Khuê Oán Của Vương Xương Linh [Nội Dung + Ý Nghĩa + Phân Tích]

Khuê Oán [Vương Xương Linh] ❤️️ Nội Dung, Ý Nghĩa, Phân Tích ✅ Bài Thơ Là Một Tác Phẩm Của Vương Xương Linh Viết Về Đề Tài Chiến Tranh, Công Danh, Tình Yêu Và Tuổi Trẻ.

Nội Dung Bài Thơ Khuê Oán Vương Xương Linh

Bài thơ : Khuê Oán
Tác giả: Vương Xương Linh

閨怨

閨中少婦不知愁,
春日凝妝上翠樓。
忽見陌頭楊柳色,
悔教夫婿覓封侯。

Khuê oán

Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu,
Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu.
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
Hối giao phu tế mịch phong hầu.

Dịch nghĩa

Người thiếu phụ nơi phòng khuê không biết buồn,
Ngày xuân trang điểm đẹp đẽ bước lên lầu biếc.
Chợt thấy màu dương liễu tốt tươi ở đầu đường,
Bỗng hối hận đã để chồng đi tòng quân để kiếm phong hầu.

Thohay.vn Tặng Bạn ❤️️ Những Bài Thơ Về Người Phụ Nữ Thời Phong Kiến ️❤️️ 35+ Bài 

Ý Nghĩa Bài Thơ Khuê Oán

Bài thơ nói về nỗi oán của một người phòng khuê, một thiếu phụ có chồng đi tòng quân để kiếm tước hầu. Bài thơ thể hiện sự phản đối chiến tranh phi nghĩa của dân chúng thời Thịnh Đường, cũng như sự đau khổ và mất mát của những người phụ nữ bị bỏ rơi trong phòng khuê. Bài thơ có một ý nghĩa gửi gắm đến người đọc rằng chúng ta cần biết quan tâm và chia sẻ với những người khổ cực và bất hạnh trong xã hội.

Những Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Khuê Oán Hay Nhất

Mời các bạn tham khảo những bài văn mẫu cảm nhận bài thơ ” Khuê Oán” hay nhất bên dưới.

☛ Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Khuê Oán Hay Nhất

Vương Xương Linh (698 – 757), tự là Thiếu Bá, quê ở Trường An, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc, ông nổi tiếng rất sớm về tài văn chương. Sau khi đỗ Tiến sĩ, ông ra làm quan nhưng con đường hoạn lộ của ông gặp nhiều trắc trở. Rời chốn kinh đô về làng được một thời gian, ông bị tên thứ sử ở địa phương hãm hại. Thơ ông vừa giàu tính hiện thực, vừa đậm đà chất trữ tình, phản ánh những vấn đề lớn của thời đại như chiến tranh, thương đau, mất mát…

Đặc biệt, ông thường đi sâu phân tích và thể hiện tâm lí, tình cảm của nhiều loại người như tầng lớp trí thức, tướng sĩ, binh lính, những thiếu phụ có chồng ngoài mặt trận… Trong số những kiệt tác của ông thì bài Khuê oán (Nỗi oán của người phòng khuê) được người đời hâm mộ và truyền tụng rộng rãi bởi nó được coi là tiêu biểu cho tinh thần phản đối chiến tranh phi nghĩa của dân chúng thời Thịnh Đường.

Phiên âm chữ Hán:

Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu,
Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu.
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
Hối giao phu tế mịch phong hầu.

Dịch thơ tiếng Việt:

Thiếu phụ phòng khuê chẳng biết sầu,
Ngày xuân chải chuốt, bước lên lầu.
Đầu đường chợt thấy màu dương liễu,
Hối để chàng đi kiếm tước hầu.

(Nguyễn Khắc Phi dịch)

Hai câu thơ đầu giới thiệu nhân vật trữ tình trong bài thơ này là thiếu phụ thuộc tầng lớp quý tộc phong kiến, có chồng đang tham gia chinh chiến nơi xa. Có lẽ do sinh ra và lớn lên giữa cảnh xa hoa, nhung lụa nên cô chưa biết thế nào là cảnh hòn tên mũi đạn và những đau thương tang tóc của chiến tranh. Cũng vì thế mà tâm trạng cô vô tư, hồn nhiên như trẻ nhỏ. Ngày ngày, cô trang điểm thật đẹp đẽ, xinh tươi rồi lên lầu cao ngóng về phương xa, mong người chồng trở về thỏa mộng công danh:

Thiếu phụ phòng khuê chẳng biết sầu,
Ngày xuân chải chuốt, bước lên lầu.

Ở đây có sự hoà hợp, tương đồng giữa người với cảnh. Giữa thiên nhiên mùa xuân xanh tươi tràn đầy sức sống, hình ảnh thiếu phụ trẻ trung, kiều diễm lại càng thêm lộng lẫy. Ấy thế nhưng điều éo le, trớ trêu cũng lại nằm ngay trong sự hòa hợp, tương đồng ấy bởi mùa xuân tượng trưng cho tuổi trẻ, tình yêu và hạnh phúc lứa đôi; mà khuê phụ thì lại đang sống trong cảnh phòng khuê chiếc bóng.

Cho nên, tâm trạng của nàng chắc cũng không ngoài tâm trạng chung của những người vợ trẻ có chồng ra trận. Thái độ vui vẻ, hồn nhiên nếu là có thật thì cũng rất mong manh. Chỉ cần một yếu tố nào đó của ngoại cảnh tác động vào là nó sẽ tan nhanh như màn sương dưới ánh mặt trời. Hai câu thơ sau nói đến yếu tố làm thay đổi đột ngột tâm trạng của khuê phụ:

Đầu đường chợt thấy màu dương liễu,
Hối để chàng đi kiếm tước hầu.

Cái màu dương liễu xanh mơn mởn mà khuê phụ chợt thấy lúc vừa bước lên lầu cao đã làm cho dòng cảm xúc của nàng nhanh chóng đổi chiều. Màu dương liễu tượng trưng cho mùa xuân, tuổi trẻ và gợi lên khát vọng hạnh phúc. Nó cùng khơi dậy nỗi buồn biệt li trong lòng khuê phụ. Buổi chia tay, theo phong tục, nàng tặng chàng một nhành dương liễu để biểu thị tình cảm lưu luyến và ước mong ngày chàng sớm trở về đoàn tụ. Nay chàng đang ở nơi đâu? Sống chết ra sao? Đã hay chưa thỏa chí tang bồng?

Cảnh ấy gợi tình này mà tình này (tức nỗi nhớ thương) thì cứ dâng lên mãi. Nhớ thương pha lẫn hối tiếc và ân hận. Nàng hơi tiếc là đã để chồng đi tòng quân, cố lập chiến công để rồi được làm quan, kiếm tước hầu vua ban cho. Bản thân và gia đình, gia tộc sẽ được vẻ vang, nở mày nở mặt… Nhưng suy ngẫm kĩ thì tất cả những cái đó chỉ là ảo tưởng mà thôi; còn thực tế là nỗi sinh li, mà sinh li nhiều khi còn xót xa, đau đớn hơn tử biệt.

Thời gian qua mau, tuổi trẻ cũng qua mau, hạnh phúc lứa đôi dang dở. Tương lai gắn với chiến tranh lại là thứ tương lai bấp bênh, lành ít, dữ nhiều. Và cái giá phải trả cho “giấc mộng công hầu” của những trang nam nhi thời loạn là quá đắt, có khi bằng cả mạng sống.

Bốn câu thơ thất ngôn tứ tuyệt trong bài Khuê oán có cấu trúc ngắn gọn nhưng nội dung hàm súc, ngôn ngữ gợi nhiều hơn tả. Trong mỗi câu thơ, tình và điệu hòa quyện với nhau, tạo nên âm hưởng nhịp nhàng, du dương, dễ đi sâu vào lòng người.

Bằng bút pháp miêu tả và phân tích tâm lí nhân vật tinh tế, nhà thơ Vương Xương Linh đã mượn tâm trạng của một khuê phụ trẻ để thông qua đó lên án chiến tranh phi nghĩa gây đau thương, mất mát cho mọi gia đình, cướp đi tuổi trẻ, tình yêu và hạnh phúc của bao người. Trải qua hàng ngàn năm, bài thơ vẫn sống mãi trong lòng những thế hệ yêu mến và hâm mộ phong cách thơ trữ tình thanh tao, sâu nặng của Vương Xương linh – một trong những thi sĩ nổi tiếng thời Thịnh Đường.

☛ Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Khuê Oán Sâu Sắc Nhất 

Vương Xương Linh là một trong những nhà thơ kiệt xuất thời Thịnh Đường. Thi phẩm của ông để lại hiện còn 186 bài, phần lớn là thơ thất ngôn tuyệt cú. Bài “Khuê oán” là một kiệt tác, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Vương Xương Linh: thâm trầm, trang nhã, tinh tế.

Khuê oán

“Khuê tru nụ thiếu phụ bất tri sầu,
Xuân nhật ngưng trang thướng thuỷ lâu.
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
Hối giao phu tế mịch phong hầu”.

Bài thơ thể hiện tâm trạng người thiếu phụ nơi phòng khuê trong những năm tháng mà người chồng thân yêu đang xông pha, đang gối đất nằm sương trên miền chiến địa. Người thiếu phụ được nói đến trong “Khuê oán ” không phải thuộc lớp bình dân, mà là một mệnh phụ phu nhân sống trong chốn lầu son gác tía, trong những lầu đẹp (thuý lâu).

Đó là điều cần biết để cảm hiểu bài thơ “Khuê oán Hai câu thơ đầu nói lên cuộc sống nhàn nhã, đài các của thiếu phụ thời son trẻ, khi sống hạnh phúc đoàn tụ với người chồng yêu thương. Khi ấy, nàng chưa hề biết đến nỗi buồn (bất tri sầu). Phòng khuê là tổ ấm hạnh phúc. Suốt một thời son trẻ, mỗi lần trang điểm xong, nàng bước lên lầu đẹp (để dạo bước, để ngắm hoa, nhìn cảnh, nhìn trời…):

“Khuê trụng thiếu phụ bất tri sầu,
Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu
(Trẻ trung nàng biết chi sầu,
Ngày xuân trang điểm lên lầu ngắm gương).

Trong câu thơ dịch, hai chữ “ngắm gương” là Tản Đà suy luận ra, chứ trong nguyên tác không hề có. Hai chữ “Xuân nhật” nghĩa đen là ngày xuân; trong văn cảnh còn mang hàm nghĩa chỉ thời trẻ trung, đầy xuân sắc, xuân tình, đó là những ngày êm đẹp, hạnh phúc nhất của nàng. Nhưng những ngày ấy đã trôi qua lâu rồi, nay chỉ còn là kỉ niệm đẹp.

Hai câu thơ đầu vừa tả tâm hồn vô tư, yêu đời (chẳng biết sầu là gì) vừa tả cử chỉ động tác (soi gương, nhẹ bước lên lầu) đúng là nhà thơ tả ít mà gợi nhiều. Hai chữ “xuân nhật” là thời gian nghệ thuật, ba chữ “bất tri sầu” là tâm trạng nghệ thuật đồng hiện, gợi tả sự trẻ trung, yêu kiều, đài các, nhàn nhã, quý phái, phong lưu…

Nàng đã sống trong giàu sang phú quý, trong êm ấm hạnh phúc gia đình thời son trẻ. Nhưng ấn phong hầu cho chồng là niềm khao khát và mơ ước của nàng. Người chồng cũng vậy, “chí làm trai dặm nghìn da ngựa”… Có thể nói, giấc mộng phong hầu ấy rất đẹp và chính đáng. Nàng khuê phụ và chồng nàng được nói đến trong bài thơ là những con người thuộc tầng lớp trên thời Thịnh Đường cách chúng ta hơn 13 thế kỷ. Họ gắn bó với nhà vua theo lí tưởng trung quân. Hai câu 3, 4, các chữ “hốt kiến ” và “hối giao ” là nhãn tự của bài thơ:

“Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
Hối giao phu tế mịch phong hầu

(Nhác trông vẻ liễu bên đường,
“Phong hầu ” nghĩ dại, xui chàng kiếm chi).

“Dương liễu sắc ” là sắc màu dương liễu, là hình ảnh hiện tại. Sau những năm dài sống cô đơn, nàng khuê phụ lên lầu cao chọt nhìn thấy. Như có sự giật mình trước sự đổi thay của sắc màu dương liễu. “Xuân nhật” là quá khứ, “dương liễu sắc ” là hiện tại. Và đó là mùa thu, sắc thu. Hình ảnh ấy mang hàm nghĩa: tuổi xuân đẹp đã trôi qua, nhan sắc xinh tươi đã dần phai sau năm tháng đợi chờ và cô đơn. “Dương liễu sắc ” là một ẩn dụ, một hình ảnh ước lệ, lấy cảnh để tả tình.

Khuê phụ chợt nhìn thấy sắc màu dương liễu mà hối hận (hối giao) vì mình đã để chồng đi tòng chinh mong kiếm ấn phong hầu. Hối hận vì phải trả giá cho giấc mộng công hầu. Người chồng có thể giải thây trên chiến địa. Người chồng cũng có thể trở thành “ChàngSiêu tóc đã điểm sương mới về” (Chinh phụ ngâm). Thực tế phũ phàng: cô đơn, sầu muộn, tuổi xuân mỏi mòn, mong chờ rồi tuyệt vọng. Khuê phụ thở dài, than khóc, hối hận. Nàng tự trách mình, nàng oán trách duyên phận mình. Đó là “khuê oán”.

Ở đây, thời gian nghệ thuật và tâm trạng nghệ thuật một lần nữa lại đồng hiện. “Hốt kiến ”, “hối giao ” là tâm trạng khuê phụ, là nỗi đau, nỗi buồn của người vợ trẻ có chồng đi lính ngày xưa: hối hận, u sầu, đau khổ, nàng chỉ còn biết tự trách mình. Có người cho rằng “Khuê oán ” tiêu biểu cho tinh thần phản đối chiến tranh phi nghĩa của con người thời Đường. Chúng tôi không nghĩ như thế.

“Khuê oán ” chỉ là tiếng thở dài, giọt nước mắt, sự hối hận của người khuê phụ về mộng công hầu mà nàng phải nếm trải với bao cay đắng cô đơn. Cách viết của Vương Xương Linh nhẹ nhàng và thấm thìa. Cái ấn phong hầu thời nào cũng có giá: máu và nước mắt.

Qua bài “Khuê oán ”, ta thấy phong cách nghệ thuật của Vương Xương Linh chứa chan tình đời và tình người. Càng đọc càng suy nghĩ mới thấy hay, thấy rung động.

☛ Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Khuê Oán Ngắn Hay

Có những bài thơ Trung Quốc mà đã để lại cho chúng ta những bạn đọc Việt Nam biết bao nhiêu cảm xúc và suy nghĩ về cuộc đời của những người xưa. Thơ Đường có nhiều kiệt tác về đề tài chiến tranh. Tuy không nói trực tiếp đến sự tàn khốc của chiến tranh, nhưng từ nỗi sầu biệt hận của người thiếu phụ phòng khuê.

Nếu như Việt Nam ta có bài thơ Chinh Phụ Ngâm thể hiện được nỗi lòng chinh phụ có chồng đi đánh giặc thì văn học Trung Quốc có Nỗi oán của người phòng khuê. Bài thơ đã cất lên tiếng nói căm ghét oán hờn đối với chiến tranh. Với một bài thơ như Khuê oán thì hàng trăm mũi tên phản chiến ắt còn phải chịu thua xa.

Bài thơ vẻn vẹn chỉ có bốn câu thơ nhưng Vương Xương Linh vẫn thể hiện được quá trình chuyển biến tâm trạng của người khuê phụ. Bài thơ đã thể hiện rõ được tâm trạng của người thiếu phụ ấy vì sự trôi chảy của thời gian khiến cho cô phải suy nghĩ trăn trở. Đồng thời qua bài thơ thể hiện sự phản đối chiến tranh ngay giữa đời Thịnh Đường.

Về tri thức văn hóa thì ta thấy được quá trình phát triển của thơ Đường người ta chia ra làm bốn giai đoạn lớn. Thứ nhất là sơ Đường: Đây là thời kì chuẩn bị, bao gồm cả việc tiếp nhận truyền thống thơ của các thời đại khác với phong vị “phong, tuyết, nguyệt, hoa” kết hợp với việc đổi mới thơ ca với tên tuổi của Trần Tử Ngang. Thơ Sơ Đường có tứ kiệt là Vương Bột, Lạc Tân Vương, Lô Chiếu Lân, Dương Quýnh.

Thứ hai là thời Thịnh Đường: đây là thời đại phát triển rực rỡ gắn liền với những cái tên nổi tiếng như Lý Bạch, Đỗ Phủ hay Vương Xương Linh… Thứ ba là thời Trung Đường: Đặc điểm của thời kì này là nhà Đường đi vào suy thoái cho dù loạn An – Sử đã được dẹp tan. Tiêu biểu cho thơ ca thời Trung Đường là Bạch Cư Dị, Liễu Tông Nguyên. Thứ tư là từ thời Thái Hòa trở đi, nhà Đường suy sụp không cứu vãn được. Các nhà thơ tiêu biểu là Lí Thương Ẩn, Đỗ Mục.

Về thể loại thì đây là thể loại phái thơ biên tái ra đời trong thời kì này với nhiều cách thức phản ánh và nhìn nhận khác nhau về cuộc chiến đó. Vương Xương Linh qua các bài thơ của mình không ủng hộ cuộc chiến đó. Thơ ông là tiếng lòng sầu bi ai oán, là nỗi đau đòi hạnh phúc bình yên, là tiếng nói phản đối chiến tranh. Về nội dung thì mở đầu bài thơ với hai câu thơ mang đến cho chúng ta một tâm trạng của người thiếu phụ ấy. Đó là một tâm trạng vui vẻ ngay cả khi chồng đi chinh chiến phương xa:

“Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu,
Xuân nhật ngưng trang thương thúy lâu”
(Cô gái phòng the chửa biết sầu
Ngày xuân trang điểm dạo lên lầu)

Cô gái ấy chưa biết sầu buồn là gì bởi vì cô vẫn còn vô tư hồn nhiên lắm. người chồng của cô đang đi chinh chiến nhưng cô không lấy làm buồn. Cô vẫn ngày đêm vui vẻ vô tư như thế. Hai từ “khuê các” thể hiện sự giàu sang phú quý của những bậc tiểu thư. Cô gái ấy vẫn thức dậy và trang điểm một cách tỉ mỉ dạo lên lầu. Tâm trạng cô vui vẻ như bao giờ hết, thế nhưng đến hai câu thơ sau tâm trạng cô bỗng nhiên thay đổi.

Không cần nói thêm một điều gì, không cần một câu thơ để chuyển ý tâm trạng nhà thơ cứ thế thể hiện theo trình tự mà vẫn làm cho người đọc thấy được sự chuyển biến tâm trạng ấy:

“Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
Hối giao phu tế mịch phong hầu.”
(Đầu đường chợt thấy tơ xanh liễu
Hối để chồng đi kiếm tước hầu.)

Cây liễu ở đây thể hiện cho tuổi thanh xuân của một đời người hay cụ thể hơn là một người con gái. Tâm trạng của cô đang vui bỗng nhiên chuyển thành buồn. Cô nghĩ đến tuổi trẻ của mình và không cần ai nói gì không cần nghe gì mà bản thân cô tự nhận ra và từ tâm trạng vui cô thấy buồn. Và từ sự nhận thức ấy khiến cô không thể vô tư được nữa. Cô nhớ thương đến chồng mình và đã hối hận khi để chồng lâm vào cảnh chiến tranh để phong hầu phong tước. qua đây nhà thơ thể hiện sự phản đối chiến tranh vì chính nó đã làm cho những người vợ chồng phải xa nhau cách trở.

Về nghệ thuật, bài thơ viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Cách đặt vấn đề có vẻ khác lạ với tiêu đề bài thơ, tạo ra một kiểu phản đề. Người thiếu phụ chẳng biết sầu vì cho rằng chồng ra trận là hợp với thời đại, là đúng tư cách nam nhi và cũng có thể coi là lí tưởng đối với các gia đình quyền quý.

Cách suy nghĩ, nhìn nhận vấn đề của người thiếu phụ có vẻ thụ động, đơn giản một chiều. Qua đây ta thấy những nhà văn Trung Quốc cũng thật tài giỏi và hiểu được tâm trạng của người phụ nữ khi có chồng đi xa. Không những đồng cảm với tình yêu đôi lứa bị cách trở mà nhà thơ còn thể hiện sự phản đối chiến tranh của mình.

☛ Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Khuê Oán Nổi Bật

“Khuê oán” – một tác phẩm nổi tiếng của Vương Xương Linh đồng thời cũng là một đề tài luôn được chú tâm trong xã hội phong kiến bấy giờ. Đó là cảnh vợ chồng phải chia tay vì người chồng phải đi nơi xa xôi chinh chiến. Đã có nhận định cho rằng: “Khuê oán là một đề tài thường gặp trong thơ. Những cấu từ đặc biệt của bài thơ này đã thể hiện quá trình tâm lý, bộc lộ được cả phần “tiềm ý thức” của người khuê phụ khiến bài thơ 28 chữ này rất tinh tế, đầy gợi cảm và đầy thuyết phục.

Vì vậy đây là một bài thơ tiêu biểu cho tiếng nói phản đối chiến tranh”. Đi sâu vào từng câu chữ, ta có thể thấy rõ điều đó. Một bài thơ vô cùng ngắn gọn và được mở đầu bằng hai câu thơ khiến độc giả không khỏi bất ngờ:

“Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu.
(Trẻ trung nàng biết chi sầu
Ngày xuân trang điểm lên lầu ngắm gương.)

Người phụ nữ xuất hiện ngay đầu bài thơ là người chinh phụ, có người chồng phải ra nơi biên ải xa xôi chiến đấu. “Bất tri sầu”- kỳ thay, người chinh phụ này lại không mang trong mình một chút buồn tủi nào, cô ấy vẫn cứ vô tư mà đưa chồng ra chiến trận. Mở đầu bài thơ đã là một tình huống ngược với nhan đề, quả là một nghệ thuật đặc sắc của tác giả. Ngày ngày, người thiếu phụ ấy, vẫn chăm chỉ quen với công việc thường ngày dù có thiếu bóng dáng của người chồng.

Nàng biết tận hưởng những ngày xuân đẹp đẽ, luôn biết làm đẹp cho mình “ngưng trang”, biết lên lầu ngắm cảnh du xuân. Dường như lúc này, “sầu” của thiếu phụ chưa xuất hiện. Nhưng rồi cảm xúc gì đến rồi cũng đến:

“Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu.”
(Nhác trông vẻ liễu bên đường”
Phong hầu”, nghĩ dại, xui chàng kiếm chi!).

Một sự xáo trộn, đảo lộn trong tâm trạng người thiếu phụ ấy. Hạnh phúc là khi có chồng ở bên cạnh, cùng chia sẻ ngọt bùi đắng cay, và giờ đây, nàng chợt nhận ra, nàng chỉ có một mình cô đơn lẻ bóng. “Màu dương liễu” – một hình ảnh ẩn dụ gợi hình, gợi tả khiến cho người thiếu phụ không khỏi suy ngẫm khi bắt gặp cành liễu xanh.

Những cành liễu xanh rờn trước gió, uyển chuyển thướt tha, khiến người thiếu phụ nghĩ về những năm tháng tuổi trẻ của mình, đáng lẽ mình phải có chồng ở bên tận hưởng ngày tháng tươi đẹp ấy, mà mình lại đã lỡ để chàng đi tham gia trận chiến nơi xa xôi mà đeo đuổi “phong hầu”. Đồng ý cho chàng đi bởi muốn chàng lập công lao lớn, nhưng người vợ ấy đã hối hận vì để cho chàng đi, ở nơi biên ải xa xôi đầy hiểm nguy đó, không biết bao giờ chàng mới có thể trở về mà đoàn tụ với nàng.

“Khuê oán” – một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật chỉ vẻn vẹn với 28 chữ đã làm nổi bật lên nỗi ân hận của người chinh phụ đã để chồng đi tham gia chinh chiến. Với biện pháp nghệ thuật như hình ảnh ẩn dụ “dương liễu” kết hợp với phép đối trong tâm trạng của người phụ nữ đã khiến cho bài thơ trở nên đặc sắc hơn mà đầy sự tinh tế.

Có thể thấy nhận định “Khuê oán là một đề tài thường gặp trong thơ. Những cấu từ đặc biệt của bài thơ này đã thể hiện quá trình tâm lý, bộc lộ được cả phần “tiềm ý thức” của người khuê phụ khiến bài thơ 28 chữ này rất tinh tế, đầy gợi cảm và đầy thuyết phục. Vì vậy đây là một bài thơ tiêu biểu cho tiếng nói phản đối chiến tranh” là hoàn toàn đúng đắn.

Bài thơ của Vương Xương Linh là một bài thơ hay, ý nghĩa, là tiếng nói tố cáo những trận chiến phi nghĩa khiến cho người người, nhà nhà trong cảnh chia ly phân tán. Hơn thế nữa, bài thơ còn nói lên khát vọng một cuộc sống hòa bình, ấm no hạnh phúc bên gia đình trên mọi miền đất nước từ quá khứ cho đến tương lai.

☛ Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Khuê Oán Nâng Cao 

Vương Xương Linh (698 – 757), nhà thơ nổi tiếng thời Thịnh Đường, tự Thiếu Bá, người Kinh Triệu – Tràng An (nay là thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc). Năm 727, đỗ Tiến sĩ rồi lần lượt làm một số chức quan nhỏ, nhiều lần bị cách chức. Sự biến An Lộc Sơn bùng nổ, ông trở về quê. Sau ông bị Thứ sử Hào Châu là Lư Khâu Hiểu giết chết. Ông để lại cho đời 186 bài thơ và một số tập văn, trong đó có một số bài bàn về quy cách làm thơ.

Khuê oán là tác phẩm thuộc mảng đề tài về chiến tranh và phụ nữ – đó là đề tài rất thành công của Vương Xương Linh. Bài thơ thể hiện diễn biến tâm trạng của một người thiếu phụ có chồng đi chinh chiến để lập công danh, chức tước. Người thiếu phụ vô tư, yêu đời chợt nhận ra cảnh ngộ cô đơn của mình khi ngắm sắc xuân của cành dương liễu và hối hận. Và đương nhiên, qua tâm trạng của người thiếu phụ, nhà thơ thể hiện quá trình chuyển biến tư tưởng và sự thay đổi trong nhận thức của mình.

Trong thời kì phong kiến, chiến tranh gây ra những cảnh li tán, lầm than cho nhân dân. Chúng ta đã gặp những cảnh tượng thương tâm trong chùm thơ Tạm biệt của Đỗ Phủ. Nỗi đau chiến tranh cũng đã khắc sâu trong tâm hồn dân tộc Việt với câu ca dao:

Con cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.
Nàng về nuôi cái cùng con,
Để anh đi trảy nước non Cao Bằng.

Vẫn với chủ đề chống chiến tranh nhưng với tố chất của một thi sĩ đời Đường, Vương Xương Linh có một cách thể hiện riêng, rất Đường thi, sang trọng, nhẹ nhàng, tinh tế và rất sâu sắc. Tác giả không đi sâu khai thác những biểu hiện của nỗi oán mà chú ý đến sự chuyển biến tư tưởng.

Bài thơ có bốn câu, chia làm hai phần. Đúng luật Đường thi, câu thứ ba là câu bản lề của sự chuyển đổi tâm trạng và hé mở nội dung tư tưởng của bài thơ.

Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu,
Xuân nhật ngưng trang thướng thuý lâu.
(Thiếu phụ phòng khuê chẳng biết sầu,
Ngày xuân chải chuốt, bước lên lầu.)

Con người và cảnh vật đều thật tươi mới và tràn đầy sức sống. Thiếu phụ vô tư, không vương nỗi buồn sầu, không cô đơn não nề như người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn:

Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong,
Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời

Thiếu phụ say sưa, vui vẻ trong cảnh ngày xuân tươi đẹp, nàng trang điểm và “thướng thuý lâu”, bước lên ngôi lầu sơn màu xanh biếc mà ngắm cảnh. Bức tranh ngày xuân thật viên mãn và tươi đẹp như tuổi xuân đang độ rực rỡ của người thiếu phụ. Gương mặt trang điểm lộng lẫy hoà trong sắc màu xanh biếc của cỏ cây, cảnh vật tạo nên một bức tranh xuân không vương chút âu sầu. Hình ảnh ấy đối lập hoàn toàn với nhan đề Khuê oán. Đó là sự độc đáo của tứ thơ. Mở đầu như thế rồi tạo một sự chuyển đổi đột ngột ở câu thứ ba:

Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
Hối giao phu tế mịch phong hầu.
(Đầu đường chợt thấy màu dương liễu,
Hối để chàng đi kiếm tước hầu.)

Sự chuyển biến tâm lí của thiếu phụ được thể hiện một cách rất tự nhiên. Khi ngắm cảnh ngày xuân, mọi người vẫn thường ngắm mai ngắm liễu. Trong văn học truyền thống của Trung Quốc, mai và liễu là biểu tượng của mùa xuân, sắc xuân và tuổi xuân. Mai liễu còn là hình ảnh thường được dùng để chỉ người con gái đẹp đang ở tuổi xuân ngời. Và liễu còn mang ý nghĩa tượng trưng chỉ sự li biệt. Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà ánh mắt của người thiếu phụ lại đột nhiên dừng ở cây dương liễu.

Các nhà thơ Đường vốn rất quan tâm đến việc lựa chọn những từ ngữ, những hình ảnh có khả năng biểu hiện nhiều nhất, điều đó đã tạo nên tính chất hàm súc, đa nghĩa cho Đường thi. Một “sắc xuân của nhành dương liễu” mà nói được bao điều : là hình ảnh người thiếu phụ đẹp đang tuổi xuân ngời, là mùa xuân – mùa của hạnh phúc, tình yêu, của tình phu thê quấn quýt. Nhưng dương liễu còn gợi nỗi niềm li biệt.

Vì thế, khi “chợt nhìn sắc liễu”, tâm trạng của người thiếu phụ hoàn toàn thay đổi. Lúc đầu, cảnh sắc ngày xuân tươi đẹp đã cộng hưởng tâm hồn đang tràn đầy sức sống của nàng mà khiến cho nàng “bất tri sầu”. Thế nhưng ngược lại, nhìn cây dương liễu đang khoe sắc khiến nàng chợt nhận ra cảnh ngộ thực của mình. Cây dương liễu gợi nhớ giây phút chia tay, gợi những suy nghĩ về tuổi xuân đang tràn trề sức sống và sẽ qua đi, gợi đến cảnh cô đơn.

Nếu hai câu đầu là hình ảnh một thiếu phụ trong sáng, hồn nhiên, vô tư trong cuộc sống đủ đầy, thanh lịch, thì ở câu thơ thứ tư là một thiếu phụ đầy tâm trạng. Một con người với hai trạng thái tâm lí khác nhau xuất hiện trong bốn câu thất ngôn, đó là cái độc đáo của thơ Đường. Từ “hốt kiến” chuyển sang “hối giao” một cách hợp lí. Một từ “hối giao” (Tản Đà dịch là “nghĩ dại”, Trần Trọng San dịch là “tiếc”) nói lên bao nhiêu tâm tư, bao nhiêu trăn trở của người thiếu phụ có chồng đang mải mê đi kiếm tước hầu. Hai cách dịch của hai dịch giả thể hiện hai suy nghĩ trong tâm tư của người thiếu phụ.

“Tiếc” đã khuyên chồng đi tòng quân mong lập công danh để tuổi xuân trôi đi trong cô đơn. “Nghĩ dại” lại gợi đến suy nghĩ bi quan, hốt hoảng của người thiếu phụ về số phận chông chênh của người chồng nơi chiến trận xa xôi. Ở nơi chiến trường xa xôi đầy nguy hiểm ấy, cơ hội lập được công danh thì ít mà hiểm nguy đến tính mạng thì nhiều.

Tâm trạng bộn bề, nỗi lòng đau đớn của người thiếu phụ có chồng đi chinh chiến nơi xa mà Đặng Trần Côn diễn tả trong Chinh phụ ngâm đã được Vương Xương Linh dồn cả vào hai từ “hối giao”. Vì thế câu thơ mang sức nặng tư tưởng của cả bài thơ, thể hiện một chủ đề lớn và gợi ra bao nhiêu suy ngẫm.

Vương Xương Linh viết bài thơ này trước cuộc binh biến An Lộc Sơn, khi nhà Đường còn đang hùng mạnh và tiến hành những cuộc chiến tranh để mở rộng biên cương. Việc này đã khiến rất nhiều người bất bình, Đỗ Phủ đã từng băn khoăn:

Biên đình lưu huyết thành hải thuỷ,
Vũ hoàng khai biên ý vị dĩ!

(Ngoài biên cương máu đã chảy thành biển mà ý định mở rộng biên cương của nhà vua vẫn chưa nguôi!) (Binh xa hành). Trong hoàn cảnh ấy, giá trị nổi bật của bài thơ là tiếng nói chống chiến tranh. Giá trị nhân văn của thi phẩm thể hiện ở sự trân trọng khát vọng hạnh phúc chính đáng của người thiếu phụ, ở tiếng nói lên án chiến tranh phi nghĩa đã cướp đi của con người không chỉ tuổi xuân, hạnh phúc mà còn là cả cuộc đời.

Với việc thể hiện sự chuyển biến tâm lí của người thiếu phụ, nhà thơ đã thể hiện quá trình chuyển biến nhận thức của chính mình: từ con người có tinh thần chủ chiến, khao khát lập công danh bằng đao kiếm trên lưng ngựa đến con người có tư tưởng phản chiến khi nhận ra được sự tàn khốc của chiến tranh.

☛ Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Khuê Oán Đặc Sắc

Vương Xương Linh, tự là Thiếu Bá; là nhà thơ Trung Quốc thời Thịnh Đường. Ông làm nhiều thơ hay, được người đời gọi là Thi thiên tử, là Thi gia phu tử Vương Giang Ninh. Ông có nhiều tác phẩm kiệt xuất trong đó nổi tiếng nhất là tác phẩm “Khuê Oán”.

Phiên âm chữ Hán:
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu,
Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu.
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
Hối giao phu tố mịch phong hầu.

Dịch thơ tiếng Việt:

Thiếu phụ phòng khuê chẳng biết sầu,
Ngày xuân chải chuốt, bước lên lầu.
Đầu đường chợt thấy màu dương liễu,
Hối để Chàng đi kiếm tước hầu.
(Nguyễn Khắc Phi dịch)

Mở đầu bài thơ tác giả đã giới thiệu cho người đọc thấy được hình ảnh của một người phụ nữ rất xinh đẹp thuộc dòng dõi quý tộc. Hiện người phụ nữ này có một người chồng đang chiến đấu nơi phương xa. Vì lẽ sinh ra trong nhung gấm lụa là nên người phụ nữ này không hiểu được những đau thương của chiến tranh. Chính điều đó mà tác giả viết người phụ nữ này rất là hồn nhiên và vô lo vô nghĩ vẫn còn trau chuốt làm đẹp cho bản thân của mình.

“Thiếu phụ phòng khuê chẳng biết sầu,
Ngày xuân chải chuốt, bước lên lầu.”

Phòng khuê là tổ ấm hạnh phúc gia đình. Suốt một thời son trẻ, mỗi lần trang điểm xong, nàng bước lên lầu đẹp để ngắm nhìn cảnh sắc thiên nhiên và cũng như để mong chờ nhìn ra phía xa xăm mong người chồng phương xa trở về với mình. Ở đây tác giả tả đồng thời cả cảnh lẫn người trong mùa xuân xanh non tươi mát ấy là hình ảnh của một người phụ nữ xinh đẹp trẻ trung lại càng thêm lộng lẫy trang hoàng hơn.

Vậy mà ông trời như đang trêu đùa với lòng người, mùa xuân là sự tươi đẹp của hạnh phúc lứa đôi còn người phụ nữ này lại phòng khuê chiếc bóng một mình. Mặc dù vô tư hồn nhiên đến vậy nhưng ắt hẳn tâm trạng của người phụ nữ có chồng ở phương xa cũng buồn và nhớ thương như những người phụ nữ khác.

Đầu đường chợt thấy màu dương liễu,
Hối để chàng đi kiếm tước hầu.

Màu dương liễu xanh mơn mởn biểu trưng cho tuổi trẻ đầy tình yêu và sức sống. Theo tục lệ thì lúc chia tay tiễn người yêu ra chiến trường người phụ nữ phải tặng người đàn ông một nhành dương liễu để mong đến ngày đoàn tụ. Người phụ nữ ngồi thẫn thờ nhìn về phía xa xăm mà tự nhủ với bản thân không biết chồng mình đang ở chốn nào? Sống chết ra sao rồi? Cảnh ấy mà gợi tình, tâm trạng của người phụ nữ pha lẫn những nhớ thương và nuối tiếc. Người phụ nữ tiếc rằng mình sao lúc đó không giữ chồng ở lại mà cứ để chồng đi như vậy.

Rồi sau đó người phụ nữ chợt nhận ra tuổi xuân đã trôi đi thật nhanh đến mức người chẳng hay, giờ đây nhan sắc xinh tươi đã bị phai nhạt dần theo thời gian sau những năm tháng mong mỏi đợi chờ chồng đầy cô đơn và hiu quạnh. Thực tế đầy phũ phàng ấy người phụ nữ tự trách mình, trách duyên phận của mình là khuê oán.

Đồng thời qua đây tác giả muốn nói lên hạnh phúc mỏng manh của đôi lứa khi đất nước gặp chiến tranh loạn lạc. Thương yêu đến mấy cũng phải cách xa. Mà khi đi ra chiến trường nào ai biết ngày trở về. Cuộc sống thật trớ trêu cứ ngỡ tưởng được hạnh phúc bên nhau vậy mà giờ đây chỉ còn mình người phụ nữ cô đơn lẻ loi suốt ngày ngóng trông chồng trở về.

Tác giả thật độc đáo và tinh tế chỉ với bốn câu thơ thất ngôn tứ tuyệt mà đã bao hàm hết nội dung súc tích, ngôn ngữ giàu sức gợi. thể hiện tình yêu hòa quyện giữa cảnh và người để người đọc dễ cảm nhận được ý thơ sâu sắc.

Qua bài thơ này ta thấy rõ được nỗi buồn, cô đơn của người người phụ nữ có chồng đi tòng quân. Ngày ngày người phụ nữ chỉ mong ước chồng trở về để gia đình đoàn tụ. Đồng thời tác giả cũng nên án tố cáo chiến tranh khiến gia đình, hạnh phúc lứa đôi bị chia xa.

Thohay.vn Chia Sẽ ❤️️Bài Thơ Thời Hoa Đỏ ❤️️ [Thanh Tùng] ️ Ý Nghĩa, Cảm Nhận

Viết một bình luận