Chia Sẽ Nội Dung Tác Phẩm Hai Cây Phong, Đọc Hiểu, Giá Trị, Soạn Bài, Phân Tích, Bố Cục, Giáo Án, Sơ Đồ Tư Duy, Ý Nghĩa Nhan Đề Chi Tiết.
NỘI DUNG CHÍNH
Giới Thiệu Tác Phẩm Hai Cây Phong
“Hai Cây Phong” là một tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Ai-ma-tốp, được trích từ truyện vừa “Người Thầy Đầu Tiên” (1957). Tác phẩm này miêu tả cảnh sắc thiên nhiên và tình cảm sâu sắc của con người với quê hương.
Nội dung chính:
- Bối cảnh: Làng Ku-ku-rêu nằm ven chân núi, trên một cánh thảo nguyên rộng lớn. Hai cây phong to lớn trên đồi là biểu tượng của làng, gắn liền với tuổi thơ của nhân vật “tôi” và lũ trẻ trong làng.
- Nhân vật: Nhân vật “tôi” là một họa sĩ, người kể lại những kỷ niệm và cảm xúc về hai cây phong và làng quê.
- Giá trị nội dung: Tác phẩm thể hiện tình yêu quê hương, thiên nhiên và sự trân trọng đối với người thầy đầu tiên.
- Giá trị nghệ thuật: Sự kết hợp giữa miêu tả, biểu cảm và ngòi bút đậm chất hội họa, cùng với nghệ thuật nhân hóa và những liên tưởng táo bạo đầy chất thơ
Nội Dung Truyện Ngắn Hai Cây Phong
Trước khi đi sâu phân tích tác phẩm Hai cây phong của tác giả Ai-Ma-Tôp, xin mời các bạn cùng đọc nội dung truyện ngắn Hai cây phong bên dưới.
Làng Ku-ku-rêu chúng tôi nằm ven chân núi, trên một cao nguyên rộng có những khe nước ào ào từ nhiều ngách đá đổ xuống. Phía dưới làng tôi là thung lũng Đất vàng, là cánh thảo nguyên Ca-dắc-xtan mênh mông nằm giữa các nhánh của rặng núi Đen và con đường sắt làm thành một cái thảm màu băng qua đồng bằng chạy tít đến chân trời phía tây.
Phía trên làng tôi, giữa một ngọn đồi, có hai cây phong lớn. Tôi biết chúng từ thuở bắt đầu biết mình. Dù ai đi từ phía nào đến làng Ku-ku-rêu, chúng tôi cũng đều trông thấy hai cây phong đó trước tiên; chúng luôn luôn hiện ra trước mắt hệt như những ngọn hải đăng đặt trên núi. Thậm chí tôi cũng không biết giải thích ra sao: phải chăng người ta vẫn đặc biệt trân trọng nâng niu những ấn tượng thời thơ ấu hay vì do có liên quan đến nghề hoạ sĩ của tôi, nhưng cứ mỗi lần về quê, khi xuống xe lửa đi qua thảo nguyên về làng, tôi đều coi bổn phận đầu tiên là từ xa đưa mắt tìm hai cây phong thân thuộc ấy.
Dù chúng có cao đến đâu chăng nữa, đứng xa thế cũng khó lòng trông thấy ngay được, nhưng tôi thì bao giờ cũng cảm biết được chúng, lúc nào cũng nom rõ.
Đã bao lần tôi từ những chốn xa xôi trở về Ku-ku-rêu và lần nào tôi cũng thì thầm với một nỗi buồn da diết: “Ta sắp được thấy chúng chưa, hai cây phong sinh đôi ấy? Mong sao chóng về tới làng, chóng lên đồi mà đến với hai cây phong. Rồi sau đó cứ đứng dưới gốc cây để nghe mãi tiếng lá reo cho đến khi say sưa ngây ngất”.
Trong làng tôi không thiếu gì các loại cây, nhưng hai cây phong này khác hẳn – chúng có tiếng nói riêng và hẳn phải có một tâm hồn riêng, một tâm hồn chan chứa những lời ca êm dịu. Dù ta có tới đây vào lúc nào, ban ngày hay ban đêm, chúng vẫn nghiêng ngả thân cây, lay động lá cành, không ngớt tiếng rì rào theo nhiều cung bậc khác nhau. Có khi tưởng chừng như một làn sóng thuỷ triều dâng lên vỗ vào bãi cát, có khi lại nghe như một tiếng thì thầm thiết tha nồng thắm chuyển qua lá cành như một đám lửa vô tình, có khi hai cây phong bỗng im bặt một thoáng, rồi khắp lá cành lại cất tiếng thở dài một hơi như thương tiếc người nào. Và khi mây đen kéo đến cùng với bão giông, xô gãy cành, tỉa trụi lá, hai cây phong nghiêng ngả tấm thân dẻo dai và reo vù vù như một ngọn lửa bốc cháy rừng rực. Và trong tiếng gầm bất khuất của chúng ngỡ chừng như nghe thấy một lời thách thức ngỗ ngược: “Không, đừng hòng bắt ta phải khom lưng khuất phục, đừng hòng bẻ gãy thân ta”.
Bao nhiêu năm qua. Sau này, tôi đã hiểu được điều bí ẩn của hai cây phong. Chẳng qua đứng trên đồi cao lộng gió nên đáp lại bất kì chuyển động khe khẽ nào của không khí, mỗi chiếc lá nhỏ đều nhạy bén đón lấy mọi làn gió nhẹ thoảng qua.
Nhưng việc khám phá ra chân lý giản đơn ấy cũng vẫn không làm tôi vỡ mộng xưa, không làm tôi bỏ mất cách cảm thụ của tuổi thơ mà tôi còn giữ đến nay. Và cho đến tận ngày nay tôi vẫn thấy hai cây phong trên đồi có một vẻ sinh động khác thường. Tuổi trẻ của tôi đã để lại nơi ấy, bên cạnh chúng như một mảnh vỡ của chiếc gương thần xanh…
Cứ vào cuối năm học, trước khi bắt đầu nghỉ hè là bọn con trai chúng tôi lại chạy ào lên đây phá tổ chim. Cứ mỗi lần chúng tôi reo hò, huýt còi ầm ĩ chạy lên đồi là hai cây phong khổng lồ lại nghiêng ngả đung đưa như muốn chào mời chúng tôi đến với bóng râm mát rượi và tiếng lá xào xạc dịu hiền. Và chúng tôi, lũ ranh con đi chân đất, công kênh nhau bám vào các mắt mấu và cành cây trèo lên cao làm chấn động cả vương quốc loài chim. Hàng đàn chim hoảng hốt kêu lên, chao đi chao lại trên đầu. Nhưng chúng tôi vẫn chưa coi vào, đến đây đã thấm gì! Chúng tôi cứ leo lên cao nữa – nào, xem ai can đảm và khéo hơn! – và từ trên những cành cao ngất, cao đến ngang tầm cánh chim bay, bỗng như có một phép thần thông nào vụt mở ra trước mắt chúng tôi cả một thế giới đẹp đẽ vô ngần của không gian bao la và ánh sáng. Chiều rộng không cùng của đất đai làm chúng tôi sửng sốt. Mỗi đứa chúng tôi đều nín thở ngồi yên lặng đi trên một cành cây và quên mất cả chim lẫn tổ chim. Chuồng ngựa của nông trường mà chúng tôi vẫn coi là toà nhà rộng lớn nhất trên thế giới, ngồi đây chúng tôi thấy chỉ như một căn nhà xép bình thường. Phía sau làng là dải thảo nguyên hoang vu mất hút trong làn sương mờ đục. Chúng tôi cố gương hết tầm mắt nhìn vào nơi xa thẳm biêng biếc của thảo nguyên và nom thấy không biết bao nhiêu đất đai mà trước đây chúng tôi không biết đến, thấy những con sông mà trước đây chúng tôi chưa từng nghe nói đến. Những dòng sông lấp lánh tận chân trời như những sợi chỉ bạc mỏng manh. Chúng tôi nép mình ngồi trên các cành cây suy nghĩ: đã phải đấy là nơi tận cùng thế giới chưa, hay phía sau vẫn còn có bầu trời ấy, những đám mây, những đồng cỏ và sông ngòi như thế này? Chúng tôi náu mình trên các cành cây, lắng nghe những tiếng gió ảo huyền và tiếng lá cây đáp lại lời gió, thì thầm to nhỏ về những miền đất bí ẩn đầy sức quyến rũ lẩn sau chân trời xa thẳm biêng biếc kia.
Tôi lắng nghe tiếng hai cây phong rì rào, tim đập rộn ràng vì thảng thốt và vui sướng, trong tiếng xạc xào không ngớt ấy tôi cố hình dung ra những miền xa lạ kia. Thuở ấy chỉ có một điều tôi chưa hề nghĩ đến: ai là người đã trồng hai cây phong trên đồi này? Người vô danh ấy đã ước mơ gì, đã nói những gì khi vùi hai gốc cây xuống đất, người ấy đã ấp ủ những niềm hi vọng gì khi vun xới chúng nơi đây, trên đỉnh đồi cao này?
Quả đồi có hai cây phong ấy, không biết vì sao ở làng tôi họ gọi là “Trường Đuy-sen”.
Đón đọc thêm về ⚡ Chiếc Lá Cuối Cùng ⚡ Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích
Tóm Tắt Văn Bản Hai Cây Phong
Làng Ku-ku-rêu nằm ven chân núi, trên một cao nguyên rộng có những khe nước ào ào từ nhiều ngách đổ xuống. Phía trên làng giữa một ngọn đồi có hai cây phong lớn giống như những ngọn hải đăng được đặt trên núi.
Hai cây phong có một tiếng nói riêng, tâm hồn riêng, chan chứa những lời êm dịu của làng Ku-ku-rêu. Trong kí ức của nhân vật tôi, vào năm học cuối trước khi bắt đầu nghỉ hè đã có những kỉ niệm đẹp đẽ với hai cây phong.
Về Nhà Văn Ai-Ma-Tôp
- Ai-ma-tốp (1928- 2008) tên đầy đủ là Chyngyz Torekulovich Aytmatov
- Quê quán: Là nhà văn Cư-rơ-gư-stan- một nước cộng hòa ở vùng Trung Á, thuộc Liên Xô trước đây
- Ông bắt đầu hoạt động sáng tác văn học từ năm 1952, khi ông còn là sinh viên.
- Đề tài chủ yếu trong tác phẩm của ông: cuộc sống khắc nghiệt nhưng cũng đầy chất lãng mạn của người dân vùng đồi núi Cư-rơ-gư-xtan…
- Một số tác phẩm như: Cây phong non trùm khăn đỏ, Người thầy đầu tiên, Con tàu trắng…
Chia sẻ cho bạn đọc 🍀 Đánh Nhau Với Cối Xay Gió 🍀 Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích
Xuất Xứ Và Hoàn Cảnh Sáng Tác Hai Cây Phong
- Đoạn trích “Hai cây phong” thuộc phần đầu của “Người thầy đầu tiên”.
- Nhan đề “Hai cây phong” do người biên soạn SGK đặt tên.
- Hai cây phong là phần đầu của truyện tả cảnh sắc làng Kur-ku-rêu, hồi tưởng lại kỉ niệm êm đềm về hai cây phong của chốn quê dào dạt tâm hồn đứa con đi xa về thăm nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
Cập nhật cho bạn đọc 🌷 Cô Bé Bán Diêm 🌷 phân tích đầy đủ nhất
Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm Hai Cây Phong
Hai cây phong là biểu tượng truyền thống của quê hương tác giả, nó là tất cả những kỉ niệm đẹp của tác giả về làng quê yêu dấu.
=> Thông qua hình ảnh hai cây phong, tác giả nói lên tình yêu quê hương của mình.
Bố Cục Truyện Ngắn Hai Cây Phong
Bố cục truyện ngắn Hai cây phong bao gồm 4 phần chính:
- Đoạn 1: (Từ đầu đến “ai cũng nhìn rõ”): Giới thiệu về làng Ku-ku-rêu và hai cây phong
- Đoạn 2: (tiếp đến “thần xanh”): Cảm nhận của nhân vật tôi về hai cây phong trong trong mỗi lần về thăm quê
- Đoạn 3: (tiếp đến “biêng biếc kia”): Hai cây phong trong kí ức và tuổi thơ của tác giả.
- Đoạn 4: (còn lại): Nhân vật “tôi” nhớ tới người trống hai cây phong và gắn liền với thầy Đuy-sen
Xem ngay phân tích tác phẩm ✨ Lão Hạc [Nam Cao] ✨ Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật
Đọc Hiểu Tác Phẩm Hai Cây Phong
Chia sẻ cho bạn đọc nội dung đọc hiểu tác phẩm Hai cây phong.
1. Hình ảnh hai cây phong.
– Hai cây phong nằm ở trên đồi như ngon hải đăng trên núi
– Ai đến làng cũng đều thấy chúng trước tiên ⇒ Là dấu hiệu để nhận ra làng
⇒ Phép so sánh chỉ giá trị tín nhiệm của hai cây phong. Khẳng định giá trị không thể thiếu đối với những người đi xa, thể hiện niềm tự hào về hai cây phong.
– Hai cây phong ấy cũng có tiếng nói riêng, tâm hồn riêng: tiếng rì rào nhiều cung bậc khác nhau
– Hai cây phong gắn bó với sự sống, với con người: nơi giúp bọn trẻ thấy một “ thế giới đẹp đẽ vô ngần của không gian bao la và ánh sáng”, nhìn ra vẻ đẹp mới và khơi gợi khát vọng khám phá miền đất lạ.
– Hai cây phong là nhân chứng cho hành động và tình cảm của thầy Đuy-sen.
– Cảnh trèo lên hai cây phong cho ta thấy đây là nơi hội tụ niềm vui, mở rộng chân trời hiểu biết, nơi khắc ghi những biến cố của làng
⇒ Bằng cách kể, miêu tả, nhân hóa so sánh cho thấy sức sống mãnh liệt của hai cây phong, biểu tượng cho con người thảo nguyên.
2. Hình ảnh con người.
– Nhân vật “tôi” có tình cảm đặc biệt, yêu mến hai cây phong
– Có một nỗi nhớ mãnh liệt với hai cây phong
– Có trí tưởng tượng rất phong phú, tâm hồn nhạy cảm, yêu thiên nhiên và làng quê
⇒ Con người đã khắc họa lên một bức tranh thiên nhiên đậm chất hội họa được khám phá từ điểm nhìn trên hai cây phong- là những kỉ niệm tuổi thơ cho tình yêu yêu quê hương của những đứa trẻ.
– Hai cây phong gắn với câu chuyện về thầy Đuyn-sen đã vun trồng ước mơ hi vọng cho những người học trò nghèo: Thầy đã trồng 2 cây phong với hi vọng các thế hệ trẻ được học hành, có khát vọng lớn và trở thành người hữu ích.
Giá Trị Tác Phẩm Hai Cây Phong
Ngay sau đây là những giá trị tác phẩm Hai cây phong.
Giá trị nội dung
- Đoạn trích miêu tả hai cây phong với ngòi bút sắc bén đậm chất hội hoajvaf đong đầy cảm xúc.
- Qua đó truyền cho chúng ta tình yêu quê hương da diết và niềm xúc động đặc biệt vì hai cây phong gắn với câu chuyện về người thầy- người đã vun trồng những ước mơ cho những đứa học trò của mình
Giá trị nghệ thuật
- Lựa chọn ngôi kể, người kể tạo nên hai mạch kể lồng ghép độc đáo
- Sự kết hợp giữa miêu tả, biểu cảm với ngòi bút đậm chất hội họa, truyền sự rung cảm đến người đọc
- Nghệ thuật nhân hóa với những liên tưởng tác bạo đầy chất thơ tại nên sức hấp đẫn cho văn bản
Chia sẻ cho bạn đọc 🌟 Tức Nước Vỡ Bờ 🌟 Khám Phá Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích
Soạn Bài Hai Cây Phong
Tham khảo gợi ý soạn bài Hai cây phong bên dưới.
👉Câu 1: (trang 100 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):
Hai mạch kể với đại từ nhân xưng “tôi” và “chúng tôi” đan xen lồng vào nhau:
– “Tôi” là người kể chuyện, là một họa sĩ đứng ở hiện tại để kể hai cây phong.
– “Chúng tôi” là người kể nhân danh cho “cả bọn con trai” ngày trước, người kể cũng là một trong những đứa trẻ đó.
* Mạch kể của người kể chuyện xưng “tôi” quan trọng hơn. Vì “tôi” có mặt ở cả hai mạch kể, đồng thời xuất hiện ở cả phần đầu và phần cuối văn bản. Toàn bộ bức tranh thiên nhiên được vẽ qua bằng sự ngắm nhìn cả tâm hồn, cảm nhận của “tôi”.
👉Câu 2: (trang 100 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):
– Điều thu hút người kể cùng bọn trẻ:
+ Kỉ niệm bọn trẻ chạy ào lên phá tổ chim. Chân đất, bám vào các mắt mấu…chấn động cả vương quốc loài chim. Ngồi dưới cành cây suy nghĩ…lắng nghe tiếng gió.
+ Hai cây phong khổng lồ, nghiêng ngả đung đưa như muốn chào mời chúng tôi đến với bóng râm mát rượi và tiếng lá xào xạc dịu hiền.
– Ngòi bút đậm chất hội họa:
+ Đường nét phóng khoáng: đất, dải thảo nguyên, dòng sông, đám mây, đồng cỏ.
+ Màu sắc vừa chứa đầy sức sống vừa huyền ảo, thơ mộng: sương trắng mờ đục, xanh thẳm biếc, sông bạc lấp lánh.
👉Câu 3: (trang 101 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):
– Trong mạch kể xưng “tôi”, hai cây phong chiếm vị trí trung tâm và gây xúc động sâu sắc vì hai cây phong đã gắn bó với “tôi” từ thuở thơ ấu, gắn với tình yêu quê hương da diết. Hai cây phong đứng ở vị trí đặc biệt, đi từ phía nào đến làng đều thấy chúng hiện ra hệt như những ngọn hải đăng.
– Trong mạch kể xen lẫn tả này, hai cây phong được miêu tả sống động như hai con người bởi nhân vật “tôi” đã hóa thân vào hai cây phong để hiểu được linh hồn của nó chứ không phải chỉ là sự quan sát của người nghệ sĩ bình thường.
👉Câu 4 : (trang 101 sgk Ngữ Văn 8 Tập 1):
Em có thể tự chọn một đoạn theo yêu thích để học thuộc lòng. Có thể chọn:
– Phía trên làng tôi … hai cây phong thân thuộc ấy.
– Trong làng tôi không thiếu … bốc cháy rừng rực.
– Vài năm học cuối cùng … bao la và ánh sáng.
– Tôi lắng nghe tiếng hai cây phong … Trường Đuy-sen.
Tìm hiểu thêm phân tích 🌿 Trong Lòng Mẹ 🌿 Nội Dung, Nghệ Thuật
Giáo Án Hai Cây Phong
Đừng vội bỏ qua nội dung giáo án Hai cây phong sau đây.
I. Mục tiêu bài học
1. Kiến thức
– Học sinh hiểu được vẻ đẹp và ý nghĩa hình ảnh hai cây phong trong đoạn trích.
– Sự gắn bó của người hoạ sĩ với quê hương,với thiên nhiên và lòng biết ơn thầy Đuy- sen.
– Cách xây dựng mạch kể ; cách miêu tả giàu hình ảnh và lời văn giàu cảm xúc.
2. Kĩ năng
– Rèn kĩ năng đọc hiểu một văn bản có giá trị văn chương, phát hiện, phân tích những đặc sắc về nghệ thuật miêu tả, biểu cảm trong một đoạn trích tự sự; cảm thụ vẻ đẹp sinh động, giàu sức biểu cảm của các hình ảnh trong đoạn trích.
3. Thái độ
– GD cho hs lòng yêu quê hương, đất nước, tự hào về vẻ đẹp của quê hương, đất nước mình.
II. Chuẩn bị tài liệu
1. Giáo viên
Giáo án, sách tham khảo, chuẩn kt kn.
2. Học sinh
Chuẩn bị bài, đọc,tóm tắt văn bản, vở ghi, vở chuẩn bị bài, sách giáo khoa, sách bài tập.
III. Tiến trình tổ chức dạy học
1. Ổn định tổ chức Sĩ số:
2. Kiểm tra
H: Phân tích kiệt tác của cụ Bơ-men? Nêu giá trị nội dung và nghệ thuật đoạn trích?
– Cụ Bơ- Men là một hoạ sĩ đã ngoài 60 tuổi , râu xồm, sống bằng cách làm mẫu vẽ cho các hoạ sĩ trẻ tuổi, mơ ước vẽ được một kiệt tác. Cụ lo lắng cho số phận của Giôn- xi, cụ lẳng lặng vẽ chiếc lá trên tường vào đêm mưa, bão tuyết lạnh giá, Chiếc lá ấy đã cứu Giôn xi => Hành động cao cả, hi sinh thầm lặng vì ng khác điều đó nói lên tấm lòng yêu thương vô hạn của cụ Bơ men dành cho Giôn-xi.
– Chiếc lá rất giống chiếc lá thật, (cuống lá có màu xanh sẫm, rìa lá hình răng cưa nhuốm màu vàng úa), không ai nhận ra là lá vẽ và đặc biệt hơn chiếc lá đã cứu sống một con người. Chiếc lá đc vẽ bằng t/y thương và bằng chính nghị lực sống của cụ Bơ-men → xứng đáng là một kiệt tác.
* Nội dung: Ca ngợi tình yêu thương cao cả hi sinh vì người khác của những ng nghệ sĩ nghèo.
NT: Truyện có nhiều tình tiết hấp dẫn, sắp xếp chặt chẽ khéo léo, kết cấu đảo ngược tình huống hai lần gây hứng thú cho ng đọc.
3. Bài mới
Cư-rơ-gư-xtan là một nước cộng hoà ở vùng Trung Á thuộc Liên Xô trước đây. Đó là một đất nước tươi đẹp có núi đồi và thảo nguyên trùng điệp, có những áng mây lơ lửng, diệu kì. Nhà văn Ai-ma-tốp đã thể hiện tình yêu quê hương đất nươc mình qua tác phẩm “Người thầy đầu tiên” mà hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu một đoạn trích trong đó qua vb : “Hai cây phong”.
Hoạt động của GV và HS | Kiến thức cần đạt |
---|---|
HĐ1.HDHS đọc- tìm hiểu chú thích: – GV hướng dẫn đọc: giọng kể, chú ý các từ ngữ miêu tả. GV đọc mẫu, Hs đọc, nhận xét. – Gọi hs tóm tắt văn bản. | I. Đọc và tìm hiểu chú thích: 1. Đọc, tóm tắt: |
H: Theo dõi chú thích sao (SGK-99). Nêu vài nét về tác giả, tác phẩm?(Ông là một kỹ sư nông nghiệp, vì yêu quê hương và có tâm hồn nhạy cảm nên từ 1985 ông chuyển sang nghề viết văn và trở thành nhà văn nổi tiếng). Tác phẩm tiêu biểu: Gia-mi-li-a, Núi đồi và thảo nguyên, Người thầy đầu tiên, Cây phong non trùm khăn đỏ, Mắt lạc đà, Vĩnh biệt Gun-xa-rư, Con tàu trắng, Một ngày dài hơn thế kỉ… H: Giải thích các từ “thảo nguyên”, “hải đăng”?“hải đăng” → từ Hán Việt đã học ở lớp 6. | 2.Tìm hiểu chú thích: a. Tác giả: Ai-ma-tốp (11/12/1928) là nhà văn lớn của Cư-rơ-gư-xtan (thuộc Liên Xô trước đây). b. Tác phẩm:Văn bản là phần đầu của truyện “Người thầy đâu tiên”. c. Từ khó :(SGK). |
HĐ2. Đọc hiểu văn bản: H: Xác định thể loại văn bản? H: Chia bố cục văn bản và nêu nội dung chính của văn bản? | II. Đọc hiểu văn bản: 1. Thể loại: truyện vừa 2. Bố cục: Hai phần + Phần 1: Từ đầu → chiếc gương thần xanh. + Phần 2: tiếp → xa thẳm biêng biếc kia.( phần còn lại gắn với mạch kể của phần 1) |
H:Căn cứ vào đại từ nhân xưng “tôi”. “chúng tôi” trong truyện hãy xác định hai mạch kể lồng vào nhau trong văn bản? | 3. Phân tích: a. Hai mạch kể lồng ghép trong văn bản. + Người kể chuyện xưng “tôi” (từ đầu…chiếc gương thần xanh” và “tôi lắng nghe”… đến hết) → mạch kể thứ nhất + Người kể xưng “chúng tôi” ( từ “vào năm học cuối cùng”… “biêng biếc kia”) → mạch kể thứ hai. |
H:Trong mạch xưng “tôi” người kể chuyện giới thiệu về mình như thế nào? Theo em, “tôi” có phải là nhà văn không? | – Người kể giới thiệu mình là hoạ sĩ- xưng “tôi”. |
H: Người kể chuyện lựa chọn trình tự kể chuyện ntn? ( Người kể giới thiệu mình là hoạ sĩ, đứng ở hiện tại để kể chuyện nên xảm xúc về hai cây phong trong lòng người kể từ hiện tại trở về quá khứ → tạo thành mạch kể thứ hai.Không nhất thiết là nhà văn → nói chính xác là nhà văn hoá thân vào nhân vật “tôi” để kể chuyện.. ) | – Người kể chuyện theo trình tự từ hiện tại trở về quá khứ → tạo thành mạch kể thứ hai. |
H:Trong mạch kể xưng ”chúng tôi” người kể là ai? Tại sao lại xưng như vậy? | – Người kể vẫn là “tôi” nhưng lại nhân danh cả bọn con trai ngày trước và hồi ấy người kể cũng là một cậu bé trong bọn nhằm khắc hoạ thêm vẻ đẹp của tuổi thơ gắn bó với hai cây phong.. → nghệ thuật kể chuyện hết sức độc đáo. |
H: Mối quan hệ của hai mạch kể? Tác dụng? H: Vì sao có thể nói mạch kể chuyện của người kể xưng “tôi” quan trọng hơn? – Dựa độ dài văn bản của hai mạch kể, “tôi” có cả ở hai mạch kể. | ⇒ Hai mạch kể bổ sung cho nhau diễn tả những tình cảm, những kỉ niệm nhất là thể hiện sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên tươi đẹp. |
– Gọi HS đọc đoạn đầu: H: Trong cái nhìn của nhân vật tôi hai cây phong hiện lên như thế nào?( Vị trí, hình dáng, hoạt động, âm thanh) | b. Hình ảnh hai cây phong: b.1 Hai cây phong trong cái nhìn của họa sĩ: – Vị trí: Gữa ngọn đồi phí trên làng có hai cây phong lớn. – Đặc điểm: + Có tiếng nói riêng + Có tâm hồn riêng. -Hình dáng:Hai cây phong như những ngọn hải đăng đặt trên núi. – Âm thanh: + Chan chứa những lời ca êm dịu + không ngớt những tiếng rì rào theo nhiều cung bậc(như làn sóng thỷ triều vỗ vào bãi cát… thì thầm thiết tha nồng thắm… khắp lá cành cất tiếng thở dài …reo vù vù như ngọn lửa bốc cháy rừng rực) – Hoạt động:Nghêng ngả thân cây, lay động lá cành. |
H:Tình cảm của nhân vật tôi đối với hai cây phong như thế nào? | – Tình cảm của tôi: + Hai cây phong gợi nhiều cảm xúc (đi xa về đưa mắt tìm hai cây phong, mong được nhìn thấy hai cây phong đến với hai cây phong) |
H:Nói về hai cây phong nghười họa sĩ đã sử dụng những biện pháp nghệ thuật nào? tác dụng? | – NT : So sánh, nhân hóa, dùng các từ láy |
H: kết hợp tranh với các chi tiết miêu tả trên, em hãy nhận xét về bức tranh hai cây phong qua cái nhìn của người họa sĩ? | ⇒ Chỉ bằng một đôi ba nét phác thảo của một nghệ sĩ, hình ảnh hai cây phong hiện lên với đường nét, màu sắc pha lẫn âm thanh thật tuyệt diệu, có tâm hồn, rất gắn bó con người. |
4. Củng cố, luyện tập
H: Chỉ ra hai mạch kể lồng ghép trong văn bản? tác dụng của cách kể chuyện đó? Nêu vẻ đẹp của hình tượng hai cây phong?
5. Hướng dẫn học ở nhà
Học bài, ghi nhớ, xem lại các bài tập, tập làm thành bài văn hoàn chỉnh,chuẩn bị bài: “Hai cây phong” (tiếp)
Sơ Đồ Tư Duy Hai Cây Phong
Tổng hợp cho bạn đọc các sơ đồ tư duy Hai cây phong.
Đừng vội bỏ lỡ phân tích tác phẩm 🔻 Mây Và Sóng [Ta-Go] 🔻 Nội Dung Bài Thơ, Nghệ Thuật, Phân Tích
5 Mẫu Phân Tích Hai Cây Phong Hay Nhất
Cuối cùng là 5 mẫu phân tích Hai cây phong hay nhất.
Phân Tích Hai Cây Phong Ấn Tượng – Mẫu 1
Ai-ma-tốp sinh năm 1928, trong một gia đình viên chức ở nước cộng hoà cư-rư-gư-xtan (hay còn gọi là Kir-ghi-zi) ở vùng Trung Á (thuộc Liên Xô cũ). Năm 1953, Ai-ma-tốp tốt nghiệp Đại học nông nghiệp, trở thành kĩ sư chăn nuôi. Mấy năm sau, ông học sáng tác rồi chuyển sang hoạt động báo chí và viết văn.
Tập Núi đồi và thảo nguyên của Ai-ma-tốp đã được trao tặng Giải thưởng Lê-nin, một giải thưởng cao quý của Liên bang Xô viết. Tác phẩm này gồm ba truyện vừa: Người thầy đầu tiên, Cây phong non trùm khăn đỏ, Mắt lạc đà.
Ngoài ra, Ai-ma-tốp còn có nhiều tác phẩm nổi tiếng khác như Vĩnh biệt Gun-xa-rư (1966). Con tàu trắng (1970), Một ngày dài hơn thế (1980)… Tên tuổi nhà văn Ai-ma-tốp đã trở nên quen thuộc với bạn đọc trên toàn thố giới. Hai cây phong là đoạn trích từ mấy trang đầu của truyện Người thầy đầu tiên.
Bối cảnh của truyện là làng Ku-ku-rêu ở một vùng núi hẻo lánh, nghèo nàn, lạc hậu vào thời kì đầu thế kỉ hai mươi. Thời đó, tư tưởng phong kiến, gia trưởng còn nặng nề, phụ nữ bị coi thường và trẻ mồ côi bị rẻ rúng. Cô bé An-tư-nai đã mất cả cha lẫn mẹ, phải sống nhờ gia đình chú thím. Cô phải làm việc quần quật suốt ngày và chịu sự giám sát hà khắc của bà thím dâu đáo để, độc ác.
Thầy giáo trẻ Đuy-sen được Đoàn thanh niên Cộng sản cử về làng để mở trường xoá mù chữ đã hết lòng giúp đỡ để An-tư-nai được đi học. Bà thím tham tiền ép gả cô bé làm vợ lẽ một gã đàn ông khá giả trong vùng.
Một lần nữa, cô bé lại được thầy Đuy-sen giải thoát và gửi lên tỉnh học, rồi tiếp tục học đại học ở Mát-xcơ-va. Sau này, cô trở thành nữ viện sĩ An-tư-nai Xu-lai-ma-nô-va. Cồn thầy Đuy-sen lúc về già làm nghề đưa thư.
Đoạn trích Hai cây phong là bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ và là kí ức sâu sắc của tuổi thơ hiện lên qua dòng hồi tưởng tràn đầy cảm xúc yêu thương. Thông qua việc miêu tả vẻ đẹp của hai cây phong, tác giả ca ngợi quê hương yêu dấu, nơi đã khắc sâu bao kỉ niệm buồn vui và hun đúc trong tâm hồn thơ dại những ước mơ, khát khao cháy bỏng.
Đây là câu chuyện của một người xa quê kể về nơi chôn nhau cắt rốn của mình bằng tình cảm gắn bó tha thiết, thiêng liêng. Mở đầu đoạn văn, tác giả giới thiệu vị trí của làng mình trên thảo nguyên bao la: Làng Ku-ku-rêu chúng tôi nằm ven chân núi, trên một cao nguyên rộng có những khe nước ào ào từ nhiều ngách đá đổ xuống.
Phía dưới làng tôi là thung lũng Đất vàng, là cánh thảo nguyên Ca-dắc-xtan mênh mông nằm giữa các nhánh của rặng núi Đen và con đường sắt làm thành một dải thẫm màu băng qua đồng bằng chạy tít đến tận chân trời phía Tây.
Khung cảnh trữ tình này vừa là phông nền làm nổi bật hình ảnh hai cây phong, vừa là nguồn cảm hứng bất tận của tác giả: Phía trên làng tôi, giữa một ngọn đồi, có hai cây phong lớn. Tôi biết chúng từ thuở bắt đầu biết mình. Dù ai đi từ phía nào đến làng Ku-ku-rêu chúng tôi cũng đều trông thấy hai cây phong đó trước tiên, chúng luôn hiện ra trước mắt hệt như những ngọn hải đăng đặt trên núi…
Cứ mỗi lần về quê, khi xuống xe lửa đi qua thảo nguyên về làng, tôi đều coi bổn phận đầu tiên là từ xa đưa mắt tìm hai cây phong thân thuộc ấy. Tâm trạng này của tác giả giống như tâm trạng của người đi xa, nóng lòng muốn gặp lại người thân sau bao ngày cách biệt.
Dẫu chưa nhìn thấy cây nhưng hình ảnh thân thuộc của chúng đã hiện rõ trong tâm tưởng: Dù chúng có cao đến đâu chăng nữa, đứng xa thế cũng khó lòng trông thấy ngay được, nhưng tôi thì bao giờ cũng cảm biết được chúng, lức nào cũng nhìn rõ.
Hình ảnh của hai cây phong được coi là dấu ấn của làng đã in sâu trong trái tim, khối óc và trở thành một phần máu thịt của người đi xa :Đã bao lần tôi từ những chốn xa xôi trở về Ku-ku-rêu, và lần nào tôi cũng nghĩ thầm với một nỗi buồn da diết: “Ta sắp được thấy chúng chưa, hai cây phong sinh đôi ấy? Mong sao chóng về tới làng, chóng lên đồi mà đến với hai cây phong!
Rồi sau đó cứ đứng dưới gốc cây để nghe mãi tiếng lá reo cho đến khi say sưa ngây ngất”. Tình yêu tha thiết dành cho hai cây phong tuôn chảy không ngừng dưới ngòi bút tinh tế của nhà văn đã mang lại cho hai cây phong đời sống tâm hồn phong phú như con người. Đây là bức tranh được vẽ bằng thứ ngôn ngữ đầy tính tạo hình của hội họa và tính trữ tình của thơ, của nhạc:
Trong làng tôi không thiếu gì các loại cây, nhưng hai cây phong này khác hẳn – chúng có tiếng nói riêng và hẳn phải có một tâm hồn riêng, chan chứa những lời ca êm dịu. Dù ta tởi đây vào lúc nào, ban ngày hay ban đêm, chúng cũng vẫn nghiêng ngả thân cây, lay động lá cành, không ngớt tiếng rì rào theo nhiều cung bậc khác nhau.
Có khi tưởng chừng như một làn sóng thủy triều dâng lên vỗ vào bãi cát, có khi lại nghe như một tiếng thì thầm thiết tha nồng thắm truyền qua lá cành như một đốm lửa vô hình, có khi hai cây phong bỗng im bặt một thoảng, rồi khắp lá cành lại cất tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào. Và khi mây đen kéo đến cùng với bão dông, xô gãy cành, tia trụi lá, hai cây phong nghiêng ngả tấm thân dẻo dai và reo vù vù như một ngọn lửa bốc cháy rừng rực.
Hai cây phong được quan sát, miêu tả tỉ mỉ, sinh động bằng đôi mắt họa sĩ, đôi tai nhạc sĩ và trái tim của nhà thơ. Bên cạnh bức tranh bằng ngôn từ là một bản giao hưởng của âm thanh với đủ cung bậc buồn vui. Người viết đã phát huy cao độ trí tưởng tượng bay bổng và cảm xúc say mê, nồng nhiệt của mình vào việc thể hiện vẻ đẹp lạ thường của hai cây phong.
Có khi chúng thì thầm thiết tha nồng nàn, có khi chúng bỗng im bặt một thoáng, rồi khấp lá cành lại cất tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào. Được nhân cách hóa cao độ nên hai cây phong có tiếng nói và tâm hồn đa dạng, phong phú, cuốn hút lòng người.
Âm thanh huyền ảo phát ra từ hai cây phong làm say đắm tuổi thơ sau này đã được nhà văn khám phá ra nhờ những hiểu biết khoa học:Về sau, khi nhiều năm đã trôi qua, tôi mới hiểu được điều bí ẩn của hai cây phong. Chẳng qua chúng đứng trên đồi cao lộng gió nên đáp tại bất kì chuyển động khe khẽ nào của không khí mỗi chiếc lá nhỏ đều nhạy bén đón tấy mọi làn gió nhẹ thoảng qua.
Dấu ấn và kỉ niệm về hai cây phong vẫn còn nguyên vẹn sau ngần ấy thời gian bởi vì hai cây phong gắn bó thân thiết với tuổi học trò. Tác giả kể rằng : Việc khám phá ra chân lí giản đơn ấy vẫn không làm tồi vỡ mộng xưa, không làm tôi bỏ mất cách cảm thụ của tuổi thơ mà tôi còn giữ đến tận ngày nay.
Và cho đến tận ngày nay tôi vẫn thấy hai cây phong trên đồi có một vẻ sinh động khác thường. Tuổi trẻ của tôi đã để lại nơi ấy, bên cạnh chúng như một mảnh vỡ của chiếc gương thân xanh…
Hai cây phong đẹp như những cây thần trong cổ tích, vẻ đẹp kì diệu của chúng sẽ mãi mãi in sâu trong tâm khảm nhà văn, bất chấp quy luật thay đổi của thiên nhiên, của lòng người bởi vì nó được nhìn qua đôi mắt trẻ thơ chan chứa tình yêu nồng nàn, sâu đậm đối với những gì thân thuộc nhất của quê hương.
Theo dòng hồi tưởng miên man, kỉ niệm gắn liền với hai cây phong dần dần hiện lên rõ ràng, tươi mới như vừa xảy ra hôm qua. Những lúc được vui chơi cùng cây là những khoảnh khắc vui sướng, hạnh phúc của tuổi thơ:
Vào năm học cuối cùng, trước khi bắt đầu nghỉ hè, bọn con trai chúng tôi chạy ào lên đấy phá tổ chim. Cứ mỗi lần chúng tôi reo hò, huýt còi ầm ĩ chạy lên đồi là hai cây phong khổng lồ lại nghiêng ngả đung đưa như muốn chào mời chúng tôi đến với bóng râm mát rượi và tiếng lá xào xạc dịu hiền.
Và chúng tôi, lũ nhóc con đi chân đất, cõng kênh nhau bám vào các mắt mấu và cành cây trèo lên cao làm chấn động cả vương quốc loài chim. Hàng đàn chim hoảng hốt kêu lên, chao đi chao lại trên đầu. Nhưng chúng tôi vẫn chưa coi vào đâu, đến đây đã thấm gì! Chúng tôi cứ leo lên cao nữa, cao nữa – nào xem ai can đảm và khéo léo hơn ai!
Và từ trên những cành cao ngất, cao đến ngang tầm cánh chim bay, bỗng như có một phép thần thông nào vụt mở ra trước mắt chúng tôi cả một thế giới đẹp đẽ vô ngần của không gian bao la và ánh sáng. Tưởng chừng như cảm giác háo hức, hiếu kì của cậu bé mười mấy tuổi năm nào khi trèo lên ngọn cây, phóng tầm mắt về phía chân trời và lắng tai nghe tiếng gió ảo huyền thì thầm trò chuyện với lá phong giờ đây vẫn còn nóng hổi trong tâm hồn người họa sĩ:
Đất rộng bao la làm chúng tôi sửng sốt. Mỗi đứa chúng tôi đều nín thở ngồi lặng đi trên một cành cây và quên mất cả chim lẫn tổ chim. Chuồng ngựa của nông trang mà chúng tôi vẫn coi là tòa nhà rộng lớn nhất trên thế gian, ngồi đây chúng tôi thấy chỉ như một căn nhà xép bình thường. Phía sau làng là dải thảo nguyên hoang vu mất hút trong làn sương mờ đục.
Chúng tôi cố giương hết tầm mắt nhìn vào nơi xa thẳm biêng biếc của thảo nguyên và nhìn thấy không biết bao nhiêu, bao nhiêu là vùng đất mà trước đây chúng tôi chưa từng biết đến, thấy những con sông mà trước đây chúng tôi chưa từng nghe nói.
Những dòng sông lấp lánh tận chân trời như những sợi chỉ bạc mỏng manh. Chúng tôi nép mình ngồi trên các cành cây suy nghĩ: đã phải đấy là nơi tận cùng thế giới chưa, hay phía sau vẫn còn có bầu trời như thế này, những đám mây, những đồng cỏ và sông ngòi như thế này?
Hình ảnh hai cây phong gợi lại những ki niệm khó quên về thời niên thiếu tinh nghịch, hồn nhiên, trong sáng. Nó nâng cao và mở rộng tầm mắt, đồng thời thổi bùng lên ngọn lửa khát khao hiểu biết trong lòng nhà văn về những miền đất bí ẩn đầy sức quyến rũ lẩn sau chân trời xa thẳm biêng biếc kia…
Kết thúc đoạn văn, tác giả đặt ra câu hỏi ai đã trồng hai cây phong và đặt tên cho quả đồi: Thuở ấy, chỉ có một điều tồi chưa hề nghĩ đến ai là người đã trồng hai cây phong trên đồi này ? Người vô danh ấy đã ước mơ gì, đã nói, những gì khi vùi hai gốc cây xuống đất, người ấy đã ấp ủ những niềm hi vọng gì khi vun xới chúng nơi đây, trên đỉnh đồi cao này? Quả đồi có hai cây phong ấy, không biết vì sao ở làng tôi họ gọi là “Trường Đuy-sen”.
Cuối tác phẩm, tác giả đã giải thích nguồn gốc của hai cây phong bằng một câu chuyện cảm động gắn liền với tình thầy trò thắm thiết. Cách đây bốn mươi năm, chính thầy Đuy-sen đã đem hai cây phong về trồng trên đồi này và thầy đã gửi gắm ở hai cây phong non hi vọng của mình vào những đứa trẻ nghèo khổ, thất học như An-tư-nai sau này sẽ trở thành những người hữu ích.
Thầy Đuy-sen đã gieo những hạt giống ước mơ vào tâm hồn non trẻ. Hai cây phong đầu làng qua bao năm tháng đã thầm lặng góp phần cùng người thầy đầu tiên biến ước mơ thành hiện thực.
Chuyện về hai cây phong giống như lời tâm sự tự nhiên và chân thành. Tác giả đã truyền tình yêu tha thiết từ trái tim mình sang trái tim bạn đọc, dẫn dắt bạn đọc đến với nhân vật Đuy-sen – người thầy đầu tiên của ngôi làng Ku-ku-rêu nghèo nàn, nhỏ bé bằng đoạn văn miêu tả vẻ đẹp khó quên của hai cây phong nhân chứng của câu chuyện hết sức xúc động về tình thầy trò, về lương tâm và trách nhiệm cao cả của thầy giáo Đuy-sen.
Phân Tích Hai Cây Phong Đặc Sắc – Mẫu 2
Ai-ma-tốp là nhà văn nước Cộng hòa Cư-rơ-gư-xtan, một nước cộng hoà ờ vùng Trung Á, thuộc Liên Xô trước đây. Chủ đề chính trong các tác phẩm của ông thường là những con người với cuộc sống khắc nghiệt, khó khăn nhưng ẩn chứa trong đó là chất lãng mạn đến từ những tình cảm đáng quý, chân thành như tình bạn, tình thân rồi tình yêu.
Các tác phẩm của ông luôn hướng tới lòng nhiệt huyết của thanh niên đặc biệt là các nữ thanh niên, thúc đẩy tinh thần đấu tranh, vượt qua những hy sinh mất mát trong chiến tranh để thoát khỏi sự ràng buộc của những hủ tục lạc hậu áp đặt lên nữ giới và trẻ em.
Đoạn trích Hai cây phong được trích trong tác phẩm Người thầy đầu tiên, với ngòi bút sinh động đậm chất hội họa, hai cây phong đã được miêu tả một cách tinh tế và rõ nét, mà qua đó ta thấy hiện lên tình yêu quê hương tha thiết và tình cảm xúc động đặc biệt về một người thầy đã dành cả cuộc đời để ươm mầm ước mơ, hi vọng cho những học trò của mình – thầy Đuy-sen.
Về ngôi kể câu chuyện được kể theo ngôi thứ nhất, tác giả xưng “tôi” trong những cảm nhận chủ quan của mình về hai cây phong, và đây là ngôi kể quan trọng nhất thể hiện được hết những giá trị tư tưởng và biểu cảm của đoạn trích.
Đến phần hồi tưởng về ký ức thuở ấu thơ nhiều năm về trước, ngôi kể đó có sự thay đổi từ “tôi” sang “chúng tôi”, như vậy “chúng tôi” ở đây là đại diện cho những đứa trẻ có cùng những kỷ niệm tươi đẹp với hai cây phong, góp phần làm cho đoạn trích thêm phần linh hoạt và sinh động hơn cả.
Trước hết nói về vị trí của hai cây phong, hai cây phong ấy nằm ở làng Ku-ku-rêu ven chân núi, trên một cao nguyên rộng, phía dưới chính là thung lũng đất vàng và cánh thảo nguyên Ca-dắc-xtan.
Có thể thấy rằng bằng đôi mắt và chất hội họa trong mình tác giả đã đem đến một không gian vô cùng kháng đạt và rộng lớn để làm nền cho hai cây phong xuất hiện và đó cũng là hiện thực bối cảnh của một làng quê nghèo hẻo lánh của vùng Cư-rơ-gư-xtan đầy hoài niệm.
Trong đôi mắt người nghệ sĩ hình tượng hai cây phong trước hết hiện lên với một vẻ khái quát “Phía trên làng tôi, trên ngọn đồi, có hai cây phong lớn”, sau đó tác mới đi vào miêu tả chi tiết hai cây phong bằng hình ảnh so sánh độc đáo “chúng luôn hiện ra trước mắt giống như những ngọn hải đăng trên núi”.
Nhân vật chính vẫn luôn trân trọng, nâng niu những ấn tượng thuở thơ ấu, xem hai cây phong như là những thứ thân thuộc nhất. Mà để đến khi đã trưởng thành đã qua phía bên kia dốc cuộc đời, ông vẫn giữ một thói quen nhìn về phía hai cây thông cao lớn như một “bổn phận”.
Trong lòng của nhân vật “tôi” có lẽ hai cây phong chẳng đơn thuần là một loài cây mà hơn thế nữa nó đã trở thành một cái gì đó rất gắn bó rất yêu thương, trong mắt tác giả hai cây phong ấy cũng “có tiếng nói riêng và hẳn phải có tâm hồn riêng, chan chứa những lời ca êm dịu”.
Nhân vật chính nói vậy bởi những cảm nhận về sự lay động của hai cây phong trong tiềm thức “dù ngày hay đêm chúng vẫn nghiêng ngả thân cây, lay động lá cành, không ngớt tiếng rì rào theo nhiều cung bậc khác nhau”.
Thậm chí trong sự tưởng tượng của nhân vật “tôi” cây phong còn ấp ủ trong mình những cảm xúc, những rung động mãnh liệt như một con người có linh hồn có tình cảm, lúc thì như làn sóng thủy triều vỗ vào bãi cát, lúc lại dịu dàng thiết tha, nồng thắm.
Và cũng có những lúc bản thân hai cây phong “im bặt một thoáng, “cất tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào”, rồi cũng có những khi cây phong phải gánh chịu những biến cố lớn trong cuộc đời, buộc chúng phải mạnh mẽ vượt qua, những “bão giông, xô gãy cành, tỉa trụi lá”, khắc nghiệt đến thế nhưng chúng vẫn “dẻo dai và reo vù vù như một ngọn lửa bốc cháy rừng rực”.
Chính điều ấy đã để lại trong lòng độc giả những ấn tượng sâu sắc về hai cây phong sinh đôi có linh tính, cảm xúc và sức sống bền bỉ dẻo dai là nguồn động lực cho con người vượt qua mọi khó khăn trắc trở. Có thể nói tình cảm của nhân vật chính với hai cây phong thuở ấu thơ đã để lại trong tâm hồn tác giả những dấu ấn sâu đậm khó có thể phai mờ.
Đến khi đã trưởng thành, từng nhiều lần đi về chốn quê hương, qua nhiều trải nghiệm, tác giả cũng thấu hiểu “điều bí ẩn” của hai cây phong, nhưng ông vẫn trân trọng và nâng niu những cảm nhận, những giá trị mà ông từng nghĩ về hai cây phong thuở ấu thơ, bởi đó là những hồi ức tốt đẹp nhất mà ông từng có ở vùng quê nghèo khó, “tuổi trẻ của tôi đã ở lại nơi ấy”,…
Sau những cảm nhận cá nhân về hai cây phong, thì nhân vật “tôi” còn có những cảm nhận, ký ức chung với những người bạn thuở thơ ấu, đó là những cuộc vui bất tận, sôi động gắn liền với hình bóng hai cây phong. Những lần lũ trẻ phá tổ chim, reo hò, huýt còi ầm ĩ, thì hai cây phong dường như cũng vui mừng “như muốn chào mời chúng tôi đến với bóng râm mát rượi và tiếng lá xào xạc dịu dàng”.
Hai cây thông cũng trở thành pháo đài, căn cứ của lũ trẻ, hay kỳ thú hơn là một vọng gác ngắm cảnh, mà ở đó chúng cảm thấy như có một phép thần thông mở ra một thế giới đẹp đẽ vô ngần trước mắt lũ trẻ có cuộc sống cơ cực, vất vả. Bởi thế giới ấy chỉ đơn giản là chuồng ngựa của nông trang mà lũ trẻ xem là tòa nhà rộng lớn nhất thế giới, giờ đây khi ở trên hai cây phong cũng chỉ như một căn gác xép bình thường.
Điều ấy trở thành bước đệm để mở ra trong lũ trẻ một thế giới mới rộng lớn hơn, bao la hơn vượt ra khỏi ngôi làng bé nhỏ, thảo nguyên rộng lớn, những vùng đất chưa biết tên, con sông chưa từng nghe nói. Từ những băn khoăn những thắc mắc về những thứ lạ lẫm ấy đã mở ra trong tâm hồn lũ trẻ những ước mơ, những khao khát khám phá, khao khát vượt ra khỏi ngôi làng nhỏ bé đến với những vùng đất rộng lớn hơn,…
Rồi kết lại chỉ có một điều mà nhân vật chính chưa từng nghĩ đến rằng ai đã trồng hai cây phong này, ai là người đã gián tiếp khơi gợi trong ông niềm hy vọng, ước mơ về một cuộc sống mới tốt đẹp hơn, về khao khát cháy bỏng thay đổi cuộc đời.
Đoạn trích Hai cây phong đã đem đến cho độc giả những cảm xúc đặc biệt về tình cảm gắn bó với quê hương thông qua hình ảnh hai cây phong độc đáo, được miêu tả với bút pháp hội họa đậm chất lãng mạn, hoài niệm.
Từ đó mở ra câu chuyện về thầy Đuy-sen và cô bé An-tư-nai, câu chuyện về cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ để giành lấy sự công bằng trong cuộc sống, về sự nỗ lực thoát khỏi ràng buộc của những hủ tục lạc hậu đã đã gò ép cuộc đời của người phụ nữ và trẻ em ở miền quê nghèo khó.
Phân Tích Hai Cây Phong Nổi Bật – Mẫu 3
Truyện ngắn Người thầy đầu tiên của nhà văn Ai-ma-tốp đã đưa chúng ta về với làng nhỏ Ku-ku-rêu của nước cộng hoà Cư-rơ-gư-xtan thuộc Liên-Xô (cũ).
Câu chuyện về người chiến sĩ Hồng quân, đoàn viên thanh niên cộng sản Đuy-sen – người thầy đầu tiên đã trồng hai cây phong nhỏ cùng cô bé An-tư-nai thuở trước. Để bốn chục năm sau, cô bé đã là một viện sĩ danh tiếng, còn Hai cây phong đã trở thành một phần không thể thiếu trong ký ức làng quê của biết bao thế hệ dân làng Ku-ku-rêu.
Kỷ niệm gắn bó với hai cây phong được kể lại theo hai mạch dẫn lồng vào nhau: mạch dẫn chuyện trực tiếp của nhân vật “tôi” – một hoạ sĩ đã lớn lên từ chính mảnh đất này và mạch kỷ niệm của cả một thế hệ “chúng tôi”. Ký ức thật đậm nét của tuổi thơ đã khiến cho người hoạ sĩ – nhân vật “tôi” đã tái hiện lại thật đẹp và xúc động hình ảnh hai cây phong – biểu tượng của quê hương, một mảnh hồn làng sống động.
Bắt đầu của những ký ức về làng quê là lời dẫn chuyện đưa người đọc trở về một nơi nằm ven chân núi, trên một cao nguyên rộng, có những khe nước ào ào từ nhiều ngách đá đổ xuống . Ku-ku-rêu đã hiện ra với tất cả vẻ hoang sơ của thiên nhiên với thung lũng, thảo nguyên, rặng núi.
Hai cây phong không phải là món quà của tự nhiên nhưng đã từ rất lâu, những đứa trẻ đã biết chúng từ thuở bắt đầu biết mình. Để cũng rất tự nhiên, hình ảnh hai cây phong đã trở thành của riêng làng Ku-ku-rêu: “chúng luôn hiện ra trước mắt hệt như những ngọn hải đăng đặt trên núi”, trở thành mốc định hướng cho mọi người tìm đến.
Riêng đối với “tôi”, “mỗi lần về quê, khi xuống xe lửa đi qua thảo nguyên về làng, tôi đều coi bổn phận đầu tiên là từ xa đưa mắt tìm hai cây phong thân thuộc ấy”.
Anh đã dành tình cảm đặc biệt với hai cây phong như với những người bạn, nhìn bằng cặp mắt chan chứa tình cảm yêu thương, nên dù khó nhìn đến mấy, anh bao giờ cũng cảm biết được chúng, lúc nào cũng nhìn rõ . Hai cây phong đã trở thành một phần tâm hồn của anh, chi phối cả niềm vui, nỗi buồn của người hoạ sĩ.
Bằng tình yêu ấy, anh đã tạo nên một bức tranh thật sinh động, đẹp đẽ. Một bức tranh ngân nga cả những giai điệu “tiếng lá reo cho đến khi say sưa ngây ngất”. Đoạn văn miêu tả hình ảnh hai cây phong đẹp như một bài thơ về một loài cây “có tiếng nói riêng và hẳn phải có một tâm hồn riêng, chan chứa những lời ca êm dịu”.
Có lẽ chính tình yêu quê hương của người hoạ sĩ đã đem đến cảm giác choáng ngợp say sưa ấy: “Dù ta tới đây vào lúc nào, ban ngày hay ban đêm, chúng cũng vẫn nghiêng ngả thân cây, lay động lá cành, không ngớt tiếng rì rào theo nhiều cung bậc khác nhau.
Có khi tưởng chừng như một làn sóng thủy triều dâng lên vỗ vào bãi cát, có khi lại nghe như một tiếng thì thầm thiết tha nồng thắm chuyển qua lá cành như một đốm lửa vô hình, có khi hai cây phong bỗng im bặt một thoáng, rồi khắp lá cành lại cất tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào”.
Ngay cả khi thời tiết thay đổi khắc nghiệt, hai cây phong ấy vẫn như một con người bền bỉ kiên cường đối chọi với sức mạnh tàn phá của bão dông, “nghiêng ngả tấm thân dẻo dai và reo vù vù như một ngọn lửa bốc cháy rừng rực”.
Cảm nhận của tuổi thơ đã được người họa sĩ ấy trân trọng gìn giữ, ngay cả khi khám phá ra điều bí ẩn về hai cây phong bằng những giải thích chính xác khoa học thì : “việc khám phá ra chân lí giản đơn ấy vẫn không làm tôi vỡ mộng xưa, không làm tôi bỏ mất cách cảm thụ của tuổi thơ mà tôi còn giữ đến tận ngày nay”.
Bởi lẽ cây phong ấy đã gắn với cả một thời tươi đẹp: “Tuổi trẻ của tôi đã để lại nơi ấy, bên cạnh chúng như một mảnh vỡ của chiếc gương thần xanh…”. Hình ảnh thời ấu thơ đã tạo thành không gian cổ tích rất riêng, phải chăng chính từ tình yêu và sự gắn bó với hai cây phong, đã làm cậu bé năm xưa lớn lên trở thành họa sĩ với mong muốn vẽ lại linh hồn nồng thắm của làng quê?
Hai cây phong ấy còn là kỷ niệm chung của chúng tôi – bọn con trai tinh nghịch ở làng Ku-ku-rêu, những người bạn cùng trang lứa của người họa sĩ. Đó là tất cả những ngày tháng được vui chơi, chạy nhảy giữa núi đồi rộng lớn , trong bóng râm mát rượi và tiếng lá xào xạc dịu hiền của hai cây phong.
Đẹp làm sao khoảnh khắc những cậu bé ấy được nâng lên cao từ những cành cao ngất, cao đến ngang tầm chim bay, một thế giới khác đã được mở ra, vượt ra khỏi giới hạn của làng quê Ku-ku-rêu nhỏ bé, “như có một phép thần thông nào vụt mở ra trước mắt chúng tôi cả một thế giới đẹp đẽ vô ngần của không gian bao la và ánh sáng”.
Hai cây phong trở thành bệ đỡ, nâng cánh ước mơ cho những đứa trẻ, mở tầm nhận thức về một thế giới đầy những điều mới lạ cần khám phá, hướng về “những miền đất bí ẩn đầy sức quyến rũ lẩn sau chân trời xa thẳm biêng biếc kia”.
Cũng như bạn bè của mình, “tôi” – chú bé sau này là họa sĩ cũng trải qua cảm giác “tim đập rộn ràng vì thảng thốt và vui sướng, rồi trong tiếng xào xạc không ngớt ấy, tôi cố hình dung ra những miền xa lạ kia”. Hai cây phong đã trở thành người bạn lớn, người bạn tâm tình thân thiết đem lại những niềm vui vỡ oà hạnh phúc cho tuổi thơ.
Khi hưởng thụ niềm vui trong bao tháng ngày hồn nhiên thơ mộng bên hai cây phong ấy, không cậu bé nào đặt câu hỏi về người đã vun mầm, ấp ủ những niềm hi vọng, đem lại hạnh phúc tuổi thơ. Đó cũng là điều bình thường với bất cứ em bé nào.
Hai cây phong của người chiến sĩ Hồng quân, đoàn viên thanh niên cộng sản Đuy-sen đã cùng trồng với em bé khốn khổ An-tư-nai trong những ngày làng Ku-ku-rêu còn chìm đắm trong lạc hậu tối tăm và những hủ tục còn đè nặng trong đời sống dân làng những năm đầu sau cách mạng tháng Mười đã trở thành chứng nhân cho sự lớn khôn của bao thế hệ.
Bản thân người thầy đầu tiên ấy vẫn ở lại với làng, đã trở thành một ông lão đưa thư mẫn cán Đuy-sen, thế nhưng khi các em bé gọi quả đồi có hai cây phong là “Trường Đuy-sen” như bao dân làng, có mấy ai còn nhớ ông lão ấy chính là thầy Đuy-sen, người đem đến ánh sáng cách mạng góp phần xoá tan đi bóng tối cho bao cuộc đời?
Hai cây phong còn là minh chứng cho sự hy sinh lặng thầm của những người cộng sản trẻ tuổi đã không ngại ngần cống hiến thời thanh xuân tươi đẹp cho quê hương thay da đổi thịt.
Tình cảm yêu mến hai cây phong của “tôi”, của “chúng tôi”, của những người dân làng Ku-ku-rêu khiến chúng ta trân trọng chính là vì hai cây phong ấy gắn với câu chuyện về một con người cao đẹp, người thầy giáo không có bằng sư phạm nhưng đã vun trồng bao ước mơ, hi vọng cho những trò nhỏ của mình.
Phân Tích Hai Cây Phong Chọn Lọc – Mẫu 4
Trong số các nhà văn của đất nước Liên Xô cũ, có lẽ Tsin-ghi-dơ Ai-má-tốp là người gần gũi với người đọc Việt Nam nhất. Truyện của ông, từ Ja-mi-li-a,…, Vĩnh biệt Gưn-xa-rư, đến Ngày dài hơn thế kỷ đều có bóng dáng của quê hương Cư-rơ-gư-xtan, đều phản ánh phong tục tập quán, đấu tranh cho cuộc sống tiến bộ, đạo đức và tình cảm tốt đẹp của con người…
Một trong những tình cảm khiến truyện của Ai-ma-tốp gần gũi với người đọc Việt Nam có lẽ là tình cảm thầy trò mà truyện ngắn Người thầy đầu tiên là truyện tiêu biểu.
Truyện ghi lại hoạt động của một đoàn viên thanh niên chấp hành sự điều động của tổ chức, dù học lực chưa được là bao, về xây dựng một ngôi trường ở nơi người dân chưa hề biết đến con chữ. Cô bé An-tư-nai mồ côi sống trong gia đình chú thím ở làng Ku-ku-rêu, chẳng được học hành, và phải chịu sự giám sát, sai khiến hà khắc của bà thím.
Đuy-sen được Đoàn Thanh niên Cộng sản cử về làng để mở trường, đã kịp thời cứu giúp, cho em đến trường học. Một hôm, Đuy-sen mang về trường hai cây phong non và bảo em: “Hai cây phong này thầy mang về cho em đây. Chúng ta sẽ cùng trồng. Và trong khi chúng lớn lên, ngày một thêm sức sống, em sẽ trưởng thành, em sẽ là một người tốt… Em bây giờ trẻ măng như một thân cây non, như đôi cây phong nhỏ này…”.
Bà thím ác nghiệt ép gả bán An-tư-nai làm vợ lẽ cho người ta. Một lần nữa, An-tư-nai được thầy Đuy-sen giải thoát, được lên tỉnh học, rồi đến học tiếp ở Mát-xcơ-va, sau trở thành nữ viện sĩ An-tư-nai Xu-lai-ma-nô-va. Còn thầy Đuy-sen, bấy giờ đã già, làm nghề đưa thư…
Đoạn văn mà chúng ta phân tích nằm ở phần đầu của truyện ngắn. Phần truyện này được viết bằng hai mạch văn lồng ghép vào nhau. Một mạch văn mà nhân vật kể là “tôi” – nhân danh bản thân của mình giới thiệu ngôi làng, vị trí của hai cây phong và nêu cảm hiểu của mình về chúng. Mạch văn khác nhân danh “chúng tôi” – do nhân vật “tôi” nhớ và kể lại như là hồi ức về một quãng đời đã từng sống cùng hai cây phong ở trong làng.
Sau khi giới thiệu vị trí và đặc tính về địa lý của ngôi làng Ku-ku-rêu, nhân vật “tôi”, giờ đã là họa sĩ, giới thiệu hai cây phong: “Phía trên làng tôi, giữa một ngọn đồi, có hai cây phong lân. Tôi biết chúng từ thuở bắt đầu biết mình”. Ấy là giới thiệu vị trí của hai cây phong, và mốc thời gian mà nhân vật “tôi” nhận biết được hai cây phong ấy. Thật thú vị khi đọc câu văn “Tôi biết chúng từ thuở bắt đầu biết mình”.
Thú vị là ở chỗ nó vừa chính xác vừa mơ hồ, đồng thời cũng là thông báo cho người đọc biết hai cây thông ấy xuất hiện ở làng trước khi nhân vật “tôi” nhận biết được sự có mặt của mình. Và nhân vật “tôi” nêu cảm nhận về vị ưí của hai cây phong lớn ấy. Đấy là một vị trí mà bất cứ ai đi từ hướng nào “cũng đều trông thấy hai cây phong đó trước tiên”, rồi so sánh chúng “nhưnhững ngọn hải đăng đặt trên núi”.
Nếu biết “hải đăng” là ngọn đèn biển, thường dựng ở một mũi đất hoặc một hòn đảo để hướng dẫn tàu thuyền đi lại ngoài khơi hoặc ra vào bến cảng thì sẽ nhận ra ý nghĩa trân trọng hai cây phong của nhân vật “tôi” qua sự so sánh ấy. Nó như cây đa đầu làng đối với người Việt Nam khi sống ở nơi xa có dịp trô về làng cũ.
Cảm nhận về hai cây phong càng lúc càng sâu sắc hơn là ở lời tâm sự “cứ mỗi lần về quê, khi xuống xe lửa đi qua thảo nguyên về làng, tôi đều có bổn phận đầu tiên là từ xa đưa mắt tìm hai cây phong thân thuộc ấy”. Tại sao việc đưa mắt tìm hai cây phong được nhân vật “tôi” coi là “bổn phận đầu tiên” mà không là một việc khác?
Có phải là vì chúng giữ vị trí dẫn đường, vì những ấn tượng thời thơ ấu, hay vì chúng đẹp qua cái nhìn của nhân vật “tôi” nay đã là họa sĩ? Hình như ngoài những điều ấy, hai cây phong còn ẩn chứa điều bí ẩn nào đó cuốn hút tâm hồn nhân vật “tôi”, khiến nhân vật “tôi” cảm nhận hai cây phong sinh đôi ấy khác hẳn với các loại cây khác, “chứng có tiếng nói riêng và hẳn phải có một tâm hồn riêng, chan chứa những lời ca êm dịu”.
Từ cảm nhận ấy, nhân vật tôi tập trung miêu tả tiếng lá reo của hai cây phong như hơi thỏ, tiếng nói cười của hai con người. Ai-ma-tốp không chỉ vận dụng thi giác để thấy cây nghiêng ngả, “lay động lá cành vận dụng thính xác để nghe được “tiếng rì rào theo nhiều cung bậc khác nhau” mà còn vận dụng cả trí tưỏng tượng phong phú của người họa sĩ khi miêu tả hai cây phong sinh đôi giữa đồi cao lộng gió.
Nhà văn đã sử dụng tối đa nghệ thuật so sánh để mô tả tiếng phong reo theo tâm trí tưởng tượng của nhân vật, lúc thì “tưởng chừng như một làn sóng thảy triều ”, lúc thì “lại cất tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào ”, lúc thì “reo vù vù như một ngọn lửa bốc cháy rừng rực”. Rõ ràng với lối miêu tả hình ảnh thực xen lẫn với tâm trí tưồng tượng ây, nhà văn đã mang đến cho người đọc hai cây phong mang tâm hồn bí ẩn.
Với nhân vật “tôi”, dù hiểu được điều bí ẩn của hai cây phong, nhưng đó chỉ là hiện tượng vật lý. Còn về tình cảm thì “Tuổi trẻ của tồi đã để lại nơi ấy, bên cạnh chứng như một mảnh võ cửa chiếc gương thần xanh..”. Nó đã là điều thuộc về tâm linh, sự gắn bố tự nhiên với hai cây phong từ thuở còn thơ đại mà đến tận ngày nay nhân vật “tôi” vẫn “Mong sao chóng về với làng, chóng lên đồi mà đến với hai cây phong”.
Một mạch văn xuyên suốt, nhân vật “tôi” đã nhân danh mình để nói lên tình cảm gắn bó với ngôi làng Ku-ku-rêu, nhất là với hai cây phong sinh đôi. Ấy là mạch văn miêu tả những gì thuộc về cá nhân. Nhưng khi nhắc đến “tuổi trẻ cửa tôi đã để lại nơi ấy” thì danh xưng và mạch văn thay đổi bằng lối văn hồi ức, miêu tả lại hoạt động của “bọn con trai chúng tôi trong đó có nhân vật “tôi”.
Hình ảnh quá khứ, nhất là lần cùng với bạn chạy ào lên chỗ hai cây phong để phá tổ chim hiện về như cảnh phim quay chậm. Những đoạn văn hồi ức đã làm sống lại thời tuổi thơ trong sáng của nhân vật tôi cùng bạn bè với hai cây phong.
Người và cây thật gần gũi, thật gắn bó trong những câu văn của Ai-ma-tốp. Người thì “reo hò, huýt còi ầm ĩ chạy lên đồi còn cây thì “nghiêng ngả đung đưa như muốn chào mời chúng tôi đến với bóng râm mát rượi và tiếng lá xào xạc dịu hiền ”.
Hai cây phong như hai con người có tâm hồn hòa nhịp với tâm hồn tuổi trẻ. Và còn hơn thế là chắp cánh cho tuổi trẻ, khi ở trên những cành cao nhất “bỗng như có một phép thần thông nào vụt mở ra trước mắt chúng tôi cả một thế gỉớỉ đẹp đẽ vô ngần của không gian bao la và ánh sáng“. Nhờ hai cây phong mà bọn trẻ “chúng tôi” mở rộng tầm nhìn.
Từ khoảng hẹp quanh đồi, quanh làng, nay ở trên cành cao nhìn quanh thấy trời đất rộng bao la mà kể từ lúc sinh ra cho đến giây phút trước khi trèo lên cành cây phong cao ngất “chúng tôi“ chưa hề thấy.
“Chúng tôi cố giương hết tầm mắt nhìn vào nơi xa thẳm biêng biếc của thảo nguyên và nhìn thấy khổng biết bao nhiêu, bao nhiêu là vùng đất mà trước đây chúng tôi chưa từng biết đến, thấy những con sông mà trước đây chúng tôi chưa từng nghe nói”.
Và điều quan trọng khác là những gì được nhìn thây ở chung quanh ấy đã gợi cho “chúng tôi” suy nghĩ về giới hạn của núi sông, cây cỏ, bầu trời và những đám mây…; lắng nghe tiếng gió ảo huyền và tiếng lá cây đáp lại lời gió. Mạch văn ghi lại hồi ức chấm dứt.
Truyện trở lại với mạch kể của nhân vật “tôi” nhân danh bản thân miêu tả hai cây phong và nêu cảm xúc, suy nghĩ một cách gần gũi, sâu xa về chung, kể cả điều mà giờ đây “tôi” mới nêu ra: “Ai là người đã trồng hai cây phong trên đồi này?
Người vô danh ấy đã ước mơ gì, […] đã ấp ủ những niềm hi vọng gì khi vun xới chúng nơi đây, trên đỉnh đồi cao này?”. Và một câu hỏi khác: “Quả đồi có hai cây phong ấy, không biết vì sao ở làng tôi họ gọi là “Trường Đuy-sen”.” Câu hỏi này đã hàm chứa câu trả lời kín đáo cho câu hỏi trên.
Đoạn truyện là lời kể và hồi ức về một quãng đời của nhân vật “tôi”. Qua ngòi bút của T.Ai-ma-tôp, hình ảnh người thầy đầu tiên không tách rời khỏi bao thế hệ học trò mà hai cây phong là biểu tượng của sự gần gũi ấy.
Với bút pháp tượng trưng, lời văn trữ tình giàu chất thơ, hai cây phong được diễn tả như hai con người ẩn chứa cái đẹp, cái thiện, hy sinh luôn luôn bị thử thách, và cuối cùng đã chiến thắng, mà cụ thể là nhân vật “tôi”, một học trò cũ đã thành danh dù đang ở nơi xa nhưng luôn tìm dịp quay về làng cũ để đến với hai cây phong “nghe mãi tiếng lá reo cho đến khỉ say sưa ngây ngất”. Ai-ma-tốp được mọi người biết đến là nhờ cách viết khéo léo lấy.
Phân Tích Hai Cây Phong Tiêu Biểu – Mẫu 5
Hai cây phong là đoạn trích ở phần đầu truyện Người thầy đầu tiên của nhà văn Ai-ma-tốp. Đoạn trích đã miêu tả vẻ đẹp nên thơ, đầy sức sống của cây phong và tâm trạng bồi hồi, xúc động của nhân vật “tôi” – họa sĩ khi được trở về làng.
Hai cây phong là hình tượng trung tâm của bài, qua hình ảnh hai cây phong cho thấy sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên, rộng ra là với quê hương, xứ sở. Hai cây phong trong cảm nhận của nhân vật tôi trước hết mang vẻ đẹp thơ mộng và hùng vĩ. Hai cây phong ấy cao lớn giữa ngọn đồi, nhìn chúng như những ngọn hải đăng, định hướng cho mọi người mỗi khi về làng.
Nhưng hai cây phong ấy cũng có tiếng nói riêng, tâm hồn riêng, chan chứa những lời ca êm dịu. Tiếng lá reo như tiếng thì thầm khi tha thiết khi nồng nàn có khi lại như tiếng thở dài. Không chỉ vậy hai cây phong còn là nơi hội tụ của lũ trẻ.
Dưới gốc cây chúng vui vẻ đùa giỡn, còn trên cao tít cây phong lại mở ra trước mắt chúng một thế giới lung linh huyền ảo như thế giới cổ tích với dải thảo nguyên hoang vu như mất hút trong làn sương mờ đục, những dòng sông lấp lánh tận chân trời như những sợi chỉ bạc mỏng mảnh.
Hai cây phong là một phần quan trọng, không thể thiếu đối với cuộc sống của bất cứ ai nơi đây: “Dù ai đi từ phía nào đến làng Ku-ku-rêu chúng tôi cũng đều trông thấy hai cây phong đó trước tiên” “tôi đều coi bổn phận đầu tiên là từ xa đưa mắt tìm hai cây phong thân thuộc ấy”.
Hai cây phong trở thành người bạn tâm giao, tri âm, tri kỉ của họa sĩ: “Rồi sau đó cứ đứng dưới gốc cây để nghe mãi tiếng lá reo cho đến khi say sưa ngây ngất”. Như vậy cây phong là tín hiệu để mỗi đứa con khi về làng định hướng. Qua những lời tâm sự đó ta còn thấy sự gắn nó tha thiết, sâu nặng của tác giả với hai cây phong, với cảnh vật quê hương.
Không chỉ vậy, hai cây phong còn là biểu tượng của lòng biết ơn với người thầy tận tâm Đuy-sen. Kết bài là những băn khoăn của nhân vật “tôi”: “Ai là người đã trồng hai cây phong trên đồi này? Người vô danh ấy đã ước mơ gì, đã nói những gì trước khi vùi hai gốc cây xuống đất, người ấy đã ấp ủ niềm hi vọng gì khi vun xới chúng nơi đây, trên đỉnh đồi cao?”.
Những băn khoăn cũng như lời khẳng định về công lao to lớn của thầy Đuy-sen: khi trồng hai cây phong thầy đã gửi gắm bao khát khao, hi vọng những đứa trẻ nghèo khổ sẽ trở thành những người có ích cho xã hội. Thầy Đuy-sen – người thầy đầu tiên đã vun trồng ước mơ, niềm tin cho các thế hệ học trò.
Tác phẩm có sự kết hợp hài hòa giữa miêu tả với tự sự, biểu cảm: hình ảnh hai cây phong được miêu tả gắn với những chi tiết về kỉ niệm tuổi thơ; phong cảnh thiên nhiên được miêu tả bằng ngòi bút đậm chất hội họa nên vừa giàu chất tạo hình lại vừa thấm đẫm cảm xúc chân thành, đằm thắm.
Ngôn ngữ kể chuyện đặc sắc, người kể chuyện ở ngôi thứ nhất, khi xưng tôi, khi xưng chúng tôi. Hai mạch kể vừa phân biệt, vừa lồng vào nhau, khiến câu chuyện hấp dẫn, thú vị hơn.
Bằng lời văn thấm đẫm chất trữ tình, miêu tả đậm chất hội họa, tác phẩm đã cho thấy sự gắn bó sâu nặng, tình yêu quê hương tha thiết của nhân vật tôi với quê hương, đặc biệt là với hai cây phong. Đồng thời văn bản còn thể hiện lòng biết ơn với thầy Đuy-sen người đã vun đắp, mơ ước, hi vọng cho trẻ em nơi đây.