Chủ tế và Bồi tế đứng dậy.
– Đông xướng – xướng: Bình thân (đứng dậy về vị trí cũ)Chủ tế và Bồi tế đứng dậy về vị trí cũ.
– Đông xướng – xướng: Phục vị (về vị trí cũ): Chủ tế và Bồi tế quay về chỗ cũ ở chiếu tế theo nghi thức Nhập Ất.

29. Ẩm phúc (hưởng rượu dâng Thần – Thành Hoàng): 2 Chấp sự vào nội điện bưng ra 1 chén rượu và một Đài trầu).

30. Nghệ ẩm Phúc vị (vào vị trí hưởng riệu): Chủ tế vào chiếu thứ 2 – chiếu Thụ tộ.

31. Quỵ (quỳ): Chủ tế quỳ xuống. 2 Chấp sự đưa chén rượu, Đài trầu cho Chủ tế)

32. Ẩm phúc (hưởng rượu lộc Thần – Thành Hoàng): Chủ tế bưng lấy chén rượu vái, lấy tay áo che mồm uống 1 hơi hết ngay.

33. Thụ tộ (hưởng lộc Thần – Thành Hoàng ban): Chủ tế cầm Đài trầu hoặc bánh hoặc miếng thịt, vái xong rồi ăn 1 miếng.

34. Tạ lễ cúc cung bái (Bái lạy tạ lễ): Chủ tế và Bồi tế đều bái lạy lần thứ nhất.

– Tây xướng – xướng: Hưng (đứng dậy)Chủ tế và Bồi tế đứng dậy.
– Đông xướng – xướng: Bái (lạy)Chủ tế và Bồi tế đều bái lạy lần thứ 2.
– Tây xướng – xướng: Hưng (đứng dậy)Chủ tế và Bồi tế đứng dậy.
– Đông xướng – xướng: Bái (lạy)Chủ tế và Bồi tế đều bái lạy lần thứ 3.
– Tây xướng – xướng: Hưng (đứng dậy): Chủ tế và Bồi tế đứng dậy.
– Đông xướng – xướng: Bái (lạy)Chủ tế và Bồi tế đều bái lạy lần thứ 4.
– Tây xướng – xướng: Hưng (đứng dậy): Chủ tế và Bồi tế đứng dậy.

35. Phần chúc (hóa Chúc): Đem Chúc đi hóa.

36. Lễ tất (Lễ tế sống): Dân làng, khách thập phương dự lễ vào trong đền Dâng hương, Dâng lễ,cúng Thần – Thành hoàng.

Ngoài Chúc Văn Tế Thành Hoàng Làng, Thohay.vn Chia Sẽ ❤️️Mẫu Văn Tế Tổ Tiên, Giỗ Tổ Họ ❤️️ Văn Tế Họ Âm Hán

Viết một bình luận