Nội Dung Tác Phẩm Hạnh Phúc Của Một Tang Gia, Giá Trị, Phân Tích. Tổng Hợp Những Sơ Đồ Tư Duy, Chia Sẻ Hoàn Cảnh Sáng Tác, Tóm Tắt, Giáo Án, Soạn Bài Chi Tiết.
NỘI DUNG CHÍNH
Giới Thiệu Tác Phẩm Hạnh Phúc Của Một Tang Gia
“Hạnh Phúc Của Một Tang Gia” là một đoạn trích nổi tiếng từ tiểu thuyết “Số Đỏ” của nhà văn Vũ Trọng Phụng, một trong những tác giả tiêu biểu của nền văn học hiện đại Việt Nam. Tác phẩm này được viết vào năm 1936 và in thành sách năm 1938.
Nội dung chính
- Đoạn trích xoay quanh câu chuyện về cái chết của cụ Cố tổ, người đã ngoài 80 tuổi. Sự kiện này không mang lại nỗi buồn mà ngược lại, là niềm vui và hạnh phúc cho gia đình cụ. Các thành viên trong gia đình đều vui mừng vì cái chết của cụ mang lại cho họ cơ hội để khoe mẽ, thể hiện sự giàu có và địa vị xã hội của mình.
Ý nghĩa nhan đề
- Nhan đề “Hạnh Phúc Của Một Tang Gia” mang tính châm biếm sâu sắc. Tang gia thường là thời điểm đau buồn, nhưng trong tác phẩm này, nó lại là dịp để các thành viên trong gia đình thể hiện sự giả tạo và lố lăng của mình
Giá trị nghệ thuật
- Trào phúng và châm biếm: Vũ Trọng Phụng sử dụng ngòi bút trào phúng để châm biếm những thói hư tật xấu của xã hội đương thời.
- Phản ánh xã hội: Tác phẩm phản ánh sự tha hóa và đồi bại của tầng lớp thượng lưu trong xã hội Việt Nam dưới thời Pháp thuộc.
Nhân vật tiêu biểu
- Xuân Tóc Đỏ: Nhân vật chính của tiểu thuyết “Số Đỏ”, là biểu tượng của sự thăng tiến nhờ vào sự giả tạo và lố lăng của xã hội.
- Các thành viên trong gia đình cụ Cố tổ: Mỗi người đều có những hành động và suy nghĩ lố lăng, thể hiện sự tha hóa của xã hội.
Tác phẩm “Hạnh Phúc Của Một Tang Gia” không chỉ là một câu chuyện hài hước mà còn là một bức tranh chân thực về xã hội Việt Nam trong thời kỳ chuyển đổi, với những giá trị nhân văn sâu sắc.
Xem trọn bộ -> Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng – Nội Dung Tác Phẩm, Tóm Tắt, Phân Tích
Nội Dung Tác Phẩm Hạnh Phúc Của Một Tang Gia
Tiểu thuyết Số đỏ của nhà văn Vũ Trọng Phụng là một tác phẩm được coi là một trong những kiệt tác của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Một trong những trích đoạn ấn tượng nhất phải kể đến trích đoạn Hạnh phúc của một tang gia. Sau đây là Nội Dung Tác Phẩm Hạnh Phúc Của Một Tang Gia đầy đủ.
Ba hôm sau, ông cụ già chết thật.
Cả gia đình ấy đã nhao lên mỗi người một cách, đi gọi từ ông lang băm Tây cho đến ông lang băm Ðông, già và trẻ, để thực hành đúng cái lý thuyết “nhiều thầy thối ma”. Ông cụ già chết, danh dự của Xuân lại càng to thêm, vì cái lẽ rất chính đáng là luôn ba hôm nó đã trốn một chỗ nào không ai biết, đến nỗi cụ bà cho người đi tìm đâu cũng không thấy. Thiếu ông đốc tờ Xuân là thiếu tất cả, những ông thầy thuốc chính hiệu đã thất bại hoàn toàn. Về phần ông đốc tờ Trực Ngôn, thấy bạn đồng nghiệp Xuân của ông không chữa, cho đó là một bệnh nặng, nên cũng không dám nhận. Ðó là một bài học cho những kẻ nào dám bảo một người như Xuân là con nhà hạ lưu, ma cà bông, vô học, vô lại, nhặt ban quần, vân vân…
Người ta lại đi mời cả cụ lang tỳ lẫn cụ lang Phế, nhưng vì đã quá bận, hai cụ đã từ chối chạy chữa cũng như những vị danh y biết tự trọng. Người ta đã nghĩ cả đến thuốc thánh đền Bia vừa mới chữa một người ho lao và một người cảm thương hàn bằng bùn đen và cứt trâu, công hiệu đến nỗi họ mất mạng và quan trên lại điều tra rằng có một tụi cường hào tổ chức ra thánh, mà tụi cường hào ấy lại ăn cắp tiền quỹ nữa, nên tự nhiên cũng hết thiêng liêng… Những việc trắc trở như thế đã làm cho ông già hơn tám mươi tuổi phải chết một cách bình tĩnh. Trong lúc gia đình nhốn nháo, thằng bồi tiêm đã đếm được đúng một nghìn tám trăm bảy mươi hai câu gắt: “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!” của cụ cố Hồng.
Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm. Ông Phán mọc sừng đã được cụ Hồng nói nhỏ và tai rằng sẽ chia cho con gái và rể thêm một số tiền là vài nghìn đồng. Chính ông ta cũng không ngờ rằng giá trị đôi sừng hươu vô tình trên đầu ông ta mà lại to đến như thế. Ông cho rằng Xuân có tài quảng cáo lắm, nói một lời là có vài nghìn bạc, nên sau khi được lời hứa quý hoá của ông bố vợ, ông trù tính ngay với Xuân một công cuộc doanh thương… “Thưa ngài, ngài là một người chồng mọc sừng!” Ông Xuân chỉ nói có thế mà làm cho ông thêm được vài ba nghìn bạc thì khi ông Xuân nói đại khái: “Thưa ngài, thứ hàng này tốt nhất, buôn ở Tây phương” chắc phải có giá trị hơn nữa. Ông muốn gặp ngay Xuân để trả nốt năm đồng, trước khi buôn bán cũng phải giữ chữ tín làm đầu.
Cụ cố Hồng đã nhắm nghiền mắt lại để mơ màng đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mấu, để cho thiên hạ phải chỉ trỏ:
– Úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa!” Cụ chắc cả mười rằng ai cũng phải ngợi khen một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế…
Ðiều băn khoăn của con cụ, ông Văn Minh, chỉ là mời luật sư đến chứng kiến cái chết của ông nội mà thôi. Thế là từ nay mà đi cái chúc thư kia sẽ vào thời kỳ thực hành chứ không còn là lý thuyết viển vông nữa. Ông chỉ phiền một nỗi không biết xử trí với Xuân Tóc Ðỏ ra sao cho phải… Xuân tuy phạm tội quyến rũ một em gái ông, tố cái cái tội trạng hoạn dâm của một em gái khác nữa của ông, nhưng tình cờ đã gây ra cái chết của ông cụ già đang chết. Hai cái tội nhỏ, một cái ơn to… Làm thế nào? Ông phân vân, vò đầu rứt tóc, lúc nào cũng đăm đăm chiêu chiêu, thành thử lại thành ra hợp thời trang, vì mặt ông thật đúng cái mặt một người lúc gia đình đương là tang gia bối rối.
Mà bối rối thật. Người chết, sau khi được quan trên khám qua loa, đã được khâm liệm đến gần một ngày rồi, vậy mà chưa thấy cụ Hồng ra lệnh phát phục, mặc dầu mọi công việc cử hành tang lễ đã quyết định xong xuôi. Phái trẻ, nghĩa là bọn dâu con, đã bắt đầu la ó lên rằng phái già chậm chạp. Cậu tú Tân thì cứ điên người lên vì cậu đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mà mãi cậu không dùng đến. Bà Văn Minh thì sốt cả ruột vì mãi không được mặc những đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn trắng viền đen – dernières créations! Những cái rất ăn với nhau mà tiệm Âu Hoá một khi đã lăng-xê ra thì cá thể bán cho những ai có tang đương đau đớn vì kẻ chết cũng được hưởng chút hạnh phúc ở đời. Ông Typn rất bực mình vì mãi không được thấy những sự chế tạo của mình ra mắt công chúng để xem cái báo chí phê bình ra sao. Người ta đổ lỗi cho ông Văn Minh không khéo can thiệp, để mọi việc phải trì hoãn, cụ Hồng cứ nhắm mắt lại kêu khổ lắm, cụ bà hay lề lối, vẽ chuyện lôi thô. Kỳ thuỷ sở dĩ chưa phát phục chỉ vì chuyện Tuyết, hay việc Xuân Tóc Ðỏ đã gây ra cho Tuyết vậy.
Khi cụ Phán bà ở nhà người vị hôn phu của Tuyết ra về đến nhà mình, thì, trước những cặp mắt ngơ ngác của một bầy con cháu chí hiếu chỉ nóng ruột đem chôn cho chóng cái xác chết của cụ tổ, cụ bà đã lẳng lặng ra hiệu cho Văn Minh theo mình lên gác với cụ ông. Lúc này, cụ ông đã hút xong điếu thuốc thứ sáu mươi nên thằng bồi tiêm đã lui đi chỗ khác để mặc cụ hưởng những dư vị mà thuốc phiện còn để lại trong phổi. Trông thấy cụ bà, cụ ông ngồi nhỏm dậy hỏi dồn:
– Thế nào hở bà? Chuyện trò ra làm sao? Người ta có hối hôn không?
Cụ bà lẳng lặng ngồi xuống cạnh. Văn Minh cũng kéo ghế đến gần sập. Nghe ngóng mãi, cụ bà mới thở dài mà rằng:
– Thật khó nghĩ quá. Người ta không hối hôn, mà cũng không ra làm sao, mà người ta sắp đến phúng nữa, thế mới lạ chứ!
– Ô hay! Thế sao bà không bảo người ta cưới chạy tang đi có được không?
– Người ta cũng không muốn cưới chạy tang thì ông bảo tôi làm thế nào?
– Ô hay! Thế muốn bỏ hay muốn theo đuổi? Nhất định có cưới con Tuyết hay đã chê nó hư hỏng? Ít ra, họ cũng phải có một thái độ rõ rệt chứ?
Cụ bà lại hỏi cụ ông:
– Như thế thì ông thử đoán xem bụng dạ người ta nghĩ ra làm sao?
Cụ ông nhăn mặt lại, gắt:
– Ừ! Thế thì toa nghĩ thế nào hở toa? Có con gái lớn thì nguy như chứa bom ở trong nhà, có phải thế không? Toa nên nghĩ cách nào tống khứ nốt con bé thì nhà này không lo điều gì nữa.
Văn Minh ôm đầu ngẫm nghĩ hồi lâu đáp:
– Thế cũng không được. Người ta đang nghĩ nó phải lòng anh Xuân, bấy giờ mình cũng gả chạy tang cho anh Xuân, như thế có khác gì thú nhận với như thế là con gái mình đã hư hỏng với Xuân? Chỉ còn cách là thây kệ đấy, cứ việc ma chay cho xong chuyện đi rồi sau như thế xin cưới thì mình gả, bằng không thì hãy gả cho anh Xuân cũng chưa muộn.
Bà mẹ hỏi ngay:
– Dễ thế kia à? Sao hôm nọ, anh kêu chưa chắc như thế ưng thuận con bé.
Văn Minh đành phải chống chế:
– Nếu tôi nói thì chắc như thế cũng bằng lòng…
Về phần cụ Hồng, rất thích được có chàng rể như ông đốc tờ Xuân, thấy con giai nói thế thì cũng bằng lòng vậy, mặc dầu giá xong việc ngay thì cụ sung sướng hơn nữa. Còn Văn Minh, trước tình hình nghiêm trọng ấy, đành phải bóp trán nghĩ những cách nay mai gột rửa bằng xà bông thơm cho cái quá khứ của Xuân để nếu cần, thì gả em cho một người như thế, ông cũng không đến nỗi xấu mặt. Trước kia ông bực mình về nỗi thiên hạ cứ nhằm mãi Xuân bao nhiêu, thì bây giờ ông lại mừng thầm cũng về một điều ấy bấy nhiêu. Cũng như một kẻ tân tiến khác, sau khi gây ra một việc bậy thì xấu hổ lắm, không có gan nhận lỗi nữa, ông đành ép lòng tìm những cái gì còn cứu chữa được. Ông đúng lên hùng hồn mà rằng:
– Thôi được, mẹ cứ yên tâm, ba cứ yên tâm. Tôi sẽ làm thế nào con Tuyết lấy được chồng một cách danh giá thì thôi. Bây giờ xin cho phát phục, kẻo đã quá muộn.
Cả ba người yên lặng, xuống dưới nhà cắt đặt mọi việc. Bọn con cháu vô tâm ai cũng sung sướng thỏa thích… Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường hèn, thuê xe đám ma, vân vân… Tối hôm ấy, khách khứa đến hỏi thăm, phúng viếng, chia buồn tấp nập…
Sáng hôm sau, đúng 7 giờ thì cất đám. Hai viên cảnh sát thuộc bộ thứ 18 là Min Ðơ và Min Toa đã được thuê giữ trật tự cho đám ma. Giữa lúc không có ai đáng phạt mà phạt, đương buồn rầu như những nhà buôn sắp vỡ nợ, mấy ông cảnh binh này được có đám thuê thì sung sướng cực điểm, đã trông nom rất hết lòng. Thành thử tang gia ai cũng vui vẻ cả, trừ một Tuyết. Tại sao Xuân lại không đến phúng viếng gì cả. Tại sao Xuân lại không đi đưa? Hay là Xuân khinh mình? Những câu hỏi ấy đã khiến Tuyết đau khổ một cách rất chính đáng, có thể muốn tự tử được. Tìm kiếm khắp mặt trong bọn người đi đưa đám ma cũng không thấy “bạn giai” đâu cả, Tuyết như bị kim châm vào lòng.
Hôm nay Tuyết mặc bộ y phục Ngây thơ – cái áo dài voan mỏng, trong cóc-sê, trông như hở cả nách và nửa vú – nhưng mà viền đen, và đội một cái mũ mấn xinh xinh. Thấy rằng thiên hạ đồn mình hư hỏng nhiều quá, Tuyết bèn mặc bộ Ngây thơ để cho thiên hạ phải biết rằng mình chưa đánh mất chữ trinh. Với cái tráp trầu cau và thuốc lá, Tuyết mời các quan khách rất nhanh nhẹn, trên mặt lại hơi có một vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt một nhà có đám. Những ông bạn thân của cụ cố Hồng, ngực đầy những huy chương như: Bắc đẩu bội linh, Long bội tinh, Cao Mên bội tinh, Vạn tượng bội tinh, vân vân… trên mép và cằm đều đủ râu ria, hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm, loăn quăn, những ông tai to mặt lớn thì sát ngay với linh cửu, khi trông thấy một làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết, ai nấy đều cảm động hơn những khi nghe tiếng kèn Xuân nữ ai oán, não nùng.
Với một đám ma theo cả lối Ta, Tàu, Tây, có kiệu bát cống, lợn quay đi lọng, cho đến lốc bốc xoảng và bú dích và vòng hoa, có đến ba trăm câu đối, vài trăm người đi đưa, lại có cậu tú Tân chỉ huy, những nhà tài tử chụp ảnh đã thi nhau như ở hội chợ. Thật là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu…!
Khi đi được bốn phố, giữa lúc Typn và bà vợ, bà phó đoan và ông Joseph (Giô-dép) Thiết, và mấy người nữa đương lào xào phê bình thái độ của Xuân thì thấy cả đám phải đứng dừng lại như hàng đầu gặp phải một nạn xe cộ vậy. Giữa lúc ấy, sáu chiếc xe, trên có sư chùa Bà Banh, xe nào cũng che hai lọng, từ một ngả len vào chiếm chỗ sau năm lá cờ đen. Hai vòng hoa đồ sộ, một nhà báo Gõ mõ, một của Xuân, cũng len vào hàng đầu. Cậu tú Tân vội chạy lên bấm máy ảnh lách tách rồi xuống thưa với mẹ. Cụ bà hớt hải chạy lên, rồi cảm động hết sức, vì nó là phần của ông Xuân đốc tờ và ông Xuân, cố vấn báo Gõ mõ, nên mới có sự long trọng như thế thêm cho đám ma. Cụ sung sướng kêu: “Ấy giá không có món ấy thì là thiếu chưa được to, may mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi!” Sư cụ Tăng Phú thì sung sướng và vênh váo ngồi trên một chiếc xe, vì sư cụ chắc rằng trong số thiên hạ đứng xem ở các phố, thế nào cũng có người nhận ra rằng sư cụ đã đánh đổ được Hội Phật Giáo và như thế thì là một cuộc đắc thắng đầu tiên của báo Gõ mõ vậy.
Xuân Tóc Ðỏ cắt đặt đâu vào đấy rồi mới xuống chỗ những người đi đưa. Tuyết đã liếc mắt đưa tình cho nó để tỏ ý cám ơn. Mọi người đã ngợi khen nó hoặc ghen ghét nó…
Ðám ma đưa đến đâu làm huyên náo đến đấy. Cả một thành phố đã nhốn nháo lên khen đám ma to, đúng với ý muốn của cụ cố Hồng. Thiên hạ chú ý đặc biệt vào những kiểu quần áo tang của tiệm may Âu Hoá như ý ông Typn và bà Văn Minh. Cụ bà sung sương vì ông đốc Xuân đã không giận mà lại giúp đáp, phúng viếng đến thế và đám ma như kể đã là danh giá nhất tất cả.
Ðám cứ đi…
Kèn Ta, kèn Tây, kèn Tàu, lần lượt thay nhau mà rộn lên. Ai cũng làm ra bộ mặt nghiêm chỉnh, song le sự thật thì vẫn thì thầm với nhau chuyện về vợ con, về nhà cửa, về một cái tủ mới sắm, một cái áo mới may. Trong mấy trăm người đi đưa thì một nửa là phụ nữ, phần nhiều tân thời, bạn của cô Tuyết, bà Văn Minh, cô Hoàng Hôn, bà Phó Ðoan, vân vân… Thật là đủ giai thanh gái lịch, nên họ chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau, bằng những vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma.
Chen lẫn vào những tiếng khóc lóc, mỉa mai nhau của những người trong tang gia, người ta thấy những câu thì thào như sau này:
– Con bé nhà ai kháu thế? – Con bé bên cạnh đẹp hơn nữa! – Ừ, ừ, cái thằng ấy bạc tình bỏ mẹ! – Xưa kia vợ nó bỏ nó chớ? – Hai đời chồng rồi! – Còn xuân chán! – Gớm cái ngực, cái đầm quá đi mất! – Làm mối cho tớ nhé? – Mỏ vàng hay mỏ chì? – Không, không hẹn hò gì cả – Vợ béo thế, chồng gầy thế, thì mọc sừng mất! Vân vân…
Và còn nhiều câu nói vui vẻ, ý nhị khác nữa, rất xứng đáng với những người đi đưa đám ma.
Ðám cứ đi…
Ðến huyệt, lúc hạ quan tài, cậu tú Tân luôn thuộm trong chiếc áo thụng trắng đã bắt bẻ từng người một, hoặc chống gậy, hoặc gục đầu, hoặc cong lưng, hoặc lau mắt như thế này, như thế nọ… để cậu chụp ảnh kỷ niệm lúc hạ huyệt. Bạn hữu của cậu rầm rộ nhảy lên những ngôi mả khác mà chụp để cho ảnh khỏi giống nhau.
Xuân Tóc Ðỏ đứng cầm mũ nghiêm trang một chỗ, bên cạnh ông Phán mọc sừng. Lúc cụ Hồng ho khạc mếu máo và ngất đi, thì ông này cũng khóc to “Hứt!… Hứt!… Hứt!…”
Ai cũng để ý đến ông cháu rể quý hoá ấy.
Ông ta khóc quá, muốn lặng đi thì may có Xuân đỡ khỏi ngã. Nó chật vật mãi cũng không làm cho ông đứng hẳn lên được. Dưới cái khăn trắng to tướng, cái áo thụng trắng loè xòe, ông phán cứ oặt người đi, khóc mãi không thôi.
– Hứt!… Hứt!… Hứt!…
Xuân Tóc Ðỏ muốn bỏ quách ra chợt thấy ông Phán dúi vào tay nó một cái giấy bạc năm đồng gấp tư… Nó nắm tay cho khỏi có người nom thấy, rồi đi tìm cụ Tăng Phú lạc trong đám ba trăm người đương buồn rầu và đau đớn về những điều sơ suất của khổ chủ.
Cùng khám phá nội dung ✨Chữ Người Tử Tù✨ Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật
Tóm Tắt Truyện Ngắn Hạnh Phúc Của Một Tang Gia
Tác phẩm xoay quanh câu chuyện của một người chết là cụ Tổ, từ khi cụ ngấp ngoải chết đến khi chết thật. Chuyện nhặng xị bắt đầu cũng xảy ra từ khi ông cụ mất và câu chuyện cũng chỉ có ý nghĩa từ giây phút này.
Cụ chết để lại cho con cháu cơ hội để khoe mẽ với thiên hạ những nghịch lý của “thế hệ con cháu” hiếu thảo bằng những bộ trang phục âu hóa nửa Tây nửa ta và những trò “mèo mả gà đồng” của dâu con lẫn người xung quanh. Cái đám ma to tát cụ Tổ là một cuộc diễu hành của buổi lễ hội di động bằng mọi trò hề của tầng lớp trung thượng lưu.
Qua đoạn trích, tác giả đã phơi bày những trò nhố nhăng, phi đạo đức lẫn truyền thống của những kẻ sống núp dưới gót giầy thực dân xâm lược, là bức tranh toàn cảnh của xã hội đương thời đầy thối nát lúc bấy giờ.
Xem nội dung tác phẩm 🌱 Hai Đứa Trẻ [Thạch Lam]🌱 Mẫu Phân Tích, Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật
Về Nhà Văn Vũ Trọng Phụng
Sau đây là những thông tin chính Về Nhà Văn Vũ Trọng Phụng.
- Vũ Trọng Phụng (1912 – 1939) sinh tại Hà Nội, trong một gia đình nghèo.
- Ông quê ở làng Hảo (huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên).
- Sau khi tốt nghiệp tiểu học, Vũ Trọng Phụng đi làm kiếm sống nhưng chẳng được bao lâu thì mất việc. Từ đó, ông sống chật vật bằng nghề viết báo, viết văn chuyên nghiệp.
- Khoảng từ 1937 – 1938, ông mặc bệnh lao nhưng lại không có điều kiện để chữa chạy.
- Đến năm 1939, Vũ Trọng Phụng mất tại Hà Nội.
- Các tác phẩm của ông toát lên niềm căm phẫn mãnh liệt cái xã hội đen tối, thối nát đương thời.
- Ông được mệnh danh là “ông vua phóng sự đất Bắc” với những tác phẩm như:
- Phóng sự: Cạm bẫy người (1933), Kỹ nghệ lấy Tây (1934), Cơm thầy cơm cô (1936).
- Tiểu thuyết: Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê (1936), Trúng số độc đắc (1938)…
Đừng vội bỏ lỡ phân tích 🌼Xin Lập Khoa Luật🌼 Nội Dung Bài Thơ, Nghệ Thuật, Phân Tích
Bố Cục Tác Phẩm Hạnh Phúc Của Một Tang Gia
Về Tác Phẩm Hạnh Phúc Của Một Tang Gia, đoạn trích thuộc chương XV của tiểu thuyết Số đỏ. Vũ Trọng Phụng đã phê phán mạnh mẽ bản chất giả dối, lối lăng và đồi bại của xã hội “thượng lưu” ở thành thị những năm trước Cách mạng.
Tác phẩm gồm 3 phần chính:
- Phần 1: Từ đầu đến “Tối hôm ấy, khách khứa đến hỏi thăm, phúng viếng, chia buồn tấp nập…”. Niềm hạnh phúc của những thành viên trong một gia đình có người chết.
- Phần 2: Tiếp theo đến “đám ma như kể đã là danh giá nhất tất cả”. Cảnh đám tang đầy lố bịch, hợm hĩnh nhưng không có tình người.
- Phần 3: Còn lại. Cảnh đoàn người lúc đưa tang và lúc hạ huyệt.
Hoàn Cảnh Sáng Tác Hạnh Phúc Của Một Tang Gia
Cùng tìm hiểu Hoàn Cảnh Sáng Tác Hạnh Phúc Của Một Tang Gia bên dưới.
Đoạn trích thuộc chương XV của tiểu thuyết “Số đỏ”. Tiểu thuyết “Số đỏ” được đăng ở “Hà Nội báo” từ số 40 ngày 7 tháng 10 năm 1969 và in thành sách lần đầu năm 1938.
Tác giả tố cáo xã hội nhố nhăng, suy tàn, thối nát. Miêu tả cái “đám cứ đi”, nhà văn muốn phơi bày tất cả sự giả dối, bịp bợm, vô đạo đức của xã hội thượng lưu. Từ đó nhà văn đả kích châm biếm sâu cay, thâm thuý những thói xấu xa của xã hội đương thời.
Xem nội dung tác phẩm 🍀Chiếu Cầu Hiền🍀 Sơ Đồ Tư Duy, Các Mẫu Phân Tích Hay
Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm Hạnh Phúc Của Một Tang Gia
Tiếp theo là Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm Hạnh Phúc Của Một Tang Gia.
Nhan đề này do chính tác giả Vũ Trọng Phụng đặt cho đoạn trích. Đây là một nhan đề đầy ý vị và trào phúng báo trước những mâu thuẫn trào phúng của vở kịch sắp diễn ra ở nhà cụ cố Hồng.
Nhan đề tạo sự đối lập gây tiếng cười thâm thúy: “Tang gia” là đau đớn, u buồn, ảm đạm. “Hạnh phúc” là sự sung sướng, được thỏa mãn nguyện vọng. Khi kết hợp hai yếu tố này lại khiến cho người đọc bất ngờ, ngỡ ngàng về một hạnh phúc quái dị của gia đình cụ cố Hồng.
Nhan đề góp phần bộc lộ nội dung đoạn trích: cái chết của cụ cố Tổ đã đem lại cho cả gia đình này một niềm hạnh phúc hoan hỉ. Cái chết của cụ cố tổ đem đến hạnh phúc,sung sướng cho tất cả con cháu,người thân và bạn bè,niềm hạnh phúc đó to lớn đến mức nó cự tự phát bung ra, tràn trề, không kìm nén lại được.
Như vậy, nhan đề góp phần tố cáo mạnh mẽ, lật tẩy bộ mặt thật của một xã hội tư sản lố lăng, kệch cỡm, học đòi, đang làm bang hoại giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc.
Mời bạn xem thêm 🔻 Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc 🔻 Sơ Đồ Tư Duy, Các Mẫu Phân Tích Hay
Giá Trị Nội Dung Hạnh Phúc Của Một Tang Gia
Sau đây là các Giá Trị Nội Dung Hạnh Phúc Của Một Tang Gia.
- Tác phẩm đã mở ra khung cảnh đám ma hoành tráng, to tát sau cái chết của cụ Tổ Cố Hồng và khắc họa thành công, đầy ám ảnh những bức chân dung của lũ con cháu trong gia đình: Ông bà Văn Minh, cụ Cố Hồng, cô Tuyết, cậu Tú Tân cũng như chân dung của những người ngoài tang quyến mà mỗi người lại hiện lên với dáng vẻ và theo đuổi những suy nghĩ khác nhau.
- Qua đoạn trích, người đọc thấy được bản chất lố lăng, đồi bại của xã hội “thượng lưu” thành thị những năm trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.
- Đó là bộ mặt của lũ con cháu giả dối, khốn nạn, mất nhân tính khi chúng mong mỏi cái chết của cụ Tổ cố Hồng để thành toàn cho nguyện ước của mình: khối tài sản kếch sù, để được người ta chỉ trỏ, bàn tán; được lăng xê những bộ cánh mốt mới cho gia đình có tang, để chứng minh mình vẫn còn một nửa chữ “trinh”.
- Đó còn là bộ mặt của những kẻ ngoài tang quyến với những con người không mảy may thương xót cho người vừa nằm xuống mà chỉ đến để tìm kiếm cơ hộ đặt chân vào giới thượng lưu, đề khoe râu, khoe huân chương,…
Đừng bỏ lỡ tác phẩm ✨Vào Phủ Chúa Trịnh✨ Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật
Giá Trị Nhân Đạo Của Hạnh Phúc Của Một Tang Gia
Cùng tìm hiểu các Giá Trị Nhân Đạo Của Hạnh Phúc Của Một Tang Gia.
- Lên án xã hội thực dân nửa phong kiến lố lăng, đồi bại, cũng chính cái đen tối của xã hội đã làm mai một đi những giá trị tốt đẹp của đạo đức.
- Vũ Trọng Phụng trực tiếp phê phán những kẻ tự xưng trí thức, trưởng giả thuộc tầng lớp thượng lưu bên ngoài chiếc mặt nạ của sự sang trọng, tử tế nhưng thực chất chỉ là những thứ cặn bã, quái thai của xã hội
- Vũ Trọng Phụng còn tố cáo lối sống vô nghĩa, không lành mạnh của đám thanh thiếu niên trong xã hội đương thời.
- Phê phán, châm biếm đầy sâu cay lối sống bất nhân, bất nghĩa, xã hội chạy theo đồng tiền mà chà đạp lên những giá trị đạo đức tốt đẹp.
- Lột trần tính chất bịp bợm, giả nhân giả nghĩa của tầng lớp thượng lưu đại tư sản.
Sơ Đồ Tư Duy Hạnh Phúc Của Một Tang Gia
Thohay.vn chia sẻ cho bạn đọc các Sơ Đồ Tư Duy Hạnh Phúc Của Một Tang Gia.
Nhất định đừng bỏ qua ❤️️ Bài Ca Phong Cảnh Hương Sơn ❤️️ Nội Dung Tác Phẩm, Nghệ Thuật
5 Mẫu Phân Tích Hạnh Phúc Của Một Tang Gia Hay Nhất
Tham khảo ngay 5 Mẫu Phân Tích Hạnh Phúc Của Một Tang Gia Hay Nhất sau đây.
Phân Tích Hạnh Phúc Của Một Tang Gia Nổi Bật – Mẫu 1
Mỗi khi nhắc tới Vũ Trọng Phụng người ta đều nhớ tới ông là “ông vua phóng sự của đất Bắc Kì”. Đúng vậy, ông có một công trình đồ sộ về phóng sự và tiểu thuyết, với các tác phẩm bất hủ như: Cạm Bẫy Người (1993), Giông tố (1936).Nhưng có lẽ bạn đọc nhớ nhất đến tiểu thuyết “Số Đỏ” của ông.
Với những sự thật xã hội bấy giờ được tác giả thêu dệt lại qua lăng kính của mình. Đặc biệt đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” đã nêu lên được những nét chủ đạo của câu chuyện và thấy được bút pháp trào phúng đặc sắc của Vũ Trọng Phụng.
Trong đoạn trích này chủ yếu nói về cái chết và đám tang Cụ tổ được tái hiện lên như một màn hài kịch. Có rất nhiều tình tiết và các bộ mặt khác nhau trong đám ma điều này dẫn đến một đám ma đau thương trở thành một đám ma đáng cười xót xa.
Chính cái chết của cụ tổ cho thấy đây là một cái chết vừa đáng cười vừa đáng khóc. Vì sao lại vậy? Khóc vì đạo đức của một bộ phận con người suy đồi đến cực độ, cha chết, ông chết mà “bọn con cháu vô tâm ai cũng sung sướng thỏa thích”.
“Cái chết của ông già hơn 80 tuổi” đã làm cho nhiều người sung sướng lắm”. Ai cũng nghĩ đến cái lợi cho mình, như vậy, đúng với cái nhan đề của đoạn trích tưởng như lố bịch của cuộc sống đời thường, nhưng không “Hạnh phúc của một tang gia” lại đúng khi cụ tổ mất.
Những tiếng khóc, sự “báo hiếu” của con cháu thực chất là sự khoe giàu sang với thiên hạ. Bằng ngòi bút trào phúng, châm biếm, đả kích của tác giả, làm cho đoạn trích các nhân vật được hiện lên rất đáng cười, những tiếng cười ra nước mắt.
Để thấy được hạnh phúc của gia đình khi cụ tổ mất tác giả đã đi vào từng nhân vật để thấy được họ đang xót thương đau buồn hay biến đám ma của cụ cố tổ vào mục đích của bản thân? Cụ cố Hồng – con trai cả của cụ tổ thì rất sung sướng vì cái chết của cha mình và cho đây là một cơ hội để tỏ ra già yếu khi lo cho cái chết của cha mình. Nhân vật này đã làm nổi bật được những sự lố lăng mà ngu dốt ham danh trong xã hội phong kiến.
Bên cạnh cụ cố Hồng là Văn Minh và ông TYPN lại tỏ ra vui mừng khôn xiết trước cái chết của ông nội và đây cũng là một cơ hội để ông đưa nền văn minh Á-Âu vào quảng cáo ở đám tang.
Thật đau lòng thay, một đám ma hay là một phiên chợ để con cái mang ra quảng cáo, kinh doanh. Hay chính bà Văn Minh thì lại vui mừng vì đây là dịp để chưng diện đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn trắng, viền đen. Đúng là sự vô ơn bạc nghĩa của những kẻ vô học thức.
Trong đoạn trích tác giả còn nói về cô Tuyết, đến đám ma nhưng lại mặc bộ y phục gây thơ “Cái áo voan mỏng trong coóc-xê, hở cả nách cả vú” tưởng như tác giả tả hơi quá, nhưng không chỉ ở cách ăn mặc mà cô Tuyết này còn thể hiện ở cả tính cách, sự lẳng lơ, tưởng như vẻ mặt buồn vì đám tang, nhưng đây là nỗi buồn nhớ người tình.
Hết đến cô Tuyết lại đến cậu Tú Tấn, vui mừng vì cái máy ảnh đã được đem ra sử dụng vì Cậu mua đã lâu mà không dùng, thật ngỗ nghịch khi đám ma mà lại dẫm lên các ngôi mộ để chụp ảnh, tạo kiểu như một nhà nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp.
Hay chính ông Phán Mọc Sừng vui mừng vì cái sừng trên đầu mình được hưởng thêm tiền sau khi đám ma xong. Trong khi đó Xuân Tóc Đỏ thì danh tiếng lại càng nhiều hơn và càng được nhiều người tôn trọng vì đã có công trong cái chết của cụ Tổ.
Không chỉ có những người nhà của cụ cố tổ sung sướng ra mặt mà còn những người ở ngoài cũng góp một phần vào niềm hạnh phúc của gia đình khi đang có tang. Là đám ma nhưng lại có kiệu bát cống, có lợn quay che lọng như thế khác nào một đám rước? Hay có cả kèn ta, kèn tây sự lố lăng của sự “âu hóa”. Hay tại chính đám ma này cũng là cơ hội cho những “nam thanh nữ tú” “chim cò” nhau. Thật đáng lên án thay.
Qua việc thêu dệt lại các nhân vật bằng lăng kích của tác giả đã thể hiện rõ được sự lố bịch, tây-ta lẫn lộn của những học giả đòi làm sang. Bằng ngòi bút châm biếm trào phúng cay độc. Lúc thì phóng đại lúc thì biếm họa. Lúc tưởng như đang đau buồn đau thương nhất nhưng lại là những niềm hạnh phúc được vỡ oà của những con cháu bất nhân, bất hiếu. Hay đáng lẽ là sự đau thương, đau buồn, thì lại là sự phô của, sự tình tứ nhau.
Từ trang chủ, bọn con cháu, hay chính những người quan khách đến viếng đều là những vai hề. Không phải tự nhiên mà Vũ Trọng Phụng lại viết “Người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng nếu không gật gù cái đầu.” Đây là một chi tiết nhỏ nhưng cũng để cho người đọc thấy được giọng điệu mỉa mai của tác giả.
Như vậy, qua đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” cho người đọc thấy hiện thực xã hội lúc đương thời, sự đáng cười nhưng cũng chính là sự đáng thương của một bộ phận con người trong xã hội lúc bấy giờ.
Những tiếng cười ra nước mắt vì đạo đức con người bị suy thoái, sự âu hóa tây ta lẫn lộn làm nên sự lố bịch. Từ đó, đáng lên án, phê phán gay gắt bộ phận này trong xã hội. Đồng thời, cũng qua đây cho ta thấy được sự tinh tế, đặc sắc trong việc lột tả hiện thực xã hội của Vũ Trọng Phụng bằng ngòi bút trào phúng sắc sảo.
Phân Tích Hạnh Phúc Của Một Tang Gia Hay Nhất – Mẫu 2
Đất nước hôm nay tươi đẹp, phát triển thay đổi từng giờ, song ta vẫn không thể quên một thời kì đen tối nhất trong lịch sử nước nhà. Thời kì dân tộc ta chìm trong bóng tối chế độ thực dân nửa phong kiến, vô số kẻ khoác lên những “tấm áo” giả dối, lố lăng, đồi bại cùng nhau tạo nên một bức tranh ghép của xã hội thối nát.
Với ngòi bút trào phúng bậc thầy, Vũ Trọng Phụng đã đả kích sâu cay cái xã hội tư sản thành thị chạy theo lối sống nhố nhăng, bịp bợm đương thời qua “Số đỏ”.
Có ý kiến cho rằng “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng là một “tấn trò đời” của xã hội Việt Nam thời kì thực dân nửa phong kiến. Quả vậy, xã hội được phản ánh và quy mô và thi pháp trong “Số đỏ” tuy chưa thể ngang tầm với “Tấn trò đời” (Balzac) nhưng mức độ phản ánh hiện thực và ảnh hưởng sâu rộng của tác phẩm với cộng đồng cũng không hề thua kém.
Honoré de Balzac – được xưng tụng như một “bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực” (Engels) đã để lại một công trình văn học đồ sộ: bộ “Tấn trò đời” với 97 tiểu thuyết được sáng tác từ 1829 đến 1850. Tuy chưa được hoàn thành, “Tấn trò đời” vẫn là một bức tranh hiện thực rộng lớn, mô tả những mâu thuẫn gay gắt trong xã hội tư sản Pháp nửa đầu thế kỉ 19. Balzac gọi những cuốn tiểu thuyết của ông là những “bi hài kịch”. Và đây cũng chính là điểm chung khiến ta liên hệ “Số đỏ” của văn xuôi Việt Nam với “Tấn trò đời” của nền văn học cổ điển Pháp.
“Số đỏ” (1936) là tác phẩm tiêu biểu nhất của Vũ Trọng Phụng và vào loại xuất sắc nhất của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Dùng tiếng cười làm vũ khí, “Số đỏ” đã vạch trần thực chất thối nát của các phong trào “Âu hóa”, “thể thao”… được bọn thống trị khuyến khích, phát triển rầm rộ cuối những năm 30. Với một loạt những chân dung biếm họa phong phú, “Số đỏ” giúp ta hình dung cái xã hội thành thị nhố nhăng, đồi bại thời trước.
“Hạnh phúc của một tang gia”- một chương tiêu biểu trong “Số đỏ” thông qua cái chết và đám tang của cụ cố tổ, tác giả đã dựng lên một màn hài kịch, nêu bật nhiều mâu thuẫn hài hước đủ các cung bậc. Xuyên suốt chương truyện là một bút pháp trào phúng độc đáo trong việc thể hiện niềm vui sướng hả hê của những thành viên trong đại gia đình cụ cố Hồng trước cái chết cụ cố tổ và những kẻ đưa đám ma như trẩy hội.
Trong “Lão Hạc”, Nam Cao viết: “Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi… toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương”.
Nếu Nam Cao đến với số phận con người bằng một tấm lòng nhân đạo, nâng đỡ con người khiến chính người đọc cũng ngậm ngùi bên từng trang viết, thì Vũ Trọng Phụng lột trần cái “hạnh phúc” đáng khinh bỉ, lũ con cháu bất hiếu, lố lăng đã khô héo cả những tình cảm máu mủ thiêng liêng nhất.
“Hạnh phúc của một tang gia”, nhan đề này thực sự mới lạ, giật gân khiến người đọc phải chú ý. Tuy nhiên, đây không phải là một sự giật gân dễ dãi, vô lý mà đã phản ánh đúng cái sự thật mỉa mai: con cháu của đại gia đình này thật sự sung sướng, thậm chí “hạnh phúc” khi cụ tổ chết một cái chết được mong đợi từ lâu. Chứng phấn khởi, những niềm phấn khởi muôn màu, muôn vẻ.
Ta không khỏi cười thầm khỉ “cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm…”, nhưng đó nào có là niềm vui sướng thầm kín, ” tưng bừng, vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê xe đám ma…”. Đấy chỉ mới là niềm vui chung mà thôi. Vũ Trọng Phụng đã cố tìm mà hiểu cái đại gia đình này qua từng con người.
Ta thương hại cho thói hiếu danh, thích được chú ý của cụ cố Hồng, “mơ màng cho đến cái lúc cụ mặc đồ xổ gai, lụ khụ chống gậy…”, thương thay cho một “ước mơ” nhỏ nhoi là tự biến mình thành trò xiếc để “thiên hạ chỉ trỏ khen…”.
Rồi ông phán mọc sừng cảm thấy hạnh phúc vì được thêm một số tiền, ông Văn Minh “thích thú vì cái chúc thư kia sẽ vào thời kì thực hành”, cậu Tú Tân ” sướng điên người vì có dịp thi thố tài năng chụp ảnh”.
Vũ Trọng Phụng đã xây dựng nên một màn kịch từ những “mơ ước” thầm kín đến niềm vui sướng dâng trào, toàn cảnh “tang gia” tuyệt nhiên không gợn một chút thương tiếc nào. Phũ phàng hơn “bầy con cháu chỉ nóng ruột đem chôn cho chóng cái xác chết của cụ tổ, ông Văn Minh “thầm biết ơn Xuân Tóc Đỏ vì tình cờ gây ra cái chết kia của cụ già”.
Balzac từng miêu tả cái chết trong nghèo nàn về cả vật chất lẫn tinh thần của lão Gôriô một cách mỉa mai. Song, dù sao chăng nữa “những nghĩa vụ cuối ấy cùng được thực hiện tận tình bởi hai người thanh niên xa lạ.
Có thể nói, ma của cụ cố tổ trong “Số đỏ” hoàn toàn tương phản với những gam màu buồn trong “Nghĩa vụ cuối cùng”(Lão Gôriô). Nghệ thuật châm biếm sắc sảo, Vũ Trọng Phụng đã sử dụng những chi tiết chọn lọc nhằm khắc họa thật sắc nét bình ánh cái đám tang lộ rõ lối đua đòi, “văn minh rởm”.
Ta không thể nhận ra liệu đây là đám ma hay đám rước bởi cái hổ lốn, tạp nhạp “Ta, Tàu, Tây…”, “lợn quay”, “vòng hoa”, “câu đối”. Bọn con cháu thì không còn lời gì để tả, Tuyết “mặc bộ… Ngây thơ… hở cả nách, nửa vú…” với khuôn mặt mang “một nét buồn lãng mạn rất đúng mốt”.
Cậu Tú Tân thì hào hứng “chỉ huy chụp ảnh… như ở hội chợ” những gì gọi là to tát, long trọng, danh giá của cái đám ma ấy chỉ là sự phô trương giả dối, sự rởm đời lố lăng, thể hiện tâm lý háo danh đến kì quặc qua những hình thức nghi lễ đưa tang hổ lốn hết sức buồn cười. Tác giả đã hạ một câu văn mỉa mai cực độ “thật là một đám ma có thể làm cho người chết trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng nếu không gật gù cái đầu”.
Không chỉ sử dụng các yếu tố mâu thuẫn từ những cái bình thường, thậm chí tầm thường để trào phúng: Vũ Trọng Phụng còn xây dựng nên vô số những nhân vật phụ làm nền cho bức tranh biếm họa ít nhiều có nguồn gốc từ chính hiện thực, những nguyên hình trong xã hội dâm loạn, giả dối đương thời.
Từ những ông bạn thân của cụ cố Hồng… đeo đầy những huân chương… đến “giai thanh gái lịch” đất Hà thành đang Âu hóa “chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau…” đã biểu lộ mọi góc cảnh của cái tính vô văn hóa, vô đạo đức của bọn cặn bã mang những chiếc mặt nạ bịp bợm.
Những hành động của ông Phán mọc sừng đối với Xuân Tóc Đỏ ở cuối đoạn trích là những chi tiết trào phúng đặc biệt chua chát góp phần không nhỏ tô đậm sự lố lăng, vô đạo đức của xã hội thượng lưu thời đó.
“Ông Phán cứ oặt người đi, khóc mãi không thôi” nhưng vẫn không quên bí mật “dúi vào tay Xuân một tờ giấy bạc gấp tư”. Những nhà trí thức chân chính của Việt Nam, không ít người đã từng du học Pháp, nhưng họ đã đau vì nỗi đau nô lệ, họ từng đau vì lòng tự ái dân tộc bị tổn thương dưới gót giày xâm lược của quân viễn chinh Pháp và họ bỏ hết những tiện nghi và lợi ích cá nhân để vào chiến khu “theo chân Bác”.
Ta hãy nghe một đoạn nhật kí của Giáo sư Hồ Đắc Di (người thầy của Bác sĩ nổi tiếng — Tôn Thất Tùng) “Ai đã từng sống kiếp đọa đày trong đêm trường nô lệ; hay chí ít đã trải qua những nhọc nhằn, day dứt lương tâm, nhân phẩm, ắt sẽ lao theo cơn lốc cách mạng, một khi ánh sáng của nó soi rọi tâm hồn”.
Trí thức chân chính Việt Nam cùng nhân dân lao động làm nên cuộc Cách mạng tháng Tám, quét sạch những trò ma mãnh, lọc lừa của thứ văn minh giả dối, bịp bợm và tình trạng số đỏ của xã hội Việt Nam không còn chỗ đứng trong “cơn lốc cách mạng”.
Từ cách đặt nhan đề chương truyện, đặt tên nhân vật, đồ vật, cách so sánh, cách dùng hình ảnh, đến cách đặt câu, cách tạo giọng điệu… đều thể hiện đậm nét chất trào phúng, châm biếm, mang lại hiệu quả nghệ thuật đáng kể. Sau cái hài buồn cười ấy là cả một bi kịch đáng “buồn”, đó chính là bi kịch của cả xã hội khi mà đạo đức con người xuống cấp, nhân cách băng hoại: sau tiếng cười ta thấm thía xót xa cho xã hội Việt Nam thời ấy.
“Số đỏ” thực xứng đáng là một “Tấn trò đời” của xã hội Việt Nam thời kì thực dân nửa phong kiến thối nát. Đọc Số đỏ nói chung, và chỉ cần một chương XV “Hạnh phúc của một tang gia”, ta cũng đã bật cười và rồi xót xa muốn khóc cho những giá trị truyền thống cao đẹp nhất của dân tộc ta đã bị chà đạp đến tan nát làm não lòng tâm hồn Việt.
Vũ Trọng Phụng đã đưa chúng ta vào chứng kiến một thế giới “phi nhân loại” mà thế lực đồng tiền và thực dân đã trình làng bằng khẩu hiệu ngụy trang “văn minh- khai hóa”.
Trước đó không lâu, Trần Tế Xương cũng từng khóc – cười cho xã hội truyền thống Việt Nam điên đảo qua bài thơ “Mồng hai tết viếng cô Kí”. Sau đó, Vũ Trọng Phụng ghi lại như một trang phóng sự, chính xác và sinh động đến không ngờ bằng ngòi bút như chảy máu từ một trái tim thắm nồng tình yêu dân tộc.
Thông điệp từ trang “Số đỏ” ngày trước nhắc nhở mỗi chúng ta hôm nay một ý thức trách nhiệm với đất nước. Để tình trạng “Số đỏ” sẽ mãi chỉ là “phút lỡ nhịp ngang cung” trong toàn bộ trang sử hào hùng của một dân tộc tự cường và giàu lòng tự trọng.
Phân Tích Hạnh Phúc Của Một Tang Gia Tiêu Biểu – Mẫu 3
Vũ Trọng Phụng là nhà văn của trào lưu văn học hiện thực với các tác phẩm ông lên án xã hội đương thời. Đặc biệt là tác phẩm Số đỏ đã khắc họa rõ xã hội đương thời một xã hội bị thực dân Pháp cầm quyền. Đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia đã tái hiện cảnh tang gia của gia đình cụ cố Hồng với những sự lố bịch, kịch cỡn nhất.
Cảnh tang gia bối rối khi có thông báo cụ cố Tổ chết. Điểm nhìn được đặt vào đám con cháu. Nguyên nhân là do các thành viên vui vẻ vì cụ cố Tổ chết tờ di chúc đã đi vào thực hiện để được chia gia tài. Gia đình chuẩn bị đám tang với gia đình cụ cố Hồng rất bận rộn chuẩn bị.
Trên gác vợ chồng cố Hồng tranh cãi về việc lấy chồng của Tuyết, dưới nhà con cháu sôi sục giờ phát phục đưa tang thực hiện những công việc mong muốn, buôn bán khoa khoang tiền tài danh vọng. Đám tang và lễ tiết, hình thức cùng nội dung chuẩn bị chu đáo.
Cụ cố Hồng cha Văn Minh con trai cụ cố Tổ người cao tuổi nhất trong gia đình lại thích mọi người nhìn mình già, thích nghe gọi cụ đó là sở thích quái dị, chi tiết trào phúng là linh hồn toàn tác phẩm. Trong lúc gia đình nhốn nháo.
“Biết rồi, khổ lắm, nói mãi” bối rối, gắt gỏng, lo liệu phù hợp với đám tang nhưng cụ chẳng biết gì, phát ngôn như con vẹt. Ung dung ngồi hút 60 điếu thuốc viện tỏ vẻ đăm chiêu nhưng biểu hiện cho một trạng thái không chút buồn đau che giấu một sự trù tính, khoe mẽ bên trong.
Chi tiết “nhắm nghiền mắt” tỏ vẻ bối rối nhưng đang mơ đến giây phút mình được diễn tròn vai một người con già cả có hiếu. Chi tiết kết hợp với giọng điệu mỉa mai, bút pháp khoa trương làm bật lên hình ảnh cụ cố đại diện cho bọn trọc phú hãnh diện trong xã hội đương thời.
Ông Văn Minh với vẻ bề ngoài vò đầu bứt tóc, phân vân đăm đăm, chiêu chiêu bên trong thì lo mời luật sư để chứng kiến cái chết của ông nội để chúc thư kia đi vào thời kì thực hiện.
Bà Văn Minh sốt ruột vì không được lăng xê tân thời diễn thời trang. Còn Văn Minh lại nghĩ đến Xuân tóc đỏ người có công nhiều nhất dẫn đến cái chết của cụ cố Tổ. Mâu thuẫn giữa vẻ bề ngoài với nội dung bên trong để thấy Văn Minh hiện lên bất hiếu cái chết của ông nội đơn thuần là việc kinh doanh.
Cụ Tú Tân với vẻ bề ngoài điên người lên, bên trong sốt ruột chờ đợi được dùng máy ảnh chưa bao giờ sử dụng. Đám tang là thời cơ để cậu thể hiện tài năng. Đó là một kẻ háo tài. Còn Phán mọc sừng là người sung sướng nhất ngỡ ngàng với giá trị to lớn của cặp sừng. Đó là người vô đạo vô sỉ không có liêm sỉ, sung sướng vì được cho thêm tiền. Đồng tiền với phán mọc sừng cao hơn cả hạnh phúc, cả danh dự.
Còn Xuân tóc đỏ nhân vật trung tâm nhưng lại chưa xuất hiện nhưng hắn lại là người có công nhất. Cái chết của cụ cố Hồng đã mang đến cho hắn nhiều tiền, danh và tình. Cái buồn bỗng thành niềm vui, đại tang hóa đại hỉ, buồn trong lúc vui đã là điều bất nhã, vui trong lúc buồn lại là điều bất nhân.
Cả gia đình cụ cố Hồng là địa bất nhân bất nghĩa. Từ đó mà Vũ Trọng Phụng muốn nói sự thật đắng cay lối sống Âu hóa với quyền lực của đồng tiền. Nhà văn xót thương cho số phận những người sống trong xã hội này, những con người trở thành con rối của xã hội.
Đặc biệt cảnh đưa đám và cảnh hạ huyệt đã nói lên hoàn toàn xã hội đó. Khâu chuẩn bị náo nhiệt bao nhiêu thì thì lúc đưa lại náo nhiệt bấy nhiêu. Đám tang to tát, sang trọng đám tang đi đến đâu làm huyên náo thành phố đến thế bởi sự phô trương, đám tang hổ lốn, hỗn tạp có sự pha trộn nhiều văn hóa.
Những người đưa đám đủ thành phần, đủ đối tượng, cảnh sát, từ đám quan khách to đến người nghèo hèn. Tất cả không ai quan tâm đến người đã khuất mặc dù họ có vẻ bề ngoài rất hợp đám tang.
Đám tang vang lên hai lớp âm thanh: khóc lóc những người trong tang gia đó là tiếng khóc giả không đau thương và âm thanh trò chuyện của những người đưa đám. Đã vẽ ra một xã hội bịp bợm luôn khoác trên mình chiếc áo đạo đức giả cố tô son trát phấn.
Cảnh cử hành tang lễ “đám cứ đi” tồn tại vẫn diễn ra. Câu khẳng định kết hợp dấu hiệu ba chấm của tác giả khẳng định đám tang giả dối bề ngoài tranh nghiêm, cận cảnh lố bịch. Sự giả dối ấy vẫn tồn tại vẫn được chấp nhận. Phải chăng “chó điểu” với những con người vô nghĩa lí.
Cảnh hạ huyệt là cảnh trào phúng lố bịch nhất với chi tiết cậu Tú Tân luộm thuộm trong chiếc áo thụng trắng đã bắt bẻ từng người một để chụp ảnh. Cậu làm đạo diễn cho một màn hài kịch được lập ngay trên màn hạ huyệt. Đám rước đám hội chứ không phải đám ma. Chi tiết ông phán mọc sừng khóc to mãi không thôi cả đại gia đình phải ghi nhớ công ơn.
Âm thanh “Hứt!.Hứt!” thoạt nghe tưởng tiếng khóc của con trai nhưng nghe kĩ là tiếng hất đất thật nhanh để về chia tài sản. Hay tiếng hất của tác giả muốn hất cả đất trời. Chi tiết ông phán dúi Xuân tờ giấy bạc năm đồng gấp tư để cảm ơn Xuân là chi tiết trào phúng tinh vi nhất là đỉnh cao sự giả dối bới đây là giờ phút từ biệt sinh li dành sự quân tâm cho người đã khuất mà vẫn còn thời gian nghĩ đến tiền. Lợi dụng cái chết của người thân để kiếm tiền.
Qua cái chết của cụ cố Tổ niềm vui không chỉ dừng lại trong gia đình mà còn lan ra ngoài xa hội. Đoạn đức gia đình bằng loạn, đạo đức xã hội không có. Cả đám tang là sân khấu kịch đời và đám con cháu là diễn viên đẹp nhất, con cháu bất nhân, xã hội vô đạo đều vì tiền, tình, danh lợi.
Tác phẩm đã khắc họa bức tranh xã hội lúc bấy giờ với quyền lực của đồng tiền đặt lên trên tình cảm người thân trong gia đình. Từ đó mà tác giả muốn lên tiếng phê phán và là bài học cho chúng ta để thấy được gia đình luôn là điều quan trọng nhất.
Phân Tích Hạnh Phúc Của Một Tang Gia Đặc Sắc – Mẫu 4
Một trong số những tác phẩm văn học tiêu biểu cho xu hướng hiện thực đã phê phán kịch liệt cái xã hội tư sản thành thị trước Cách mạng tháng Tám 1945 là tiểu thuyết “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng. Với lối văn châm biếm sắc sảo các chương trong “Số đỏ” đều là những màn hài kịch đầy thú vị, đặc biệt là chương XV “hạnh phúc của một tang gia”.
Trước hết ta hãy quan sát xem những người trong tang quyến của cái gia đình danh giá và đám tang có một không hai ấy xem họ đang nghĩ gì, làm gì trước sự kiện mà bấy lâu họ mong chờ. Điều đầu tiên mà ta cảm nhận được là ” Tang gia có hạnh phúc”.
Mâu thuẫn và nực cười phải không? Bởi lẽ, thông thường tang gia nào cũng buồn rầu, đau đớn trước cái chết của người thân. Trái lại mỗi người trong gia đình cụ cố Hồng đều vui mừng, cảm thấy có hạnh phúc khi cụ cố tổ vừa mất.
Ông phán mọc sừng thấy hạnh phúc vì được thêm số tiền là vài nghìn đồng bù khoản bị vợ cắm sừng . Người con trai cả – Cụ cố Hồng nhắm mắt mơ màng đến cái lúc cụ mặc áo gai, lụ khụ chống gậy. để thiên hạ đều chi trỏ khen một cái đám ma như thê, một cái gậy như thế. Ông Văn Minh thì lại thích thú vì cái chúc thư kia sẽ vào thời kì thực hành chứ không còn là lí thuyết viển vông nữa.
Còn cậu Tú Tân sướng điên người vì có dịp thi thố tài chụp ảnh. Bà Văn Minh nôn nao chờ lăng xê kiểu đồ tang tân thời của hiệu may Âu hóa, cuối cùng được như ý. Cô Tuyết dịp khoe với thiên hạ cái cơ thể còn gợi cảm qua lần áo tang mỏng để nói rằng “chưa đến nỗi đánh mất chữ trinh”. Hạnh phúc cứ thế mà tuôn ra, trào ra khó dấu diếm.
Sự hấp dẫn của đoạn trích còn ở những mâu thuẫn trào phúng cơ bản. Trước hết nó nằm ngay trong nhan đề của chương: “Hạnh phúc của một tang gia”. Mọi thành viên trong gia đình đều thấy đây là một dịp may đặc biệt để thỏa mãn ý muốn, thực hiện được ý đồ riêng tư của mình.
Cho nên cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm. Bọn con cháu vô tâm ai cũng sung sướng thỏa thích. Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê xe đám ma, vân vân.
Tuyệt nhiên không ai tỏ ra đau buồn thương tiếc người quá cố. Thiếu vắng loại tình cảm ấy, tất cả đều trở nên vô nghĩa. Thật vậy, còn phũ phàng hơn là bầy con cháu chí hiếu chỉ nóng ruột đem chôn cho chóng cái xác chết của cụ tổ. Chính ông Văn Minh, cháu nội của người quá cố, còn thầm biết ơn Xuân Tóc Đỏ, tình cờ đã gây ra cái chết của cụ già đáng ghét.
Tiếp theo là cảnh đám tang. Đập vào mắt người ta trước tiên là sự đua đòi lối sống văn minh rởm. Với nghệ thuật châm biếm sắc sảo, qua một số chi tiết chọn lọc, hình ảnh đám tang lộ rõ sự đua đòi lối sống văn minh rởm ấy.
Đó là một đám ma to tát, long trọng, theo cả lối Ta, Tàu, Tây, có kiệu bát cống, lợn quay đi lọng, cho đến lốc bốc xoảng, và bu đích và vòng hoa, có đến ba trăm câu đối, vài ba trăm người đi đưa. Lại có cậu Tú Tân chỉ huy, những nhà tài tử chụp ảnh đã thi nhau như ở hội chợ.
Đám ma ấy làm huyên náo cả thành phố bằng kèn Ta, kèn Tây, kèn Tàu lần lượt thay nhau mà rộn lên. Bằng màn trình diễn, quảng cáo đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn trắng viền đen mà nhân đó, Tuyết bèn mặc đồ Ngây thơ để cho thiên hạ phải biết rằng mình chưa đánh mất cả chữ trinh.
Đám ma ấy còn làm huyên náo bằng việc có thể bán cho những ai có tang đường đau đớn vì kẻ chết cũng được hưởng chút ít hạnh phúc ở đời. Tuy nhiên nếu nhìn kỹ sự việc ta sẽ nhận ra ngay thực chất kỳ quặc, lố lăng của đám tang lạ đời đó.
Những gì gọi là to tát, long trọng, danh giá của cái đám ma này chỉ là sự phô trương giả dối, sự rởm đời lố lăng, thể hiện tâm lí háo danh hết sức kì quặc, qua những hình thức nghi lễ đưa tang hổ lốn đến buồn cười. Và không thể cầm lòng được, tác giả đã phải hạ một câu văn diễn đạt đầy đủ, trọn vẹn sự mỉa mai đến cực độ: “Thật là một đám ma to tát có thể làm người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cúi đầu!.”
Còn một thành phần vô cùng quan trọng nữa trong đám tang, góp phần làm nên sự to tát của nó, đó là những người đưa tang. Bọn họ là ai? Hãy thử nhé.
Trước tiên là những ông bạn thân của cụ cố Hồng hình như đưa đám tang để khoe huân chương, huy chương, khoe những kiểu râu hoặc dài hoặc ngắn hoặc đen hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm, loăn quăn. Các vị tai to mặt lớn của xã hội thượng lưu đó đều cảm động (.) khi trông thấy làn da thập thò trong làn áo voan trên cánh lay và ngực Tuyết. Dù họ đang sát ngày với linh cữu.
Rồi đến hàng trăm giai thanh gái lịch của Hà Thành văn vật đang Âu hóa với một nửa là phụ nữ, phần nhiều tân thời, bạn của cô Tuyết, bà Văn Minh, cô Hoàng Hôn, bà Phó Đoan, vân vân. đều mang vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma.
Cả đám đông đưa tang đó vừa đi vừa chim chuột, soi mói, bình luận về cơ thể phụ nữ, nói với nhau những chuyện nhảm nhí trong đời sống đồi bại thường ngày của họ, đã biểu lộ mọi góc cạnh của cái vô văn hóa vô đạo đức của bọn người cặn bã của xã hội tư sản thành thị thời ấy.
Tác giả tiếp tục sử dụng các yếu tố phóng đại về dạng cách lố bịch, tạo mâu thuẫn và gây cười một cách kín đáo và để ta thấy rõ họ giống như thật, họ ở đâu đó ngoài đời. Đồng thời phơi bày một sự thật họ là bọn người mang cái danh hão thượng lưu, văn minh là bọn cặn bã của xã hội tư sản thành thị.
Còn tác giả – kẻ làm phúc cho tang gia khi đã tạo ra cái chết mà con cháu đang trông chờ từng giây phút Xuân Tóc Đỏ? Xuất hiện giữa đám tang đang di chuyển, đã làm cho cảnh đưa đám thêm lố lăng. Hắn bộc lộ tính tinh quái, láu lỉnh bên cạnh tính đểu cáng và dâm đãng vốn có. Hắn biết tự quảng cáo đúng chỗ, xuất hiện đúng lúc, đáp ứng đúng ý thích của những người mà hắn cần lấy lòng như Tuyết, như cụ bà.
Đến cảnh ông Phán dúi tay nó một cái giấy bạc năm đồng gấp tư, Xuân Tóc Đỏ vội nắm tay cho khỏi có người nom thấy trở thành đỉnh điểm của màn hài kịch đưa tang này. Sự giả dối, bịp bợm ở đây thật vô sỉ đến ghê tởm.
Bằng ngòi bút trào phúng bậc thầy, Vũ Trọng Phụng đã vạch mặt bọn trưởng giả chạy theo đồng tiền, đua đòi lối sống văn minh rởm, bịp bợm, dâm đãng, đồi bại thời đó qua chương “Hạnh phúc của một tang gia”. Vũ Trọng Phụng xứng đáng là một nhà văn hiện thực hàng đầu trong nền văn xuôi trước Cách mạng tháng Tám 1945.
Phân Tích Hạnh Phúc Của Một Tang Gia Ấn Tượng – Mẫu 5
Đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia trích trong tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng được coi là một tác phẩm nổi tiếng và mang nhiều ý nghĩa về cuộc sống con người thời đó. Cũng là tác phẩm lên tiếng căm hờn, khinh bỉ cái xã hội thối nát lúc bấy giờ.
Khi đọc nhan đề của tác phẩm chắc không ai không thắc mắc phải không nào? Đám tang là nơi thể hiện sự tôn kính, trang nghiêm lịch sự và tiếc thương với những người đã khuất nhưng đám tang trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đó là một niềm vui, là cơ hội để cho mọi người khoe của là nơi để mọi người đùa giỡn nói chuyện cười đùa cùng nhau.
Các thành viên trong gia đình bận rộn để tổ chức chu đáo, cho thật linh đình một ngày vui, một đám hội chứ không phải một đám ma. Và là hạnh phúc của các thành viên trong gia đình khi mà người thân của mình ra đi. Cho thấy được cái xã hội của tầng lớp thượng lưu lúc bấy giờ chỉ màng đến danh lợi mà không màng không thương tiếc gì người thân của mình.
Tác phẩm đã nói lên được cái chết của cụ tổ đó là cái chết của sự ấm ức, đã được mọi thành viên trong gia đình mong chờ. Xuân tóc đỏ là một nhân vật được tác giả đưa vào để làm nền tảng, là người gây ra cái chết cho cụ tổ. Tất cả các thành viên trong gia đình gào lên như buồn đau xót trước cái chết của cụ tổ nhưng thật ra không phải vậy, mà đó là sự vui mừng hạnh phúc khi cụ tổ chết đi và để lại một khối gia tài to lớn cho các thành viên.
Cụ cố Hồng con trai cả của cụ tổ thì rất sung sướng vì cái chết thật của cha mình và cho rằng đây là cơ hội để cụ tỏ ra sự già yếu khi lo cho cái chết và bất ngờ trước cái chết của cha mình. Nhân vật này đã làm nổi bật được cái sự lố lăng mà ngu dốt hám danh trong cái xã hội phong kiến.
Văn Minh và ông Typn thì vui mừng về cái chết của ông nội và vui mừng hơn khi ông được đưa nền văn minh Á Âu và quảng cáo hàng của mình vào đám tang của ông nội mình. Không chỉ vậy ông còn tìm cơ hội để trả ơn cho Xuân tóc đỏ để bịt miệng những tội ác của ông. Bà Văn Minh thì vui mừng vì sẽ được mặc đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn trắng, viền đen. Tỏ ra sự vô ơn bạc nghĩa là một kẻ vô học thức.
Cô Tuyết thì được dịp mặc bộ y phục ngây thơ – cái áo dài voan mỏng trong có coóc-sê, trông như hở cả nách và nửa vú – nhưng mà viền đen và đội một cái mũ mấn xinh xinh, đồng thời lại có cơ hội để gò lấy trên mặt lại hơi có vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt một nhà có đám. Để tỏ ra sự mất trinh trắng của mình còn tỏ ra mình là một người hư hỏng không được dạy dỗ.
Cậu Tú Tân thì vui mừng vì có thể chụp ảnh vì cái máy ảnh của cậu để lâu ngày không dùng, cậu tỏ ra là mình là đạo diễn và săn ảnh chụp ảnh một cách lố lăng tạo ra những cảnh của không khí đám tang. Ông Phán Mọc Sừng thì vui mừng vì cái sừng trên đầu mà được hưởng thêm tiền. Xuân Tóc Đỏ thì danh tiếng càng nhiều được nhiều người tôn trọng đánh giá cao vì đã có công trong cái chết của cụ Tổ.
Thông qua các nhân vật trên tác giả đã khái quát được một cách khái quát về các thành viên trong nhà cụ tổ. Thông qua các nhân vật này ta có thể thấy được cái bản chất lố lăng vô học của các thành viên trong gia đình khi có người thân của mình ra đi.
Không chỉ các thành viên trong gia đình mà còn có những người ngoài của gia đình cũng vậy, là cơ hội để những người không có việc làm có việc làm, là cơ hội để mọi người nói chuyện cười đùa cùng nhau, cùng những người khoe của khoe cái sự giàu sang của mình, là dịp để họ hẹn hò, cặp kè, nói chuyện tình tứ, đi dạo phố cùng nhau. Và niềm sung sướng hơn khi thấy được những vùng nhạy cảm hấp dẫn của cô Tuyết đứa cháu hưng hỏng.
Cảnh đám tang được diễn ra như đám hội như một tấm đại hài kịch, nói lên sự lố lăng, vô đạo đức của cái xã hội thượng lưu ngày trước. Qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia, Vũ Trọng Phụng đã phê phán phán mạnh mẽ bản chất bất nhân, giả dối và sự lố lăng, đồi bại của xã hội phong kiến lúc bấy giờ.