Chiếu Cầu Hiền: Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích 

Chiếu Cầu Hiền ❤️️ Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích ✅ Mời Bạn Đọc Tham Khảo Thể Loại, Ý Nghĩa Nhan Đề, Hoàn Cảnh Sáng Tác.

Nội Dung Tác Phẩm Chiếu Cầu Hiền

Sau khi lên ngôi vua, Quang Trung – Nguyễn Huệ đã giao cho Ngô Thì Nhậm viết “Chiếu cầu hiền” nhằm mục đích tìm kiếm, chiêu mộ hiền tài khắp đất nước, đưa về triều đình đào tạo phục vụ, cống hiến cho đất nước. Nội Dung Tác Phẩm Chiếu Cầu Hiền như sau.

Từng nghe nói rằng: Người hiền xuất hiện ở đời, thì như ngôi sao sáng trên trời cao. Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần, người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử. Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng, thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy.

Trước đây thời thế suy vi, Trung châu gặp nhiều biến cố, kẻ sĩ phải ở ẩn trong ngòi khe, trốn tránh việc đời, những bậc tinh anh trong triều đường phải kiêng dè không dám lên tiếng. Cũng có kẻ gõ mõ canh cửa, cũng có kẻ ra biển vào sông, chết đuối trên cạn mà không biết, dường như muốn lẩn tránh suốt đời.

Nay trẫm đang ghé chiếu lắng nghe, ngày đêm mong mỏi, nhưng những người học rộng tài cao chưa thấy có ai tìm đến. Hay trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng?

Kia như, trời còn tăm tối, thì đấng quân tử phải trổ tài. Nay đương ở buổi đầu của nền đại định, công việc vừa mới mở ra. Kỉ cương nơi triều chính còn nhiều khiếm khuyết, công việc ngoài biên đương phải lo toan. Dân còn nhọc mệt chưa lại sức mà đức hoá của trẫm chưa kịp nhuần thấm khắp nơi. Trẫm nơm nớp lo lắng, ngày một ngày hai vạn việc nảy sinh.

Nghĩ cho kĩ thì thấy rằng: Một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn, mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình. Suy đi tính lại trong vòm trời này cứ cái ấp mười nhà ắt phải có người trung thành tín nghĩa. Huống nay trên dải đất văn hiến rộng lớn như thế này, há trong đó lại không có lấy một người tài danh nào ra phò giúp cho chính quyền buổi ban đầu của trẫm hay sao?

Chiếu này ban xuống, các bậc quan viên lớn nhỏ, cùng với thứ dân trăm họ, người nào có tài năng học thuật, mưu hay hơn đời, cho phép được dâng sớ tâu bày sự việc. Lời nói nào có thể chọn dùng được, thì cất nhắc không kể thứ bậc; chỗ nào không dùng được thì gác lại, không vì lời nói sơ suất vu khoát mà bắt tội. Còn người có nghề hay nghiệp giỏi, có thể cống hiến cho đời, thì cho phép các quan văn, quan võ được tiến cử, nhưng vẫn dẫn vào đợi ra mắt, tuỳ tài lục dụng. Hoặc người nào từ trước đến nay tài năng còn bị che kín, chưa được người đời biết đến, thì cũng cho phép dâng sớ tự tiến cử, chớ hiềm vì mưu lợi mà phải bán rao.

Này! Trong khoảng trời đất, hiền tài còn ẩn náu, trước đây thì nên như thế. Nay trời trong sáng, đất thanh bình, chính là lúc người hiền gặp hội gió mây, những ai có tài có đức hãy cùng cố gắng lên, ghi tên tại triều đình, cùng nhau cung kính, cùng nhau hưởng phúc lành tôn vinh.

Vậy bố cáo gần xa để mọi người đều biết.

Đừng vội bỏ lỡ phân tích 🔻 Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc 🔻 Sơ Đồ Tư Duy, Các Mẫu Phân Tích Hay 

Tóm Tắt Chiếu Cầu Hiền

Bên dưới là bản Tóm Tắt Chiếu Cầu Hiền ngắn gọn.

Chiếu cầu hiền được Ngô Thì Nhậm viết thay vua Quang Trung vào khoảng năm 1788 – 1789. Hiền tài giống như sứ giả của thiên tử. Nhưng trong hoàn cảnh đất nước khó khăn lúc bấy giờ, các sĩ phu Bắc Hà hoặc là mai danh ẩn tích bỏ phí tài năng “trốn tránh việc đời”.

Hoặc là ra làm quan thì sợ hãi, im lặng như bù nhìn “không dám lên tiếng”, hoặc làm việc cầm chừng “đánh mõ, giữ cửa”. Thậm chí có người còn đi tự tử “ra biển vào sông”. Từ đó vua Quang Trung đưa ra tư tưởng dân chủ tiến bộ, chính sách cầu hiền đúng đắn.

Về Tác Giả Ngô Thì Nhậm

Cùng Thohay.vn điểm qua vài nét Về Tác Giả Ngô Thì Nhậm nhé.

  • Ngô Thì Nhậm (1746 – 1803) hiệu là Hi Doãn, người làng Tả Thanh Oai (làng Tó), huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội).
  • Năm 1775, ông đỗ tiến sĩ, từng được chúa Trịnh giao cho giữ chức Đốc đồng trấn Kinh Bắc.
  • Năm 1788, nhà Lê – Trịnh sụp đổ, ông đi theo phong trào Tây Sơn, được vua Quang Trung phong làm Lại bộ Tả thị lang, sau thăng chức thành Binh bộ thượng thư.
  • Ông có nhiều đóng góp cho phong trào Tây Sơn, soạn thảo nhiều giấy tờ quan trọng cho vua.
  • Đặc điểm sáng tác: ông là cây đại bút về văn chính luận
  • Các tác phẩm chính:
    • Về văn: Kim mã hành dư (Lúc làm việc công nhàn rỗi), Hàn các anh hoa (Tinh hoa nơi gác văn), Bang giao hảo thoại (Lời hay trong các bang giao)
    • Về thơ: Yên Đài thu vịnh (Vịnh cảnh thu nơi Yên Đài), Cúc hoa bách vịnh (Trăm vần thơ vịnh hoa cúc)
    • Ông còn là tác giả của Hoàng Lê nhất thống chí

Xem thêm về ✨Vào Phủ Chúa Trịnh✨ Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật

Về Tác Phẩm Chiếu Cầu Hiền

Về Tác Phẩm Chiếu Cầu Hiền, bài chiếu đã thể hiện chủ trương của đúng đắn của nhà Tây Sơn nhằm động viên trí thức Bắc Hà tham gia xây dựng đất nước.

Chiếu nói chung, chiếu cầu hiền nói riêng thuộc loại văn nghị luận chính trị – xã hội. Mặc dù chiếu thuộc loại công văn nhà nước, lệnh cho thần dân thực hiện, nhưng ở đây, đối tượng của bài chiếu là các bậc hiền tài, hơn nữa đây là cầu, tức là vua Quang Trung cầu, chứ không phải là lệnh.

Tác phẩm gồm 3 phần chính:

  • Phần 1: Từ đầu đến “thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền như vậy”. Mối quan hệ giữa thiên tử và hiền tài.
  • Phần 2. Tiếp theo đến “không có lấy một người tài danh nào ra phò giúp cho chính quyền buổi ban đầu của trẫm hay sao?”. Cách ứng xử của người tài đối với vương triều Tây Sơn.
  • Phần 3. Còn lại. Đường lối cầu hiền của vua Quang Trung.

Xem nội dung tác phẩm ❤️️ Bài Ca Phong Cảnh Hương Sơn ❤️️ Nội Dung Tác Phẩm, Nghệ Thuật 

Hoàn Cảnh Sáng Tác Chiếu Cầu Hiền

Về Hoàn Cảnh Sáng Tác Chiếu Cầu Hiền, chiếu cầu hiền của vua Quang Trung do Ngô Thì Nhậm viết thay vào khoảng năm 1788 – 1789 nhằm thuyết phục sĩ phu Bắc Hà, tức các trí thức của triều đại cũ (Lê – Trịnh) ra cộng tác với triều đại Tây Sơn.

Thể Loại Chiếu Cầu Hiền

Khám phá thông tin về Thể Loại Chiếu Cầu Hiền.

  • Chiếu thuộc loại văn nghị luận cổ, thường do vua chúa ban ra để triều đình và nhân dân thực hiện.
  • Có thể do vua đích thân viết nhưng thường do các văn tài võ lược viết thay vua.

Đừng bỏ lỡ tác phẩm🌱 Chạy Giặc [Nguyễn Đình Chiểu]🌱 Mẫu Phân Tích, Giá Trị Nội Dung, Nghệ Thuật

Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm Chiếu Cầu Hiền

Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm Chiếu Cầu Hiền như sau:

  • Hiền là hiền tài những người tài giỏi có đức.
  • Chiếu cầu hiền là chiêu mộ người tài về giúp nước.

Qua nhan đề này thì chúng ta dễ dàng nhận ra đây là công văn hành chính thời xưa do nhà vua truyền xuống cho bề tôi nhằm chiêu mộ những người tài giỏi có đức về giúp đất nước phát triển.

Giá Trị Nội Dung Của Chiếu Cầu Hiền

Ngay sau đây là các Giá Trị Nội Dung Của Chiếu Cầu Hiền.

Tác phẩm là một văn kiện quan trọng thể hiện chủ trương đúng đắn của Nguyễn Huệ nhằm động viên trí thức Bắc Hà tham gia xây dựng đất nước.

Đầu tiên, Ngô Thì Nhậm đã nêu ra mối quan hệ giữa hiền tài với thiên tử – hiền tài là sứ giả của thiên tử. Nhưng thực tế bấy giờ lại ngược lại, họ hoặc là trốn tránh không ra giúp nước hoặc là làm việc không đúng năng lực của mình. Điều đó chẳng khác nào làm trái với ý trời – có tài mà không được đời dùng.

Từ đó là những đường lối cầu hiền vô cùng tiến bộ. Con đường cầu hiền theo vua Quang Trung là tiến cử với ba cách: tự mình dâng thư tỏ bày công việc, các quan tiến cử, dâng thư tự tiến cử.

Nhất định đừng bỏ qua🌷Lẽ Ghét Thương 🌷 nội dung phân tích đầy đủ nhất

Sơ Đồ Tư Duy Chiếu Cầu Hiền

Tham khảo các mẫu Sơ Đồ Tư Duy Chiếu Cầu Hiền sau đây.

Sơ Đồ Tư Duy Chiếu Cầu Hiền Chi Tiết
Sơ Đồ Tư Duy Chiếu Cầu Hiền Chi Tiết
Sơ Đồ Tư Duy Chiếu Cầu Hiền Tác giả và tác phẩm
Sơ Đồ Tư Duy Chiếu Cầu Hiền Tác giả và tác phẩm
Sơ Đồ Tư Duy Chiếu Cầu Hiền Đầy Đủ
Sơ Đồ Tư Duy Chiếu Cầu Hiền Đầy Đủ
Sơ Đồ Tư Duy Đọc Hiểu Chiếu Cầu Hiền
Sơ Đồ Tư Duy Đọc Hiểu Chiếu Cầu Hiền

Lưu lại bài phân tích 💚 Bài Ca Ngắn Đi Trên Bãi Cát 💚 Những Mẫu Phân Tích Hay Nhất

5 Mẫu Phân Tích Chiếu Cầu Hiền Hay Nhất

Cuối cùng là 5 Mẫu Phân Tích Chiếu Cầu Hiền Hay Nhất không nên bỏ qua.

Phân Tích Chiếu Cầu Hiền Đặc Sắc – Mẫu 1

Ngô Thì Nhậm (1746 – 1803), hiệu là Hi Doãn, quê ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (cũ), nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội. Ông đỗ tiến sĩ năm 1775, từng làm quan dưới triều Lê – Trịnh; sau đi theo Tây Sơn và có nhiều đóng góp nên được Quang Trung trọng dụng.

Tác Phẩm Chiếu Cầu Hiền được viết theo yêu cầu của Vua Quang Trung, nhằm cổ vũ động viên tinh thần cho các chiến sĩ cũng như kêu gọi người tài giúp dân cứu nước.

Khi đọc tác phẩm chắc ai cũng biết là một người bình thường không thể nào có những lời văn hay, rõ ràng và có sức thuyết phục như vậy, chứng tỏ Quang Trung là một vị vua tài nhìn xa trông rộng của nhà vua anh minh Quang Trung và tình yêu nước nồng nàn của một vị vua kiệt xuất. Quang Trung xứng đáng đi vào lịch sử như một nhân vật tài ba nhất trong lịch sử trung đại nước nhà.

Mở đầu bài Chiếu tác giả đã đưa được giả thuyết của bậc hiền tài rất đơn giản mà lại có sức thuyết phục cao. Từng nghe nói rằng: Người hiền xuất hiện ở đời, thì như ngôi sao sáng trên trời cao. Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần, người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử. Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng, thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy.

Ở đây ý tác giả muốn khẳng định người hiền tài là một người có đức lẫn tài, được so sánh ví như ngôi sao sáng trên trời. Và các nhân tài đó sinh ra để giúp vua cứu nước. Cách dùng hình ảnh để nói lên một cách đơn giản mà dễ hiểu là: Hiền tài là tinh hoa của trời đất nên lẽ đương nhiên là tài đức của họ phải được cống hiến cho dân, cho nước.

Tiếp theo tác giả lại đưa ra những chi tiết về việc phân chia Nước làm hai Đàng là Đàng trong và Đàng ngoài thì đất nước trở nên khó khăn trong việc quản lý cũng như là sự đảm bảo hòa bình cho đất nước.

Ngô Thì Nhậm đã dùng nhiều điển tích rút từ các sách kinh điển Nho gia, dùng lời dạy của Khổng Tử để đặt vấn đề và đưa ra cách ứng xử có sức thuyết phục mạnh mẽ đối với trí thức Bắc Hà. Cách diễn đạt đó đã tạo ra ấn tượng sâu sắc, đánh trúng vào tâm lí của tầng lớp trí thức, cho nên có sức thuyết phục lớn, khiến họ không thể không mang tài đức ra giúp triều đình Tây Sơn.

Tác giả còn đưa ra nhiều dẫn chứng khác để nói lên sự nhút nhát của các nhân tài, cũng như việc lẩn tránh trách nhiệm với đất nước như:

Trước đây thời thế suy vi, Trung châu gặp nhiều biến cố, kẻ sĩ phải ở ẩn trong ngòi khe, trốn tránh việc đời, những bậc tinh anh trong triều đường phải kiêng dè không dám lên tiếng. Cũng có kẻ gõ mõ canh cửa, cũng có kẻ ra biển vào sông, chết đuối trên cạn mà không biết, dường như muốn lẩn tránh suốt đời.

Tiếp theo đó là những lời của Khổng Tử và nêu lên quy luật của đất trời là những người tài đức phải giúp vua dựng nước, tác giả nói đến tình cảnh của kẻ sĩ lúc bấy giờ: mệt số người tài đức thì đi ở ẩn trong khe núi, trốn tránh việc đời, bỏ phí tài năng.

Những người ra làm quan với triều Tây Sơn thì hoặc sợ hãi im lặng, hoặc làm việc cầm chừng. Một số khác ở ẩn, khác chi như người bị chết đuối trên cạn. Thậm chí một số người tự tử để giữ lòng trung với vua Lê.

Đây là cách phê phán nhẹ nhàng và tế nhị nhưng ẩn ở phía sau là những hàm ý rất thâm thúy. Việc tập hợp người hiền tài giúp nước là công việc gấp gáp và quan trọng hơn lúc nào hết. Đây là những Lời nói khiêm nhường, chân thành và lập luận có lí có tình cùng chính sách sử dụng hiền tài rộng rãi của nhà vua khiến các bậc hiền tài không thể không đem tài đức ra giúp triều đại mới.

Tác giả không nói thẳng mà dùng hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng lấy trong kinh điển Nho gia. Làm như vậy vừa tế nhị, vừa có tính chất phê phán nhẹ nhàng, lại tỏ ra người viết có kiến thức sâu rộng, có tài văn chương, khiến người nghe nể trọng, không những không tự ái mà còn tự cười, tự trách về thái độ ứng xử chưa thỏa đáng của mình.

Vua Quang Trung không chỉ làm phận sự của một vị tướng tài là dẹp giặc, trừ bạo mà còn lo toan đến đời sống của người dân. Trong thực tế lịch sử sau khi đất nước đã hòa bình, yên ổn thì “dân khổ chưa hồi sức” nên đặt ra nhiều vấn đề lớn để ổn định và phát triển triều đại.

“Dân khổ chưa hồi sức, đức hóa chưa thấm nhuần, trẫm chăm chăm run sợ, mỗi ngày muôn việc lo toan. Nghĩ rằng: sức một ngày không chổng nổi tòa nhà to, mưu lược của kẻ thù sẽ không dựng được thái bình”.

Đoạn văn chứa đựng tấm lòng nhà vua vì sự bình an dân chúng và sự phồn vinh nước nhà. Những lời văn chan chứa tâm huyết của vua Quang Trung cho thấy vua không lúc nào không nghĩ đến cuộc sống của người dân và lo toan cho quốc gia đại sự.

Tấm lòng đó quả là rộng lớn và quý báu của một vị vua suốt đời dâng hiến cho dân tộc. Có một nhà vua với những lí tưởng cao đẹp như thế đất nước sẽ luôn được thái bình, dân chúng sẽ luôn được hưởng ấm no hạnh phúc.

Tác phẩm Chiếu cầu hiền là một bài văn nghị luận có tính mẫu mực, thể hiện ở sự chặt chẽ và tính logic của các luận điểm, ở tài thuyết phục khéo léo và thái độ khiêm tốn, chân thành của người viết. Các điển cố được sử dụng trong bài Chiếu cho thấy nhận thức tinh tế của người viết về đối tượng cần thuyết phục là tầng lớp trí thức.

Người viết tỏ ra có trình độ hiểu biết sâu rộng, đủ khả năng thuyết phục một đối tượng như thế. Bài Chiếu cầu hiền thể hiện tầm nhìn chiến lược của vua Quang Trung trong việc nhận thức về vai trò quan trọng của hiền tài đối với đất nước. Hiền tài là nguyên khí quốc gia.

Phân Tích Chiếu Cầu Hiền Nổi Bật – Mẫu 2

Ngô Thì Nhậm là một người hiền tài, được vua Quang Trung hết lòng trọng dụng. Viết chiếu cầu hiền là một nét văn hóa đặc biệt của phương Đông. Trong buổi đầu dựng nước, đất nước còn gặp nhiều khó khăn, Ngô Thì Nhậm đã viết Chiếu cầu hiền dưới sự yêu cầu của vua Quang Trung. Tác phẩm vừa thể hiện chiến lược đứng đắn vừa là một áng văn xuất sắc.

Ngô Thì Nhậm viết Chiếu cầu hiền vào khoảng năm 1788 – 1789, bài chiếu được viết nhằm thuyết phục các sĩ phu Bắc Hà, tức các trí thức của triều đại cũ – nhà Lê ra giúp sức cho triều đại mới – nhà Tây Sơn.

Tác phẩm có bố cục mạch lạc, liên kết chặt chẽ với nhau: phần 1 nêu lên vai trò, sứ mệnh của người hiền tài đối với vận mệnh đất nước; phần 2 đưa ra những trăn trở của vua Quang Trung nhằm kêu gọi người tài ra giúp nước; phần còn lại đưa ra hình thức, con đường để người hiền tài ra giúp đỡ đất nước. Với bố cục mạch lạc, chặt chẽ Ngô Thì Nhậm đã thực hiện thành công mục đích viết chiếu của mình.

Điều đầu tiên tác giả đề cập đến chính là vai trò to lớn của người hiền tài đối với sự hưng thịnh, suy vong của một đất nước. Ông sử dụng hình ảnh so sánh đặc sắc và hết sức chính xác: “Người hiền xuất hiện ở đời, thì như ngôi sao sáng trên trời cao” câu văn đã khẳng định vai trò, vị trí quan trọng của người hiền đối với quốc gia dân tộc, đây đồng thời cũng như sự tôn vinh, khen ngợi đối với họ.

Không dừng lại ở đó, Ngô Thì Nhậm tiếp tục khẳng định: “Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần, người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử. Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng, thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy”.

Với cách so sánh đầy sáng tạo, tác giả khẳng định sự trân trọng người hiền tài khi so sánh họ như những vì tinh tú trên trời, họ là kết tinh của sự tinh anh và tài hoa bởi vậy phải đem tài năng của mình ra phục vụ đất nước. Với lập luận hết sức chặt chẽ, tác giả đã bước đầu thuyết phục được người hiền tài.

Nhưng để bài chiếu có sức thuyết phục cao hơn nữa, phần tiếp theo của tác phẩm, Ngô Thì Nhậm nêu lên những khó khăn trong hành trình thu phục người hiền tài ra giúp nước.

“Trước đây, thời gấp vận dụng, trung châu lắm việc, người hiền ở ẩn, cố giữ tiết tháo như da bò bền, người ở triều đường không dám nói năng như hàng trượng mã. Cũng có người đánh mõ giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết, chỉ lo trốn tránh, hầu đến trọn đời”.

Nếu như trong buổi suy vi, những nhà Nho thường lánh đời, bỏ chỗ đục tìm về chỗ trong để giữ trọn khí tiết thanh cao của mình là điều dễ hiểu, nhưng nay đã sang một thời đại mới vì sao vẫn mãi “lẩn tránh” câu văn như một lời trách cứ vừa nhẹ nhàng vừa đanh thép với kẻ sĩ lúc bấy giờ.

“Nay trẫm ghé chiếu lắng nghe, ngày đêm mong mỏi, nhưng những người học rộng tài cao chưa ai tìm đến. Hay trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng? Hay thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng”. Câu văn vừa thể hiện sở nguyện tha thiết, chân thành, “ghé chiếu” để mời người hiền tài ra giúp nước.

Nhưng đồng thời thể hiện sự phê phán nhẹ nhàng mà thâm thúy qua hai câu hỏi tu từ ở phía sau. Đánh động vào suy nghĩ, nhận thức của những kẻ hiền tài vẫn chưa chịu ra giúp đời, giúp triều đại mới.

Buổi đầu dựng nước gặp phải biết bao khó khăn: “kỉ cương nơi triều chính còn nhiều khiếm khuyết, công việc ngoài biên đương phải lo toan” không chỉ vậy, đời sống người dân chưa ổn định “dân còn nhọc mệt chưa lại sức” sau những năm dài chinh chiến.

Bởi vậy, càng nhận thấy rõ hơn sự góp sức của người tài có ý nghĩa quan trọng nhường nào đối với đất nước: “Một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn, mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình”.

Câu văn thể hiện thái độ trân thành của vua Quang Trung, ông một lòng muốn mời người hiền ra giúp nước cũng là bởi lo cho đời sống nhân dân, lo cho sự an nguy, độc lập của đất nước. Đó là những lời tâm huyết và chân thành xuất phát từ trái tim yêu nước thương dân mãnh liệt. Tấm lòng đó quả đáng trân trọng và đáng tự hào biết bao.

Đoạn văn tiếp theo cho thấy rõ tầm nhìn xa trông rộng của vua Quang Trung. Để hợp sức toàn dân, đồng lòng xây dựng triều đại mới ông ban chiếu để mời gọi người hiền ra giúp nước.

Hình thức vô cùng đa dạng: “cất nhắc không kể thức bậc”, “không vì lời nói sơ suất mà vu khoát, bắt tội”, “được tiến cử” “tự tiến cử”,… cốt sao để người hiền tài có được những điều kiện thuận lợi nhất để họ có thể đem sức mình cống hiến cho sự nghiệp chung của nước nhà.

Với những lời lẽ chân thành, tha thiết ta có thể thấy tầm nhìn xa trông rộng của Quang Trung trong tiến trình tái tạo và xây dựng một triều đại mới. Triều đại đó nếu chỉ hùng cường về quân sự thôi chưa đủ mà còn phải hùng mạnh về người tài, bởi “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”. Vua Quang Trung là một người lãnh đạo có trí tuệ, khiêm tốn, chân thành và một lòng lo lắng cho sự nghiệp dựng nước.

Trong toàn bộ bài chiếu ta không hề thấy ông một lần nhắc đến những sĩ phu Bắc Hà không cộng tác với nhà Tây Sơn. Điều đó cho thấy lối ứng xử khéo léo, khiêm nhường và chỉ duy nhất hướng đến mục đích kêu gọi sự hợp tác của người hiền tài.

Phân Tích Chiếu Cầu Hiền Hay Nhất – Mẫu 3

Ngô Thì Nhậm sinh năm 1746, là người Thanh Trì, Hà Nội. Sinh thời, ông từng làm Đông đốc trấn Kinh Bắc dưới thời chúa Trịnh, sau khi nhà nhà Lê- Trịnh bị suy vong, ông tiếp tục ra làm quan và có nhiều công lao lớn với triều đại Tây Sơn. Được Nguyễn Huệ giao phó nhiều trọng trách lớn. Những văn kiện có tính quan trọng đều do một tay Ngô Thì Nhậm soạn thảo, một trong số đó có thể nhắc đến “Chiếu cầu hiền”.

Chiếu cầu hiền được Ngô Thì Nhậm viết vào khoảng năm 1788-1789, theo lệnh của Vua Quang Trung, mục đích của nó là nhằm kêu gọi những người hiền tài ra cộng sự, giúp vua xây dựng triều đại, đặc biệt là các tầng lớp trí thức sĩ phu Bắc Hà.

Mở đầu bài chiếu, tác giả khẳng định vai trò và sứ mệnh của những người hiền tài với quốc gia, dân tộc. Ngô thì Nhậm ví hiền tài như “ngôi sao sáng trên trời cao, mà sao sáng thì ắt chầu về Bắc thần”, cũng như những người tài phải phò trợ cho thiên tử mình. Những người hiền mà không được đời dùng, dấu đi tài năng cũng như sao bị che đi vẻ lấp lánh, không như ý trời đã định.

Tiếp theo, tác giả nhấn mạnh về những bậc hiền sĩ ở ẩn khi thời thế suy vi, đất nước nhiều biến cố. Có người ra làm quan thì cũng không dám lên tiếng, sợ hãi, họ như những kẻ “gõ mõ canh cửa”, “chết đuối trên cạn” để mà lẩn tránh việc đời.

Tác giả đã đề cập đến vấn đề ấy một cách đầy tinh tế, sử dụng các thành ngữ, từ ngữ có tính tượng trưng để nói mà không xâm phạm đến những người tri thức coi trọng lòng tự tôn. Những lời viết ra khiến cho người nghe, người đọc không khỏi không suy ngẫm, để người hiền tự nhìn lại bản thân, tác giả tin rằng với những người sáng suốt, họ sẽ hiểu những điều mà con chữ phản ánh.

Những lời cầu hiền thiết tha, chân thành lại vừa khiêm tốn, thể hiện được tấm lòng của một vị vua anh minh được tác giả viết đầy xúc động: “Này trẫm đang ghé chiếu lắng nghệ, ngày đêm mong mỏi……Hay đang thời đổ nát chưa thể phụng sự chăng?”.

Để thuyết phục những tri thức xưa, Ngô Thì Nhậm nêu lên thực trạng đất nước lúc bấy giờ còn nhiều điều đáng lo ngại. Triều đại lúc này đang buổi đầu chập chững, luật pháp, kỷ cương còn mắc nhiều khiếm khuyết, chốn biên ải còn trăm điều lo toan, trăn trở, một mình vừa sao có thể vẹn tròn nếu không được sự giúp sức, phò trợ từ những vị đức độ, tài năng.

Ngặt nỗi, nhân dân còn chưa lấy lại sức, vua cũng vừa mới lên ngôi lòng dân khắp nơi chưa thấu rõ bởi vậy mà ngày đêm lo lắng, những khó khăn cứ chồng chất ngày một thêm.

Mọi người đều hiểu được rằng: “Một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn, mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình”. Mà trong trời đất, bốn phương nơi đâu chắc hẳn cũng có người tài, dù nước lúc hưng, lúc suy những nhân tài thì đâu thể thiếu “…trên dải đất văn hiến rộng lớn như thế này há lại không có một người tài danh nào ra phò giúp cho chính quyền buổi bẩn đầu như trầm hay sao?”.

Sau những lý lẽ thấu tình đạt lý ấy, tác giả công tuyên thỉnh nhiều chính sách khác nhau nhưng quy chung một mục đích chiêu mộ kẻ sĩ trong thiên hạ. Mọi người dân không phân biệt nam nữ, thành phần hay tầng lớp nào, nếu có tài năng, học thức đều được quyền ứng cử, một tình thần dân chủ được triển khai rõ rệt trong nhân dân, ai cũng có quyền bình đẳng góp sức mình cho đất nước

“Vậy ban chiếu xuống, quan việc lớn nhỏ và dân chúng trăm họ ai có tài năng học thuật, mưu hay giúp ích cho đời, đều cho phép được dâng thư bày tỏ công việc”.

Những người có nghề giỏi, nghiệp hay, những người có tài năng mà lâu nay bị giấu kín cũng tự tiến cử giúp đời. Tất cả hãy vì nước mà gắng sức mà tụ họp về để cùng nhau mưu lược, kế sách phát triển quốc gia, nước nhà. ” Này trời trong sáng, đất thái bình, chính là lúc người hiền gặp hội gió mây…cùng nhau hưởng phúc lành tôn vinh”.

Bài chiếu tuy ngắn gọn mà chứa đựng cả một tấm lòng thiết tha với dân với nước của vị anh hùng áo vải Nguyễn Huệ. Luôn mong cầu sự ấm êm cho nhân dân, hành động vì sự bình yên, thịnh trị của xã tắc, vương triều. Một vị vua suốt đời mình tâm huyết mọi việc vì cuộc sống phồn vinh cho nhân dân.

Từng lời, từng chữ viết ra đều thấm đẫm tinh thần dân tộc, thấm đẫm tình cảm lớn của một người trị vì cánh cánh nỗi lòng phát triển, dựng xây nước nhà.

“Chiếu cầu hiền” có ngôn ngữ trang trọng, lời văn đầy sự cầu thị khoan dung, khi lại thiết tha, mãnh liệt, hệ thống những lập luận thuyết phục và chặt chẽ. Tác phẩm đã cho thấy trước tầm nhìn xa trông rộng và sự chân thành của một với vua yêu nước coi trọng hào kiệt, nhân tài.

Phân Tích Chiếu Cầu Hiền Tiêu Biểu – Mẫu 4

Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm được ra đời sau khi Nguyễn Huệ lên ngôi, ông đã giao cho Ngô Thì Nhậm viết bài chiếu để chiêu mộ người có đức có tài ra phục vụ triều đình, giúp dân giúp nước. Thay tâm nguyện của nhà vua, Ngô Thì Nhậm đã thể hiện cho muôn dân thấy được tấm lòng vì dân vì nước của vua Quang Trung, cũng như sự hiểu biết, tầm nhìn xa trông rộng của vua Quang Trung.

Yêu cầu của một bài chiếu là rất cao, rất khắt khe, người viết phải am hiểu sâu sắc hoàn cảnh lịch sử xã hội, nắm được những đòi hỏi của đất nước lúc bấy giờ, dùng những lời lẽ để thuyết phục được lòng dân, khiến muôn dân tâm phục khẩu phục.

Ngô Thì Nhậm là một người tài giỏi, có trình độ uyên thâm lỗi lạc, là người có tài thuyết phục lòng người. Tác phẩm Chiếu cầu hiền đã thể hiện một tài năng xuất sắc của tác giả vì cách lập luận chặt chẽ, lời lẽ rõ ràng, tao nhã.

Ngay từ những câu mở đầu của bài chiếu, với những lời lẽ sâu sắc, tác giả đã khiến lòng người phải nể phục: “Từng nghe: Người hiền ở trên đời cũng như sao sáng trên trời. Sao tất phải chầu về Bắc thần (ý này của Khổng Tử trong sách Luận ngữ), người hiền tất phải do thiên tử sử dụng”.

Tác giả đã thay mặt nhà vua mà khẳng định với muôn dân rằng, người hiền tài là những tài sản quí giá của đất nước, giống “như sao sáng trên trời”, mà người tài tất phải ra giúp vua trị nước mới xứng với “ý trời” đã sinh ra. Cách so sánh đầy sáng tạo của tác giả đã làm tăng thêm ý nghĩa thuyết phục của bài Chiếu. Hình ảnh “sao sáng trên trời” tượng trưng cho sự tinh anh, khiến nhà vua rất lấy làm trân trọng.

Sau khi đã chỉ ra tầm quan trọng của người tài đối với vua, đối với dân với nước, tác giả lại đưa ra những khó khăn trong việc thu phục người tài ra giúp nước. Nếu không thu phục được hết người tài thì thật là phì hoài.

“Trước đây, thời gấp vận dụng, trung châu lắm việc, người hiền ở ẩn, cố giữ tiết tháo như da bò bền, người ở triều đường không dám nói năng như hàng trượng mã. Cũng có người đánh mõ giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết, chỉ lo trốn tránh, hầu đến trọn đời”.

Nhà vua có ý muốn trách những người tài của đất nước. Nếu trong cảnh chiến sự thì việc quốc sự còn nhiều nhưng nay đất nước đã thái bình, nhà vua cần có sự hợp sức của nhân tài để quốc gia được phồn vinh, thịnh vượng hơn. Thế mà người hiền thì ở ẩn hoặc cố ý giữ lấy khí tiết của mình mà không để ý đến việc quốc gia đại sự. Hoặc có những người cũng ra giúp vua nhưng không tận tâm trong công việc.

Tác giả viết: “Cũng có người giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết”. Đây là cách phê phán nhẹ nhàng và tế nhị nhưng ẩn ở phía sau là những hàm ý rất thâm thúy.

Nhân tài là vật báu mà ông trời đã ban cho đất nước đó, vì vậy việc tập hợp người hiền tài giúp nước là công việc gấp gáp và quan trọng hơn lúc nào hết, nhà vua luôn “sớm hôm mong mỏi”. Vua Quang Trung là một trong những vị vua anh minh của dân tộc, sau khi đã dẹp xong giặc, ông rất quan tâm đến đời sống của nhân dân. Trong thực tế lịch sử sau khi đất nước đã hòa bình, yên ổn thì “dân khổ chưa hồi sức” nên đặt ra nhiều vấn đề lớn để ổn định và phát triển triều đại.

Toàn bộ bài Chiếu thể hiện rõ tình yêu nước thương dân nồng nàn của một nhà lãnh đạo tài ba. Để hợp sức dân lại xây dựng cơ nghiệp đất nước, nhà vua không loại trừ một tầng lớp xã hội nào, miễn là công dân trong nước có tài và đức đủ để gánh vác chuyện quốc gia đều được lựa chọn vào trong triều giúp vua gây dựng đất nước.

“Vậy ban chiếu xuống, quan việc lớn nhỏ và dân chúng trăm họ ai có tài năng học thuật, mưu hay giúp ích cho đời, đều cho phép được dâng thư bày tỏ công việc”.

Vua Quang Trung là một trong những vị vua đầu tiên luôn đề cao tối đa tính dân chủ trong việc tuyển dụng nhân tài giúp nước Cách nhìn xa trông rộng đó chứng tỏ nhà vua là người am hiểu quy luật phát triển của lịch sử, đã thấy được tương lai sau này của đất nước.

Sự tiên tri đó nói lên tài phán đoán, tiên tri của một vị vua anh minh đối với quốc gia, dân tộc, bởi vì trong sâu thẳm tấm lòng nhà vua luôn nung nấu một khát vọng làm sao cho dân no ấm, hạnh phúc, đất nước giàu mạnh. Đó cũng chính là mơ ước của người dân nhằm canh tân nước nhà.

Bài Chiếu cầu hiền thể hiện cái tài, cái tâm của vua Quang Trung và cũng là cái tài, cái tâm của Ngô Thì Nhậm. Với tài năng xuất chúng của mình, Ngô Thì Nhậm đã truyền tải hết được tấm lòng đối với dân với nước của vua Quang Trung, khiến muôn dân thán phục. Với tài năng và đức độ của vị vua anh minh này, dân tộc ta đã có một thời kì được ấm no, hạnh phúc, đó là thời kì thịnh vượng của nước nhà.

Phân Tích Chiếu Cầu Hiền Ấn Tượng – Mẫu 5

Trong kho tàng văn học Việt Nam, không chỉ có những tác phẩm thơ, truyện,… mà còn có nhiều tác phẩm thuộc thể loại khác. Chúng cũng góp phần làm phong phú thêm nền văn học nước nhà. Trong đó chiếu cầu hiền Được đánh giá là tác phẩm nổi bật cho thể loại chính luận trung đại. Phân tích Chiếu cầu hiền, ta sẽ hiểu rõ hơn phong cách nghệ thuật và tấm lòng vì nước vì dân của tác giả Ngô Thì Nhậm.

Ngô Thì Nhậm là một nho sĩ toàn tài, có nhiều đóng góp quan trọng trong sự nghiệp của triều đại Tây Sơn. Ông đã để lại nhiều tác phẩm có ý nghĩa lớn không chỉ về mặt lịch sử, văn hóa mà còn có vị trí quan trọng trong văn học Việt Nam.

“Chiếu cầu hiền” được sáng tác trong buổi cảnh triều đại Tây Sơn còn non trẻ. Vua Quang Trung mong muốn chiêu dụ người tài để đứng ra xây dựng đất nước. Vua đã giao cho Ngô Thì Nhậm trọng trách ấy để kêu gọi hiền tài có thể cùng vua chấn hưng đất nước. Phân tích Chiếu cầu hiền để hiểu hơn về mối quan hệ vua tôi.

Trước tiên, tác giả nêu ra quy luật xử thế của người hiền và mối quan hệ giữa người hiền và thiên tử. Tác giả nhấn mạnh: “Người hiền như sao sáng trên trời”. Hình ảnh so sánh nhấn mạnh và đề cao vai trò của người hiền đối với vận mệnh quốc gia, dân tộc.

Hình ảnh “sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần” ám chỉ một quy luật tự nhiên. Người hiền tài, ắt sẽ một lòng phụng sự cho thiên tử để trị vì đất nước. Đây là một cách xử thế đúng đắn, thuận theo tất yếu, hợp với ý trời.

Để nhấn mạnh thêm tầm quan trọng của mối quan hệ thiên tử – hiền tài, tác giả còn khẳng định: “Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng, thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy.” Với tác giả, người hiền nếu như sống ẩn dật, không quan tâm thế sự thì cũng như ánh sáng bị che lấp, như vẻ đẹp bị vùi giấu đi.

Ở đây, hiền tài như những vì sao sáng, cần ra sức phụ tá thiên tử xây dựng cơ đồ. Nếu không là đi ngược lại với ý trời, làm sai đạo lý cơ bản nhất. Chỉ với vài câu đầu, Phân tích Chiếu cầu hiền ta đã thấy được lập luận chặt chẽ, sắc bén của tác giả. Vấn đề được đặt ra tài tình, hấp dẫn và giàu sức thuyết phục.

Sau những lời khẳng định về quy luật giữa hiền tài với thiên tử, tác giả đưa ra nhận xét về cách hành xử của sĩ phu Bắc Hà. Khi thời thế suy vi, họ quay về sống đời sống ẩn dật, không dám ra làm quan. Đó là hành động bỏ phí tài năng, cũng là thể hiện sự nhu nhược, sợ hãi, không có trách nhiệm với trọng trách của mình. Nhiều người thì “ra biển vào đông”, mỗi người một phương.

Tác giả không nói thẳng vào những thực trạng đáng trách ấy mà sử dụng hình ảnh của Nho gia, tạo ra cách nói tế nhị nhưng châm biếm nhẹ nhàng. Phân tích Chiếu cầu hiền càng làm nổi bật kiến thức uyên thâm, sâu rộng của bậc minh tướng.

Thời loạn thì vậy, thế nhưng hòa bình đã lập, vẫn “chưa thấy có ai tìm đến”. Tâm trạng của vua Quang Trung đầy khắc khoải, chờ mong người hiền ra tay giúp nước, phò vua. Tác giả đã sử dụng câu hỏi tu từ: “Hay trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng?” như thôi thúc, khiến người nghe suy ngẫm về nỗi trăn trở ấy.

Cách đặt câu hỏi thể hiện sự khiêm tốn nhưng lại rất thuyết phục của vị minh vương. Nó tác động vào nhận thức của người nghe, buộc các bậc hiền tài phải hành động đúng với trọng trách bản thân gánh vác.

Ngoài ra, tác giả còn đưa ra thực trạng của đất nước và nhu cầu cần củng cố phát triển. Đất nước hiện giờ vừa mới giành được chủ quyền, đang bước vào giai đoạn bắt đầu xây dựng nên triều chính chưa ổn định. Bên cạnh đó, biên ải cũng chưa yên, quân giặc vẫn còn nhăm nhe xâm lược thêm lần nữa.

Dân chúng còn khổ ải, những hậu quả chiến tranh gây ra còn chưa kịp hồi phục. Trong khi đó, đức của vua vẫn chưa thấm nhuần khắp nơi, chưa được nhân dân thấu hiểu. Do vậy lòng dân và ý mua chưa thuận, khó có thể phát triển đất nước. Tác giả đã đưa ra cái nhìn toàn diện về những khó khăn quốc gia đang gặp phải, không hề trốn tránh hay giấu diếm sự thật.

Chính bởi còn rất nhiều khó khăn như thế, nhu cầu cấp bách hiện tại là các bậc hiền tài phải ra trợ giúp nhà vua. “Một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn, mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình. Suy đi tính lại trong vòm trời này cứ cái ấp mười nhà ắt phải có người trung thành tín nghĩa.” Tác giả đã sử dụng hình ảnh cụ thể để khẳng định vai trò, đề cao vị trí của người hiền đối với vận mệnh quốc gia.

Cùng với câu nói của Khổng Tử, sự tồn tại của nhân tài trong đất nước càng thêm được khẳng định rõ ràng. Với hình ảnh, cách nói độc đáo, tác giả đưa ra kết luận, người tài cần và phải ra phục vụ hết sức mình cho triều đại mới, đưa đất nước phát triển ngang hàng với các quốc gia khác. Cùng với đó, hình ảnh vị vua Quang Trung yêu nước, thương dân, một lòng vì nghiệp lớn hiện lên rất rõ nét.

Sau cùng, tác giả đã đưa ra con đường để hiền tài cống hiến cho đất nước. Mọi tầng lớp trong xã hội đều có cơ hội cùng nhau phò trợ thiên tử bằng cách dâng thư bày tỏ ý kiến của mình về mọi vấn đề của đất nước.

Quan tướng nếu có ai tài giỏi, hiền đức thì tiến cử với vua, cùng nhau xây dựng cơ đồ. Kẻ sĩ ẩn dật được phép tự mình dâng sớ tự tiến cử. Những biện pháp cụ thể ấy đã giúp cho toàn bộ dân chúng có thể hiểu rõ và thực hiện đúng trách nhiệm của mình. Chúng đều rất dễ thực hiện, thiết thực với tình hình đất nước bấy giờ.

Tác giả đưa ra lời kêu gọi, động viên mọi người, đặc biệt là các bậc hiền tài cùng nhau đứng lên xây dựng cơ đồ: “những ai có tài có đức hãy cùng cố gắng lên, ghi tên tại triều đình, cùng nhau cung kính, cùng nhau hưởng phúc lành tôn vinh.” Điều này đã thể hiện tư tưởng tiến bộ, nhìn xa trông rộng của vua Quang Trung.

Thông qua bài chiếu, ta thấy được tài năng biết tôn trọng người tài, luôn lắng nghe nhân dân của bậc minh vương. Đó là những phẩm chất rất đáng quý, hứa hẹn một tương lai rộng mở với đất nước dưới sự dẫn dắt của vị vua hiền đức ấy.

Với cách nói sùng cổ, lời văn ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, “Chiếu cầu hiền” là tác phẩm chuẩn mực cho thể loại chiếu trong văn học Việt Nam. Những giá trị nghệ thuật với sự khúc chiết đủ lí, đủ tình giúp cho những tác phẩm sau đó có thể học hỏi, tiếp nhận và dựa vào như một chuẩn mực. Nhờ vậy mà các tác giả sau có thể góp thêm nhiều tác phẩm có vị trí quan trọng với văn học nước nhà.

“Chiếu cầu hiền” với những giá trị nghệ thuật độc đáo đã giúp văn học Việt Nam có thêm nhiều màu sắc. Tác phẩm đã thể hiện tầm nhìn chiến lược của tác giả, nhà vua và triều đình Tây Sơn trong việc chiêu dụ người tài, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Giúp cho triều đại Tây Sơn có được nhiều thành tựu quan trọng trong tương lai.

Viết một bình luận