Ngồi Buồn Nhớ Mẹ Ta Xưa [Nội Dung Bài Thơ + Cảm Nhận]

Ngồi Buồn Nhớ Mẹ Ta Xưa ❤️️ Nội Dung Bài Thơ, Cảm Nhận ✅ Tham Khảo Ý Nghĩa, Hoàn Cảnh Sáng Tác, Nghệ Thuật Của Tác Phẩm.

Nội Dung Bài Thơ Ngồi Buồn Nhớ Mẹ Ta Xưa

Bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa là một trong những bài thơ hay, ý nghĩa của tác giả Nguyễn Duy. Để hiểu hơn về tác phẩm này thì bạn không nên bỏ qua phần nội dung dưới đây.

Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
Tác giả: Nguyễn Duy

Bần thần hương huệ thơm đêm
khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn
chân nhang lấm láp tro tàn
xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào

Mẹ ta không có yếm đào
nón mê thay nón quai thao đội đầu
rối ren tay bí tay bầu
váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa

Cái cò… sung chát đào chua…
câu ca mẹ hát gió đưa về trời
ta đi trọn kiếp con người
cũng không đi hết mấy lời mẹ ru

Bao giờ cho tới mùa thu
trái hồng trái bưởi đánh đu giữa rằm
bao giờ cho tới tháng năm
mẹ ra trải chiếu ta nằm đếm sao

Ngân hà chảy ngược lên cao
quạt mo vỗ khúc nghêu ngao thằng Bờm…
bờ ao đom đóm chập chờn
trong leo lẻo những vui buồn xa xôi

Mẹ ru cái lẽ ở đời
sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn
bà ru mẹ… mẹ ru con
liệu mai sau các con còn nhớ chăng

Nhìn về quê mẹ xa xăm
lòng ta – chỗ ướt mẹ nằm đêm xưa
ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương…

Cập nhật thông tin đầy đủ về 🔰 Thơ Nguyễn Duy 🔰 Tác Giả, Tác Phẩm

Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Ngồi Buồn Nhớ Mẹ Ta Xưa

Chia sẻ thông tin chi tiết về hoàn cảnh sáng tác bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa.

Bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa được tác giả Nguyễn Duy viết vào mùa thu năm 1986. Theo như chia sẻ của ông thì ông viết bài thơ này để cúng mẹ mình với một tấm lòng thành kính và trân trọng sâu sắc. Nguyễn Duy từng chia sẻ: “Mẹ tôi mất sớm. Tôi và em gái tôi ở với bà ngoại. Hình ảnh về mẹ trong bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa chính là hình ảnh bà ngoại tôi hồi đó”.

Ý Nghĩa Bài Thơ Ngồi Buồn Nhớ Mẹ Ta Xưa

Bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa thể hiện niềm tiếc thương, sự xót xa khi nhớ về người mẹ quá cố của tác giả. Bài thơ cũng là niềm thương cảm của tác giả với số phận, cuộc đời vất vả của những người phụ nữ thời xưa, đồng thời cũng muốn gửi gắm thông điệp về tình yêu thương gia đình, yêu quê hương. Mẹ chính là quê hương và quê hương cũng chính là mẹ.

Đọc hiểu 🌿Bài Thơ Quê Hương Của Giang Nam 🌿Nội Dung, Phân Tích

Bố Cục Bài Thơ Ngồi Buồn Nhớ Mẹ Ta Xưa

Bố cục bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa có thể chia thành 5 phần:

  • Phần 1: Từ đầu đến “trần gian thuở nào”: Nỗi buồn xót xa khi nghĩ về người mẹ đã mất
  • Phần 2: Tiếp theo đến “nhuộm nâu bốn mùa”: niềm thương cảm với số phận, cuộc đời cực khổ của mẹ
  • Phần 3: Tiếp theo đến “mấy lời mẹ ru”: đề cao sự thiêng liêng, quý báu của tình mẫu tử
  • Phần 4: Tiếp theo đến “vui buồn xa xôi”: Những kỷ niệm thời thơ ấu với mẹ
  • Phần 5: Còn lại: nỗi nhớ mẹ, nhớ quê tha thiết

Nghệ Thuật Bài Thơ Ngồi Buồn Nhớ Mẹ Ta Xưa

Chia sẻ các giá trị nghệ thuật trong bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa của Nguyễn Duy.

  • Vận dụng sáng tạo ca dao, tục ngữ để tạo nên những vần thơ trữ tình giàu âm điệu, nhạc điệu thiết tha
  • Sử dụng các từ láy như “bần thần ”, “lấm láp“,“xăm xăm”, “nghêu ngao ”,“chập chờn “, “leo lẻo”, “xa xôi” làm cho vần thơ giàu hình tượng và gợi cảm.
  • Sử dụng phép đối như:  “tay bí – tay bầu”,“váy nhuộm bùn – áo nhuộm nâu”
  • Sử dụng biện pháp điệp ngữ, ẩn dụ

Hướng dẫn đọc hiểu 🍃Bài Thơ Nhớ Con Sông Quê Hương [Tế Hanh] 🍃 Nội Dung, Phân Tích

5 Mẫu Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Ngồi Buồn Nhớ Mẹ Ta Xưa Hay Nhất

Tham khảo ngay 5 mẫu cảm nhận, phân tích bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa hay nhất dưới đây nhé!

Mẫu Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Ngồi Buồn Nhớ Mẹ Ta Xưa Hay – Mẫu 1

Nguyễn Duy quê ở Thanh Hóa; anh viết bài thơ “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa” tại Thành phố Hồ Chí Minh vào mùa thu 1986. Bài thơ gồm có 28 câu lục bát, chia thành 6 khổ thơ; khổ thứ tư có 8 câu, năm khổ còn lại, mỗi khổ có 4 câu thơ.

Chữ đầu mỗi khổ thơ đều viết hoa; các chữ đầu mỗi câu thơ còn lại không viết hoa. Toàn bài thơ chỉ có 4 dấu chấm lửng và một dấu gạch ngang mà thôi, không hề có dấu chấm, dấu phẩy… nào cả. Phải chăng đó là sự cách tân về hình thức nghệ thuật thơ lục bát của Nguyễn Duy? Tác giả đã vận dụng sáng tạo ca dao, tục ngữ để tạo nên những vần thơ trữ tình giàu âm điệu và nhạc điệu thiết tha ngọt ngào.

Mở đầu bài thơ là một không gian nghệ thuật thiêng liêng cổ kính, nhiều man mác bâng khuâng. Đứa con đứng bên bàn thờ mẹ, trong hương huệ thơm ngát, thành kính thắp nén nhang thầm khấn cầu mong hương hồn mẹ được siêu thoát lên cõi niết bàn:

“Bần thần hương huệ thơm đêm
khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn”.

Nhìn khói nhang tỏa, nhìn chân nhang “lấm láp tro tàn”, đứa con cảm thấy người mẹ hiền đang hiển hiện giữa cõi đời, đang tất tả ngược xuôi:

“chân nhang lấm láp tro tàn
xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào”,

Các từ láy “bần thần”, “lấm láp“,“xăm xăm” là những nét vẽ tài hoa làm cho vần thơ giàu hình tượng và gợi cảm.

Khổ thơ thứ hai gợi tả hình ảnh người mẹ hiền ngày xưa. Người mẹ nghèo khổ, vất vả. Thời con gái chẳng có yếm đào, chẳng có nón quai thao mà chỉ có nón mê; áo quần chỉ một màu nâu nhuộm bùn:

“Mẹ ta không có yếm đào
nón mê thay nón quai thao đội đầu”.

Hai tiểu đối: “tay bí // tay bầu”,“váy nhuộm bùn // áo nhuộm nâu” – nói lên thật hay, thật cảm động sự tần tảo vất vả và đời sống nghèo khổ của mẹ:

“Rối ren tay bí tay bầu
váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa ”.

Suốt đời mẹ sống mộc mạc, giản dị như thế. Quanh năm bốn mùa mẹ vẫn sống và ăn mặc như thế!

Khổ thơ thứ ba, lời ru của mẹ hiền ngày xưa vẫn còn vang vọng trong hoài niệm. Ca dao đã nhập hồn vào thơ Nguyễn Duy:

“Cái cò…sung chát đào chua…
câu ca mẹ hát gió đưa về trời”.

Câu ca dao “Cái cò đậu cọc cầu ao – Ăn sung sung chát, ăn đào đào chua” đã được nhà thơ vận dụng tài tình sáng tạo gợi lên bao thương nhớ người mẹ hiền nay đã đi xa…

Hai câu thơ: “Ta đi trọn kiếp con người – cũng không đi hết những lời mẹ ru” hàm chứa chất triết lí sâu sắc. Lòng mẹ bao la. Tình thương của mẹ mênh mông đào dạt. Suốt đời con cũng không thấu hiểu, hiểu hết lời ru của mẹ. “Gió mùa thu, mẹ ru con ngủ …Năm canh chày thức đủ năm canh… ”.

Mỗi giấc ngủ của con được nâng niu bằng lời ru của mẹ vô cùng sâu nặng với biết bao tình đời và tình người. Mọi đứa con từ bé thơ đến trưởng thành, không bao giờ có thể “đi hết mấy lời mẹ ru”. Hai chữ “đi” trong vần thơ của Nguyễn Duy được chuyển nghĩa một cách thần tình.

Điệp ngữ “bao giờ cho tới” trong khổ thơ thứ tư đã làm sống lại tuổi thơ với bao kỉ niệm đẹp. Ước mong được sống lại đêm rằm trung thu để phá cỗ. Ước mong được sống lại những đêm tháng năm đẹp trời để “nằm đếm sao” giữa sân nhà:

“Bao giờ cho tới mùa thu
trái hồng trái bưởi đánh đu giữa rằm
bao giờ cho tới tháng năm
mẹ ra trải chiếu ta nằm đếm sao”.

Hai chữ “đánh đu “ đã nhân hóa trái hồng trái bưởi, món quà trung thu, tạo nên sự ngộ nghĩnh hồn nhiên. Cái giây phút thần tiên “mẹ ra trải chiếu ta nằm đếm sao” là giây phút hạnh phúc nhất của tuổi thơ. Kỷ niệm ấy, Nguyễn Duy có bao giờ quên; mỗi chúng ta có bao giờ quên.

Các từ láy:“nghêu ngao ”,“chập chờn “, “leo lẻo”, “xa xôi” trong bốn câu thơ tiếp theo vừa nêu lên sự hồn nhiên của tuổi thơ, vừa nói lên mơ ước được sống lại trong khung cảnh thần tiên nơi quê nhà. Đứa con có bao giờ quên những kỉ niệm đẹp, đầy hạnh phúc ấy:

“Ngân Hà chảy ngược lên cao
quai mo vỗ khúc nghêu ngao thằng Bờm…
bờ ao đom đóm chập chờn
trong leo lẻo những vui buồn xa xôi”.

Ký ức tuổi thơ đã trôi vào dĩ vãng, nhưng vẫn còn chập chờn trong tâm hồn yêu thương với “những vui buồn xa xôi”. Đứa con càng thương nhớ mẹ, càng biết ơn mẹ không thể nào kể xiết!

Tiếp theo là những suy ngẫm về lời ru của mẹ, về công ơn trời bể của mẹ. Mẹ ru con, ru “cái lẽ đời”, ru cái đạo lí làm con, ru cái đạo lý làm người. Con lớn lên từng ngày từng tháng nhờ dòng sữa ngọt ngào của mẹ, bằng lời ru thiết tha êm đềm của mẹ. Điệp ngữ “nuôi” trong hai tiểu đối đã nói lên công ơn to lớn của mẹ hiền:

“Mẹ ru cái lẽ ở đời
sữa nuôi phần xác // hát nuôi phần hồn”

Các thế hệ sẽ nối tiếp sinh ra, rồi lớn lên theo lời ru tiếng hát của mẹ, của bà. Điệu ru của bà, của mẹ sẽ được những thế hệ mai sau nâng niu, giữ gìn. Điệu ru tiếng hát của bà, của mẹ trong mỗi gia đình Việt Nam là dân ca, là tâm hồn dân tộc sẽ sống mãi đến muôn đời mai sau. Câu hỏi tu từ làm cho vần thơ trở nên thiết tha, lay động hồn người:

“Bà ru mẹ…mẹ ru con
liệu mai sau các con còn nhớ chăng”.

Nhớ mẹ, nhớ nơi chôn nhau cắt rốn, đứa con ly hương đêm ngày đăm đắm “Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”. Càng “nhìn về” càng bồi hồi nhớ mẹ, nhớ đức hy sinh cao cả, tình thương con bao la của người mẹ nay đã khuất núi. Câu tục ngữ “Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo nhường con” được tác giả vận dụng sáng tạo:

“Nhìn về quê mẹ xa xăm
lòng ta – chỗ ướt mẹ nằm đêm mưa”.

Tác giả khép lại bài thơ bằng hai câu thơ mang âm điệu ca dao trữ tình thể hiện bao nỗi ân tình sâu nặng của đứa con đối với người mẹ hiền thương yêu:

“Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương”.

Dù mẹ đã mất, nhưng những kỉ niệm ân tình sâu sắc ấy của mẹ, đứa con mãi mãi ghi sâu trong lòng. Lòng hiếu thảo là một trong những tình cảm đẹp nhất của con người Việt Nam chúng ta. Thơ Nguyễn Duy man mác như điệu ru tiếng hát của bà, của mẹ sau lũy tre xanh, bên bờ dâu ruộng lúa đang vọng về năm tháng. Những suy tư triết lí của tác giả làm cho tư tưởng tình cảm trong bài thơ trở nên sâu sắc, mang tính chất dân tộc và hiện đại.

“Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa…” là một bài thơ rất hay, tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách nghệ thuật của Nguyễn Duy, nhà thơ trưởng thành trong khói lửa chiến tranh thời chống Mỹ. Quả vậy, thơ Nguyễn Duy đẹp như ca dao, đậm đà như dân ca, man mác như lời hát ru.

Mẫu Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Ngồi Buồn Nhớ Mẹ Ta Xưa Chọn Lọc – Mẫu 2

Hình tượng người mẹ mãi là nguồn cảm hứng vô tận của các nhà văn, nhà thơ Việt Nam. Nhưng khác với những nhà thơ khác, Nguyễn Duy viết về mẹ khi bà đã không còn trên thế gian. Thông qua bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, sẽ giúp độc giả hiểu được nỗi lòng của những người con khi không còn mẹ.

Ngay trong những câu đầu tiên của bài thơ, tác giả đã mở tạo nên một không khí rất thành kính, linh thiêng. Đúng như lời Nguyễn Duy giới thiệu, đó là một buổi giỗ của mẹ ông:

“Bần thần hương huệ thơm đêm
khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn
chân nhang lấm láp tro tàn
xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào”.

Có lẽ chưa có nhà thơ nào lại miêu tả một bàn thơ với đầy sự tôn kính, đẹp đẽ đến vậy. Mùi hương hoa huệ, cùng với khói nhang, chân nhanh, đã khiến ông bỗng nhớ tới bóng mẹ nơi trần gian thủa nào.

Đọc câu thơ lên khiến người đọc không có cảm giác sợ sệt với cái chết mà cảm thấy thật xúc động, thấy thật thương thay cho tác giả. Bởi mẹ nhà thơ sớm đã mất. Nên hình ảnh của người mẹ của ông trong ký ức vô cùng mờ mịt. Hình ảnh người mẹ với ông chỉ còn được thông qua những điều về bà ngoại.

Khổ thơ lục bát, giúp người đọc dễ hiểu dễ nhớ. Như một khúc ngâm cho một người thân yêu đã ở bên kia thế giới.

Nếu như khổ 1, nhà thơ thể hiện sự tôn kính với mẹ bằng việc hương khói trên bàn thờ thì ở khổ thứ ông miêu tả cụ thể tới số phận của bà.

“Mẹ ta không có yếm đào
nón mê thay nón quai thao đội đầu
rối ren tay bí tay bầu
váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa”

Mẹ ông cũng như bao người phụ nữ thôn quê khác, đều có số phận như những thân cò lặn lội, tần tảo nuôi con. Mẹ Nguyễn Duy hiện ra trong tâm trí ông là một người phụ nữ ngay cả chiếc yếm đào cũng không có. Cái tấm yếm giản dị nhất mà thường bất kỳ người phụ nữ nào cũng có.

Không những thế, bà thậm chí còn không có được cả niềm vui của việc đội nón quai thao, mà phải đội nón mê. Một loại nón làm từ cây cỏ. Quanh năm bà chỉ biết làm lụng nuôi con cái. Chiếc váy bà mặc cũng chỉ toàn nhuộm bùn nâu. Đã thế, ngoài thời gian ruộng vườn, bà còn tranh thủ bán buôn bầu bí ở chợ. Thật là một người phụ nữ nghèo, lại tất bật nhiều việc.

Đọc bài thơ ta mới thương làm sao những người mẹ lam lũ. Không chỉ mẹ ngày xưa mà ngay cả thời nay, các bà mẹ vẫn luôn chấp nhận cuộc sống khổ cực để mong sao con cái có cuộc sống tốt đẹp hơn.

Thương mẹ, nhà thơ nhớ cả những lời ru của mẹ. “Cái cò… sung chát đào chua…câu ca mẹ hát gió đưa về trờita đi trọn kiếp con ngườicũng không đi hết mấy lời mẹ ru”. Lời ru ấy như nói lên chính cuộc đời của mẹ. Cuộc đời của cái cò, đầy chua cay chat đắng. Dù cho câu hát đó có về trời thì nó mãi ghi trong lòng của tác giả, mãi đậm sâu trong tâm trí của nhà thơ

Với Nguyễn Duy, lời ru ấy không chỉ đơn thuần là lời ru cho con ngủ ngon giấc, mà còn là những lời răn dạy về cuộc đời, về kiếp người.

“Mẹ ru cái lẽ ở đời
sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn
bà ru mẹ… mẹ ru con
liệu mai sau các con còn nhớ chăng”

Mỗi lời ru ấy đã nuôi lớn tâm hồn nhà thơ, giúp ông lớn lên biết lẽ sống ở đời. Trong khổ thơ có một câu thật hay và ý nhị: “Sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn”. Rất nhiều người con đất Việt đã được nuôi dưỡng trong tiếng hát lời ru, nhưng không phải ai cũng hiểu tầm quan trọng của lời ru tiếng hát như tác giả. Thường người ta xem trọng chất dinh dưỡng, để thấy rõ chiều cao, cân năng. Chứ chẳng ai để ý đến tâm hồn thẩm thấu của đứa trẻ khi nghe mẹ ru, bà hát.

Không những, ở câu thơ tiếp theo, nhà thơ thể hiện nỗi lo lắng khi đến đời con cháu sau này liệu có được nghe những lời ru, có còn nhớ những câu ca đó nữa không. Ông cũng thể hiện niềm tự hào về truyền thống khi bà ru mẹ, xong mẹ ru con. Ông tự hào vì được nghe lời ru da diết mà nhiều ý nghĩa thâm sâu như thế.

Ngoài nỗi nhớ về những lời ru, hình bóng của mẹ, tác giả còn nhớ tới những khoảnh khắc vui chơi ấu thơ bên mẹ. Đó là những đêm hè, đêm thu, hai mẹ con trải chiếu nằm đếm sao. Khi đó mẹ còn kể cho tác giả nghe chuyện về Ngưu Lang – Chức Nữ, chú Cuội, chị Hằng, thằng Bờm.

Ông cũng không quên hình ảnh chiếc quạt mo mà mẹ vẫn dùng để quạt cho mình mát rồi vừa nghêu ngao những khúc ca quen thuộc. Ông cũng không quên những hôm hai mẹ con đi tìm đom đóm, quanh bờ ao. Ôi biết bao là kỷ niệm đẹp đẽ mà tác giả sẽ chẳng bao giờ quên.

“Bao giờ cho tới mùa thu
……
trong leo lẻo những vui buồn xa xôi”

Đến cuối bài độc giả càng thấy rõ nỗi nhớ mẹ, nhớ quê hương da diết của tác giả. Đặc biệt là hình ảnh mẹ nằm chỗ ướt còn nhường con chỗ khô trong những đếm đông giá rét. Còn cả việc mẹ “miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương”.

Ngày xưa, chưa có máy xay nên để bón cho con nhỏ ăn, mẹ thường phải nhai nhỏ. Nhai làm sao mà không nuốt hết chất dinh dưỡng vào mình mà vẫn có thể lần lựa được xương ra khỏi cơm cá cho con ăn. Việc đó ngay nay trông thật mất vệ sinh nhưng với ngày xưa thiếu thốn, đó lại là cách tốt nhất để giúp các con ăn no.

“Nhìn về quê mẹ xa xăm
lòng ta – chỗ ướt mẹ nằm đêm xưa
ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương…”

Kết thúc bài thơ vẫn là nỗi nhớ thương dai dẳng, sự tôn kính của tác giả dành cho mẹ. Dù số phận mẹ hẩm hiu, phải sớm lên niết bàn nhưng trong tâm trí ông mẹ vẫn sống mãi. Dù thời gian bên mẹ không nhiều nhưng với ông mẹ cũng như bà, luôn dành cho con tìm yêu vô điều kiện. Đúng là tình cảm gia đình, tình cảm người mẹ dành cho con luôn là thứ tình cảm thiêng liêng nhất trong mọi thứ tình cảm của con người.

Với nỗi nhớ thương mẹ sâu đậm, nhà thơ Nguyễn Duy đã viết nên một bài thơ làm lay động lòng người. Mỗi câu thơ như là một tiếng khóc mẹ nức nở tự sâu tận đáy lòng của tác giả muốn tỉ tê cùng mẹ. Bất kỳ ai đã từng sống qua gia đoạn chiến tranh nghèo khổ của đất nước sẽ dễ dàng tìm thấy bản thân mình đâu đó trong bài thơ.

Mẫu Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Ngồi Buồn Nhớ Mẹ Ta Xưa Tiêu Biểu – Mẫu 3

Nguyễn Duy là một trong những nhà thơ tài năng của nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới, đất nước mở cửa. Thơ của Nguyễn Duy không chỉ đưa ta về một miền ký ức dịu dàng sâu lắng, với giọng thơ nhẹ nhàng, tình cảm, tha thiết mà còn có vai trò nhắc nhở, thức tỉnh nhiều con người đang mải miết giữa cuộc đời phải biết trân trọng lấy những gì mình đang có, phải gìn giữ được những thứ tình cảm thiêng liêng trong đời.

Một trong số những bài thơ thể hiện nổi bật phong cách sáng tác ấy của Nguyễn Duy ấy là Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, nhắc nhở con người về tình mẫu tử thiêng liêng sâu sắc, về hình dáng người mẹ đã nuôi ta cả một thời non trẻ, bảo bọc cho ta cả cuộc đời khi “Ta đi trọn kiếp con người/Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru”.

Nguyễn Duy là một người rất nặng tình nghĩa với gia đình với quê hương, đặc biệt là ông thấu hiểu và dành nhiều những tình cảm sâu sắc cho người bà, người mẹ của mình hơn cả. Nếu như ông viết Đò Lèn để tưởng nhớ người bà tần tảo sớm trưa, thì bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa lại là tác phẩm tác giả viết để cúng mẹ mình vào năm 1986, bằng một tấm lòng thành kính và yêu thương son sắt. 

Nguyễn Duy là một trong số ít những nhà thơ hiện đại gắn bó chặt chẽ với ca dao truyền thống của dân tộc, mà trong hầu hết các bài thơ của ông ta luôn thấy thấp thoáng đôi câu ca dao xưa, có lạ có quen, nhưng đều đem đến cho thơ ông một dáng vẻ độc đáo và riêng biệt. Với Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa cũng vậy, tiêu đề và hai câu kết của bài thơ chính là trích dẫn từ những câu ca dao của ông cha ta về hình ảnh người mẹ, trở thành mạch cảm cảm xúc tha thiết, đằm thắm, với những tình cảm truyền thống thiêng liêng nhất xuyên suốt cả bài thơ.

“Bần thần hương huệ thơm đêm
Khói nhang vẽ nẻo đường lên Niết bàn
Chân nhang lấm láp, tro tàn
Xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào”

Bài thơ được mở ra dưới một không khí rất thiêng liêng, thành kính, mà theo như Nguyễn Duy ấy là một buổi giỗ mẹ ông. Với một người con sớm mất mẹ, Nguyễn Duy lại càng thêm buồn bã và thiết tha về dáng hình mẹ, ông không được ở với mẹ dài lâu thế nên đành tìm mẹ ở trong tâm tưởng. Nỗi buồn tủi, xót xa khi nghĩ về người phụ nữ sớm lên Niết Bàn đã đưa Nguyễn Duy trở về với dáng hình mẹ xa xăm thuở nào, thông qua những ký ức mờ mịt và thông qua dáng hình của bà ngoại.

“Mẹ ta không có yếm đào
Nón mê thay nón quai thao đội đầu
Rối ren tay bí, tay bầu
Váy nhuộm bùn, áo nhuộm nâu bốn mùa”.

Thế hệ các bà, các mẹ ngày xưa ở vùng nông thôn Việt Nam xưa ngoại trừ những bà phú hộ, vợ quan viên ăn trên ngồi trước, thì đa số ai cũng có những cuộc đời nghèo khó, vất vả. Số phận của những người phụ nữ nông thôn như thân cò lặn lội, chỉ thấy khổ hơn chứ không có khổ nhất.

Sinh ra làm người đàn bà, không chỉ gánh trách nhiệm sinh con đẻ cái mà còn phải làm mọi thứ để nuôi con, nuôi cả chồng, họ phải chấp nhận cái chuyện hy sinh, tằn tiện, nhịn ăn nhịn mặc cho chồng cho con, một đời có lẽ chưa biết đến cái ngon ngọt, đến cái sự hưởng thụ là gì.

Mẹ của Nguyễn Duy cũng là một trong số những thân cò như vậy, đời bà khổ cực, vất vả, không có niềm vui may mặc với cái “yếm đào” xinh xắn, nón quai thao, khăn chít mỏ quạ đã trở thành niềm mơ ước xa xỉ, ngoài tầm với.

Có lẽ rằng từ thuở biết nghĩ bà đã chỉ biết những sự nghèo khó, làm lụng quanh năm với bòn mót những quả bí, quả bầu cắp ra phiên chợ bán lấy vài xu bạc. Quanh năm mặc những cái váy đen, nhuộm bùn ngâm nước đến mục, những cái áo cánh nâu, sờn vai bạc màu mà chẳng có tiền thay sắm mới. Bởi làm lụng lấy miệng ăn còn khó, nói gì đến cái mặc, mẹ mặc rồi, thì con phải chịu đói, chịu rét, lòng mẹ không cho phép điều ấy.

“Cái cò… sung chát… đào chua
Câu ca mẹ hát gió đưa về trời
Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru”.

Lật ngược về một miền ký ức xa xăm, mờ mịt, thông qua những kỷ niệm với người bà, Nguyễn Duy lại mường tượng ra hình ảnh của người mẹ vắn số. Mà nhắc đến lời ru, có lẽ tác giả đã từng khao khát và nhớ thương mẹ nhiều lắm, người trân trọng những câu ca mẹ hát, thật dung dị, gần gũi và thiết tha với “cái cò…sung chát…đào chua”.

Câu hát ru cũng chính là hình ảnh và tư vị của cuộc đời mẹ, thân cò lặn lội kiếm ăn, cả đời chẳng biết đến ngọt bùi, mà chỉ toàn những chát, những chua ngập tràn. Lời mẹ ru con là ẩn dụ cho cả cuộc đời lắm hy sinh và gian khổ của mẹ, tình mẹ yêu con như nước chảy trong nguồn, nhiều không kể xiết, sự bao dung, thấu hiểu mà mẹ dành cho con có lẽ rằng đi hết kiếp con người, con cũng chẳng thể nào đền đáp và trả nghĩa cho trọn.

Con chỉ có nhận mà chưa kịp đáp, thì mẹ đã về miền cực lạc, điều ấy đối với Nguyễn Duy là một việc thật đau đớn và chua xót. Đồng thời hai câu thơ rất hay “Ta đi trọn kiếp con người/Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru” cũng lại là những câu thơ để bộc lộ tấm lòng trân trọng yêu thương, đề cao sự thiêng liêng, quý báu của tình mẫu tử, rằng chẳng có thứ tình cảm nào lại rộng lớn bao la, ôm lấy cả cuộc đời con như thế nữa.

“Bao giờ cho tới mùa thu
……
trong leo lẻo những vui buồn xa xôi”

Nỗi nhớ mẹ không chỉ gói trọn trong những lời ru và hình bóng mẹ, mà đó còn là những kỷ niệm trải dài trong suốt quãng đời ấu thơ của tác giả, với những ngày quấn quýt sum vầy bên mâm ngũ quả rằm tháng tám, đứa con thơ trông trái bưởi, trái hồng trên mâm ngũ quả thầm khao khát

. Rồi những ngày tháng năm trời nóng bức, cuộc đời nghèo khó mẹ đã vẽ ra những thú vui thật tuyệt, “mẹ trải chiếu ta nằm đếm sao”, rồi mẹ kể những chuyện tình Ngưu lang – Chức nữ, chuyện chú Cuội – chị Hằng. Rồi những cảnh đom đóm chập chờn ban đêm, trong cảnh tươi mát thanh bình hiếm có của một làng quê cứ mãi quanh quẩn trong tâm trí của tác giả, gợi về những kỷ niệm thật thân thương, gần gũi mà bây giờ sẽ chẳng bao giờ còn nữa, bởi mẹ và ngày đó đã xa lắm rồi.

“Mẹ ru cái lẽ ở đời
sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn
bà ru mẹ… mẹ ru con
liệu mai sau các con còn nhớ chăng”.

Tuy nghèo khó vất vả, mưa nắng dãi dầu, mẹ cũng chẳng mấy học hành hiểu biết, thế nhưng mẹ vẫn truyền lại cho con những giá trị truyền thống quý báu của dân tộc, thông qua những câu chuyện cổ tích, những câu ca dao nghìn đời của ông cha và đặc biệt nhất là những lời ru ngọt ngào khi con còn ở trong nôi cho con biết những con cò con vạc, những nỗi đắng cay ở đời, cho con biết những cánh đồng cò bay thẳng cánh, cho con biết sự thiêng liêng của tình mẹ.

Sữa mẹ nghèo khó nhưng ngọt ngào cho con được thể xác, máu thịt, lười ru mẹ êm ái đêm đông ru con vào giấc ngủ, cho con thấm thía linh hồn của dân tộc và theo con đến hết cuộc đời.

Ngày nay khi con đã lớn khôn, với sự phát triển mạnh mẽ của đất nước về kinh tế văn hóa xã hội, bỗng nhiên người ta chẳng còn mặn mà với những lời ru thắm thiết ân tình, đẹp đẽ tình mẹ, người ta quên đi nhiều những câu ca dao, những truyện cổ tích, mà Nguyễn Duy lại bộn lòng trăn trở “bà ru mẹ…mẹ ru con/liệu mai sau các con còn nhớ không”.

“Nhìn về quê mẹ xa xăm
lòng ta – chỗ ướt mẹ nằm đêm xưa
ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương…”

Cuối cùng Nguyễn Duy lại quay lại với nỗi nhớ mẹ, nhớ quê tha thiết, nhớ về những đêm đông giá rét, những ngày mưa gió mái tranh chẳng đủ che mưa, mà thương con mẹ nhường chỗ ấm, chịu nằm chỗ ướt, chập chờn trong giấc ngủ mơ màng “ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa/miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương…”.

Đã từng có nhiều bài thơ viết về đề tài người mẹ mưa nắng, tảo tần nuôi con, cũng nhiều bài thơ viết về người mẹ trong âm hưởng ca dao, âm hưởng lời ru tha thiết. Thế nhưng có lẽ rằng khó có bài thơ nào viết về mẹ hay và thấm đẫm ân tình, cũng như chứa đựng nhiều triết luận trữ tình sâu sắc như Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa của Nguyễn Duy.

Ở đó không chỉ là nỗi nhớ thương, xót xa cho cuộc đời tảo tần của người mẹ mà còn là triết lý về tình mẫu tử bao dung muôn đời, còn là cả nỗi trăn trở về những giá trị văn hóa truyền thống như lời ru, ca dao ngày càng bị mai một. Những triết lý kín đáo trong thơ của Nguyễn Duy không khỏi khiến độc giả phải trăn trở suy nghĩ và có phần “thức tỉnh” lại những giá trị đã dần mất đi trong đời sống thường nhật.

Mẫu Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Ngồi Buồn Nhớ Mẹ Ta Xưa Hay Đặc Sắc – Mẫu 4

Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa là một dòng hồi ức đẹp về người mẹ, những ai còn mẹ lại càng thấy trân trọng hơn cái đức sinh thành, dưỡng dục của Người, những ai mẹ khuất, lại thấy xuyến xao, nhớ mẹ tha thiết như giọng điệu êm ru của những câu thơ lục bát.

Thơ Nguyễn Duy có nhiều bài viết về mẹ, hình ảnh người mẹ trong những sáng tác của nhà thơ hiện lên rất Việt Nam, vừa tảo tần, chịu thương chịu khó mà lại rất đỗi mộc mạc, dịu dàng. Người mẹ trong bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa là người Mẹ Việt Nam như thế.

Trong không gian đêm tĩnh mịch, người mẹ hiện về trong tâm tưởng của nhà thơ như một vị bồ tát, vừa gần gũi vừa linh thiêng, qua hương hoa huệ thanh khiết và khói nhang, ngỡ như mẹ còn đó rất gần gũi trong những đêm nằm nghe mẹ kể chuyện, cùng mẹ ngắm ao trời…

Người mẹ ấy như cánh cò, suốt một đời vất vả Đó là người mẹ nông thôn nghèo, “váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa” cùng với lời ru quen thuộc “cái cò… sung chát đào chua” ẩn chứa triết lí cuộc đời… đã nuôi lớn tâm hồn trẻ thơ của nhà thơ như bao đứa trẻ được sinh ra ở làng quê Việt Nam vậy!

Kỉ niệm về mẹ dồn nén rồi cứ thế ùa về rõ mồn một. Nhà thơ nhớ tới mẹ mình không chỉ là nhớ những lời ru mà còn qua những món quà quê giản dị – đó là quả hồng, quả bưởi mà với ông, những thứ ấy từ lâu “đã trở thành những miếng ngon tột đỉnh trong đời”, nhớ những đêm nằm trải chiếu trên sân nhà ngắm sao trời và trăng sáng vằng vặc.

Trong không gian thơ mộng và bình dị ấy, được nghe mẹ kể chuyện chị Hằng, chú Cuội… Những hồi ức này khiến người đọc như thấy một góc nhỏ của tuổi thơ mình đang hiện hữu.

Người mẹ của nhà thơ vất vả, cực nhọc và rất giàu đức hy sinh, thể hiện bằng những hành động yêu thương rất đỗi bình thường “Miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương”, “rối ren tay bí tay bầu”. Người mẹ ấy lo cho gia đình, bận bịu với con cái suốt ngày suốt tháng, chẳng mấy khi được rảnh rang.

Sợi chỉ xuyên suốt bài thơ và khơi gợi cảm xúc nhất chính là lời ru của mẹ. Lời ru ấy không chỉ nghe khi còn bé, mà nó theo nhà thơ trọn cả cuộc đời:

Mẹ ru cái lẽ ở đời
Sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn
Bà ru mẹ… mẹ ru con
Liệu mai sau các con còn nhớ chăng

Người đọc cảm nhận sâu sắc công dưỡng dục, đức cù lao của người mẹ đối với con cả phần xác lẫn phần hồn, cả miếng cơm, manh áo đến lẽ sống tốt đẹp ở đời. “Bà ru mẹ… Mẹ ru con” như một quy luật tự nhiên, luôn tồn tại bất biến ở đời, một nét đẹp văn hoá đáng được gìn giữ của dân tộc Việt Nam.

Thơ Nguyễn Duy có tính chất trữ tình triết luận. Thật vậy, nỗi băn khoăn của tác giả về lẽ nhớ quên những lời ru là hoàn toàn hợp lí. Dù con có lớn đến đâu, đi đến nơi nào thì với mẹ, con vẫn còn bé bỏng, giữa Chế Lan Viên và Nguyễn Duy dường như có sự đồng điệu:

Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi suốt đời lòng mẹ vẫn theo con…
(Chế Lan Viên)

Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa là một dòng hồi ức đẹp về người mẹ, những ai còn mẹ lại càng thấy trân trọng hơn cái đức sinh thành, dưỡng dục của Người, những ai mẹ khuất, lại thấy xuyến xao, nhớ mẹ tha thiết như giọng điệu êm ru của những câu thơ lục bát.

Mẫu Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Ngồi Buồn Nhớ Mẹ Ta Xưa Hay Sâu Sắc – Mẫu 5

Những kỷ niệm đẹp của tuổi thơ về người mẹ trong mỗi một chúng ta là nguồn sống, là nghị lực vượt qua mọi khó khăn, thử thách và là những giá trị nhân văn giúp cho cái chân, thiện, mỹ trong mỗi con người phát triển. Đó cũng là nguồn cội khơi dậy những tình cảm sâu lắng đối với con người, gia đình và quê hương. Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa của Nguyễn Duy là một bài thơ như vậy và là bài thơ dành được rất nhiều tình cảm của người đọc.

Nguyễn Duy được đánh giá cao trong thể thơ lục bát – một thể thơ có cảm giác dễ viết nhưng viết được hay thì lại rất khó. Nhiều bài thơ của ông được bạn đọc yêu thích: Tre Việt nam, Ánh trăng, Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa,… Trong đó bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa ai đọc lên cũng có cảm giác như Nguyễn Duy đang viết về mẹ của mình và những tình cảm của mình đối với mẹ.

Bài thơ bắt đầu bằng không gian bảng lảng khói trầm, phảng phất mùi hương huệ trong đêm khuya thanh vắng – “Bần thần hương huệ thơm đêm/ khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn”. Hương huệ, khói nhang trong không gian yên tĩnh, trầm mặc ấy đã cho Nguyễn Duy cảm giác “bần thần” nửa thực nửa mơ.

Và, trạng thái nửa thực, nửa mơ ấy đã khơi nguồn cảm xúc về hình bóng người mẹ “trần gian thuở nào” rất đỗi yêu thương – “Xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào” với biết bao kỷ niệm buồn vui như chỉ mới diễn ra ngày hôm qua, hôm kia thôi – trong leo lẻo những vui buồn xa xôi.

Trong mạch nguồn cảm xúc ấy, hình ảnh người mẹ nghèo khó, lam lũ, vất vả, nhọc nhằn, suốt ngày luôn tay luôn chân với công việc cứ hiện về rõ mồn một – Nón mê thay nón quai thao đội đầu/Rối ren tay bí tay bầu/Váy nhuộm bùn, áo nhuộm nâu bốn mùa.

Cũng như bất kỳ ai của thời lam lũ, Nguyễn Duy lớn lên từ lời ru mượt mà, yêu thương của mẹ; chứa đựng, gửi gắm nhiều nỗi niềm tâm sự sâu lắng của mẹ – “Bầu ơi thương lấy bí cùng”… hoặc là “Cái cò lặn lội bờ sông / Gánh gạo nuôi chồng, tiếng khóc nỉ non”… – và những kỷ niệm đẹp về mẹ qua những đêm hè trăng sáng, mẹ trải chiếu cùng các con ngắm trăng, đếm sao; vừa chơi các trò chơi dân gian vừa hát các bài đồng dao; tìm các chòm sao hay nghe mẹ kể chuyện về chú Cuội, chị Hằng nơi “Bờ ao đom đóm chập chờn”.

Nghèo đến thế, lam lũ đến thế nhưng mẹ vẫn là hiện hữu của bà mẹ Việt Nam có một nhân cách đẹp tuyệt trần; là kho ca dao tục ngữ, là cuốn sách dày về đạo lý để làm hành trang cho Nguyễn Duy bước vào đời. Và, một thời thơ ấu bên mẹ tuy còn nhiều khó khăn vất vả nhưng rất đỗi vô tư, trong sáng cùng với “cái lẽ ở đời” được mẹ bày dạy đã đi cùng Nguyễn Duy theo năm tháng cuộc đời.

Mà có lẽ không chỉ để vui chơi! Đúng hơn, có lẽ mẹ đang truyền dạy cho các con kinh nghiệm qua hàng ngàn đời của ông cha. Truyền dạy kinh nghiệm dân gian về làm ăn hay giảng giải về lẽ sống, nếp nhà cho con qua những lời ru, câu hát ví, hát dặm thương, những bài đồng dao… cũng là một thiên chức của người mẹ.

Bởi qua những câu hát ru, hát ví chắt lọc từ trái tim tràn đầy yêu thương ấy mà người mẹ truyền lại cho con những tình cảm, đạo lý biết yêu thương con người, gia đình, làng xóm và quê hương với mong muốn con sống đẹp hơn, người hơn; con lớn lên, phát triển toàn diện hơn bởi những lời ru chất chứa yêu thương cùng với những tình cảm và đạo lý ở đời – mẹ ru cái lẽ ở đời/sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn.

Nhớ mẹ, hồi tưởng về những vui buồn tuổi thơ khi còn mẹ mà Nguyễn Duy cảm thấy ngậm ngùi, với nỗi lòng tê tái, buốt giá: “lòng ta – chỗ ướt mẹ nằm đêm mưa”. Nhớ thương mẹ đến tột cùng; không khỏi rưng rưng, ứa lệ khi nhớ về những đêm đông mưa rét, con lỡ đái dầm, thương con mẹ dành nằm phần ướt, nhường chỗ khô cho con.

Với cảm xúc trào dâng, Nguyễn Duy đã để cho giọng thơ cứ ngậm ngùi, gieo vào lòng người những nỗi niềm bâng khuâng đến da diết; ý thơ toát lên nỗi niềm suy tư, chiêm nghiệm, trở trăn, lo toan.

Mẹ ru cái lẽ ở đời
sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn
bà ru mẹ… mẹ ru con
liệu mai sau các con còn nhớ chăng

Dường như có tiếng thở dài đang bị nén lại, dường như có chút gì đó ân hận, có chút gì áy náy còn day dứt trong lòng con – những lời mẹ dặn dò, chỉ bảo thì đến nay, mặc dù con đã “đi trọn kiếp người” nhưng “vẫn không đi hết mấy lời mẹ ru” bởi cái lẽ ở đời mà mẹ từng ru dài rộng lắm, sâu sắc lắm; bởi bao nhiêu “lẽ đời” là bấy nhiêu tâm sự mà thế hệ những người bà, người mẹ gửi gắm trong lời ru.

Có thể, đó cũng là niềm tâm sự, những lo toan mà Nguyễn Duy nói hộ tất cả những người đang làm con như chúng ta?! Và, sự băn khoăn, lo lắng ấy hẳn là không phải không có lý do!

Bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa của Nguyễn Duy với âm điệu nhẹ nhàng, sâu lắng, thiết tha là những cảm xúc yêu thương nồng hậu mà cháy bỏng và cụ thể của người con đối với mẹ. Bài thơ đã đi vào lòng biết bao người yêu thơ và chắc hẳn sẽ có không ít người cảm thấy rưng rưng, bởi những kỷ niệm ấy không chỉ riêng của nhà thơ Nguyễn Duy mà còn là kỷ niệm của bao nhiêu người khác nữa.

Đừng vội bỏ qua bài thơ 🍀Dấu Chân Qua Trảng Cỏ 🍀Hay, ý nghĩa

Viết một bình luận