Mùa Xuân Nho Nhỏ [Thanh Hải] ❤️️ Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích ✅ Chia Sẻ Bạn Đọc Về Hoàn Cảnh Sáng Tác, Bố Cục, Đọc Hiểu, Ý Nghĩa Nhan Đề.
NỘI DUNG CHÍNH
Nội Dung Bài Thơ Mùa Xuân Nho Nhỏ
Mùa xuân nho nhỏ của nhà thơ Thanh Hải được sáng tác trong một hoàn cảnh đặc biệt, qua đó thể hiện được tình yêu thiên nhiên, đất nước của nhà thơ. Mời các bạn cùng đọc hết nội dung bài thơ Mùa xuân nho nhỏ bên dưới.
Mùa xuân nho nhỏ
Tác giả: Thanh Hải
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao…
Ðất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Ðất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến.
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.
Mùa xuân – ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.
Chia sẻ cho bạn đọc tác phẩm 💚 Bài Thơ Con Cò Của Chế Lan Viên 💚 Những Mẫu Phân Tích Hay Nhất
Về Nhà Thơ Thanh Hải
Sau đây là đôi nét thông tin về nhà thơ Thanh Hải.
- Thanh Hải (1930 – 1980) quê ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Ông hoạt động văn nghệ trong suốt những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ và là một trong số những cây bút có công xây dựng nền văn học cách mạng ở miền Nam thời kỳ đầu.
- Thanh Hải sở trường về thơ năm chữ.
- Thơ của Thanh Hải có ngôn ngữ trong sáng, giàu âm điệu nhạc điệu, cảm xúc thiết tha, chân thành và lắng đọng.
- Sáng tác thơ của ông gồm có: “Những đồng chí trung kiên”, “Huế mùa xuân”, “Dấu võng Trường Sơn”… Các bài thơ: “Mồ anh hoa nở” “Cháu nhớ Bác Hồ”, “Mùa xuân nho nhỏ”, … là những bài thơ kiệt tác làm vẻ vang một hồn thơ xứ Huế.
Về Tác Phẩm Mùa Xuân Nho Nhỏ
Về tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ, bài thơ này của Thanh Hải được viết theo thể thơ năm chữ, gần với các làn điệu dân ca.
Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với đất nước, cuộc đời cũng như thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ được cống hiến cho đất nước, góp “một mùa xuân nho nhỏ của mình” vào mùa xuân lớn của dân tộc.
Nhất định đừng bỏ lỡ tác phẩm 🌼 Khóc Dương Khuê 🌼 Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích
Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Mùa Xuân Nho Nhỏ
Cùng Thohay.vn khám phá hoàn cảnh sáng tác bài thơ Mùa xuân nho nhỏ nhé.
- Hoàn cảnh lịch sử: Năm 1980, đất nước lúc này đã hoàn toàn thống nhất, non sông thu về một mối, cả đất nước sục sôi khí thế xây dựng cuộc sống mới.
- Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Mùa xuân nho nhỏ: Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ được Thanh Hải sáng tác vào tháng 11/ 1980 trong hoàn cảnh đất nước đang hồi sinh nhưng cũng vào lúc này nhà thơ mắc bệnh hiểm nghèo, ông đã sáng tác bài Mùa xuân nho nhỏ ngay trên chính giường bệnh của mình.
Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Mùa Xuân Nho Nhỏ
Ý nghĩa nhan đề bài thơ Mùa xuân nho nhỏ cụ thể đó là:
- “Mùa xuân nho nhỏ” là một sáng tác độc đáo, một phát hiện mới mẻ của nhà thơ.
- Hình ảnh “Mùa xuân nho nhỏ” là biểu tượng cho những gì tinh tuý, đẹp đẽ nhất của sự sống và cuộc đời mỗi con người.
- Thể hiện quan điểm về sự thống nhất giữa cái riêng với cái chung, giữa cá nhân và cộng đồng.
- Thể hiện nguyện ước của nhà thơ muốn làm một mùa xuân, nghĩa là sống đẹp, sống với tất cả sức sống tươi trẻ của mình nhưng rất khiêm nhường là một mùa xuân nhỏ góp vào mùa xuân lớn của thiên nhiên, đất nước, của cuộc đời chung và khát vọng sống chân thành, cao đẹp của nhà thơ.
Có thể bạn sẽ quan tâm 🌱 Bài Thơ Ánh Trăng [Nguyễn Duy] 🌱 Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích
Giá Trị Tác Phẩm Mùa Xuân Nho Nhỏ
Ngay sau đây là những giá trị tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ.
Giá trị nội dung
- Bài thơ là tiếng lòng yêu mến và gắn bó thiết tha với đất nước, với cuộc đời; thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ muốn được cống hiến, đóng góp một mùa xuân nho nhỏ vào mùa xuân lớn lao của dân tộc.
- Từ đó mở ra những suy nghĩ về ý nghĩa và giá trị cuộc sống của mỗi cá nhân là sống có ích, có cống hiến cho cuộc đời chung.
Giá trị nghệ thuật
- Thể thơ năm tiếng, có nhạc điệu trong sáng, thiết tha gần gũi với dân ca
- Nhiều hình ảnh đẹp, giản dị, gợi cảm
- Nhiều so sáng và ẩn dụ sáng tạo
Bố Cục Bài Thơ Mùa Xuân Nho Nhỏ
Bố cục bài thơ Mùa xuân nho nhỏ được chia làm 4 phần:
- Phần 1. Khổ thơ đầu: Cảm xúc trước mùa xuân của thiên nhiên, đất trời.
- Phần 2: Tiếp theo đến “Cứ đi lên phía trước”: Hình ảnh mùa xuân đất nước.
- Phần 3. Tiếp theo đến “Dù là khi tóc bạc”: Những suy nghĩ và ước nguyện của nhà thơ trước thiên nhiên đất nước.
- Phần 4. Khổ cuối: Lời ca ngợi quê hương, đất nước qua điệu ca Huế.
Xem thêm về phân tích 🔻 Khúc Hát Ru Những Em Bé Lớn Trên Lưng Mẹ 🔻 Sơ Đồ Tư Duy, Dàn Ý
Dàn Ý Mùa Xuân Nho Nhỏ
Có thể bạn sẽ cần dàn ý Mùa xuân nho nhỏ.
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Thanh Hải và bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”.
- Cảm nhận chung về bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”.
II. Thân bài
1. Cảm xúc trước mùa xuân của thiên nhiên
– Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp trong tưởng tượng của tác giả:
- Các hình ảnh đặc trưng của mùa xuân: hoa tím, sông xanh, bầu trời cao rộng
- Âm thanh tiếng chim chiền chiện.
- Giọt long lanh: hình ảnh ẩn dụ chuyển đổi cảm giác độc đáo.
=> Tác giả say đắm trong mùa xuân của thiên nhiên đất trời với tâm thế đón nhận trân trọng
2. Cảm xúc trước mùa xuân của đất nước
- Hình ảnh lộc xuân trên “nương mạ”: cuộc sống lao động xây dựng đất nước của lực lượng sản xuất.
- Hình ảnh người cầm súng: niềm tin vào ngày mai hòa bình.
- Từ láy “hối hả” và “xôn xao”: thể hiện nhịp sống lao động khẩn trương vội vã nhưng nhộn nhịp, vui vẻ kết hợp hài hòa với nhau.
- Đất nước được so sánh với những hình ảnh đẹp đẽ, kì vĩ.
- Nhắc nhở mọi người nhớ về những tháng ngày gian khổ trong chiến đấu, cách mạng
- Phụ từ “cứ” kết hợp với động từ “đi lên” thể hiện quyết tâm cao độ, hiên ngang tiến lên phía trước dù khó khăn gian khổ.
=> Sự lạc quan tin tưởng của nhà thơ ca ngợi sức sống, sự vươn lên mạnh mẽ của đất nước, dân tộc cho dù trước mắt trải qua nhiều khó khăn, gian khổ
3. Mong ước được cống hiến của nhân vật trữ tình
- Điệp ngữ “ta” kết hợp với các hình ảnh “con chim hót, một nhành hoa, nhập vào hòa ca”: hòa nhập giữa cái riêng và cái chung.
- Hình ảnh ẩn dụ “mùa xuân nho nhỏ”: thể hiện khát vọng được cống hiến và sống ý nghĩa được thể hiện một cách thiết tha.
- Điệp ngữ “dù” kết hợp với “tuổi hai mươi” – còn trẻ, “khi tóc bạc” – già dặn: khát vọng được cống hiện trọn đời.
- Khát vọng sống với tình yêu quê hương, đất nước: xin được hát câu Nam ai, Nam bình để đón mùa xuân, ca ngợi mảnh đất Huế mộng mơ.
III. Kết bài
- Đánh giá về bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”.
Soạn Bài Mùa Xuân Nho Nhỏ
Nhất định đừng bỏ lỡ gợi ý soạn bài Mùa xuân nho nhỏ.
👉Câu 1 (trang 57 sgk Ngữ Văn 9 Tập 2):
Mạch cảm xúc của bài thơ : từ cảm xúc trước vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân đất nước, tác giả thể hiện khát vọng được dâng hiến “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của cuộc đời chung.
👉Câu 2 (trang 57 sgk Ngữ Văn 9 Tập 2):
Hai khổ thơ đầu :
– Mùa xuân thiên nhiên, đất nước tràn đầy sức sống :
+ Hình ảnh chọn lọc : dòng sông, bông hoa, chim chiền chiện.
+ Màu sắc tươi thắm, đặc trưng : xanh, tím
+ Âm thanh rộn rã, vui tươi : tiếng chim hót
– Cảm xúc tác giả : Từng giọt long lanh rơi – Tôi đưa tay tôi hứng. Nhà thơ say sưa, ngây ngất, cảm nhận hình ảnh, âm thanh không chỉ bằng thính giác, thị giác mà còn bằng xúc giác.
👉Câu 3 (trang 57 sgk Ngữ Văn 9 Tập 2):
Phân tích đoạn thơ “Ta làm con chim hót… Dù là khi tóc bạc” :
– Nhà thơ khát vọng được hòa nhập vào cuộc sống của đất nước, cống hiến phần tốt đẹp, dù nhỏ bé của mình : muốn làm “con chim hót”, “một cành hoa”, hay “một nốt trầm” trong bản thanh âm tươi đẹp.
– Với lối điệp ngữ, ẩn dụ trong hình ảnh “tuổi hai mươi”, “khi tóc bạc”, ta thấy tinh thần cống hiến vì đất nước của nhà thơ bền bỉ và to lớn nhường nào.
👉Câu 4 (trang 57 sgk Ngữ Văn 9 Tập 2):
Nhạc điệu bài thơ được tạo nên từ nhiều yếu tố :
– Thể thơ năm chữ nhẹ nhàng, tha thiết, gần với dân ca, gieo vần liền tạo sự liền mạch cho cảm xúc.
– Sự hài hòa giữa hình ảnh tự nhiên, giản dị với hình ảnh giàu ý nghĩa biểu trưng. Ngôn ngữ thơ trong sáng, giàu hình ảnh, giàu cảm xúc với các ẩn dụ, điệp ngữ.
– Cấu tứ bài thơ chặt chẽ, dựa trên sự phát triển của hình ảnh mùa xuân.
👉Câu 5 (trang 57 sgk Ngữ Văn 9 Tập 2):
– Nhan đề : là một sáng tạo độc đáo. Khác với Mùa xuân chín (Hàn Mặc Tử), Mùa xuân xanh (Nguyễn Bính),… Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải không chỉ là mùa xuân đất trời mà còn là mùa xuân đời người, nhỏ bé với khát khao cống hiến.
– Chủ đề bài thơ : rung cảm trước mùa xuân thiên nhiên, đất nước và khát vọng cống hiến cho đất nước, cho cuộc đời.
Khám phá thêm bài 🌿 Bài Thơ Bếp Lửa [Bằng Việt] 🌿 Nội Dung, Nghệ Thuật
Giáo Án Mùa Xuân Nho Nhỏ
Cùng tham khảo nội dung giáo án Mùa xuân nho nhỏ bên dưới.
I. Mục tiêu bài học
1. Kiến thức
– Giúp HS nắm được những nét khái quát về tác giả và tác phẩm.Cảm nhận được cảm xúc của tác giả trước mùa xuân của thiên nhiên, đất trời.
2. Kĩ năng
– Rèn kĩ năng đọc diễn cảm, cảm thụ, phân tích bài thơ.
3. Thái độ
– Giáo dục ý thức thái độ trân trọng giá trị đích thực của thơ ca trong cuộc sống.
II. Chuẩn bị tài liệu
1. Giáo viên
SGK, Sgv đọc các tài liệu tham khảo liên quan,chuẩn kiến thức kĩ năng, soạn bài.
2. Học sinh
Chuẩn bị bài, đọc và trả lời câu hỏi bài tập SGK.
III. Tiến trình tổ chức dạy học
1. Ổn định tổ chức
Sĩ số:
2. Kiểm tra đầu giờ: Việc chuẩn bị bài của học sinh.
H: Đọc thuộc lòng bài thơ bài thơ: Viếng lăng Bác? Phát biểu cảm nghĩ của em về bài thơ này?
3. Bài mới: GV giới thiệu bài.
– Điều trăn trở về quan niệm sống được nhà thơ Thanh Hải thể hiện qua bài: Mùa xuân nho nhỏ. Vậy quan niệm sống đó được thể hiện trong bài thơ ntn, chúng ta cùng nhau đi tìm hiểu qua bài học hôm nay.
Hoạt động của GV và HS | Kiến thức cần đạt |
---|---|
HĐ1. HDHS đọc và tìm hiểu chú thích: – GV hướng dẫn đọc – HS đọc bài thơ – Gọi HS đọc chú thích *. H: Nêu những nét khái quát về tác giả? H: Bài thơ được sáng tác vào thời điểm nào? – Yêu cầu hs giải nghĩa một số từ khó SKG | I. Đọc và tìm hiểu chú thích 1. Đọc: a. Tác giả: Thanh Hải (1930- 1980) – Quê: Phong Điền- Thừa Thiên Huế. – Hoạt động v/nghệ từ cuối k/chiến chống Pháp. Trong k/chiến chống Mĩ ông ở lại quê hương h/động. b. Tác phẩm: – Tháng 11- 1980- không bao lâu trước khi tác giả qua đời. c. Từ khó: |
HĐ2. HDHS đọc và tìm hiểu chú thích: H: Bài thơ có thể chia làm mấy phần? Nội dung của từng phần? | II. Đọc hiểu văn bản: 1. Thể thơ, phương thức biểu đạt: – Thơ 5 chữ- Phương thức biểu đạt: Biểu cảm- tự sự miêu tả- nghị luận 2. Bố cục: 4 phần. – P1: Khổ thơ đầu: C/xúc trước mùa xuân của t/nhiên, đất trời. – P2: 2 khổ tiếp theo: Cảm xúc về mùa xuân đất nước. – P3: 2 khổ tiếp theo: Suy nghĩ và ước nguyện của nhà thơ trước mùa xuân đất nước. – P4: Khổ cuối: Lời ca ngợi quê hương, đất nước qua làn điệu dân ca Huế. |
H: H/ảnh mùa xuân của t/nhiên được t/giả phác họa ntn? | 3. Phân tích: 1. Cảm xúc trước mùa xuân của thiên nhiên, đất nước: * Mùa xuân của thiên nhiên: – Mọc…xanh Bông hoa tím biếc Chim chiền chiện hót → Đảo ngữ, tính từ chỉ màu sắc, động từ → gợi lên vẻ đẹp, sức sống rộn rã, âm thanh náo nức của đất trời khi vào xuân. * Cảm xúc của tác giả: – Ơi, hót chi – Từng giọt…rơi… đưa tay hứng → tiếng gọi thân thương, trìu mến. → ẩn dụ cảm giác → sự trân trọng, say mê, náo nức, ngất ngây của t/giả khi thấy đ/trời khi vào xuân. |
4. Củng cố, luyện tập:
– Đọc diễn cảm bài thơ?
– Nêu cảm nhận của em về h/ảnh đ/trời khi vào xuân được m/tả ở khổ thơ đầu?
5. Hướng dẫn HS về nhà:
– Học thuộc lòng bài thơ, nắm nội dung đã học và soạn tiếp phần còn lại → Giờ sau học tiếp bài.
Sơ Đồ Tư Duy Mùa Xuân Nho Nhỏ
Chia sẻ cho bạn đọc các sơ đồ tư duy Mùa xuân nho nhỏ.
Tìm hiểu thêm phân tích 🌟 Đoàn Thuyền Đánh Cá 🌟 Khám Phá Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích
5 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Mùa Xuân Nho Nhỏ Hay Nhất
Ngay sau đây là 5 mẫu phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ hay nhất không nên bỏ lỡ.
Phân Tích Bài Thơ Mùa Xuân Nho Nhỏ Chọn Lọc – Mẫu 1
Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ là tác phẩm cuối cùng của nhà thơ Thanh Hải, được viết vào tháng 11 năm 1980 khi nhà thơ đang nằm trên giường bệnh, bài thơ của ông đã nêu bật lên một cảm hứng đón nhận thanh sắc, trời đất mùa xuân, cảm nhận được sự tự hào về bước đi lên thanh xuân của đất nước.
Đồng thời, bài thơ là tiếng lòng tha thiết, yêu mến và gắn bó với đất nước, gắn bó với cuộc đời và thể hiện chân thành một ước nguyện hiến dâng.
Mở đầu bài thơ là bức tranh thiên nhiên xứ Huế đặc sắc. Bức tranh xuân được mở ra với không gian thoáng đạt: dòng sông, mặt đất, bầu trời. Dòng sông xanh, dòng sông thơ mộng hòa sắc một bông hoa tím biếc trên cao những cánh chim chiền chiện chao liệng hết vang trời làm xáo động cả bức tranh xuân. Dòng sông, tiếng chim là những hình ảnh thực nhưng lại được xen vào hình ảnh ảo…
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc”
Cảm xúc của tác giả trước cảnh mùa xuân thiên nhiên được diễn tả tập chung ở chi tiết rất giản dị:
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.”
Lời thơ có hai cách hiểu… Dù hiểu theo cách nào thì lời thơ vẫn biểu hiện niềm say sưa ngây ngất của nhà thơ trước vẻ đẹp thiên nhiên đất trời vào xuân.
Khổ thơ 2, 3 từ mùa xuân thiên niên nhà thơ hướng cảm xúc của mình về mùa xuân đất nước:
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao…
Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.”
Mùa xuân trước hết là mùa xuân của người cầm súng, người ra đồng những con người tiêu biểu cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Những con người gieo mùa xuân hòa bình ấm lo cho đất nước, ý nghĩa ấy kết đọng ở chữ “lộc” được lặp lại hai lần.
Chữ “lộc” nghĩa thực là mùa xuân cây cối đâm chồi nảy lộc. Chuyển nghĩa: Lộc trong câu thơ là búp non trên cành lá ngụy trang của người chiến sĩ ra trận, là lộc non của mạ gieo khắp cánh đồng, lộc ấy chính là sức sống vươn lên phát triển của thế giới.
Hình ảnh sóng đôi, điệp từ, điệp ngữ, phép ẩn dụ, so sánh tạo lên nhịp điệu mùa xuân hối hả hào hùng và diễn tả trực tiếp không khí lên đường khẩn trương rộn ràng háo hức.
Mặc dù đất nước bốn ngàn năm vất vả gian lao của những người bền bỉ vững vàng. Ngôi sao ấy luôn tỏa sáng soi đường cho thế hệ này nối tiếp thế hệ kia chung tay góp sức xây dựng đất nước.
Trong không khí tưng bừng hối hả của mùa xuân đất nước nhà thơ muốn hòa vào cống hiến cùng mọi người. Nguyện ước của nhà thơ được làm con chim mang giọng hát trong trẻo tươi vui dâng cho đời một tiếng ca vui muốn làm cành hoa tỏa hương sắc trong muôn sắc màu, muốn làm nốt trầm xao xuyến tha thiết đầy ý nghĩa trong bản hòa ca cuộc đời, muốn làm một mùa xuân nho nhỏ góp vào mùa xuân lớn lao dân tộc mà không phô trương lặng lẽ dâng cho đời.
“Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”
Nghĩa là ngay cả lúc này sự sống đang vơi dần vẫn muốn cống hiến. Đó là lẽ sống cao đẹp, sống có ích biết dâng hiến cho cuộc đời tất cả những gì tinh túy nhất. Vậy là cái tôi chữ tình bộc lộ cảm xúc riêng tư trước mùa xuân thiên nhiên đất trời chuyển sang xưng ta diễn tả sự hòa hợp của cái tôi nhỏ bé với cái ta rộng lớn.
Nguyện ước của nhà thơ không chỉ riêng một người mà còn là nguyện ước chung của tất cả mọi người. Những câu thơ năm chữ kết hợp điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc cú pháp tạo ra nhịp thở liền mạch sôi nổi, trẻ trung diễn tả cảm xúc vừa chân thành vừa thiết tha trào dâng với khát vọng mãnh liệt. Trước lúc đi xa nhà thơ vẫn cháy lên khát vọng sống và tình yêu quê hương đất nước.
“Mùa xuân – ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.”
Nhà thơ muốn hát câu Nam ai, Nam bình để đón mùa xuân, ngợi ca đất Huế biểu hiện niềm tin yêu gắn bó sâu nặng của tác giả với quê hương đất nước, trở thành khúc ca xuân.
Bằng sự rung cảm và mãnh liệt của mình, nhà thơ Thanh Hải đã để lại trong lòng người đọc những suy nghĩ, những bài học vô cùng sâu lắng. Càng đọc thì người ta càng cảm thấy cuộc sống có rất nhiều ý nghĩa, bởi vì khi ta sống, chúng ta được hết mình và cống hiến cho tổ quốc Việt Nam dấu yêu. Cảm ơn tác giả Thanh Hải đã cho chúng ta có một cái nhìn mới mẻ, có một cảm nhận tinh tế về cuộc sống tươi đẹp này.
Phân Tích Bài Thơ Mùa Xuân Nho Nhỏ Nổi Bật – Mẫu 2
Thanh Hải là một người chuyên sáng tác thơ. Ông có rất nhiều bài thơ hay và tôi thích nhất là bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của ông. Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được sáng tác vào năm 1980 khi ông còn nằm trên giường bệnh, bài thơ là tiếng lòng tha thiết gắn bó với cuộc đời thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ được cống hiến cho đất nước.
“Mọc giữa dòng sông xanh.
…
Nhịp phách tiền đất Huế”.
Vậy thông qua bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” Thanh Hải đã muốn gửi gắm đến chúng ta những suy nghĩ gì?
Thật vậy, bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là một bài thơ hay. Mở đầu bài thơ là bức tranh mùa xuân của thiên nhiên được phác họa bằng vài nét chấm phá:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi! con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”.
Với những hình ảnh nho nhỏ, thân quen, bình dị, nhà thơ đã vẽ nên bức tranh thật đẹp. Chỉ bằng vài nét phác họa, tác giả đã vẽ ra một không gian của mùa xuân, rộng lớn với dòng sông mặt đất, bầu trời bao la với sắc màu tươi thắm, với những âm thanh vang vọng của mùa xuân mơ mộng, đậm đà phong vị xứ Huế.
Bức tranh mùa xuân ở đây chỉ toàn là màu sắc dịu nhẹ một màu xanh biêng biếc của dòng sông quê, một màu tím ngát của cánh hoa mong manh đang mọc giữa dòng sông ấy. Nghệ thuật đảo ngữ giữa hai câu thơ làm nổi bật hình ảnh của sắc hoa màu tím.
Màu tím gợi lên một sắc xuân dịu dàng, đằm thắm. Màu tím là màu đặc trưng của Huế. Bức tranh xuân bỗng rộn rã hơn lên bởi tiếng hót của chim chiền chiện. “Chiền chiện” là một loài chim hót vào mùa xuân.
Từ cảm thán “ơi!” là tiếng gọi trìu mến, thân thương của nhà thơ. Mấy tiếng “hót chi mà…” như một lời trách yêu nghe thât dịu dàng và duyên dáng. Bản nhạc của con chim chiền chiện như vang động cả đất trời, tràn ngập khắp không gian, làm bừng lên một niềm vui bất diệt.
Chỉ bằng vài nét phác họa đơn sơ: với một dòng sông, một bông hoa, một tiếng chim, một màu xanh, một sắc tím, Thanh Hải đã hoàn chỉnh bức tranh xuân của quê hương mình thật nhẹ nhàng và quyến rũ lạ thường.
“Giọt long lanh” ở đây có thể là giọt sương sớm của mùa xuân, có thể là những giọt mưa xuân phơ phất hoặc có thể nói là những giọt âm thanh của tiếng chim chiền chiện đang đọng lại trong không gian rồi từ từ rơi xuống cho nhà thơ xòe hứng bằng đôi tay trân trọng của mình.
Chỉ có sáu câu thơ mà có đủ cả âm thanh, màu sắc, dòng sông, bông hoa, tiếng chim, bầu trời cao lồng lộng. Cảnh mùa xuân mở ra một không gian phóng khoáng nhưng lại dịu dàng, tươi mát, một không gian rất Huế. Trong không khí mùa xuân rộn ràng và tưng bừng, tác giả nhắc đến người cầm súng và người ra đồng, họ là hai lực lượng tiêu biểu nhất cho đất nước, làm hai nhiệm vụ quan trọng nhất đó là sản xuất và chiến đấu:
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc dắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao”.
Ngày xuân, người ta đi hái lộc, “lộc” theo nghĩa hẹp là chồi non, nghĩa rộng là sự may mắn. Lộc của người lính là lá ngụy trang trên lưng. Lộc của người nông dân là nương mạ xanh rờn.
Cặp câu thơ đối xứng nhịp nhàng, kết hợp với điệp ngữ “mùa xuân” và điệp từ “lộc” được láy đi láy lại nhiều lần, làm cho không khí xây dựng và bảo vệ đất nước như càng khẩn trương, gấp gáp hơn. Và không khí háo hức sôi nổi ấy được miêu tả bằng các từ “hối hả, xôn xao” như càng tăng thêm sức gợi tả.
Sau đó, nhà thơ nghĩ về mùa xuân của đất nước:
“Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”.
Viết về đất nước, nhà thơ chỉ viết có bốn câu thơ nhưng bốn câu thơ đó thật tự hào. Tự hào về quá khứ oai hùng và khẳng định về một tương lai tươi sáng của quê hương mình. Từ ngữ giản dị “bốn nghìn năm” giống như nhà thơ đang kể chuyện tâm tình về đề tài lịch sử.
Mấy ngàn năm nước Việt ta đã trải qua biết bao gian lao, vất vả – kể từ lúc vua Hùng dựng nước rồi đến lúc nhân dân ta cùng nhau giữ lấy nước. Ta cũng bắt gặp lòng tự hào ấy trong nhiều tác phẩm văn học. Đối lập với hai câu thơ nói về quá khứ là hai câu thơ ca ngợi tương lai.
Tại sao nhà thơ không dùng từ “vẫn” hay từ “sẽ” mà nhà thơ lại dùng từ “cứ”. “Cứ đi lên phía trước” chỉ sự tử tế đi lên một cách hiên ngang, mạnh mẽ không có một sức mạnh nào ngăn cản được. Với nghệ thuật so sánh “đất nước như vì sao”, hình ảnh đất nước trở nên gần gũi, gợi cảm. Đất nước đẹp như ánh sao sáng lung linh trên bầu trời cao vời vợi mà chúng ta đang ngẩng cao đầu chiêm ngưỡng.
Mở đầu bài thơ, tác giả xưng tôi. Đến cuối bài thơ tác giả lại xưng “ta”. Cái “ta” bây giờ vừa mang cái “ta” cá thể của riêng tác giả vừa là cái “ta” chung của chúng ta, của tất cả mọi người.
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến”.
Đại từ “ta” mang sắc thái trang trọng, kiêu hãnh, cấu trúc “ta làm”, “ta nhập” nghe như lời căn dặn. Nhà thơ đang căn dặn mình và căn dặn chúng ta vì trách nhiệm và nghĩa vụ với quê hương. Trong cái lớn lao chung của mùa xuân xinh đẹp, nhà thơ chỉ góp mình như một tiếng chim, trong giọng hót của muôn chim.
Một cành hoa, trong muôn sắc hương hoa, một nốt nhạc trầm khiêm tốn, trong muôn nốt nhạc bản tình ca. Cánh chim, cành hoa rất nhỏ bé, nhưng chim vô tư cống hiến những tiếng hót hay cho đời.
Nốt nhạc trầm không đủ tạo nên một bản nhạc hay nhưng nó cũng góp phần tạo nên những cung bậc khác nhau của bản nhạc. Mượn cánh chim trời, đóa hoa thơm, nốt nhạc trầm, để bày tỏ lòng mình. Nhà thơ muốn được góp phần công sức bé nhỏ của mình trong công cuộc xây dựng quê hương. Qua đó, ta thấy được khát vọng sống có ích cho đời của tác giả. Khát vọng đó thể hiện rõ ý thức đúng đắn trong mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, giữa “tôi” và “chúng ta”.
Tóm lại, qua những điều chúng ta vừa bàn luận, bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là tiếng lòng tha thiết, gắn bó với đất nước, với cuộc đời, thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ được cống hiến cho đất nước, góp một mùa xuân nhỏ của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc.
Phân Tích Bài Thơ Mùa Xuân Nho Nhỏ Đặc Sắc – Mẫu 3
Con người được ban tặng cho cuộc sống để sống, tận hưởng đồng thời cần biết tận hiến. Sống một cuộc đời có ý nghĩa là nguồn cảm hứng mãnh liệt nhất thôi thúc nhà thơ Thanh Hải cầm bút viết bài thơ: “Mùa xuân nho nhỏ”. Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được sáng tác vào tháng 11 năm 1980.
Điều đặc biệt ở chỗ, đó là khoảnh khắc hấp hối của thi nhân trên giường bệnh. Thi phẩm vừa là tiếng lòng thi sĩ, vừa là thông điệp nhân sinh sâu sắc mà Thanh Hải dành tặng cho độc giả hôm nay và cả mai hậu.
Thanh Hải là một trong những cây bút nổi bật cho hồn thơ thời chống Mỹ cứu nước. Thơ ông giản dị, đôn hậu và chân thành. Với hồn thơ giản dị, mộc mạc đậm tính Huế, nhà thơ thực sự đã đã mang đến vẻ đẹp cho cuộc sống này. Trước lúc lâm chung, Thanh Hải vẫn dành trọn từng giây từng phút cho văn chương nghệ thuật, cho đời và cho người. Bài thơ: “Mùa xuân nho nhỏ” ra đời trong hoàn cảnh như vậy nên nhan đề bài thơ cũng đặc biệt ý nghĩa.
Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là một sáng tác độc đáo, một phát hiện mới mẻ của nhà thơ. Hình ảnh “Mùa xuân nho nhỏ” là biểu tượng cho những gì tinh túy, đẹp đẽ nhất của sự sống và cuộc đời mỗi người. Nó thể hiện quan điểm về sự thống nhất giữa cái riêng với cái chung, giữa cá nhân và cộng đồng.
Đồng thời, qua nhan đề còn thể hiện nguyện ước cao đẹp của nhà thơ. Nhà thơ muốn làm một mùa xuân, nghĩa là sống đẹp, sống với tất cả sức sống tươi trẻ của mình nhưng rất khiêm nhường là một mùa xuân nho nhỏ góp vào mùa xuân lớn của thiên nhiên, đất nước, của cuộc đời chung và khát vọng sống chân thành, cao đẹp của nhà thơ. Đó cũng chính là chủ đề của bài thơ mà nhà thơ muốn gửi gắm.
Trước tiên, nhà thơ bộc lộ cảm xúc của mình trước mùa xuân của thiên nhiên. Bức tranh mùa xuân thiên nhiên trong sáu câu thơ đầu được vẽ bằng vài nét phác họa nhưng rất đặc sắc:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”.
Ngay ở dòng đầu tiên, với phép đảo trật tự ngữ pháp, động từ “mọc” được đặt trước hình ảnh “dòng sông xanh” và “hoa tím biếc”, tác giả đã gợi được cái sức sống trỗi dậy, vươn mình của vạn vật trước mùa xuân. Những câu thơ mở ra không gian cao rộng của bầu trời, rộng dài của dòng sông, màu sắc hài hòa của bông hoa tím biếc và dòng sông xanh – đặc trưng của xứ Huế.
Bức tranh thiên nhiên còn rộn rã, tươi vui với âm thanh tiếng chim chiền chiện hót vang trời, tiếng chim trong ánh sáng xuân lan tỏa khắp bầu trời như động thanh: “từng giọt long lanh rơi”.
Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân đất trời thể hiện cái nhìn trìu mến với cảnh vật, trong những lời bộc lộ trực tiếp như lời trò chuyện với thiên nhiên: “ơi, hót chi…, mà…”. Đặc biệt, cảm xúc của nhà thơ được thể hiện trong một động tác trữ tình đón nhận vừa trân trọng vừa tha thiết trìu mến với mùa xuân: đưa tay hứng từng giọt long lanh của tiếng chim chiền chiện.
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”.
Cụm từ “giọt long lanh” có thể hiểu câu thơ theo nhiều cách khác nhau. Trước hết, “giọt long lanh” là những giọt mưa mùa xuân, giọt sương mùa xuân, trong sáng, rơi xuống từng nhành cây, kẽ lá như những giọt ngọc. Cùng với đó, “giọt long lanh” có thể hiểu theo nghĩa ẩn dụ chuyển đổi cảm giác.
Tiếng chim từ chỗ là âm thanh (cảm nhận bằng thính giác) chuyển thành từng giọt (hình và khối, cảm nhận bằng thị giác), từng giọt ấy lại long lanh ánh sáng và màu sắc, có thể cảm nhận bằng xúc giác: “Tôi đưa tay tôi hứng”.
Dù hiểu theo cách nào thì hai câu thơ vẫn thể hiện cảm xúc say sưa ngây ngất của tác giả trước cảnh đất trời xứ Huế vào xuân, thể hiện mong muốn hòa vào thiên nhiên đất trời trong tâm tưởng giữa mùa đông giá lạnh khiến ta vô cùng khâm phục.
Nếu như ở khổ thơ thứ nhất, ta bắt gặp một bức tranh thiên nhiên đầy xuân sắc xuân tình, thì ở khổ thứ hai, ta không khỏi xao xuyến trước bức tranh lao động tươi vui, phấn khởi của con người:
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao”
Hình ảnh lộc xuân theo người cầm súng, tràn theo người ra đồng làm đẹp ý thơ với cuộc sống lao động và chiến đấu, xây dựng và bảo vệ, hai nhiệm vụ không thể tách rời. Những người chiến sĩ, người nông dân đã đem mùa xuân đến mọi nơi trên đất nước.
Hình ảnh “người cầm súng” khiến chúng ta liên tưởng đến những người chiến sĩ ra trận mà trên vai, trên lưng họ có cành lá ngụy trang. Những cành lá ấy mang lộc biếc, chồi non, mang theo mùa xuân của thiên nhiên, cây cỏ.
Từ “lộc” trong “lộc giắt đầy trên lưng” làm cho người ta liên tưởng đến người lính khi ra trận, mang theo sức sống của cả dân tộc. Chính màu xanh sức sống đó đã tiếp cho người lính có thêm sức mạnh, ý chí để họ vươn xa ra phía trước tiêu diệt quân thù.
Đất nước có được mùa xuân tươi đẹp chẳng phải nhờ các chiến sĩ dũng cảm đó sao? Bên cạnh đó, chúng ta cũng thấy những người lao động, những người ươm mầm cho sự sống, ươm những hạt mầm non trên những cánh đồng quê hương hiện lên thật bình dị: “người ra đồng”.
Khác với từ “lộc” xuất hiện trước đó, từ “lộc” trong “lộc trải dài nương mạ” cho ta nghĩ tới những cánh đồng trải dài mênh mông với những chồi non mới nhú lên xanh mướt từ những hạt thóc giống đầu mùa xuân. Từ “lộc” còn mang ý nghĩa chung, nó là sức sống, sức mạnh của con người. Có thể nói, chính con người đã tạo nên sức sống của mùa xuân thiên nhiên đất nước.
Nhà thơ Thanh Hải phải là một người say mê vẻ đẹp của mùa xuân đất nước, mê luyến sự sống tươi đẹp thì mới cảm nhận mùa xuân đất nước bằng hai từ láy gợi cảm ““hối hả”, “xôn xao”. Từ “Hối hả” gợi ra một không khí vội vã, khẩn trương, liên tục không dừng lại.
Từ “xôn xao” khiến ta nghĩ tới những âm thanh liên tiếp vọng về, hòa lẫn với nhau xao động. Đây chính là tâm trạng tác giả, là cái náo nức trong tâm hồn.
Tiếng lòng của tác giả như reo vui nao nức trước tinh thần lao động khẩn trương của con người. Mùa xuân đất nước được làm nên từ cái hối hả ấy. Sức sống của đất nước, của dân tộc, cũng được tạo nên từ sự hối hả, náo nức của người cầm súng, người ra đồng.
Như vậy, hình ảnh mùa xuân đất nước đã được mở rộng dần. Đầu tiên, nó chỉ gói gọn trên đôi vai, tấm lưng của người ra trận sau đó đã được mở rộng thành một cánh đồng bao la. Nhưng tất cả đều chung một chí hướng, cùng thi đua xây dựng và bảo vệ đất nước trong hoàn cảnh mới. Hẳn Thanh Hải phải có một tấm lòng sâu nặng với non sông gấm vóc Việt mới có những ý thơ hay như vậy.
Nhà thơ tin tưởng, tự hào về tương lai tươi sáng của đất nước cho dù trước mắt còn nhiều vất vả, khó khăn. Và đất nước được hình dung bằng một hình ảnh so sánh thật đẹp mang nhiều ý nghĩa.
“Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”
“Sao” là một nguồn sáng lấp lánh, là vẻ đẹp vĩnh hằng vượt qua mọi giới hạn không gian và thời gian. “Sao” cũng là hình ảnh rạng ngời trên lá cờ Tổ quốc. Qua hình ảnh so sánh: “Đất nước như vì sao”, tác giả Thanh Hải bộc lộ niềm tự hào về một đất nước Việt Nam anh hùng giàu và đẹp.
Đất nước mãi trường tồn, vĩnh cửu cùng vũ trụ, không bao giờ mất đi và cũng không một thế lực nào ngăn cản được. Nhất định đất nước cũng sẽ tỏa sáng như những vì sao trong hành trình đi đến tương lai rực rỡ, đi đến bến bờ hạnh phúc.
Đó là chí quyết tâm, niềm tin sắt đá, niềm tự hào lạc quan của cả dân tộc. Ở câu thơ thứ hai, phụ từ “cứ” kết hợp với động từ “đi lên” thể hiện quyết tâm cao độ, hiên ngang tiến lên phía trước, vượt qua mọi khó khăn. Trong lúc đang bị bệnh nặng nhưng nhà thơ vẫn lạc quan, tin tưởng, ngợi ca sức sống của quê hương, của dân tộc khi mùa xuân về quả thực đáng quý!
Từ cảm xúc dạt dào, ngây ngất trước cảnh sắc đất nước, sâu thẳm trái tim nhà thơ bộc lộ niềm khao khát cao đẹp của một tâm hồn trong ngần. Nhà thơ bộc lộ ước nguyện của mình- muốn làm những việc hữu ích, dâng hiến cho đời. Điều đó được ông bày tỏ qua những hình ảnh tự nhiên, giản dị, đẹp và giàu ý nghĩa. Nhà thơ đã lấy cái đẹp tinh túy của thiên nhiên để diễn tả vẻ đẹp của tâm hồn:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một nhành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến”.
Chao ôi! Nhà thơ muốn “con chim hót” giữa muôn ngàn tiếng chim vô tư cống hiến tiếng hót vui, muốn làm “một nhành hoa” giữa vườn hoa xuân rực rỡ vô tư cống hiến hương sắc cho đời, muốn làm “một nốt trầm” giữa bản hòa tấu muôn diệu, muốn làm “một mùa xuân nho nhỏ” góp vào mùa xuân lớn của đất nước, của cuộc đời chung.
Ở phần đầu bài thơ, tác giả đã phác họa hình ảnh màu xuân bằng các chi tiết bông hoa và tiếng chim hót. Cấu tứ lặp lại như vậy tạo ra sự đối ứng chặt chẽ.
Hình ảnh chọn lọc ấy trở lại đã mang một ý nghĩa mới: niềm mong muốn được sống có ích, cống hiến cho đời là một lẽ tự nhiên. Điệp từ “ta” như một lời khẳng định. Nó không chỉ là lời tâm niệm thiết tha, chân thành của nhà thơ mà nó còn đề cập đến một vấn đề lớn là khát vọng chung của nhiều người.
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.”
Ước nguyện hóa thân đó vô cùng cháy bỏng, nhưng được tác giả âm thầm “lặng lẽ dâng cho đời”. Từ láy “nho nhỏ”, “lặng lẽ” là cách nói khiêm tốn, chân thành mà giản dị, là cách sống cao đẹp. Tác giả muốn mỗi người là một mùa xuân nhỏ hòa vào cuộc sống, là ước nguyện sống có ích, được cống hiến cho đời như Tố Hữu viết trong “Một khúc ca xuân” :
“Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình.”
Có lẽ, đối với Thanh Hải, “Mùa xuân nho nhỏ” là một ẩn dụ đầy sáng tạo, cũng là cách thể hiện thiết tha, cảm động. Nó đã khắc sâu ý tưởng: “Mỗi cuộc đời đã hóa núi sông ta” (Nguyễn Khoa Điềm). Đó không phải mong muốn trong một lúc mà là cả một cuộc đời: “Dù là tuổi hai mươi. Dù là khi tóc bạc”.
Điệp từ “dù là” khiến âm điệu câu thơ tha thiết, sâu lắng, ý thơ được nhấn mạnh làm cho người đọc không chỉ xúc động trước một giọng thơ ấm áp, mà còn xúc động trước lời tâm sự thiết tha của một con người đã từng trải qua hai cuộc kháng chiến, đã cống hiến trọn cuộc đời và sự nghiệp cho cách mạng vẫn tha thiết được sống đẹp, sống có ích với tất cả sức sống tươi trẻ của mình cho cuộc đời chung.
Bài thơ được viết một tháng trước khi nhà thơ trở về với cát bụi nhưng không gợn chút băn khoăn về bệnh tật, những suy nghĩ riêng tư cho bản thân mà chỉ “lặng lẽ cháy bỏng một khát khao được dâng hiến”.
Bài thơ khép lại bằng những câu thơ ngợi ca quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế. Như một nhịp láy lại, khúc dân ca dịu dàng, đằm thắm làm tăng giá trị biểu hiện của các khổ thơ trên, đem lại thi vị Huế trìu mến, tha thiết:
“Mùa xuân ta xin hát
Khúc Nam ai Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nhịp phách tiền đất Huế”.
Đoạn thơ kết thúc như một khúc hát ca ngợi mùa xuân, để lại dư vị sâu lắng. Nhà thơ muốn hát lên điệu Nam ai, Nam bình, điệu dân ca thiết tha của xứ Huế để đón mừng mùa xuân. Câu ca nghe như một lời từ biệt để hòa vào vĩnh viễn.
Nhưng đây không phải là lời ca buồn thuở trước mà “nhịp phách tiền đất Huế” nghe giòn giã, vang xa – “Nước non ngàn dặm mình. Nước non ngàn dặm tình” còn ngân nga mãi mãi. Phải yêu đời lắm, phải lạc quan lắm nhà thơ Thanh Hải mới có thể hát lên trong hoàn cảnh đang ốm nặng như vậy.
Điều đó làm ta càng thêm yêu quý tiếng hát và tấm lòng nhà thơ. Như vậy, xuyên suốt bài thơ không chỉ có hình tượng mùa xuân mà còn nhiều hình tượng khác. Từ tiếng chim chiền chiện tượng trưng cho khúc hát của đất trời đến làm một nốt trầm nhập vào bản hòa ca của đất nước, và đến đây là khúc hát tạo ấn tượng cho bài ca không dứt, một bài ca yêu cuộc sống.
Bài thơ được nhạc sĩ Trần Hoàn phổ nhạc thành bài hát và trở thành một khúc ca xuân quen thuộc, xúc động, còn mãi với đời.
Mạch cảm xúc trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được diễn đạt thành công, mang lại nhiều dư vị trong lòng người đọc là nhờ sự thành công về mặt nghệ thuật. Bài thơ được làm bằng thể thơ năm chữ gần với điệu dân ca, âm hưởng trong sáng, nhẹ nhàng, tha thiết, điệu thơ như điệu của tâm hồn, cách gieo vần tạo sự liền mạch của dòng cảm xúc. Hình ảnh thơ cũng rất tự nhiên, giản dị kết hợp với những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng.
Đặc biệt một số hình ảnh cành hoa, cánh chim, mùa xuân được lặp đi lặp lại và nâng cao, gây ấn tượng đậm đà. Cấu tứ bài thơ chặt chẽ, chủ yếu dựa trên sự phát triển của hình tượng mùa xuân: từ mùa xuân đất trời đến mùa xuân của đất nước, đến mùa xuân của con người.
Hơn thế nữa, giọng điệu bài thơ phù hợp với cảm xúc của tác giả: đoạn đầu vui, say sưa với vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, rồi phấn chấn, rồi hối hả trước khi thế lao động của đất nước. Và cuối cùng là trầm lắng, hơi trang nghiêm mà thiết tha bộc bạch, tâm niệm.
Có thể nói, đã có rất nhiều thi nhân Việt Nam bộc lộ xúc cảm trước mùa xuân, nhưng “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải vẫn mang nét độc đáo, riêng biệt. Bài thơ đã để lại cho đời một ý nghĩa thật lớn lao. Tác giả không chỉ biết hiện một bức tranh thiên nhiên làm say mê lòng người mà còn như một dịp cất lên tiếng lòng thiết tha của một người con yêu nước. Đó cũng là lòng say mê, là niềm tin mãnh liệt vào sức sống lâu bền của dân tộc ta.
Phân Tích Bài Thơ Mùa Xuân Nho Nhỏ Tiêu Biểu – Mẫu 4
Cũng như mùa thu, mùa xuân cũng là chủ đề cho nguồn cảm hứng sáng tác vô tận của biết bao thi sĩ xưa và nay để họ tạo nên chất ngọt của muôn ngàn vần thơ kì diệu khác nhau. Và mùa xuân trong thơ của Thanh Hải cũng thật đẹp, thật nhiều ý nghĩa. Không những đẹp từ cảnh thiên nhiên mà đến tâm hồn Thanh Hải cũng thật đẹp. Đó là mùa xuân trong bài “Mùa xuân nho nhỏ” mà tác giả sáng tác không bao lâu trước khi qua đời (1980).
Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp mùa xuân thiên nhiên, đất nước, con người và khát khao cống hiến của nhà thơ, bộc lộ niềm lạc quan, vui say trong cảnh đất trời vào xuân nhưng cũng đầy trăn trở và suy nghĩ: “Mọc giữa dòng sông xanh… Nhịp phách tiền đất Huế”
Trước lúc vĩnh viễn ra đi ông cũng để lại cho đời những vần thơ thật nhân hậu, thiết tha và thanh thản, không hề gợn một nét u buồn nào của một cuộc đời sắp tắt. Khi cuộc đời mình đã bước vào cuối đông, nhà thơ vẫn nghĩ đến một mùa xuân bất diệt, muôn thuở và nguyện dâng hiến cho đời. Hình ảnh của một mùa xuân rất Huế đã được tác giả mở đầu cho bài thơ:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc.
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời,
Từng giọt long lanh rơi,
Tôi đưa tay tôi hứng”.
Đây là bức tranh mùa xuân được vẽ lên bằng tâm hồn của người nghệ sĩ với những nét chấm phá rất dễ thương rất tuyệt vời, một nét đặc trưng rất Huế đó là hình ảnh màu “tím biếc ” của “một bông hoa” hòa với màu “xanh” của “dòng sông”. Một màu tím thật gợn nhẹ như màu tím hoa sim mọc giữa con sông xanh biếc hay như những tà áo dài với màu tím thật nhẹ nhàng của những cô gái Huế.
Cả hai màu sắc đều rất hài hòa như vẫy gọi mùa xuân. Động từ “Mọc” xuất hiện một cách đột ngột trong câu thơ như một lời báo hiệu của sự trỗi dậy của sức vươn lên mạnh mẽ của một bông hoa giữa bốn bề sông nước mênh mông rộng lớn.
Cả hai hình ảnh “dòng sông xanh” và “hoa tím biết” ấy đã gợi lên trong lòng người đọc một bức tranh mùa xuân tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Bức tranh xứ Huế vào xuân lại càng sinh động hơn bởi tiếng hót líu lo của chim chiền chiện:
“Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời,
Từng giọt long lanh rơi,
Tôi đưa tay tôi hứng”.
Tiếng hót của chim chiền chiện vút cao, lãnh lót như mở thêm không gian, gợi cảm, trong trẻo, đáng yêu. Từ cảm thán “Ơi” đặt ở đầu câu, một từ “chi” đứng sau động từ “hát” đã đưa cách nói ngọt ngào, thân thương của Huế vào nhạc điệu của thơ tạo cho ta một cảm giác bình yên, sự dịu dàng tha thiết của xứ Huế cố đô.
Tác giả lắng nghe tiếng chim hót, nghe bằng tai chưa đủ, nhà thơ còn nghe bằng của trái tim xao động, bằng trí tưởng tượng, bằng sự liên tưởng độc đáo.
Từ “giọt” được hiểu theo rất nhiều nghĩa: có thể là “giọt nắng bên thềm”, giọt mưa xuân, giọt sương sớm, tiếng hót của những chú chim chiền chiện hay là giọt nước mắt hạnh phúc của tác giả? Sự chuyển đổi cảm giác trong tác giả thật kì lạ từ thị giác sang thính giác và giờ là xúc giác “tôi đưa tay tôi hứng”.
Sự chuyển đổi cảm giác này thể hiện sự say sưa, ngây ngất, nâng niu của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời vào xuân. Niềm vui đó, niềm hạnh phúc đó hoàn toàn khác với tâm trạng buồn chán trước cảnh xuân đất nước đang đắm chìm trong đêm trường nô lệ:
Tôi có chờ đâu, có đợi đâu,
Đem chi xuân đến gợi thêm sầu?
Với tôi, tất cả như vô nghĩa,
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!
Với những vần thơ giản dị nhưng Thanh Hải vẫn miêu tả được mùa xuân cách mạng quê hương của tác giả:
“Mùa xuân người cầm súng,
Lộc giắt đầy trên lưng.
Mùa xuân người ra đồng,
Lộc trải dài nương mạ.
Tất cả như hối hả,
Tất cả như xôn xao…”
Hai câu thơ đầu tác giả muốn nhấn mạnh đến mùa xuân của người cầm súng và của người ra đồng biểu thị cho hai nhiệm vụ chính lúc bấy giờ là bảo vệ và xây dựng đất nước. Từ “Lộc” có hai tầng nghĩa: “Lộc” có nghĩa đen là cành non, lá mới, là cành lá ngụy trang trên lưng người chiến sĩ ra mặt trận. “Lộc” còn là mạ non theo chân người nông dân ra đồng ruộng. Với biện pháp ẩn dụ “Lộc” còn mang ý nghĩa tượng trưng hơ.
“Lộc” biểu thị cho một niềm tin, một sức sống, là sự trẻ trung vươn lên quyết giành chiến thắng, giành lấy những kết quả tốt đẹp, đem sự bình yên đến với mọi nhà. Mà chính người chiến sĩ sẽ mang mùa xuân yên vui đến cho mọi nơi trên đất nước.
“Lộc” tượng trưng cho sự ấm no, “trúng mùa” của công việc sản xuất. Người dân lao động muốn mình cống hiến hết sức lực, tài năng vào công việc xây dựng quê hương ngày một giàu mạnh bởi vậy tất cả mọi người đều tự nguyện:
“Tất cả như hối hả,
Tất cả như xôn xao…”
Điệp từ “tất cả” xuất hiện liên tục nhấn mạnh đây là nhiệm vụ chung của mỗi người. Từ láy “hối hả”, “xôn xao” gợi hình gợi tả thể hiện nhịp độ khẩn trương, tươi vui, thể hiện nhiệt tình và trách nhiệm của những con người đang bắt tay xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Sức sống của “mùa xuân đất nước” còn được cảm nhận qua nhịp điệu hối hả, những âm thanh xôn xao của đất nước bốn ngàn năm, trải qua biết bao vất vả và gian lao để vươn lên phía trước và mãi khi mùa xuân về lại được tiếp thêm sức sống để bừng dậy, được hình dung qua hình ảnh so sánh rất đẹp:
“Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”
Một lời tổng kết về lịch sử đất nước “bốn ngàn năm” với bao “vất vả”, “gian lao” bao nhiêu sóng gió thăng trầm. Để ca ngợi truyền thống đó, Nguyễn Trãi đã từng viết:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”
Không tự hào sao được khi đất nước đi lên từ “vất vả”, “gian lao”. Từ ngữ giản dị nhưng cũng đã tái hiện cuộc hành trình lịch sử của dân tộc ta khi chiến tranh cũng như thiên tai “sáng chống bão giông, chiều ngăn nắng lửa”, đói nghèo không buông. Đúng là:
“Việt Nam ơi Việt Nam
Tiếng súng tiếng gươm không bao giờ dứt
Bởi Tổ quốc ta không bao giờ chịu nhục
Dân tộc ta không chịu cúi đầu”
Thế nhưng đất nước vẫn vươn mình về phía trước, vẫn rạng ngời “như vì sao”
“Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”
Cách so sánh đầy ấn tượng. Một vì sao lấp lánh không chói lọi nhưng bền vững, trường tồn. Vì sao ấy còn là lá cờ Tổ quốc cứ tung bay, hãnh diện cùng bạn bè năm châu bốn bể. Từ “cứ” khẳng định mạnh mẽ quy luật tất yếu “cứ đi lên phía trước” của dân tộc ta. Đó là niềm tin của tác giả vào sức sống của dân tộc, vào sự phát triển không ngừng của đất nước.
Từ cảm xúc của thiên nhiên, đất nước, mạch thơ đã chuyển một cách tự nhiên sang bày tỏ suy ngẫm và tâm niệm của nhà thơ trước mùa xuân của đất nước.
Mùa xuân của thiên nhiên, đất nước thường gợi lên ở mỗi con người niềm khát khao và hi vọng; với Thanh Hải cũng thế, đây chính là thời điểm mà ông nhìn lại cuộc đời và bộc bạch tâm niệm thiết tha của một nhà cách mạng, một nhà thơ đã gắn bó trọn đời với đất nước, quê hương với một khát vọng cân thành và tha thiết:
“Ta làm con chim hót,
Ta làm một cành hoa.
Ta nhập vào hoà ca,
Một nốt trầm xao xuyến”
Lời thơ như ngân lên thành lời ca. Nếu như đoạn đầu Thanh Hải xưng tôi kín đáo và lặng lẽ thì đến đoạn này ông chuyển giọng xưng ta. Vì sao có sự thay đổi như vậy? Ta ở đây là nhà thơ và cũng chính là tất cả mọi người. Khát vọng của ông là được làm con chim hót, một cành hoa để hòa nhập vào “mùa xuân lớn” của đất nước, góp một nốt trầm vào bản hòa ca bất tận của cuộc đời.
Hiến dâng “mùa xuân nho nhỏ” nghĩa là tất cả những gì tốt đẹp nhất, dù nhỏ bé của mỗi người cho cuộc đời chung cho đất nước. Điều tâm niệm đó thật chân thành, giản dị và tha thiết – xin được làm một nốt trầm trong bản hoà ca của cuộc đời nhưng là “một nốt trầm xao xuyến”. Điều tâm niệm của tác giả: “lặng lẽ dâng cho đời” chính là khát vọng chung của mọi người, ở mọi lứa tuổi, chứ đâu phải của riêng ai.
Thanh Hải đã thể hiện hết mình vì lòng tin yêu cuộc sống và khiêm tốn hiến dâng cho đất nước, cho cuộc đời, bởi vậy, xuất phát từ tiếng lòng thiết tha, nhỏ nhẹ, chân thành của tác giả nên lời thơ dễ dàng được mọi người tiếp nhận và chia sẻ cho nhau. Quan niệm sống ấy của Thanh Hải thật giống với quan niệm sống của Tố Hữu:
“Nếu là con chim, chiếc lá,
Con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không trả,
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình.”
Đến khổ thơ tiếp theo, tác giả đã giúp ta hiểu rõ hơn nhan đề của bài thơ – Mùa xuân nho nhỏ:
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”.
“Mùa xuân” là ý niệm chỉ thời gian nhưng “mùa xuân nho nhỏ ở đây của tác giả đã trở thành lẽ sống đẹp, lý tưởng. “Lặng lẽ dâng” ước vọng tha thiết khiêm tốn cả cuộc đời cho đi mà không hề đòi hỏi. “Lặng lẽ” một hành động âm thần, tự nguyện không ồn ào, không cần mọi người biết đến.
Đã gọi là cống hiến cho đời thì dù ở tuổi nào đi chăng nữa cũng phải luôn biết cố gắng hết tâm trí để phục vụ và hiến dâng cho quê hương, đất nước mến yêu của chính mình. Già – cống hiến tuổi già, trẻ – cống hiến sức trẻ để không bao giờ thất vọng trước chính bản thân mình.
Thật cảm động và kính phục biết bao khi đọc những vần thơ như lời tổng kết của cuộc đời. “Dù là tuổi hai mươi” khi mới tham gia kháng chiến cho đến khi tóc bạc là thời điểm hiện thời vẫn lặng lẽ dâng hiến cho đời và bài thơ này là một trong những bài thơ cuối cùng.
“Một mùa xuân nho nhỏ” cuối cùng của Thanh Hải dâng tặng cho đời trước lúc ông bước vào thế giới cực lạc, chuẩn bị ra đi mãi mãi.Kết thúc bài thơ bằng một âm điệu xứ Huế: điệu Nam ai, Nam Bình mênh mang tha thiết, là lời ngợi ca đất nước, biểu hiện niềm tin yêu và gắn bó sâu nặng của tác giả với quê hương, đất nước, một câu chân tình thắm thiết:
“Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai, Nam Bình
Nước non ngàn dặm tình
Nước non ngàn dặm mình
Nhịp phách tiền đất Huế”
Những lời tâm sự cuối cùng của người sắp mất luôn là những lời thực sự, luôn chứa chan tình cảm, ước nguyện sâu lắng nhất… và bài thơ này cũng chính là những điều đúc kết cả cuộc đời của ông. Ông đã giãi bày, tâm tình những điều sâu kín nhất trong lòng, và chính lúc đó Thanh Hải đã thả hồn vào thơ, cùng chung một nhịp đập với thơ để ông và thơ luôn được cùng nhau, hiểu nhau và giãi bày cho nhau.
Tóm lại bài thơ đã sử dụng thể thơ năm chữ, mang âm hưởng dân ca nhẹ nhàng tha thiết, giàu hình ảnh, nhạc điệu, cất trúc thơ chặt chẽ, giọng điệu đã thể hiện đúng tâm trạng, cảm xúc của tác giả.
Nét đặc sắc của bài thơ là ở chỗ nó đề cập đến một vấn đề lớn và quan trọng “nhân sinh”, vấn đề ý nghĩa cuộc sống của mỗi cá nhân được Thanh Hải thể hiện một cách chân thành, thiết tha, bằng giọng văn nhỏ nhẹ như một lời tâm sự, gửi gắm của mình với cuộc đời.
Nhà thơ ước nguyện làm một “mùa xuân” nghĩa là sống đẹp, sống với tất cả sức sống tươi trẻ của mình nhưng rất khiêm nhường; là “một mùa xuân nho nhỏ” góp vào “mùa xuân lớn” của đất nước của cuộc đời chung và bài thơ cũng có ý nghĩa hơn khi Thanh Hải nói về “mùa xuân nho nhỏ” nhưng nói được tình cảm lớn, những xúc động của chính tác giả và của cả chúng ta.
Phân Tích Bài Thơ Mùa Xuân Nho Nhỏ Ấn Tượng – Mẫu 5
Thanh Hải là một nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Là con người tài hoa, giàu sức sống nghệ thuật và lắng nghe được nhiều âm thanh của cuộc sống, Thanh Hải đã dâng cho đời nhiều áng thơ có giá trị. Ngòi bút của ông đã góp phần xây dựng nền văn học cách mạng ở miền Nam từ những ngày đầu.
Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ là tâm sự của ông trong những ngày cuối của cuộc đời. Tình cảm dạt dào và suy nghĩ sâu lắng trong tâm tư của ông đã gởi gắm vào bài thơ. Đó là tình yêu đất nước bao la, niềm yêu mến thiết tha đối với cuộc sống đang bước vào thời kì xây dựng.
Mở đầu bài thơ, Thanh Hải đưa ta về với thiên nhiên tươi đẹp, về với đất trời đang bước vào mùa xuân mới:
Mọc giữa dòng sông xanh,
Một bông hoa tím biếc,
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời.
Mùa xuân được miêu tả bằng những hình ảnh dòng sông xanh, bông hoa tím biếc cùng với tiếng hót trong trẻo của chim chiền chiện. Cảnh mùa xuân ấy gợi ra một không gian tươi mát, dịu dàng và đằm thắm. Cảnh vật mùa xuân đã làm tác giả dâng lên một niềm cảm xúc. Tiếng ơi trong câu thơ là hô ngữ, là từ gợi cảm biểu lộ sự thân thiết, yêu thương.
Hai tiếng hót chi là cách, nói dịu ngọt của người dân xứ Huế đã làm tăng tính biểu cảm của vần thơ. Tác giả đã mượn tiếng chim hót để biểu lộ cảm xúc của mình về bức tranh mùa xuân. Tác giả không chỉ biểu lộ sự trân trọng, nâng niu những cái đẹp trong mùa xuân ấy:
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
Động từ hứng đã diễn tả được tâm trạng của tác giả trước cảnh sắc mùa xuân. Có ai ngờ tiếng chim hót vang trời lại đọng thành giọt long lanh rơi xuống? Phải chăng đây không chỉ là âm thanh của tiếng chim mà là âm thanh của mùa xuân, âm thanh của cuộc sống đang khơi dậy trong lòng tác giả? Tâm hồn nhà thơ đang chan hoà cùng cuộc sống, cùng mùa xuân tươi đẹp một cách bất ngờ.
Từ mùa xuân của đất trời, cảm xúc thơ chuyển sang mùa xuân của đất nước một cách tự nhiên:
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trài dài nương mạ.
Đây là hình ảnh của đất nước với hai nhiệm vụ chiến lược: chiến đấu và sản xuất. Mùa xuân của đất nước hoà cung niềm vui trong chiến đấu và niềm vui trong lao động sản xuất. Lộc là hình ảnh của mùa xuân. Đó là chồi non, cành biếc mơn mởn.
Lộc là sự sinh sôi, nảy nở, là sức sống mãnh liệt đang vươn lên. Trong chiến đấu, lộc giắt đầy quanh lưng là hình ảnh người lính khoác trên lưng vành lá nguỵ trang xanh biếc để che mắt quân thù và còn là biểu tượng của sức sống mùa xuân, là sức mạnh của dân tộc.
Trong sản xuất, lộc trải dài nương mạ là hình ảnh của sự lao động cần cù đã làm nên một màu xanh bát ngát ruộng đồng. Người nông dân đã góp phần tô điểm cho mùa xuân đất nước. Hậu phương và tiền tuyến luôn song hành. Người cầm súng và người nông dân lao động, đều đem đến mùa xuân cho đất nước giữa mùa xuân của đất trời. Cả dân tộc đang bước vào mùa xuân với tâm thế khẩn trương và hào hứng:
Tất cả như hổi hả
Tất cả như xôn xao.
Hối hả, xôn xao là những từ láy diễn tả sự gấp gáp, khẩn trương, náo nhiệt. Cặp từ láy ấy cùng với điệp ngữ tất cả như… làm cho câu thơ vang lên nhịp diệu vui tươi, mạnh mẽ. Đó là hình ảnh đất nước và dân tộc đang bước vào mùa xuân của thời đại mới, thời đại Hồ Chí Minh. Trong mùa xuân tươi đẹp ấy tác giả không quên suy ngẫm về quá khứ của đất nước và cội nguồi dân tộc:
Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.
Tác giả đã bộc lộ niềm cảm thụ và tự hào về đất nước. Chặng đường lịch sử đã qua với bao gian lao, vất vả. Bốn nghìn năm lập quốc toả sáng nền văn hiến Đại Việt, sức mạnh dân tộc được khẳng định, đất nước vẫn trường tồn và đi lên. Đất nước như vì sao là sự so sánh đầy ý nghĩa. Sao là nguồn sáng vô tận, là vẻ đẹp của vũ trụ, vẻ đẹp vĩnh hằng trong không gian và thời gian. Đây là niềm tự hào về đất nước Việt Nam anh hùng, bất diệt.
Đất nước ấy luôn lớn mạnh, đi lên từng ngày. Hành trình đi tới tương lai của đất nước vẫn không ngừng, cứ đi lên là sự thể hiện chí khí, quyết tâm của dân tộc Việt Nam.
Trước mùa xuân của thiên nhiên, mùa xuân của đất nước, sự đi lên của cuộc sống, tác giả khát khao được hoà nhập vào cuộc sống của đất nước:
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa.
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến.
Điều tâm niệm của tác giả thật chân thành sâu sắc. Con chim hót, một cành hoa là những hình ảnh đẹp của thiên nhiên. Một nốt trầm trong giàn hợp xướng là âm thanh mà mọi người đều thích nghe. Tác giả muốn làm việc, muốn cống hiến cho cuộc đời, cống hiến cho đất nước. Điệp từ một trong đoạn thơ diễn tả sự ít ỏi, khiêm tốn nhưng hình ảnh con chim, cành hoa, nốt trầm cuối cùng dã dồn vào hình ảnh thật đặc sắc:
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.
Khát vọng của tác giả tuy ẩn chứa sự khiêm nhường qua hình ảnh nho nhỏ, lặng lẽ nhưng thể hiện một tiếng lòng cao cả, thể hiện một nhân sinh quan cao đẹp: phải cống hiến cho đất nước, dù là nhỏ bé, và phải không ngừng cống hiến cho cuộc đời. Mỗi con người hãy là một mùa xuân nho nhỏ để làm nên mùa xuân bất diệt của đất nước. Một xã hội tốt đẹp thì mỗi con người phải tốt đẹp. Đây là điều tâm niệm và khát vọng của nhà thơ trước lúc đi xa vĩnh biệt cuộc đời.
Cảm xúc chân thành của nhà thơ không chỉ dừng lại ở khát vọng về cuộc sống, tâm niệm về cuộc đời, tình cảm đối với quê hương, đất nước mà còn thể hệ qua khúc hát yêu thương:
Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.
Nam ai và Nam bình là hai điệu dân ca Huế, phách tiền là một nhạc cụ dân tộc điểm nhịp cho lời ca. Hình ảnh xin hát diễn tả tình yêu thương, gắn bó với quê hương, sự khao khát về cuộc sống mùa xuân. Tiếng hát ở đây cũng là tiếng lòng của tác giả, nó ngọt ngào sâu lắng và gây được sự đồng cảm với tất cả mọi người.
Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải là một bài thơ đặc sắc. Với thể thơ năm chữ, giọng thơ lúc mạnh mẽ, lúc tha thiết ngân vang, âm hưởng nhẹ nhàng xuyên khổ thơ, tác giả đã bộc lộ cảm xúc trước mùa xuân của thiên nhiên, đất nước và khát vọng đẹp đẽ muôn được dâng hiến cho cuộc đời trước lúc đi xa.