Hai Sắc Hoa Tigôn ❤️️ Nội Dung Bài Thơ, Ý Nghĩa, Phân Tích ✅ Cùng Thohay.vn Tìm Hiểu Chi Tiết Về Tác Giả, Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ.
NỘI DUNG CHÍNH
Nội Dung Bài Thơ Hai Sắc Hoa Tigôn Của T.T.Kh
Bài thơ Hai sắc hoa Tigôn là một thi phẩm nổi tiếng của nhà thơ ẩn danh T.T.Kh. Cho đến nay, đây vẫn là một hiện tượng văn học độc đáo đã làm tổn hao giấy mực, công sức người cầm bút và mối quan tâm đặc biệt của người yêu thơ.
Hai sắc hoa Tigôn
Tác giả: T.T.Kh
Một mùa thu trước, mỗi hoàng hôn,
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn,
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc,
Tôi chờ người đến với yêu đương.
Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Dải đường xa vút bóng chiều phong,
Và phương trời thẳm mờ sương, cát,
Tay vít dây hoa trắng cạnh lòng.
Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,
Thở dài trong lúc thấy tôi vui,
Bảo rằng: “Hoa, dáng như tim vỡ,
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi!”
Thuở đó nào tôi có hiểu gì
Cánh hoa tan tác của sinh ly,
Cho nên cười đáp: “Màu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biến suy.”
Đâu biết lần đi một lỡ làng,
Dưới trời gian khổ chết yêu đương.
Người xa xăm quá! – Tôi buồn lắm
Trong một ngày vui pháo nhuộm đường…
Từ đó thu rồi thu lại thu,
Lòng tôi còn giá đến bao giờ?
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ
Người ấy cho nên vẫn hững hờ!
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chết, từng thu chết,
Vẫn giấu trong tâm bóng “một người”.
Buồn quá! hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
(Nhưng hồng) tựa trái tim tan vỡ
Và đỏ như màu máu thắm pha!
Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Một mùa thu trước rất xa xôi:
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã,
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi!
Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ,
Chiều thu hoa đỏ rụng, chiều thu
Gió về lạnh lẽo, chân mây vắng,
Người ấy ngang sông đứng ngóng đò…
Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng,
Trời ơi! người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa… vỡ
Tựa trái tim, phai tựa máu hồng…?
Đọc hiểu 🌿Bài Thơ Trở Về Quê Nội🌿Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích
Nguồn Gốc & Tác Giả Bài Thơ Hai Sắc Hoa Tigôn
Bài thơ Hai sắc hoa Tigôn là một tác phẩm nổi tiếng của tác giả ẩn danh T.T.Kh. Có thể nói Hai sắc hoa ty gôn và TTKh là một huyền thoại lãng mạn đã gây mối trắc ẩn cho nhiều thế hệ yêu thơ.
Về tác giả ẩn danh, cho đến này đã có nhiều người suy đoán lai lịch thật của T.T.Kh nhưng chưa có giả thuyết nào thuyết phục được công chúng. Các bài thơ của T.T.Kh và sự bí ẩn của tác giả đă từng gây xôn xao dư luận một thời. Tuy nhiên điều đó cũng tạo cảm hứng cho nhiều nhà văn, nhà thơ sáng tác những tác phẩm hưởng ứng nối tiếp.
Về nguồn gốc bài thơ Hai Sắc Hoa Tigôn thì câu chuyện bắt đầu cách đây 70 năm, vào ngày 27/9/1937 trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Bẩy, số 174 xuất bản tại Hà Nội, có đăng truyện ngắn Hoa ty gôn của Thanh Châu, nội dung kể lại mối tình tan vỡ của đôi trai gái ngày trước đã hò hẹn dưới giàn hoa ty gôn.
Ít lâu sau, có người đàn bà trẻ, dáng dấp bé nhỏ, nét mắt u buồn, mang đến tòa soạn Tiểu Thuyết Thứ Bẩy một phong bì dán kín, gửi cho ông chủ bút, trong có bài thơ Hai sắc hoa ty gôn, ký tên TTKh.
Sau đó, bài thơ Hai sắc hoa ty gôn được đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bẩy số 179, ra ngày 30/10/1937, và sau đó còn ba bài nữa cũng ký tên TTKh được gửi bằng đường bưu điện đến tòa soạn :
- Bài thơ thứ nhất, Tiểu Thuyết Thứ Bẩy số 182 (20/11/1937),
- Đan áo cho chồng, đăng trên Phụ Nữ Thời Đàm,
- Bài thơ cuối cùng, Tiểu Thuyết Thứ Bẩy, số 217 (23/7/1938).
Bài thơ về sau được các nhạc sĩ Anh Bằng và Trần Thiện Thanh phổ nhạc.
Đừng nên bỏ qua bài thơ 🌿Giục Giã [Xuân Diệu]🌿 Nội Dung, Đọc Hiểu
Ý Nghĩa Bài Thơ Hai Sắc Hoa Tigôn
Bài thơ Hai sắc hoa Tigôn là lời tâm sự của một thiếu nữ phải đau đớn trải qua một cuộc tình éo le ngang trái. Bi kịch đầy tính lãng mạn này được đặt trong bối cảnh không gian có giàn hoa ti-gôn được coi là biểu tượng của một cuộc tình tan vỡ.
Mẫu Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Hai Sắc Hoa Tigôn
Mẫu phân tích bài thơ Hai sắc hoa Tigôn dưới đây sẽ giúp bạn cảm nhận rõ hơn tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ. Cùng đón đọc nhé!
Bài thơ đầu tiên Hai sắc hoa ti-gôn gửi đăng trên báo Tiểu thuyết thứ Bảy (năm 1937) của T.T.Kh đã gây sóng gió ngay trên văn đàn về nội dung trữ tình đặc biệt mà nhất là về tác giả ẩn danh của bài thơ này. Sáng tác theo thể loại thơ mới bảy chữ gồm 11 khổ, mỗi khổ 4 câu, tổng cộng 44 câu theo phong cách thơ tứ tuyệt, giai điệu phảng phất sương khói Đường thi nên đọc dễ cảm.
Có thể nói, trong Hai sắc hoa tigon, không gian tràn ngập sắc thu. Hình tượng “thu” trong thi phẩm được lặp lại mười lần. Nó trở thành nỗi ám ảnh đối với nhân vật trữ tình “tôi”.
“Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn”, câu thơ ấy, không gian ấy gợi nhớ về mùa thu đã qua với thời gian được trần thuật – “mỗi hoàng hôn”. Đây chính là khung cảnh quen thuộc của đôi tình nhân và “câu chuyện” thơ mộng đã mở ra.
Mùa thu thường mang nỗi buồn, lại được cộng hưởng bởi màu vàng hoàng hôn tạo ra một xúc cảm man mác, bồn chồn. Thế nên cô gái cứ “nhặt cánh hoa rơi” mà “chẳng thấy buồn”. Hành động trái ngược ấy của nhân vật thể hiện sự ngây thơ, hồn nhiên: “thuở ấy nào tôi đã hiểu gì”.
Từ “thu” được luyến đi luyến lại, nhằm chỉ sự lặp đi lặp lại của thời gian. Năm tháng qua đi nhưng lòng người không thay đổi vẫn còn “giá” băng trong tim không biết “đến bao giờ” mới tan chảy bởi vì trong lòng nhân vật trữ tình “vẫn giấu trong tim một bóng người”.
Điệp ngữ “từng thu chết” lặp lại hai lần trong một câu thơ bảy chữ đã diễn tả một nỗi đau như khứa vào tim “tôi” không ngơi nghỉ. Nó là vết thương âm ỉ càng ngày càng lan ra mà không thể cầm được máu. “Bóng” của người yêu đã xâm chiếm cả không gian lòng của “tôi”.
Ta thấy, trái tim là một không gian “lớn”, vì nó chứa cả hình bóng của một con người; nhưng nó cũng thật nhỏ bé khi chỉ chứa đủ “một” và chỉ “một” người mà thôi. Tình yêu thủy chung của nhân vật trữ tình được thể hiện qua hình tượng độc đáo: “bóng” trong “tim”.
Thời gian xưa cũ – “một mùa thu trước” lại ùa về trong đôi mắt chất chứa nỗi “nhớ” của cô gái. Và không gian đã được mở rộng ra với sự kết hợp của phụ từ “rất” và từ láy “xa xôi”. Nỗi buồn của tác giả đã tăng thêm, trào dâng, chực trào ra, và chiếm lĩnh cả không gian thực tại. Từ cảm giác buồn tác giả chuyển sang cảm giác “sợ” khi chiều thu đến.
Không gian đất trời như được “phớt” bởi một chút ánh “nắng mờ”, sự nhạt nhòa của không gian như gợi lên sự u buồn đến đáng sợ trong lòng tác giả. Không gian rộng lớn của trời đất như nhỏ bé lại khi hai từ “chiều thu” án ngữ đầu và cuối câu thơ thứ hai: “chiều thu hoa đỏ rụng chiều thu”.
Sự nhạt mờ của trời chiều tạo cảm giác cô đơn, trống vắng trong tâm hồn nhân vật trữ tình. Không gian chật hẹp ấy làm nỗi buồn cô đọng lại thành “hoa đỏ” để rồi rụng trong “chiều thu” – không gian mênh mông, trống vắng. Tất cả tạo nên một vòng lẩn quẩn, bế tắc trong cõi lòng, không thể nào hóa giải được.
Thơ là tiếng nói của tâm hồn, là sự thể hiện tâm tư tình cảm của con người. Hai sắc hoa tigon chính là tiếng lòng của tác giả. Do đó, điểm nhìn của tác giả chính là điểm nhìn bên trong của nhân vật trữ tình”tôi”. Trong bài thơ, đại từ ngôi thứ nhất “tôi” được lặp lại mười lăm lần. Nó bộc lộ cách nhìn chủ quan của tác giả, một cách chân thành về tâm trạng của mình.
Trong Hai sắc hoa tigon, ngoài điểm nhìn đầy sắc thu, còn có một hệ thống “thời – không” được nhìn ở một góc độ khác. Thời gian mang tính sự kiện “lần đi một lỡ làng” với không gian tang tóc: “dưới trời đau khổ chết yêu đương”. Người chỉ một lần đi, cũng không có cơ hội quay trở lại, dẫu rằng người ra đi “đâu biết” điều đó.
Điểm nhìn của tác giả được đặt trong không gian “dưới trời” đầy nỗi “gian khổ”. Những nỗi đau ấy là những lưỡi kiếm giết “chết yêu thương” trong tâm hồn con người. Người đi đến một khung trời xa lạ, kẻ ở nhà mỏi mắt ngóng trông. Không gian “xa xăm quá”, tạo thành một khoảng không trống trải trong lòng, nên “buồn lắm”. Từ ngữ thật giản đơn, mang đầy tính khẩu ngữ nhưng thể hiện được nỗi buồn một cách sâu sắc.
Mỗi độ thời gian trôi qua, cô gái vẫn day dứt trong nỗi nhớ khắc khoải dâng đầy. Thời gian sự kiện khác là “một ngày vui” – ngày vu quy được báo hiệu bằng sắc đỏ thắm của xác pháo “nhuộm” đầy “đường”. Động từ “nhuộm” như một thi liệu nhằm diễn tả niềm vui đang tràn ngập trong không gian. Nhưng tả niềm vui để khẳng định nỗi buồn – Khi người chồng ấy không phải người mình yêu!
Có một không gian rất khác, rất lạ và độc đáo trong bài thơ: “Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời”. Câu thơ giàu chất suy tư. “Bên cạnh” nghĩa là không gắn kết, không hòa hợp. Hai khách thể tồn tại song song, hai không gian sóng đôi xuyên suốt một khoảng thời gian kéo dài qua phụ từ chỉ thời gian “vẫn”.
Nhân vật “tôi” nhìn cuộc sống vợ chồng với một ánh nhìn rất hờ hững, dường như nàng chẳng quan tâm đến. Mặc cho sự “ái ân lạt lẽo của chồng”, nàng vẫn không màn, không để ý. Vì không gian trong lòng nàng chỉ có hình bóng của “một người” và hiện tại đối với nàng chỉ là sự hoài niệm về “thuở ấy”. Có một cái gì đó buồn mênh mang như thầm tiếc nuối cho mối tình của chính mình:
“Đến nay tôi hiểu thì tôi đã
Lầm lỡ tình duyên cũ mất rồi”
Đến khổ thơ cuối cùng, cảm xúc trữ tình của nhân vật “tôi” như bức phá, trào dâng. Tựa loài chim yến ép xương dùng nước miếng của mình tạo ra “vàng trắng” cho đời, T.T.Kh đã trút hết tâm huyết của mình. “Dòng dư lệ” nhỏ xuống nức nở nghẹn ngào khi:
“Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng,
Trời ơi! Người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa… vỡ
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng?”
Chỉ khi đau khổ tuyệt vọng, bế tắc không lối thoát, con người mới kêu lên hai tiếng “trời ơi”. Hai từ ấy không của riêng ai, nhưng trong thơ văn trang trọng tiếng khẩu ngữ ấy dường như rất mới. Lời than “trời ơi” bật ra thành tiếng kêu lớn, thoát ra tự đáy lòng, nhưng rồi nghẹn lại trong tim đến chảy máu như loài “hoa tim vỡ”. Bởi nàng “đã lấy chồng”, đây là một sự việc đã rồi, không thể nào cứu vãn được.
Trước sự việc như thế, nhân vật trữ tình thể hiện cái nhìn tâm lý của mình: “người ấy có buồn không?”. Câu hỏi mang dáng dấp tu từ, và câu trả lời là một ẩn ngữ mà nó đang khắc khoải, đau đớn bởi “máu hồng” vẫn chảy trong lòng.
Đó là cái nhìn thực tại của tác giả khi đã “lầm lỡ tình duyên”. Nhưng nhân vật “tôi” còn có cái nhìn rất ngây thơ trong sáng trong buổi ban đầu biết đến tình yêu:
“Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn,
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc,
Tôi chờ người đến với yêu đương”
Con gái thường đa sầu đa cảm, chỉ những việc nhỏ của tự nhiên như lá rụng, hoa rơi cũng khiến họ man mác buồn. Nhưng nhân vật nữ trong Hai sắc hoa tigon thì ngược lại – “chẳng thấy buồn”. Đôi mắt nàng thật hồn nhiên, trong sáng, chẳng lo nghĩ những chuyện u sầu. Và hình ảnh mái tóc nàng được “nhuộm” bằng “ánh nắng tà”. Ánh nắng của buổi chiều “tà” với sắc vàng “hoàng hôn” như rơi, như rót vào mái tóc nàng. Đây là một hình ảnh rất đẹp giàu chất thơ.
Chính vẻ đẹp của không gian lúc này, mà khi nhớ lại nhân vật mới cảm giác “sợ chiều thu phớt nắng mờ”. Cái màu đó như khắc, như in trong lòng tác giả và nó trở thành sắc “màu ám ảnh”. Bởi trong màu không gian ấy, họ đã đến với nhau và họ đã đứng đợi nhau. Tình yêu là thế. Đã yêu nhau thì luôn nhung nhớ và mong chờ “người đến” để “yêu đương”. Tình yêu của nhân vật trữ tình thật đẹp, thật hồn nhiên và trong sáng.
Cũng có một cái nhìn tinh tế đối với tình yêu như thế, trong bài “Xa cách”, “Ông hoàng thơ tình” – Xuân Diệu viết: “Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt”. Đó cũng chính là điểm nhìn của “người ấy” – nhân vật thứ hai trong câu chuyện thơ:
“Người ấy thường hay vuốt tóc tôi
Thở dài những lúc thấy tôi vui
Bảo rằng: “Hoa, dáng như tim vỡ
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi!”
Trái lại với người con gái, nhân vật xưng “anh” rất hay “thở dài”. Điều đó đã nói lên tâm trạng lo lắng cho mối tình của chúng “ta” sẽ tan vỡ. Nỗi sợ hãi này được cái nhìn trần thuật của tác giả miêu tả lại. Và cái mầm âu lo ấy nảy nở vẫn ngay trong niềm vui của nàng, ngay trong cái không khí thân mật của hai người: chàng trai “vuốt tóc” cô gái. Bởi vì, tình yêu của đôi ta giống như “dáng tim vỡ”. Nhưng trước linh cảm phải xa cách nhau của chàng trai, thì người con gái chỉ “cười” và “đáp”:
“Cho nên cười đáp: “Màu hoa trắng,
Là chút lòng trong chẳng biến suy!”
Màu trắng tượng trưng cho sự tinh khiết, sự thanh bạch trong tâm hồn. Qua đôi mắt nàng, màu trắng của hoa tigon chính là biểu hiện của sự thủy chung, trước sau như một “chẳng biến suy”.
Không gian hiện thực trở lại với nhân vật trữ tình khi “gió về lạnh lẽo chân mây vắng”. Sắc lạnh của sự cô độc như bao trùm lên con người khi “người ấy ngang sông đứng ngóng đò”. Hình tượng đứng ở bờ sông để “ngóng đò” là hình ảnh quen thuộc trong thi ca nay được nhìn qua cái nhìn của nhân vật “tôi”. Nàng như cảm và hiểu được sự chờ mong, sự trông ngóng của chàng trai. Điểm nhìn của nàng như trùng khít với điểm nhìn của “người ấy”.
Trong Hai sắc hoa tigon, cái nhìn của nhân vật tôi không chỉ hướng về “người ấy” mà còn hướng về cách nhìn của người chồng:
“Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ
Người ấy, cho nên vẫn hững hờ”
Đây một cái nhìn rất nhỏ trong bài thơ nhưng nó chứa đựng một giá trị lớn. Lấy người mình không yêu nên người vợ luôn có trạng thái “đồng sàng dị mộng”. Những lời thơ của T.T.Kh như đả phá vào cái vòng xiềng xích “tam tòng” của lễ giáo phong kiến. Đã có chồng mà vẫn còn nhớ đến “người ấy”, vẫn “giữ trong tim bóng một người”.
Vậy nhân vật trữ tình đáng thương hay đáng trách? Nhà phê bình Chu Văn Sơn có bình luận như sau: “Người thiếu thông cảm chỉ thấy cái bề ngoài, người tri kỷ thì thấu gan ruột mà ra”. Cho nên, sự trách hay thương là tùy thuộc vào quan điểm nhìn nhận của độc giả về T.T.Kh.
Trong Hai sắc hoa Tigon, không gian và thời gian, hiện tại và quá khứ đan xen nhau. Ở đó câu chuyện được kể qua cái nhìn trần thuật của nhân vật tôi. Không gian đã gợi “hứng thơ” cho tác giả. Và nhân vật trữ tình mang không gian vào trong bản thân mình rồi trải mình ra cùng với không gian. Chiếm lĩnh không gian như một đối tượng thẩm mỹ, nghĩa là qua sự hoà nhập tuyệt đối vào không gian.
Thời gian thì mang tính hồi ức hiện về với bao kỉ niệm, nó là lớp phù sa bồi lắng trong lòng tác giả. Khi không gian kỉ niệm chợt hiện về, nó là mái chèo khẽ khuấy động lớp phù sa để bật ra tiếng nói tâm hồn. Chính kết cấu như thế, tạo nên một câu chuyện tình yêu đầy chất hư ảo, huyền thoại trong Hai sắc hoa tigon. Nhưng ở đó, ta cảm giác như rất thực bởi giọng thơ mang tính trần thuật đầy chân thật, cảm xúc nghẹn ngào.
Có thể nói trong nhân gian và cả trong văn học có rất nhiều câu chuyện huyền thoại về tình yêu. Mỗi huyền thoại mang một màu sắc riêng. Và cũng có nhiều nhà thơ chỉ nổi tiếng với một bài duy nhất. Huyền thoại về T.T.Kh và Hai sắc hoa tigon, mang một vẻ đẹp của sự u buồn, thấm đẫm màu hoa.
Trắng và đen, thực và ảo, hiện thực và lãng mạn… là những đối cực trong cuộc sống. Và tiến trình lịch sử của một nền văn học có thể được tạo nên bởi cuộc đời và tác phẩm của những nhà văn chân chính. Nhưng một chút hư ảo, mông lung, huyền bí của thế giới cổ tích, thần thoại, truyền thuyết… cũng góp phần làm nên vẻ đẹp của một nền văn học.
Thật vậy, huyền thoại về loài hoa tim vỡ, cùng với bút danh T.T.Kh đã tạo nên vẻ đẹp huyền bí trong văn học Việt Nam hiện đại. Nó như đóa hoa trong khu vườn văn học này. Hơn 2/3 thế kỉ đã qua, vượt qua thử thách của thời gian, vẻ đẹp của nó đã được khẳng định.
Gợi ý tìm hiểu và phân tích 🌿Bài Thơ Quê Hương Của Tố Hữu🌿 Nội Dung, Phân Tích