Thơ Lý Bạch Về Trăng Và Rượu, Thiên Nhiên [Những Bài Thơ Hay Nhất]

Thơ Lý Bạch Về Trăng Và Rượu, Thiên Nhiên ❤️️ 20+ Bài Thơ Hay Nhất ✅ Tuyển Tập Những Bài Thơ Hay Nhất Của Tác Giả Lý Bạch.

7 Bài Thơ Lý Bạch Về Trăng Nổi Tiếng Nhất

Nếu bạn là người yêu thơ Lý Bạch thì không nên bỏ qua tuyển tập 7 bài thơ Lý Bạch về trăng nổi tiếng nhất dưới đây nhé!

Độ Kinh Môn Tống Biệt

渡荊門送別

渡遠荊門外,
來從楚國遊。
山隨平野盡,
江入大荒流。
月下飛天鏡,
雲生結海樓。
仍憐故鄉水,
萬里送行舟。

Phiên âm:

Độ viễn kinh môn ngoại,
Lai tòng Sở quốc du.
Sơn tuỳ bình dã tận,
Giang nhập đại hoang lưu.
Nguyệt hạ phi thiên kính,
Vân sinh kết hải lâu.
Nhưng liên cố hương thuỷ,
Vạn lý tống hành chu.

Dịch thơ:

Trèo vượt non Kinh tới,
Dong chơi nước Sở qua.
Núi theo đống tít tắp,
Sông chảy đất bao la.
Trăng chiếu gương trời tỏ,
Mây đùn gác biển xa.
Nhớ thương dòng nước cũ,
Muôn dặm tiễn thuyền ta.

Nga My Sơn Nguyệt Ca Tống Thục Tăng Yến Nhập Trung Kinh

峨眉山月歌送蜀僧晏入中京

我在巴東三峽時,
西看明月憶峨眉。
月出峨眉照滄海,
與人萬里長相隨。
黃鶴樓前月華白,
此中忽見峨眉客。
峨眉山月還送君,
風吹西到長安陌。
長安大道橫九天,
峨眉山月照秦川。
黃金獅子乘高座,
白玉麈尾談重玄。
我似浮雲殢吳越,
君逢聖主遊丹闕。
一振高名滿帝都,
歸時還弄峨眉月。

Phiên âm:

Ngã tại Ba Đông tam giáp thì
Tây khán minh nguyệt ức Nga My
Nguyệt xuất Nga My chiếu thương hải
Dữ nhân vạn lý trường tương tuỳ
Hoàng Hạc lâu tiền nguyệt hoa bạch
Thử trung hốt kiến Nga My khách
Nga My sơn nguyệt hoàn tống quân
Phong xuy tây đáo Trường An mạch
Trường An đại đạo hoành cửu thiên
Nga My sơn nguyệt chiếu Tần Xuyên
Hoàng kim sư tử thừa cao toạ
Bạch Ngọc, Chủ Vĩ đàm Trọng Huyền
Ngã tự phù vân trệ Ngô Việt
Quân phùng thánh chúa du đan khuyết
Nhất chấn cao danh mãn đế đô
Quy thì hoàn lộng Nga My nguyệt.

Dịch thơ:

Tôi ở Ba Đông gần Tam Giáp
Nhìn trăng phía tây nhớ Nga Mi
Từ núi Nga Mi trăng soi biển
Trên đường vạn dặm theo người đi
Trước lầu Hoàng Hạc trắng hoa trăng
Nơi đây gặp khách Nga Mi quen
Tiễn anh trăng Nga Mi về lại
Nẽo Trường An gió thổi đến chăng ?
Trường An đường lớn ngáng ngang trời
Đất Tần trăng chiếu sáng nơi nơi
Có sư tử vàng trên cao tọa
Bạch Ngọc, Vĩ, Huyền nói chuyện chơi
Tôi như mây nổi trụy Việt Ngô
Anh gặp vua hiền du đế đô
Danh lớn rồi sẽ vang cung khuyết
Đến một ngày kia khi chán việc
Về Nga Mi đùa trăng với tôi.

Nga My Sơn Nguyệt

峨嵋山月

峨嵋山月半輪秋,
影入平羌江水流。
夜發清溪向三峽,
思君不見下渝州。

Phiên âm:

Nga My sơn nguyệt bán luân thu,
Ảnh nhập Bình Khương giang thuỷ lưu.
Dạ phát Thanh Khê hướng Tam Giáp,
Tư quân bất kiến há Du Châu.

Dịch thơ:

Nga Mi trăng núi nửa vầng thu,
Soi bóng Bình Khương lấp lánh trôi.
Thanh Khê chảy hướng về Tam Giáp,
Ở tại Du Châu vẫn ngóng người.

Tĩnh Dạ Tứ

靜夜思

床前明月光,
疑是地上霜。
舉頭望明月,
低頭思故鄉。

Phiên âm:

Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.

Dịch thơ:

Ánh trăng chiếu sáng đầu giường
Ngỡ là mặt đất phủ sương móc dày
Ngẩng đầu ngắm ánh trăng đầy
Cúi đầu bỗng nhớ những ngày cố hương

Nguyệt Dạ Giang Hành Ký Thôi Viên Ngoại Tông Chi

月夜江行寄崔員外宗之

飄飄江風起,
蕭颯海樹秋。
登艫美清夜,
挂席移輕舟。
月隨碧山轉,
水合青天流。
杳如星河上,
但覺雲林幽。
歸路方浩浩,
徂川去悠悠。
徒悲蕙草歇,
復聽菱歌愁。
岸曲迷后浦,
沙明瞰前洲。
懷君不可見,
望遠增離憂。

Phiên âm:

Phiêu phiêu giang phong khởi
Tiêu táp hải thụ thu
Đăng lô mỹ thanh dạ
Quải tịch di khinh chu
Nguyệt tùy bích sơn chuyển
Thủy hợp thanh thiên lưu
Diểu như tinh hà thượng
Đán giác vân lâm u
Quy lộ phương hạo hạo
Tồ xuyên khứ du du
Đồ bi huệ thảo yết
Phúc thính lăng ca sầu
Ngạn khúc mê hậu phố
Sa minh hám tiền châu
Hoài quân bất khả kiến
Lưu viễn tăng ly ưu.

Dịch thơ:

Gió sông nhè nhẹ thổi
Cây lá xác xơ vàng
Sào nhổ, đêm vằng vặc
Buồm căng, sóng nhẹ nhàng
Núi trăng lùi chậm chậm
Trời nước trôi mênh mang
Sông Hán lờ mờ chảy
Sương rừng ảm đạm loang
Sau lưng đường dằng dặc
Trước mặt nước thênh thang
Cỏ thơm sầu áo não
Ai hát buồn miên man:
“Sông uốn quê lùi khuất
Cồn dâng cát ánh vàng”
Nhớ anh mà cách biệt
Từng dặm sầu tràng giang.

Bắc Phong Hành

北風行

燭龍棲寒門,
光曜猶旦開。
日月照之何不及此,
惟有北風號怒天上來。
燕山雪花大如席,
片片吹落軒轅臺。
幽州思婦十二月,
停歌罷笑雙蛾摧。
倚門望行人,
念君長城苦寒良可哀。
別時提劍救邊去,
遺此虎紋金鞞革叉。
中有一雙白羽箭,
蜘蛛結網生塵埃。
箭空在,
人今戰死不復回。
不忍見此物,
焚之已成灰。
黃河捧土尚可塞,
北風雨雪恨難裁。

Phiên âm:

Chúc long thê hàn môn,
Quang diệu do đán khai.
Nhật nguyệt chiếu chi hà bất cập thử,
Duy hữu bắc phong hào nộ thiên thượng lai.
Yên sơn tuyết hoa đại như tịch,
Phiến phiến xuy lạc Hiên Viên đài.
U Châu tư phụ thập nhị nguyệt,
Đình ca bãi tiếu song nga tồi.
Ỷ môn vọng hành nhân,
Niệm quân Trường Thành khổ hàn lương khả ai.
Biệt thời đề kiếm cứu biên khứ,
Di thử hổ văn kim bính cách xoa.
Trung hữu nhất song bạch vũ tiễn,
Tri thù kết võng sinh trần ai.
Tiễn không tại,
Nhân kim chiến tử bất phục hồi.
Bất nhẫn kiến thử vật,
Phần chi dĩ thành khôi.
Hoàng Hà phủng thổ thượng khả tái,
Bắc phong vũ tuyết hận nan tài.

Dịch thơ:

Cửa nhà nghèo đuốc rồng nào đến
Buổi mai về nắng sớm cũng giăng
Trời trăng lánh chốn này chăng
Chỉ nghe gió bấc hung hăng thét gào
Núi Yên Chi tuyết rơi như bão
Đài Hiên Viên sụp đổ tung bay
Đất trời vào tháng mười hai
U Châu thiếu phụ mày ngài buồn xo
Mãi âu lo không còn đùa nữa
Nhớ trượng phu tựa cửa ngóng trông
Chàng còn ở tận Trường Thành
Người đi đi mãi vắng tanh đường về
Nhớ lại hôm phu thê đưa tiễn
Cầm tay chàng bịn rịn luyến thương
Trượng phu lúc sắp lên đường
Tuốt gươm thề chốn biên cương giết thù
Người đi xa nay còn để lại
Túi đựng tên cùng với đồ dùng
Nhện giăng bụi bám tứ tung
Túi thì trống rỗng, tên cùng người đi
Chốn sa trường thân tuy dũng mãnh
Chiến đấu hoài chết mất còn đâu
Sông Hoàng đất trũng bấy lâu
Nhưng rồi có thể cùng nhau lấp đầy
Gió bấc ơi giận lây thổi mãi
Đem lạnh về tuyết rải khắp nơi
Buồn này trách đất oán trời
Trượng phu đã chết một đời cô đơn.

Nguyệt Hạ Độc Chước Kỳ 1

月下獨酌其一

花間一壺酒,
獨酌無相親。
舉杯要明月,
對影成三人。
月既不解飲,
影徒隨我身。
暫伴月將影,
行樂須及春。
我歌月徘徊,
我舞影零亂。
醒時同交歡,
醉後各分散。
永結無情遊,
相期邈雲漢。

Phiên âm:

Hoa gian nhất hồ tửu,
Độc chước vô tương thân.
Cử bôi yêu minh nguyệt,
Đối ảnh thành tam nhân.
Nguyệt ký bất giải ẩm,
Ảnh đồ tuỳ ngã thân.
Tạm bạn nguyệt tương ảnh,
Hành lạc tu cập xuân.
Ngã ca nguyệt bồi hồi,
Ngã vũ ảnh linh loạn.
Tỉnh thì đồng giao hoan,
Tuý hậu các phân tán.
Vĩnh kết vô tình du,
Tương kỳ mạc Vân Hán.

Dịch thơ:

Có rượu không có bạn,
Một mình chuốc dưới hoa.
Cất chén mời trăng sáng,
Mình với bóng là ba.
Trăng đã không biết uống,
Bóng chỉ quấn theo ta.
Tạm cùng trăng với bóng,
Chơi xuân cho kịp mà!
Ta hát, trăng bồi hồi,
Ta múa, bóng rối loạn.
Lúc tỉnh cùng nhau vui,
Say rồi đều phân tán.
Gắn bó cuộc vong tình,
Hẹn nhau tít Vân Hán.

Chia sẻ chi tiết về🌿 Thơ Lý Bạch 🌿 Bên Cạnh Chùm Thơ Lý Bạch Về Trăng

7 Bài Thơ Lý Bạch Về Rượu Hay Nhất

Bên cạnh các bài thơ Lý Bạch về trăng, tiếp theo là 6 bài thơ của tác giả Lý Bạch về rượu hay nhất, mời bạn cùng thưởng thức.

Kim Lăng Tửu Tứ Lưu Biệt

金陵酒肆留別

風吹柳花滿店香,
吳姬壓酒喚客嘗。
金陵子弟來相送,
欲行不行各盡觴。
請君試問東流水,
別意與之誰短長。

Phiên âm:

Phong xuy liễu hoa mãn điếm hương,
Ngô cơ áp tửu hoán khách thường.
Kim Lăng tử đệ lai tương tống,
Dục hành bất hành, các tận trường.
Thỉnh quân thí vấn đông lưu thuỷ,
Biệt ý dữ chi thuỳ đoản trường?

Dịch thơ:

Quán ngạt ngào hương gió liễu bay,
Cô hàng rượu đẹp ép người say.
Kim Lăng bạn trẻ ra đưa tiễn,
Kẻ ở người đi cạn chén đầy.
Nhờ ai hỏi nước Trường Giang thử,
Nước ấy tình kia ai vắn dài ?

Đối Tửu

對酒

蒲萄酒,
金叵羅,
吳姬十五細馬馱。
青黛畫眉紅錦靴,
道字不正嬌唱歌。
玳瑁筵中懷裏醉,
芙蓉帳底奈君何。

Phiên âm:

Bồ đào tửu,
Kim phả la,
Ngô cơ thập ngũ tế mã đà.
Thanh đại hoạ mi hồng cẩm ngoa,
Đạo tự bất chính kiều xướng ca.
Đại mội diên trung hoài lý tuý,
Phù dung trướng để nại quân hà.

Dịch thơ:

Rượu nho uống với chén vàng
Gái Ngô ngựa nhỏ tuổi chừng mười lăm
Mày xanh giày ủng gấm hồng
Giọng tuy chưa chuẩn thanh âm nhẹ nhàng
Tiệc đang dở bỗng say ngang
Trướng hoa bất tỉnh cô nàng cười chăng?

Thương Tiến Tửu

將進酒

君不見:
黃河之水天上來,
奔流到海不復回?
又不見:
高堂明鏡悲白髮,
朝如青絲暮成雪?
人生得意須盡歡,
莫使金樽空對月。
天生我才必有用,
千金散盡還復來。
烹羊宰牛且為樂,
會須一飲三百杯。
岑夫子,
丹丘生,
將進酒,
杯莫停。
與君歌一曲,
請君為我傾耳聽。
鐘鼓饌玉何足貴,
但願長醉不願醒。
古來聖賢皆寂寞,
唯有飲者留其名。
陳王昔時宴平樂,
斗酒十千恣歡謔。
主人為何言少錢,
逕須沽取對君酌。
五花馬,
千金裘,
呼兒將出換美酒,
與爾同消萬古愁。

Phiên âm:

Quân bất kiến:
Hoàng Hà chi thuỷ thiên thượng lai,
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi!
Hựu bất kiến:
Cao đường minh kính bi bạch phát,
Triêu như thanh ty, mộ thành tuyết.
Nhân sinh đắc ý tu tận hoan,
Mạc sử kim tôn không đối nguyệt!
Thiên sinh ngã tài tất hữu dụng,
Thiên kim tán tận hoàn phục lai.
Phanh dương tể ngưu thả vi lạc,
Hội tu nhất ẩm tam bách bôi.
Sầm phu tử,
Đan Khâu sinh.
Thương tiến tửu,
Bôi mạc đình!
Dữ quân ca nhất khúc,
Thỉnh quân vị ngã khuynh nhĩ thính:
“Chung cổ soạn ngọc hà túc quý,
Đãn nguyện trường tuý bất nguyện tỉnh!
Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch,
Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh.
Trần vương tích thời yến Bình Lạc,
Đẩu tửu thập thiên tứ hoan hước.”
Chủ nhân hà vi ngôn thiểu tiền,
Kính tu cô thủ đối quân chước.
Ngũ hoa mã,
Thiên kim cừu,
Hô nhi tương xuất hoán mỹ tửu,
Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu.

Dịch thơ:

Con sông Hoàng lưng trời tuôn nước,
Xuống biển rồi, có ngược lên đâu!
Nhà cao, gương xót mái đầu,
Sớm còn tơ biếc, tối hầu tuyết pha.
Vui cho đẫy, khi ta đắc ý
Dưới vầng trăng, đừng để chén không.
Sinh ra, trời có chỗ dùng,
Nghìn vàng tiêu hết, lại trông thấy về.
Chén đi đã, trâu dê cứ giết,
Ba trăm ly, phải hết một lần.
Khâu, Sầm hai bác bạn thân,
Rượu kèo xin chớ ngại ngùng ngừng thôi!
Ta vì bác, hát chơi một khúc!
Bác vì ta, hãy chúc bên tai:
“Ngọc, tiền, chuông, trống mặc ai,
Tỉnh chi? Chỉ muốn cho dài cuộc say.
Bao hiền thánh đến nay đã rõ?
Phường rượu ta tên họ rành rành:
Trần Vương bữa tiệc quán Bình,
Mười nghìn đấu rượu thỏa tình đùa vui”.
Chủ nhân chớ ngậm ngùi tiền ít,
Mua rượu ta chén tít cùng nhau.
Áo cừu, ngựa gấm, để đâu?
Gọi con đem đổi vài bầu rượu ngon.
Uống cho muôn thuở tan buồn!

Nguyệt Hạ Độc Chước Kỳ 2

月下獨酌其二

天若不愛酒,
酒星不在天。
地若不愛酒,
地應無酒泉。
天地既愛酒,
愛酒不愧天。
已聞清比聖,
復道濁如賢。
賢聖既已飲,
何必求神仙。
三杯通大道,
一斗合自然。
但得酒中趣,
勿為醒者傳。

Phiên âm:

Thiên nhược bất ái tửu,
Tửu tinh bất tại thiên.
Địa nhược bất ái tửu,
Địa ưng vô tửu tuyền.
Thiên địa ký ái tửu,
Ái tửu bất quý thiên.
Dĩ văn thanh tỷ thánh,
Phục đạo trọc như hiền.
Hiền thánh ký dĩ ẩm,
Hà tất cầu thần tiên.
Tam bôi thông đại đạo,
Nhất đấu hợp tự nhiên.
Đản đắc túy trung thú,
Vật vi tỉnh giả truyền.

Dịch thơ:

Nếu trời không thích rượu
Sao Rượu ở chi trời?
Nếu đất không thích rượu
Suối rượu ở chi đời?
Trời đất đã thích rượu
Thích rượu không thẹn trời.
Đã nghe trong tựa thánh
Lại nói đục như hiền
Thánh hiền đều uống rượu
Cầu mà chi thần tiên?
Ba ly hiểu đạo lớn
Một đấu hợp tự nhiên
Chỉ mong được thú say
Kẻ tỉnh mặc ai khen.

Nguyệt Hạ Độc Chước Kỳ 3

月下獨酌其三

三月咸陽城,
千花晝如錦。
誰能春獨愁,
對此徑須飲。
窮通與修短,
造化夙所稟。
一樽齊死生,
萬事固難審。
醉後失天地,
兀然就孤枕。
不知有吾身,
此樂最為甚。

Phiên âm:

Tam nguyệt Hàm Dương thành,
Thiên hoa trú như cẩm.
Thùy năng xuân độc sầu,
Đối thử kính tu ẩm.
Cùng thông dữ tu đoản,
Tạo hoá túc sở bẩm.
Nhất tôn tề tử sinh,
Vạn sự cố nan thẩm.
Túy hậu thất thiên địa,
Ngột nhiên tựu cô chẩm.
Bất tri hữu ngô thân,
Thử lạc tối vi thậm.

Dịch thơ:

Ba tháng ở Hàm Dương,
Nghìn hoa đẹp như gấm.
Ai hay xuân mà sầu,
Nên cần uống nhiều lắm.
Tạo hoá sẵn phú bẩm,
Sống chết, một chén thôi
Muôn sự khôn xét thẩm.
Khi say quên trời đất,
Ôm gối nằm ngủ tắp,
Chẳng biết có thân mình
Vui ấy vui nào thấm.

Nguyệt Hạ Độc Chước Kỳ 4

月下獨酌其四

窮愁千萬端,
美酒三百杯。
愁多酒雖少,
酒傾愁不來。
所以知酒聖,
酒酣心自開。
辭粟臥首陽,
屢空飢顏回。
當代不樂飲,
虛名安用哉。
蟹螯即金液,
糟丘是蓬萊。
且須飲美酒,
乘月醉高台。

Phiên âm:

Cùng sầu thiên vạn đoan,
Mỹ tửu bách tam bôi.
Sầu đa tửu tuy thiểu,
Tửu khuynh sầu bất lai.
Sở dĩ tri tửu thánh,
Tửu hàm tâm tự khai.
Từ túc ngọa Thú Dương,
Lũ không cơ Nhan Hồi.
Đang đại bất lạc ẩm,
Hư danh an dụng tai.
Giải ngao tức kim dịch,
Tao khâu thị Bồng Lai.
Thả tu ẩm mỹ tửu,
Thừa nguyệt túy cao đài.

Dịch thơ:

Sầu lớn nghìn muôn mối
Ba trăm chén rượu ngon!
Sầu nhiều, rượu tuy ít
Rượu nghiêng sầu phải bon.
Sở dĩ biết rượu thánh
Rượu say mơ lòng son
Bá Di không nhận thóc
Nhan Hồi đói chết mòn
Thời ấy không thích uống
Hư danh sao vẫn còn?
Cua tôm là châu báu
Gò nem là cõi Bồng.
Và cần uống rượu tốt,
Gác cao cưỡi trăng tròn.

Bả Tửu Vấn Nguyệt

把酒問月

青天有月來幾時,
我今停杯一問之。
人攀明月不可得,
月行卻與人相隨。
皎如飛鏡臨丹闕,
綠煙滅盡清輝發。
但見宵從海上來,
寧知曉向雲間沒。
白兔搗藥秋復春,
嫦娥孤棲與誰鄰。
今人不見古時月,
今月曾經照古人。
古人今人若流水,
共看明月皆如此。
唯願當歌對酒時,
月光常照金樽裡。

Phiên âm:

Thanh thiên hữu nguyệt lai kỷ thì,
Ngã kim đình bôi nhất vấn chi!
Nhân phan minh nguyệt bất khả đắc,
Nguyệt hành khước dữ nhân tương tuỳ.
Kiểu như phi kính lâm đan khuyết,
Lục yên diệt tận thanh huy phát
Đãn kiến tiêu tòng hải thượng lai,
Ninh tri hiểu hướng vân gian một.
Bạch thố đảo dược thu phục xuân,
Thường nga cô thê dữ thuỳ lân.
Kim nhân bất kiến cổ thì nguyệt,
Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân.
Cổ nhân kim nhân nhược lưu thuỷ,
Cộng khan minh nguyệt giai như thử.
Duy nguyện đương ca đối tửu thì,
Nguyệt quang thường chiếu kim tôn lý.

Dịch thơ:

Trời xanh có trăng từ thuở nào?
Ngừng chén đêm này hỏi một câu.
Người với lên trăng, vin chẳng được,
Khi đi, trăng lại mãi theo nhau.
Trăng như gương lượn bên đan khuyết,
Xoá sạch mây xanh, soi vằng vặc.
Chỉ thấy đêm từ mặt biển lên,
Hay đâu đến sáng vào mây khuất.
Thỏ ngọc giã thuốc thu lại xuân,
Thường Nga quạnh hưu ai người gần?
Người nay chẳng thấy trăng thời trước,
Người trước, trăng nay soi đã từng.
Người trước, người nay như nước chảy,
Cùng xem trăng sáng đều thế đấy.
Chỉ ước vui ca thưởng chén quỳnh,
Be vàng, trăng sáng vào rọi mãi.

Tìm hiểu thêm về 🔰 Thơ Bạch Cư Dị 🔰 Ngoài những bài thơ Lý Bạch về trăng

Thơ Lý Bạch Về Tình Bạn

Ngoài các bài thơ Lý Bạch về trăng và rượu thì dưới đây Thohay.vn còn sưu tầm thêm cho bạn đọc các bài thơ về tình bạn của ông.

Hoàng Hạc Lâu Tống Mạnh Hạo Nhiên Chi Quảng Lăng

黃鶴樓送孟浩然之廣陵

故人西辭黃鶴樓,
煙花三月下揚州。
孤帆遠影碧空盡,
惟見長江天際流。

Phiên âm:

Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu,
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu.
Cô phàm viễn ảnh bích không tận,
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.

Dịch thơ:

Bạn cũ dời chân Hoàng Hạc lâu
Tháng ba hoa khói xuống Dương Châu
Bóng buồm chìm lẫn trong trời biếc
Chỉ thấy Trường Giang vẫn chảy mau

Hí Tặng Đỗ Phủ

戲贈杜甫

飯顆山頭逢杜甫,
頭戴笠子日卓午。
借問別來太瘦生,
總為從前作詩苦。

Phiên âm:

Phạn Khoả sơn đầu phùng Đỗ Phủ,
Đầu đới lạp tử nhật trác ngọ.
Tá vấn biệt lai thái sấu sinh,
Tổng vị tòng tiền tác thi khổ.

Dịch thơ:

Ở đầu núi Phạn gặp Đỗ Phủ,
Nón lá đội đầu đứng giữa trưa.
Từ độ xa nhau, gầy đến thế,
Vần xoay, chắc bác khổ vì thơ.

Chia sẻ chùm 🌸 Thơ Nguyễn Quang Thiều 🌸Bên cạnh thơ Lý Bạch về trăng

Những Bài Thơ Lý Bạch Về Thiên Nhiên Hay Nhất

Tìm hiểu thêm những bài thơ Lý Bạch về thiên nhiên hay nhất sau đây bên cạnh các thơ Lý Bạch về trăng và rượu.

Ngọc Giai Oán

玉階怨

玉階生白露,
夜久侵羅襪。
欲下水晶簾,
玲瓏望秋月。

Phiên âm:

Ngọc giai sinh bạch lộ
Dạ cửu xâm la miệt
Dục hạ thuỷ tinh liêm
Linh lung vọng thu nguyệt

Dịch thơ:

Sương trắng phơi trên thềm
Đêm khuya lan dép lụa
Toan rủ bức rèm thưa
Ngắm trăng thu sáng tỏ

Vọng Lư Sơn Bộc Bố

望廬山瀑布

日照香爐生紫煙,
遙看瀑布掛前川。
飛流直下三千尺,
疑是銀河落九天。

Phiên âm:

Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên.
Phi lưu trực há tam thiên xích,
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.

Dịch thơ:

Nắng rọi Hương Lô khói tía bay,
Xa trông dòng thác trước sông này:
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước,
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.

Vọng Phu Thạch

望夫石

仿佛古容儀,
含愁帶曙輝。
露如今日淚,
苔似昔年衣。
有恨同湘女,
無言類楚妃。
寂然芳靄內,
猶若待夫歸。

Phiên âm:

Phảng phất cổ dung nghi,
Hàm sầu đới thự huy.
Lộ như kim nhật lệ,
Đài tự tích niên y.
Hữu hận đồng Tương nữ,
Vô ngôn loại Sở phi.
Tịch nhiên phương ái nội,
Do nhược đãi phu quy.

Dịch thơ:

Tưởng tợ dung mạo xưa,
Ôm sầu dưới nắng mai.
Rêu xanh áo năm trước,
Sương móc lệ hôm nay.
Không nói như phi Sở,
Gái Tương chia hận nầy.
Tịch mịch mù thơm thấm,
Chờ chồng đứng buồn ngây.

Thục Đạo Nan

蜀道難

噫吁戲!
危乎高哉!
蜀道之難難於上青天!
蠶叢及魚鳧,
開國何茫然。
爾來四萬八千歲,
不與秦塞通人煙。
西當太白有鳥道,
可以橫絕峨眉巔。
地崩山摧壯士死,
然後天梯石棧方鉤連。
上有六龍回日之高標,
下有衝波逆折之回川。
黃鶴之飛尚不得過,
猿猱欲度愁攀援。
青泥何盤盤,
百步九折縈巖巒。
捫參歷井仰脅息,
以手撫膺坐長歎。
問君西遊何時還?
畏途巉巖不可攀。
但見悲鳥號古木,
雄飛雌從繞林間。
又聞子規啼夜月,愁空山,
蜀道之難難於上青天,
使人聽此凋朱顏。
連峯去天不盈尺,
枯松倒掛倚絕壁。
飛湍瀑流爭喧豗,
砅厓轉石萬壑雷。
其險也如此,
嗟爾遠道之人,
胡為乎來哉!
劍閣崢嶸而崔嵬,
一夫當關,
萬夫莫開。
所守或匪親,
化為狼與豺。
朝避猛虎,
夕避長蛇。
磨牙吮血,
殺人如麻。
錦城雖云樂,
不如早還家。
蜀道之難難於上青天,
側身西望長咨嗟。

Phiên âm:

Y hu hy
Nguy hồ cao tai
Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên
Tàm Tùng cập Ngư Phù
Khai quốc hà mang nhiên
Nhĩ lai tứ vạn bát thiên tuế
Bất dữ Tần tái thông nhân yên
Tây đương Thái Bạch hữu điểu đạo
Khả dĩ hoành tuyệt Nga My điên
Địa băng sơn tồi tráng sĩ tử
Nhiên hậu thiên thê thạch sạn phương câu liên
Thượng hữu lục long hồi nhật chi cao tiêu
Hạ hữu xung ba nghịch chiết chi hồi xuyên
Hoàng hạc chi phi thượng bất đắc quá
Viên nhứu dục độ sầu phan viên
Thanh Nê hà bàn bàn
Bách bộ cửu chiết oanh nham loan
Môn Sâm lịch Tỉnh ngưỡng hiếp tức
Dĩ thủ phủ ưng toạ trường thán
Vấn quân tây du hà thời hoàn
Uý đồ sàm nham bất khả phan
Đãn kiến bi điểu hào cổ mộc
Hùng phi tòng thư nhiễu lâm gian
Hữu văn tử quy đề dạ nguyệt, sầu không san.
Thục đạo chi nan nan ư thướng thanh thiên
Sử nhân thính thử điêu chu nhan
Liên phong khứ thiên bất doanh xích
Khô tùng đảo quái ỷ tuyệt bích
Phi suyền bộc lưu tranh huyên hôi
Phanh nhai chuyển thạch vạn hác lôi
Kỳ hiểm dã nhược thử
Ta nhĩ viễn đạo chi nhân
Hồ vi hồ lai tai
Kiếm Các tranh vanh nhi thôi ngôi
Nhất phu đang quan
Vạn phu mạc khai
Sở thủ hoặc phi thân
Hoá vi lang dữ sài
Triều tị mãnh hổ
Tịch tị trường xà
Ma nha doãn huyết
Sát nhân như ma
Cẩm thành tuy vân lạc
Bất như tảo hoàn gia
Thục đạo chi nan nan ư hướng thanh thiên
Trắc thân tây vọng trường tư ta

Dịch thơ:

Ôi, chao ôi!
Nguy hề, cao thay!
Đường Thục khó, khó hơn lên trời xanh.
Tàm Tùng và Ngư Phù,
Mở nước bao xa xôi!
Đến nay bốn vạn tám ngàn năm,
Mới cùng ải Tần liền khói người.
Phía tây núi Thái Bạch có đường chim,
Vắt ngang đến tận đỉnh Nga Mi,
Đất long, núi lở, tráng sĩ chết,
Rồi sau thang trời, lối đá mới nối liền.
Trên đỉnh có sáu rồng, lượn quanh vầng nhật;
Dưới có dòng sâu rẽ ngược, sóng cả đua chen.
Hạc vàng bay qua còn chẳng được;
Vượn khỉ toan vượt, buồn với vin.
Rặng Thanh Nê quanh co!
Trăm bước, chín vòng núi nhấp nhô.
Ngẩng trông Sâm Tỉnh, không dám thở,
Lấy tay vỗ bụng ngồi thở dài.
Hỏi bạn sang tây, bao giờ trở lại ?
Đường hiểm núi cao, khó lắm thay;
Chỉ thấy chim buồn gào cổ thụ,
Trống bay theo mái lượn rừng cây.
Lại nghe tiếng cuốc kêu trăng tối,
Buồn tênh, núi vắng người!
Đường Thục khó, khó hơn lên trời xanh;
Khiến người nghe nói héo mặt son.
Núi liền cách trời chẳng đầy thước;
Thông khô vắt vẻo vách cao ngất.
Thác đổ dồn mau tiếng rộn ràng,
Vỗ bờ, tung đá, muôn khe vang.
Hiểm nghèo là như vậy,
Đường xa, thương cho ai,
Vì sao lại đến đây ?
Kiếm Các cheo leo cao ngất mây.
Một người giữ cửa quan,
Muôn người khôn mở ải.
Chẳng phải là người thân,
Biến thành ra sài lang.
Sớm lánh hổ dữ,
Tối tránh rắn dài;
Mài nanh, hút máu,
Giết người như gai.
Cẩm thành tuy vui thú,
Đâu bằng sớm về nhà.
Đường Thục khó, khó hơn lên trời xanh;
Nghiêng trông sang tây, mãi thở than.

Bạch Đầu Ngâm

白頭吟

錦水東北流,
波蕩雙鴛鴦。
雄巢漢宮樹,
雌弄秦草芳。
寧同萬死碎綺翼,
不忍雲間兩分張。
此時阿嬌正嬌妒,
獨坐長門愁日暮。
但愿君恩顧妾深,
豈惜黃金買詞賦。
相如作賦得黃金,
丈夫好新多異心。
一朝將聘茂陵女,
文君因贈白頭吟。
東流不作西歸水,
落花辭條羞故林。
兔絲固無情,
隨風任傾倒。
誰使女蘿枝,
而來強縈抱。
兩草猶一心,
人心不如草。
莫卷龍須席,
從他生網絲。
且留琥珀枕,
或有夢來時。
覆水再收豈滿杯,
棄妾已去難重回。
古來得意不相負,
只今惟見青陵臺。

Phiên âm:

Cẩm thuỷ đông bắc lưu,
Ba đãng song uyên ương.
Hùng sào Hán cung thụ,
Thư lộng Tần thảo phương.
Ninh đồng vạn tử toái ỷ dực,
Bất nhẫn vân gian lưỡng phân trương.
Thử thì A Kiều chính kiều đố,
Độc toạ Trường Môn sầu nhật mộ.
Đãn nguyện quân ân cố thiếp thâm,
Khởi tích hoàng kim mãi từ phú.
Tương Như tác phú đắc hoàng kim,
Trượng phu hiếu tân đa dị tâm.
Nhất triêu tương sính Mậu Lăng nữ,
Văn Quân nhân tặng “Bạch đầu ngâm”.
Đông lưu bất tác tây quy thuỷ,
Lạc hoa từ điều tu cố lâm.
Thố ty cố vô tình,
Tuỳ phong nhiệm khuynh đảo.
Thuỳ sử nữ la chi,
Nhi lai cưỡng oanh bão.
Lưỡng thảo do nhất tâm,
Nhân tâm bất như thảo.
Mạc quyển long tu tịch,
Tòng tha sinh võng ty.
Thả lưu hổ phách chẩm,
Hoặc hữu mộng lai thì.
Phúc thuỷ tái thu khởi mãn bôi,
Khí thiếp dĩ khứ nan trùng hồi.
Cổ lai đắc ý bất tương phụ,
Chỉ kim duy kiến Thanh Lăng đài.

Dịch thơ:

Dòng sông Cẩm chảy về đông bắc
Xô cặp uyên ương lớp sóng đào
Mái lộng cỏ Tần thơm phảng phất
Trống trên cung Hán đỉnh cây cao.
Nát lông cánh, vạn lần cùng chết
Hơn ở trong mây rẻ cánh nhau.
Còn nhớ A Kiều ghen thuở nọ
Trường môn chiều xuống lặng ngồi sầu
Ngắm trăng lòng ước hầu bên chúa.
Xưa phú từ mua cuộc sống giàu
Làm phú Tương Như sung túc hẳn
Đàn ông chuộng mới đổi thay mau.
Mậu Lăng một sớm tâm tình hợp
Nhỏ lệ Văn Quân phú Bạch đầu
Nước chẳng về đông, tây cuộn mãi
Lá lìa cành rụng chốn rừng sâu.
Cỏ thố ti vô tình
Cuốn mình theo chiều gió
Cùng với nữ la cành
Quấn quanh dù bão tố
Hai cỏ một tâm tình
Lòng người thua cây cỏ.
Chiếu long tu trải đó
Cho tơ nhện giăng mành.
Giữ gìn gối hổ phách
Về lại thuở mơ lành.
Thôi đành ! nước đỗ hốt đầy sao?
Phụ thiếp đuổi đi, khó lại nào.
Tự cổ được thời, không xứng vợ
Đến nay chỉ thấy gác Thanh sầu.

Bên cạnh thơ Lý Bạch về trăng, xem thêm 🔰Thơ Bà Huyện Thanh Quan 🔰Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ

Thơ Lý Bạch Về Mùa Xuân

Tổng hợp các bài thơ viết về mùa xuân của tác giả Lý Bạch.

Xuân Nhật Độc Chước Kỳ 1

春日獨酌其一

東風扇淑氣,
水木榮春暉。
白日照綠草,
落花散且飛。
孤云還空山,
眾鳥各已歸。
彼物皆有托,
吾生獨無依。
對此石上月,
長醉歌芳菲。

Phiên âm:

Đông phong phiến thục khí,
Thuỷ mộc vinh xuân huy.
Bạch nhật chiếu lục thảo,
Lạc hoa tán thả phi.
Cô vân hoàn không sơn,
Chúng điểu các dĩ quy.
Bỉ vật giai hữu thác,
Ngô sinh độc vô y.
Đối thử thạch thượng nguyệt,
Trường tuý ca phương phi.

Dịch thơ:

Gió đông thổi khí huyên hoà,
Nước cây tươi đẹp, đậm đà nắng xuân.
Màu hương sắc cỏ đượm nhuần,
Hoa tàn cành rữa rụng dần bay tung.
Đám mây về núi thung dung,
Chim bay về tổ, đều cùng thảnh thơi.
Vật kia y thác có nơi,
Thân ta riêng chịu cái đời lẻ loi.
Ngắm trăng trên đá bồi hồi,
Rượu rồi say tít, hát bài phương phi.

Xuân Nhật Quy Sơn Ký Mạnh Hạo Nhiên

春日歸山寄孟浩然

朱紱遺塵境,
青山謁梵筵。
金繩開覺路,
寶筏度迷川。
嶺樹攢飛栱,
巖花覆谷泉。
塔形標海月,
樓勢出江煙。
香氣三天下,
鐘聲萬壑連。
荷秋珠已滿,
松密蓋初圓。
鳥聚疑聞法,
龍參若護禪。
愧非流水韻,
叨入伯牙弦。

Phiên âm:

Chu phất di trần cảnh,
Thanh sơn yết Phạn diên.
Kim thằng khai giác lộ,
Bảo phiệt độ mê xuyên.
Lĩnh thụ toàn phi củng,
Nham hoa phúc cốc tuyền.
Tháp hình tiêu hải nguyệt,
Lâu thế xuất giang yên.
Hương khí tam thiên hạ,
Chung thanh vạn hác liên.
Hà thu châu dĩ mãn,
Tùng mật cái sơ viên.
Điểu tụ nghi văn pháp,
Long tham nhược hộ thiền.
Quý phi lưu thuỷ vận,
Thao nhập Bá Nha huyền.

Dịch thơ:

Thao đỏ gởi trần thế thảnh thơi,
Non xanh yết cửa thiền xa vời.
Thừng vàng mở nẻo khai tâm giác,
Bè quý vượt sông mê sóng nhồi.
Cây núi kết thành bè mộc bay,
Hoa non phủ kín suối khe đầy.
Gác chùa cao vượt khói sông toả,
Trăng biển mờ in ngọn tháp lơi.
Ba cõi trời hương thơm bát ngát,
Vạn hang hốc khánh vọng xa khơi.
Lá sen thu, hạt châu xao xuyến,
Vườn mới non, thông bách vượt dày.
Chim tụ, tựa nghe thuyết pháp là?
Rồng chầu, như giúp sức thiền gia.
Thẹn vì không có vần lưu loát,
Khi lạm phổ cung đàn Bá Nha.

Tảo Xuân Ký Vương Hán Dương

早春寄王漢陽

聞道春還未相識,
走傍寒梅訪消息。
昨夜東風入武陽,
陌頭楊柳黃金色。
碧水浩浩雲茫茫,
美人不來空斷腸。
預拂青山一片石,
與君連日醉壺觴。

Phiên âm:

Văn đạo xuân hoàn vị tương thức,
Tẩu bàng hàn mai phỏng tiêu tức.
Tạc dạ đông phong nhập Vũ Dương,
Mạch đầu dương liễu hoàng kim sắc.
Bích thuỷ hạo hạo vân mang mang,
Mỹ nhân bất lai không đoạn trường.
Dự phất thanh sơn nhất phiến thạch,
Dữ quân liên nhật tuý hồ trường.

Dịch thơ:

Nghe nói xuân về mà chưa biết
Đến gốc hàn mai xem tin tức
Đêm rồi gió xuân vào Vũ Dương
Đầu đường dương liễu sắc vàng rực
Nước biếc mênh mông mây bàng bạc
Mỹ nhân không đến khiến ruột nát
Định phủi bàn đá trên núi xanh
Ngày ngày sẽ uống say cùng anh

Xuân Oán

春怨

白馬金羈遼海東,
羅帷綉被臥春風。
落月低軒窺燭盡,
飛花入戶笑床空。

Phiên âm:

Bạch mã kim ky Liêu Hải đông,
La duy tú bị ngoạ xuân phong.
Lạc nguyệt đê hiên khuy chúc tận,
Phi hoa nhập hộ tiếu sàng không.

Dịch thơ:

Đất Liêu Đông ngựa trắng cương vàng
Màn lụa chăn thêu giấc gió xuân
Hiên thấp trăng tà nhìn nến hết
Hoa cười giường vắng lượn vào màn

Xuân Tứ

春思

燕草如碧絲,
秦桑低綠枝。
當君懷歸日,
是妾斷腸時。
春風不相識,
何事入羅幃?

Phiên âm:

Yên thảo như bích ty,
Tần tang đê lục chi.
Đương quân hoài quy nhật,
Thị thiếp đoạn trường thì.
Xuân phong bất tương thức,
Hà sự nhập la vi?

Dịch thơ:

Cỏ Yên tơ mượt mà
Dâu Tần nhánh thướt tha
Ngày chàng mong trở lại
Lúc thiếp nhớ thương xa
Gió xuân nào quen biết
Sao bỗng lọt màn là?

Xuân Nhật Tuý Khởi Ngôn Chí

春日醉起言志

處世若大夢,
胡為勞其生?
所以終日醉,
頹然臥前楹。
覺來眄庭前,
一鳥花間鳴。
借問此何時?
春風語流鶯。
戚之欲歎息,
對酒還自傾,
浩歌待明月,
曲盡己忘情。

Phiên âm:

Xử thế nhược đại mộng,
Hồ vi lao kỳ sinh!
Sở dĩ chung nhật tuý,
Đồi nhiên ngoạ tiền doanh.
Giác lai miên đình tiền,
Nhất điểu hoa gian minh.
Tá vấn thử hà nhật,
Xuân phong ngữ lưu oanh.
Cảm chi dục thán tức,
Đối tửu hoàn tự khuynh.
Hạo ca đãi minh nguyệt,
Khúc tận dĩ vong tình.

Dịch thơ:

Ở đời như mộng lớn
Làm chi cho nhọc mình!
Suốt ngày say khướt mãi
Lăn ngủ mái hiên đình
Tỉnh dậy trông sân trước
Chim hót khóm hoa xinh
Ngẫm hỏi ngày nào đấy ?
Gió xuân vọng tiếng oanh
Cám cảnh toan than thở
Thấy rượu lại nghiêng bình
Hát ngao chờ trăng sáng
Hết khúc đã quên tình

Tí Dạ Xuân Ca

子夜春歌

秦地羅敷女,
採桑綠水邊。
素手青條上,
紅妝白日鮮。
蠶饑妾欲去,
五馬莫留連。

Phiên âm:

Tần địa La Phu nữ,
Thái tang lục thuỷ biên.
Tố thủ thanh điều thượng,
Hồng trang bạch nhật tiên.
Tàm cơ thiếp dục khứ,
Ngũ mã mạc lưu liên.

Dịch thơ:

Cô gái Tần xinh xắn
Hái dâu cạnh bến sông
Cành xanh tay trắng muốt
Nắng thắm má hây hồng
Em về tằm đợi bữa
Thái thú chớ dừng trông.

Xuân Dạ Lạc Thành Văn Địch

春夜洛城聞笛

誰家玉笛暗飛聲,
散入春風滿洛城。
此夜曲中聞折柳,
何人不起故園情。

Phiên âm:

Thuỳ gia ngọc địch ám phi thanh,
Tán nhập xuân phong mãn Lạc thành.
Thử dạ khúc trung văn “Chiết liễu”,
Hà nhân bất khởi cố viên tình?

Dịch thơ:

Nhà ai tiếng sáo thoảng bay
Gió xuân đem giãi khắp nơi Lạc Thành
Nghe lời “Bẻ liễu” đêm thanh
Ai người không chạnh mối tình cố viên

Ngoài các bài thơ Lý Bạch về trăng, đón đọc thêm 🌸Thơ Nguyễn Đức Mậu 🌸 Tác Giả, Tác Phẩm

Thơ Lý Bạch Về Mùa Thu

Cuối cùng, mời bạn đọc cùng thưởng thức những vần thơ Lý Bạch viết về mùa thu.

Thu Đăng Tuyên Thành Tạ Diễu Bắc Lâu

秋登宣城謝眺北樓

江城如畫裏,
山晚望晴空。
兩水夾明鏡,
雙橋落綵虹。
人煙寒橘柚,
秋色老梧桐。
誰念北樓上,
臨風懁謝公。

Phiên âm:

Giang thành như hoạ lý,
Sơn vãn vọng tình không.
Lưỡng thuỷ giáp minh kính,
Song kiều lạc thái hồng.
Nhân yên hàn quất dữu,
Thu sắc lão ngô đồng.
Thuỳ niệm bắc lâu thượng,
Lâm phong hoài Tạ công.

Dịch thơ:

Thành bên sông đẹp như tranh
Sớm lên đứng núi trông quanh bầu trời
Hai dòng nước sáng gương soi
Cầu cây mống đỏ rực ngời trên sông
Khói ai làm lạnh quít hồng
Vẻ thu già dặn ngô đồng cỗi thân
Ai lên lầu Bắc phân vân
Gió rung lòng bỗng bần thần nhớ quê

Tí Dạ Thu Ca

子夜秋歌

長安一片月,
萬戶擣衣聲。
秋風吹不盡,
總是玉關情。
何日平胡虜,
良人罷遠征?

Phiên âm:

Trường An nhất phiến nguyệt,
Vạn hộ đảo y thanh.
Thu phong xuy bất tận,
Tổng thị Ngọc quan tình.
Hà nhật bình Hồ lỗ,
Lương nhân bãi viễn chinh?

Dịch thơ:

Trường An trăng một mảnh,
Đập áo muôn cửa inh.
Gió thu thổi không dứt,
Ngọc quan một mối tình.
Ngày nào giặc Hồ dẹp,
Lương nhân khỏi viễn chinh.

Thu Há Kinh Môn

秋下荊門

霜落荊門江樹空,
布帆無恙掛秋風。
此行不為鱸魚膾,
自愛名山入剡中。

Phiên âm:

Sương lạc Kinh Môn giang thụ không,
Bố phàm vô dạng quải thu phong.
Thử hành bất vị lư ngư khoái,
Tự ái danh sơn nhập Diệm trung.

Dịch thơ:

Kinh Môn sông quạnh cây trơ,
Vải buồm phấp phới ảo mờ sương thu.
Phải đâu ham vị cá lư,
Nơi đây cảnh sắc tâm tư nhớ thầm.

Thu Nhật Lỗ Quận Nghiêu Từ Đình Thượng Yến Biệt Đỗ Bổ Khuyết, Phạm Thị Ngự

秋日魯郡堯祠亭上宴別杜補闕範侍御

我覺秋興逸,
誰云秋興悲?
山將落日去,
水與睛空宜。
魯酒白玉壺,
送行駐金羈。
歇鞍憩古木,
解帶掛橫枝。
歌鼓川上亭,
曲度神飆吹。
雲歸碧海夕,
雁沒青天時。
相失各萬里,
茫然空爾思。

Phiên âm:

Ngã giác thu hứng dật,
Thùy vân thu hứng bi?
Sơn tương lạc nhật khứ,
Thuỷ dữ tình không nghi.
Lỗ tửu bạch ngọc hồ,
Tống hành trú kim ky.
Yết yên khế cổ mộc,
Giải đới quải hoành chi.
Ca cổ xuyên thượng đình,
Khúc độ thần tiêu xuy.
Vân quy bích hải tịch,
Nhạn một thanh thiên thì.
Tương thất các vạn lý,
Mang nhiên không nhĩ tư.

Dịch thơ:

Ta biết thu dễ hứng,
Ai bảo thu dễ buồn.
Sau núi mặt trời lặn,
Nước hoà lẫn tầng không.
Rượu Lỗ, bình ngọc trắng,
Đưa tiễn, đóng ngàm vàng.
Buộc yên, nghỉ cây lớn,
Đai, cành quế treo ngang.
Ca trống rộn trên gác,
Khúc điệu theo gió thần.
Biển biếc mây chiều về,
Trời xa hút cánh nhạn.
Xa nhau trong muôn dặm,
Anh nghĩ gì, miên man?

Thu Phong Từ

秋風詞

秋風清,
秋月明。
落葉聚還散,
寒鴉棲復驚。
相思相見知何日,
此時此夜難為情。

Phiên âm:

Thu phong thanh,
Thu nguyệt minh.
Lạc diệp tụ hoàn tán,
Hàn nha thê phục kinh.
Tương tư, tương kiến tri hà nhật?
Thử thì, thử dạ nan vi tình…

Dịch thơ:

Gió thu lành
Trăng thu thanh
Lá rơi tụ lại tán
Quạ lạnh chợt rùng mình
Thương nhớ, biết bao giờ mới gặp?
Lúc này đêm ấy ngẩn ngơ tình…

Thu Tứ

秋思

燕支黃葉落,
妾望自登臺。
海上碧雲斷,
單于秋色來。
胡兵沙塞合,
漢使玉關回。
征客無歸日,
空悲蕙草摧。

Phiên âm:

Yên Chi hoàng diệp lạc,
Thiếp vọng tự đăng đài.
Hải thượng bích vân đoạn,
Thiền Vu thu sắc lai.
Hồ binh sa tái hợp,
Hán sứ Ngọc Quan hồi.
Chinh khách vô quy nhật,
Không bi huệ thảo tồi.

Dịch thơ:

Yên Chi vàng lá rụng
Lên gác thiếp trông xa
Trên biển mây xanh tán
Ngoài biên thu lại qua
Linh hồ vây trước ải
Sứ Hán trở về nhà
Chinh khách chưa quay lại
Bùi ngùi huệ úa hoa

Thu Tịch Lữ Hoài

秋夕旅懷

涼風度秋海,
吹我鄉思飛。
連山去無際,
流水何時歸。
目極浮雲色,
心斷明月暉。
芳草歇柔豔,
白露催寒衣。
夢長銀漢落,
覺罷天星稀。
含悲想舊國,
泣下誰能揮。

Phiên âm:

Lương phong độ thu hải,
Xuy ngã hương tứ phi.
Liên sơn khứ vô tế,
Lưu thuỷ hà thời quy?
Mục cực phù vân sắc,
Tâm đoạn minh nguyệt huy.
Phương thảo yết nhu diệm,
Bạch lộ thôi hàn y.
Mộng trường Ngân Hán lạc,
Giác bãi thiên tinh hy.
Hàm bi tưởng cựu quốc,
Khấp hạ thuỳ năng huy.

Dịch thơ:

Lạnh lùng gió vượt bể thu,
Hồn quê theo gió như vù vù bay.
Chạy dài dãy núi liền mây,
Nước trôi trôi mãi, có ngày về chăng?
Đám mây vút mắt xa chừng,
Đứt tươm khúc ruột dưới vừng trăng soi.
Cỏ thơm đẹp mướt thôi rồi,
Áo may mặc rét giục người móc sa!
Giấc mơ rơi dải Ngân hà,
Sao thưa lác đác tỉnh ra khắp trời.
Đoái thương nước cũ ngậm ngùi
Khóc rơi giọt lệ lau chùi đố ai?

Đừng nên bỏ qua ❤️️Thơ Mai Văn Phấn ❤️️ Ngoài chùm thơ Lý Bạch về trăng và rượu

Viết một bình luận