Vi Hành của Nguyễn Ái Quốc: Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích

Vi Hành [Nguyễn Ái Quốc] ❤️️ Nội Dung Tác Phẩm, Giá Trị, Phân Tích ✅ Giới Thiệu Đến Bạn Đọc Ý Nghĩa Nhan Đề, Đọc Hiểu, Sơ Đồ Tư Duy.

Nội Dung Tác Phẩm Vi Hành

Bằng ngòi bút đả kích sâu cay, nghệ thuật trào phúng, Nguyễn Ái Quốc đã dựng lên bức chân dung châm biếm của Khải Định, tên vua bù nhìn “cõng rắn cắn gà nhà” bán nước cho Pháp. Cùng Thohay.vn đọc Nội Dung Tác Phẩm Vi Hành của Nguyễn Ái Quốc để hiểu rõ hơn về điều đó.

– Hắn đấy!

– Đâu phải!

– Đúng mà! Anh đã bảo là chính hắn đấy.

– Chắc thật à? Em thì em đã thấy hắn ở trường đua, trông hắn có vẻ nhút nhát hơn, lúng ta lúng túng hơn cơ, có cả cái chụp đèn chụp lên cái đầu quấn khăn, các ngón tay thì đeo đầy những nhẫn.

– Thế hay là hắn đã đem tất cả các thứ đó đến tiệm cầm đồ rồi? Nhưng mà nhìn kỹ xem kìa! Chẳng phải vẫn cái mũi tẹt ấy, vẫn đôi mắt xếch ấy, vẫn cái mặt bằng như vỏ chanh ấy đấy à?

– Ừ nhỉ. Thì cũng có thể là anh đúng. Nhưng hắn đến đây làm gì nhỉ, trong đường xe điện ngầm này, và tụi các ông quan bà kiếc đi theo thì đâu cả?

– Có khi đã gửi tất ở kho hành lí nhà ga để đi chơi vi hành đấy.

Đấy cô em họ thân mến của tôi! Tôi đã thuật lại y nguyên câu chuyện giữa một đôi bạn trẻ ngồi cùng toa xe với tôi. Họ ngấu nghiến trông tôi với cặp mắt ma mãnh, tò mò, nhưng lại ra bộ không nhìn tôi gì cả.

Cuộc đối thoại tiếp diễn như sau:

– Thế em nghĩ thế nào về người khách của chúng ta? – Người con trai hỏi, ngỡ tôi là một đấng hoàng thượng và tưởng rằng tôi không hiểu họ nói gì với nhau.

– Hắn còn làm mình bật cười hơn nữa cơ lúc hắn đeo lên người hắn đủ cả bộ lụa là, đủ cả bộ hạt cườm. – Người bạn gái anh ta trả lời.

– Hạt châu báu đấy chứ! Em thích có chỗ châu báu ấy quá đi, chứ còn gì!

– Em mà có ấy à, thì em cố tình đánh mất đi, để được báo chí nói đến, và thế là được trở thành một ngôi sao. Thế còn anh, anh nghĩ gì về người dân bảo hộ của chúng ta nào?

– Ích cho chúng ta lắm đấy. Cái lò ở Găng-be đã bán rồi. Cái rương của Hê-ra Miếc-ten cũng đã thanh toán rồi. Vụ án người bị chặt ra từng khúc thì không thu hút được công chúng lắm vì không thuộc giới thượng lưu. Và thế là cái kho giải trí của chúng ta sắp cạn ráo như B.Đ.D. vậy. Nhật báo chẳng còn cái gì để bôi bác lên giấy cả. Đúng lúc đó thì…

– Đổi xe ở đây chứ, anh yêu ơi?

– Không, ga sau. Đúng lúc đó thì có một anh vua đến với chúng ta.

– Em thì em thích Sác-lô hơn. Với lại, vua, thì tốn lắm.

– Đâu có! Thế em còn nhớ buổi dạ hội thuộc địa ở Nhà hát Ca vũ đấy chứ? Phải trả những nghìn rưởi phơ-răng để xem vợ lẽ nàng hầu vua Cao Miên, xem tụi làm trò leo trèo nhào lộn của sư thánh xứ Công-gô; hôm nay thì chúng mình có mất tí tiền nào đâu mà được xem vua đang ngay cạnh? Nghe nói ông bầu Nhà hát Múa rối có định ký giao kèo thuê đấy…

Tàu đỗ, cặp trai gái bước xuống, mắt cứ liếc nhìn trộm tôi, và tôi thì buồn cười quá bỗng đâm ra nghĩ, và nghĩ đến cô. Tôi như còn trông thấy cái ngày mà cô với tôi đôi chúng ta, như đôi chim ấy thôi, đậu vắt vẻo trên đầu gối ông bác thân yêu, nghe bác kể chuyện cổ tích. Tôi nhớ chuyện vua Thuấn, vì muốn đích thân tai nghe mắt thấy dân có bằng lòng mình không, nên cải trang làm dân cày đi dò la khắp xứ. Lại nhớ chuyện vua Pi-e nước Nga đi làm thợ và đến làm việc ở các công trường nước Anh. Bên những bậc cải trang vĩ đại ấy muốn đi sâu vào cuộc sống của nhân dân, ngày nay còn có những ông hoàng, ông chúa, để tiện việc riêng và vì những lý do không cao thượng bằng, cũng “vi hành” đấy.

Tôi không được rõ ý đồ nhà “vi hành” của chúng ta ra sao. Phải chăng là ngài muốn biết dân Pháp, dưới quyền ngự trị của bạn ngài là A-lếch-xăng Đệ nhất, có được sung sướng, có được uống nhiều rượu và được hút nhiều thuốc phiện bằng dân Nam, dưới quyền ngự trị của ngài, hay không? Phải chăng ngài muốn học sử dụng (theo kiểu Pháp) cái liềm của nhà nông cùng cái búa của thầy thợ để sau cuộc ngao du, đem về chút ấm no mà đám “dân” bất hạnh của ngài tới nay hoàn toàn chàng biết đến? Hay là, chán cảnh làm một ông vua to, giờ ngài lại muốn nếm thử cuộc đời của các cậu công tử bé?

Thế nào thì thế, ít lâu nay tôi đã trở thành một đấng hoàng thượng bất đắc dĩ. Bất cứ tôi đi đâu, là có người nhìn tôi, ganh tị tôi, mỉm cười với tôi, tán tụng tôi, đi theo tôi.

Cô em thân mến, hẳn cô bảo tôi rằng thế là cái bánh xe vô lượng nó đã quay rồi đấy. Đến nay, tất cả những ai ở Đông Dương có màu da trắng đều là những bậc khai hoá, thì bây giờ đến lượt tất cả những ai có màu da vàng đều trở thành hoàng đế ở Pháp.

Cô không thể tưởng tượng được cảnh đón tiếp tốt đẹp người ta dành cho chúng tôi ở đây. Quần chúng cứ là tự phát mà biểu lộ nhiệt tình khi vừa thoáng thấy một đồng bào ta. Những tiếng “Hắn đấy!” hay “Xem hắn kìa!” là những lời chào mừng kín đáo và kính trọng mà chúng tôi thường gặp dọc đường.

Cái vui nhất là ngay đến Chính phủ cũng chẳng nhận ra được khách thật của mình nữa, và để chắc chắn khỏi thất thố trong nhiệm vụ tiếp tân, Chính phủ bèn đối đãi với tất cả mọi người An Nam vào hàng vua chúa và phái tuỳ tùng đi hộ giá tuốt! Đó là những người phục vụ thầm kín, rụt rè, vô tư và hết sức tận tuỵ. Các vị chẳng nề hà chút công sức nào để bảo vệ bọn tôi, và giá cô được trông thấy các vị ân cần theo dõi tôi chẳng khác bà mẹ hiền rình con thơ chập chững bước đi thứ nhất, thì hẳn cô phải phát ghen lên được về nỗi niềm âu yếm của các vị đối với tôi. Có thể nói là các vị bám lấy đế giày tôi, dính chặt với tôi như hình với bóng. Và thật tình là các vị cuống cuồng cả lên nếu mất hút tôi chỉ trong năm phút? Cô thử nghĩ, làm sao mà không xúc động sâu xa được, khi được đối đãi như thế?

Ngày nay, cứ mỗi lần ra khỏi cửa, thật tôi không sao che giấu nổi niềm tự hào được là một người An Nam và sự kiêu hãnh được có một vị hoàng đế.

TẶNG BẠN TUYỂN TẬP 👉 Thơ Hồ Chí Minh

Tóm Tắt Truyện Ngắn Vi Hành

Đừng bỏ qua bản Tóm Tắt Truyện Ngắn Vi Hành sau đây.

Trên một chuyến xe điện ngầm, đôi trai gái người Pháp nhìn thấy nhân vật tôi – một người An Nam và tưởng rằng đó là vua Khải Định. Họ nghĩ rằng nhân vật “tôi” không biết tiếng Pháp, nên đã thản nhiên nhận xét về Khải Định, coi hắn như một tên hề, một trò giải trí rẻ tiền.

Khi đôi trai gái xuống tàu, người kể chuyện nhớ về ngày ấu thơ, về câu chuyện vi hành của Vua Pie, vua Thuấn, rồi bình luận về cuộc Vi hành mờ ám vì mục đích riêng của Khải Định.

Về Nguyễn Ái Quốc

Mời bạn đọc cùng tìm hiểu thêm Về Nguyễn Ái Quốc.

  • Nguyễn Ái Quốc (1890 – 1969) là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc và cách mạng Việt Nam. Người đã lãnh đạo nhân dân ta trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
  • Nguyễn Ái Quốc có tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung. Quê ở huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
  • Gia đình: Thân phụ là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc – một nhà Nho yêu nước có tư tưởng tiến bộ có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng của Người. Thân mẫu của Người là bà Hoàng Thị Loan.
  • Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Người đã sử dụng nhiều tên gọi khác nhau: Nguyễn Tất Thành, Văn Ba, Nguyễn Ái Quốc… Tên “Nguyễn Ái Quốc” được sử dụng lần đầu tiên trong hoàn cảnh: Ngày 18 tháng 6 năm 1919, thay mặt “Hội những người An Nam yêu nước”, Nguyễn Tất Thành đã mang tới Hội nghị hòa bình Versailles diễn ra tại Pháp, bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” – ký tên là Nguyễn Ái Quốc.
  • Không chỉ là một nhà hoạt động cách mạng lỗi lạc, Người còn được biết đến với tư cách là một nhà văn nhà thơ lớn, được UNESCO công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới.
  • Một số tác phẩm nổi bật:
    • Tuyên ngôn độc lập (1945, văn chính luận)
    • Bản án chế độ thực dân Pháp (1925, văn chính luận)
    • Đường Kách Mệnh (1927, tập hợp những bài giảng)
    • Con rồng tre (1922, kịch )
    • Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946)
    • Các truyện ngắn: Vi hành (1923), Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu (1925)…
    • Nhật kí trong tù (thơ, 1942 – 1943)…

XEM THÊM 👉 Thơ Về Bác Hồ Ngắn Hay

Về Tác Phẩm Vi Hành

Về Tác Phẩm Vi Hành, đây là truyện ngắn xuất sắc của Hồ Chí Minh, được viết bằng tiếng Pháp, đăng trên báo Nhân đạo – cơ quan của đảng Cộng sản Pháp – số ra ngày 19 – 2 – 1923, vào đúng dịp vua Khải Định được chính phủ Pháp đưa sang dự cuộc đấu xảo thuộc địa tổ chức ở Macxây.

Tác phẩm đã sử dụng bút pháp hiện thực phê phán trào phúng, hướng đến mục đích chính trị để cho nhân dân Pháp và nhân dân thế giới thấy rõ sự vô dụng của Khải Định, một tên vua bù nhìn, ngu dốt, không phải là kẻ đại diện chân chính cho nhân dân Việt Nam; đồng thời vạch trần bộ mặt xảo trá của những kẻ thực dân.

Hoàn Cảnh Sáng Tác Vi Hành

Hoàn Cảnh Sáng Tác Vi Hành như sau:

  • Năm 1922, thực dân Pháp đưa vua bù nhìn Khải Định sang Pháp để dự cuộc đấu xảo (hội chợ) thuộc địa ở Mác-xây. Với mục đích lừa gạt nhân dân Pháp, làm cho họ tưởng rằng vị quốc vương An Nam đã hoàn toàn quy phục “mẫu quốc”, sang Pháp để cảm tạ công ơn “bảo hộ” và “khai hóa” của “mẫu quốc”. Qua sự có mặt và thái độ hèn hạ của Khải Định, chúng muốn làm cho nhân dân của mình tin rằng tình hình Đông Dương đang rất ổn định, cần đầu tư lớn để khai thác kinh tế, tiếp tục đem “văn minh” khai hóa cho dân bản xứ còn mông muội.
  • Nguyễn Ái Quốc viết “Vi hành” vào đầu năm 1923 để cùng với các tác phẩm khác như vở kịch Con rồng tre, truyện ngắn Lời than vãn của bà Trưng Trắc… lật tẩy âm mưu nói trên của bọn thực dân cướp nước.
  • Tác phẩm được viết bằng tiếng Pháp, đăng trên báo Nhân đạo, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Pháp, số ra ngày 19 tháng 2 năm 1923.

Tổng hợp 🌳 Bài Thơ Thư Trung Thu Của Bác 🌳Ngoài Thơ Về Bác Hồ

Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm Vi Hành

Tiếp tục cùng khám phá Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm Vi Hành.

  • “Vi hành” chỉ việc làm có ý nghĩa tích cực, khi nhà vua chấp nhận rời xa cung cấm để hòa nhập vào cuộc sống trong dân gian để thấu hiểu được những bất công, những khổ cực của dân chúng.
  • “vi hành” của Khải Định trong tác phẩm, ta lại nhận ra một sự châm biếm đầy sâu cay, Khải Định “vi hành” sang Pháp để ăn chơi hưởng thụ, một cách nhục nhã và đê hèn.
  • Nhan đề tiếng Pháp mà dịch ra có nghĩa là “bí mật, không ai biết”, cho thấy sự lố bịch và đớn hèn của tên vua bù nhìn trên đất Pháp, những tưởng mình cao sang, nhưng cũng chỉ là trò tiêu khiển cho ngoại quốc.

Dành tặng độc giả 💜 Thơ Chúc Tết Của Bác Hồ 💜 Ngoài Thơ Về Bác Hồ

Bố Cục Vi Hành

Bố Cục Vi Hành gồm 3 phần chính:

  • Phần 1 (từ đầu đến “Nghe nói ông bầu Nhà hát múa rối có định kí giao kèo thuê đấy…”): Nhân vật tôi kể chuyện một đôi thanh niên Pháp nhầm mình là vua Khải Định.
  • Phần 2 (Từ “Tàu đỗ, cặp trai gái bước xuống…” đến “… nếm thử cuộc đời của các cậu công tử bé?”: Nhân vật tôi nhớ đến những ngày được nghe kể chuyện vi hành của các ông vua nổi tiếng vì dân vì nước trong lịch sử, rồi liên hệ, so sánh với chuyện vi hành của Khải Định. Từ đó thể hiện thái độ châm biếm mỉa mai hành động của Khải Định.
  • Phần 3 (các đoạn còn lại): Nhân vật tôi kể chuyện và bình luận về thái độ của người Pháp đối với mình và những người Việt Nam khác, chính quyền thực dân sai mật thám bám gót họ khắp nơi.

TẶNG BẠN 👉 Chùm Thơ Tố Hữu Về Bác Hồ

Đọc Hiểu Tác Phẩm Vi Hành

Cùng tìm hiểu thêm về phần Đọc Hiểu Tác Phẩm Vi Hành.

1. Tạo tình huống nhầm lẫn

– Nhầm lẫn vô tình của người dân Pháp (nhầm lẫn nhân vật tôi và vua Khải Định của đôi thanh niên Pháp): 

+ Tình huống nhầm lẫn này có hiệu quả thuyết phục cao: miêu tả vua Khải Định trong không khí hài hước rất tự nhiên, dân chủ khi cái nhìn về nhân vật xuất phát từ những người dân sống trên đất nước văn minh, dân chủ; giữ được thái độ khách quan, tránh hạ bệ một cách cần thiết và không cần cho nhân vật xuất hiện mà vẫn khắc họa được rõ nét chân dung nhân vật

+ Đồng thời vạch trần bộ mặt thật của vua xứ An Nam – một ông vua bù nhìn, sang Pháp chỉ vì lợi ích cá nhân thấp hèn, một ông vua lố lăng, kệch cỡm; không xứng đáng đại diện cho quyền lợi của nhân dân.

– Nhầm lẫn cố tình của chính phủ Pháp (nhầm tất cả những người da vàng trên đất Pháp là vua Khải Định):

+ Hạ bệ vua Khải Định bằng hình thức lố bịch hóa khách quan mà rất sinh động, ấn tượng từ nhiều góc cạnh

+ Chế giễu hành động thi hành công vụ chặt chẽ mà ngớ ngẩn của mật thám Pháp; lên án chế độ thuộc địa của thực dân Pháp – một nước tự xưng là mẫu quốc, một nước lớn dân chủ, văn minh mà lại quá hèn hạ, đê tiện.

2. Dùng hình thức viết thư

– Hình thức viết thư như một lời trao đổi với người thân, đem đến cho tác phẩm nhiều hiệu quả độc đáo:

+ Tạo thêm tính khách quan, chú ý cho tác phẩm.

+ Tạo niềm tin cho độc giả về việc đây là một câu chuyện có thật, không phải do hư cấu mà ra…

3. Nghệ thuật trào phúng

– Kết hợp chặt chẽ giọng văn hài hước, mỉa mai với lối chơi chữ tạo không khí dí dỏm, nhẹ nhàng mà không kém phần sâu sắc, tăng thêm sức thuyết phục cho tác phẩm.

– Xây dựng những mâu thuẫn gây cười nhằm tố cáo mạnh mẽ.

+ Trong hình tượng vua Khải Định: Hình ảnh thiên tử với mục đích vi hành tốt đẹp >< một tên hề với hành động lố lăng bừa bãi, một con rối trong tay thực dân Pháp.

+ Trong hình ảnh thực dân Pháp: Khai hóa văn minh, tự do dân chủ >< thi hành chính sách vô cùng tàn nhẫn với nhân dân thuộc địa, thực hiện theo dõi sát sao những người dân Việt trên đất nước Pháp.

Đừng vội bỏ qua bài 🔻 Tương Tư [Nguyễn Bính] 🔻 Sơ Đồ Tư Duy, Các Mẫu Phân Tích Hay 

Giá Trị Truyện Ngắn Vi Hành

Chia sẻ bạn đọc các Giá Trị Truyện Ngắn Vi Hành.

Giá trị nội dung

  • Tố cáo chế độ chính sách dã man, bịp bợm của thực dân
  • Lên án chính sách ngu dân, đầu độc người dân bằng thuốc phiện, rượu
  • Bản chất của những tên thực dân lừa bịp, mang danh khai hóa nhưng thực chất cướp nước
  • Tố cáo chế độ nhà tù giam cầm người yêu nước trên khắp đất Pháp

Giá trị nghệ thuật

  • Hình thức bức thư gửi cô em gái, tạo sự khách quan, tăng tính tự nhiên, chân thật cho tác phẩm.
  • Tác phẩm tiêu biểu cho bút pháp văn xuôi hiện đại.
  • Tình huống truyện độc đáo
  • Cách kể truyện tự nhiên, hóm hỉnh, kết hợp giữa kể và tả

Xem nội dung tác phẩm ✨ Nhớ Đồng [Tố Hữu] ✨ Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật

Sơ Đồ Tư Duy Vi Hành

Lưu lại ngay Sơ Đồ Tư Duy Vi Hành chi tiết.

Sơ Đồ Tư Duy Vi Hành Chi Tiết
Sơ Đồ Tư Duy Vi Hành Chi Tiết

5 Mẫu Phân Tích Vi Hành Hay Nhất 

Nhất định đừng bỏ qua 5 Mẫu Phân Tích Vi Hành Hay Nhất bên dưới.

Phân Tích Vi Hành Hay Nhất – Mẫu 1

Nguyễn Aí Quốc là một tên khác của Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc, Người đã khai sáng nền cách mạng của dân tộc, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ngoài sự nghiệp cách mạng vĩ đại của mình thì Hồ Chí Minh còn là một nhà thơ, nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam, với số lượng tác phẩm lớn có giá trị.

Vi hành là một truyện ngắn tiêu biểu cho bút pháp văn xuôi hiện đại và nghệ thuật châm biếm của Nguyễn Aí Quốc vào đầu những năm 20 của thế kỷ XX, khi Người còn hoạt động ở Pháp.

Vi hành là truyện ngắn đả kích chuyến “vi hành”nhục nhã của vị vua bù nhìn Khải Định khi y sang Pháp xem đấu xảo, dưới sự dẫn dắt của “mẫu quốc”, mà Khải Định thì lấy làm thích chí và huênh hoang, cứ tưởng đâu là chuyến đi vẻ vang và vinh dự lắm trong khi người Pháp còn chẳng một ai nhớ nổi khuôn mặt của ông ta.

Nhan đề Vi hành được đặt khi xuất bản ở Việt Nam, còn nguyên mẫu nhan đề được Nguyễn Aí Quốc đặt trong tiếng Pháp có nghĩa là “bí mật, không ai biết” chính là sự châm biếm đầy sâu cay của Người dành cho tên vua bù nhìn, lố bịch.

Năm 1923, khi mà chuyến “vi hành” của Khải Định trở thành nỗi uy hiếp cho các nhà hoạt động ở Pháp, Bác đã nhanh chóng hoàn thành tác phẩm Vi hành để dằn mặt tên bán nước cầu vinh Khải Định và lũ người man rợ tự xem là những bậc “khai hóa”, tác phẩm có sức ảnh hưởng mạnh mẽ, như một đòn chí mạngđối với bè lũ Khải Định và bọn thực dân đang lăm le tìm cách biến nước ta thành thuộc địa của chúng hoàn toàn.

Câu chuyện bắt đầu bằng cuộc buôn chuyện đầy tinh quái của hai vị khách Pháp trong tàu điện ngầm, chẳng biết có phải khuôn mặt của vua Khải Định quá phổ biến hay sao mà hai vi khách này lại toan nhầm lẫm thành một người khác (nhân vật “tôi”).

Có lẽ trong mắt người da trắng người da vàng nào cũng giống như nhau chăng và họ chẳng thể phân biệt nổi đâu là vua đâu là dân. Mặc dù thầm đoán đây là vị vua của xứ An Nam nhưng hai vị khách này chẳng kiêng dè gì mà dùng tiếng Anh để đưa ra những phán xét một cách tự nhiên mà không thèm nể mặt nhân vật chính, chắc mẩm họ khinh thường Khải Định chẳng hiểu nổi lấy một câu tiếng Anh.

Qủa thực nếu là Khải Định có lẽ ông ta cũng chẳng biết mình đang bị đem ra bàn tán như một con khỉ trong sở thú, nhưng thật không may vị khách “tôi” lại biết rất rõ tiếng anh, anh ngồi và cứ thế nghe nhừng gì họ nhận xét về Khải Định, đồng thời anh cũng hiểu ra được rất nhiều điều.

Trong cái nhìn “ngấu nghiến” của hai cặp mắt ma mãnh tò mò ấy, Khải Định hiện lên với một vẻ ngoài chẳng ra làm sao: Da vàng bủng như chanh, mũi tẹt, mắt xếch, đầu như đội cái đèn chụp, tay đeo đầy những nhẫn trông chẳng khác kiểu nhà giàu mới nổi đang cố khoe của, đã thế lại còn nhút nhát, lén la lén lút cứ như phường trộm cướp.

Và thật sự nếu cứ như những gì cặp đôi này nhận xét thì Khải Định nào có ra dáng một ông vua đang vi hành, trông chỉ thấy hình ảnh một kẻ yếu đuối bạc nhược lại thích ăn chơi, phè phỡn chẳng ra làm sao. Từ những lời phán xét có vẻ xấu tính nhưng đầy khách quan của cặp đôi người Pháp, bản chất của một vị vua như Khải Định hiện lên thật chân thực đó là sự lố lăng, lòe loẹt, và hài hước

Trên thực tế ông ta chỉ là thứ bù nhìn mua vui cho thực dân Pháp, là một con rối không có giá trị gì mấy, thân là vua nhưng chẳng có lấy một chút tôn nghiêm, thậm chí còn bị coi rẻ, nhưng dĩ nhiên Khải Định chẳng đủ tỉnh táo để nhận ra điều ấy. Thử hỏi làm sao vị vua này có thể quản lý cả một đất nước với cái khí chất yếu hèn này đây.

Từ cảnh “vi hành” đầy lố bịch của vua Khải Định, tác giả đã có sự so sánh rất hay về sự vi hành của một số vị vua nổi tiếng trong lịch sử nước ngoài. Đó là vua Thuấn của Trung Quốc cải trang làm dân cày đi dò la ý kiến của dân, vua Pi-e nước Nga đi làm thợ ở công trường nước Anh để hiểu thêm về cuộc sống của nhân dân mình.

Thế nhưng ở Khải Định thì sao, ta thấy điều gì đây? Một ông vua lấy cái cớ “vi hành” để thỏa mãn thú vui chơi, đã vi hành thì buộc phải kín đáo và bình thường nhất có thể, nhưng không Khải Định đã hoàn toàn làm ngược lại, phô trương và hợm hĩnh.

Đặc biệt cái sự “vi hành” của Khải Định chẳng đem lại một lợi ích cao cả nào cho nhân dân xứ An Nam mà cốt chỉ là để thỏa mãn cái lòng ham chơi của mình. Vậy thử hỏi Khải Định có xứng với vai trò của bậc cửu ngũ chí tôn hay không?

Thậm chí hài hước nhất là cảnh người dân nước Pháp đón tiếp Khải Định (thực ra là nhân vật “tôi” vốn bị nhận nhầm), ông ta chẳng nhận được một tí tôn trọng nào từ nơi mà ông ta xem là “mẫu quốc”, cái ông nhận được chỉ là những câu nói đầy xăm soi và sự chỉ trỏ “Hắn đấy”, “Xem hắn kìa”.

Có thể tưởng tượng ra hàng ngàn cặp mắt đang nhìn Khải Định như nhìn một con khỉ hoặc một thằng hề đang làm trò trên đất Pháp. Và càng vui hơn ( theo lời nhân vật “tôi”), khi ngay cả chính phủ Pháp cũng chẳng thể nhận ra nổi đâu là khách “quý” của họ, nhân vật “tôi” lại tiếp tục được làm vua Khải Định thêm ít lâu nữa.

Họ phái một đoàn tùy tùng đi phía sau phục vụ, mà theo lời nhân vật “tôi” thì chẳng khác nào bà mẹ hiền đang trông giữ đứa con thơ dại của mình. Nhưng chẳng phải thế đâu, thực tế thực dân Pháp đang coi Khải Định như một tên tù nhân giam lỏng mà thôi, cứ ngỡ mình vẻ vang oai hùng và được xem trọng lắm, nhưng thật ra hắn chỉ như một trò cười lố bịch, bị “mẫu quốc” xoay như chong chóng mà không hề ý thức được.

Bằng giọng văn châm biếm đầy sâu cay, nhưng cũng không kém phần hóm hỉnh, Nguyễn Aí Quốc đã khơi gợi cho người đọc nhiều suy nghĩ thú vị về vị vua bù nhìn Khải Định. Cách sáng tạo tình huống hư cấu đầy dễ thương và bất ngờ, cùng với lối ngôn ngữ tự nhiên đôi khi ngờ nghệch của nhân vật “tôi” đã đem đến cho tác phẩm những nét đặc sắc riêng.

Tác phẩm là sự đả kích nặng nề đối với vua Khải Định, đồng thời cũng vạch trần bộ mặt giả nhân giả nghĩa của bè lũ thực dân Pháp và âm mưu xâm lược đầy bỉ ổi của chúng.

Phân Tích Vi Hành Nổi Bật – Mẫu 2

Trong sáng tạo văn học của Nguyễn Ái Quốc nghệ thuật trào phúng chiếm một vị trí đặc biệt. Với nghệ thuật trào phúng Nguyễn Ái Quốc đã phơi bày bản chất tàn bạo, giả dối của chế độ thực dân Pháp. Cũng với nghệ thuật ấy. Người bày tỏ thái độ khinh bỉ đối với bọn vua quan bù nhìn bán nước cầu vinh, chỉ riêng đối với sự kiện Khải Định sang Pháp dự cuộc Đấu xảo thuộc địa.

Nguyễn Ái Quốc đã sáng tác truyện ngắn Lời than vãn của bà Trưng Trắc và vở kịch Con rồng tre lên án và chế giễu sâu cay ông vua bù nhìn. Nhân kỉ niệm một năm chuyến đi ô nhục ấy, Nguyễn Ái Quốc viết truyện ngắn Vi Hành, biến Khải Định thành đối tượng của những cuộc đàm tiếu khinh bỉ.

Vấn đề đặt ra cho tác giả là phải sáng tạo một hình thức nghệ thuật mới để không lập lại chính mình. Sự thành công của tác phẩm Vi hành đã chứng tỏ tài năng nghệ thuật dồi dào, sắc bén của nhà văn Nguyễn Ái Quốc.

Nguyễn Ái Quốc viết “Vi hành” vào đầu năm 1923 cùng với các tác phẩm khác như vở kịch Con rồng tre, truyện ngắn Lời than văn của bà Trưng Trắc, bài báo châm biếm Sở thích đặc biệt (tất cả được viết năm 1922) để lật tẩy âm mưu nổi trên.

Nghĩa là vạch trần bản chất bù nhìn tay sai dơ dáy nhất của Khải Định, nhân tiện tố cáo luôn tính chất điêu trá, bịp bợm của những danh từ “văn minh, khai hoá” nơi cửa miệng của bọn thực dân ở thuộc địa. Viết “Vi hành”, Nguyễn Ái Quốc nhằm chủ yếu vào độc giả người Pháp, trước hết là dân Pa-ri.

Vì thế phải viết bằng tiếng Pháp theo phong cách Âu châu hiện đại. Và phải viết sao cho hấp dẫn đối tượng này, nghĩa là có những sáng tạo độc đáo về nghệ thuật, đồng thời phải cài vào được những chuyện thời sự nóng hổi đang được chú ý trong sinh hoạt giải trí của người Pa-ri.

Thật vậy, nếu trong hai tác phẩm Lời than vãn của bà Trưng Trắc và Con rồng tre, Khải Định trực tiếp xuất hiện, thì ở đây, trong tác phẩm Vi hành, vua Khải Định vắng mặt. Vậy làm thế nào để cho Khải Định xuất hiện, đặng nhận lấy lời đàm tiếu nhục nhã và lời tố cáo sắc bén?

Nguyễn Ái Quốc đã dùng biện pháp hóa không thành có- biện pháp hiểu lầm, nhận lầm một người An Nam là nhà vua đi “vi hành”, để tố cáo, chế giễu một cách cay độc. Ai là người có thể nhận lầm như vậy? Đó không thể là người An Nam, thần dân của ngài. Đó chỉ có thể là người dân Pháp hiếu kì và từ lâu đã không xem vua chúa như một đấng bề trên.

Nguyễn Ái Quốc đã sáng tạo nên một đôi nam nữ người Pháp nhận lầm vua An Nam trên xe điện, và truyện ngắn mở đầu bằng cuộc tranh luận của họ. Chàng trai quả quyết đó chính là nhà vua, còn cô gái, người đã thấy nhà vua ở trường đua thì quả quyết là không phải, vì thấy thiếu mũ măng, nhẫn vàng, hạt cườm. Từ hai cách hiểu ấy mở ra hai hướng đàm tiếu: đàm tiếu về trang phục nhà vua và đàm tiếu về việc “vi hành” của ông.

Việc đàm tiếu về trang phục nhà vua do đôi thanh niên nam nữ người Pháp thực hiện. Lợi dụng cách cảm nhận ngộ nghĩnh của họ đối với cách ăn mặc xa lạ. Nguyễn Ái Quốc đã biến ông vua thành một trò cười rẻ tiền: đầu đội chụp đèn, quấn khăn, tay đeo đầy nhẫn, mũi tẹt, mắt xếch, mặt bủng như quả chanh, không một chút uy nghi, đường bệ.

Hơn thế, người bạn gái đã trông thấy nhà vua, hình dung vua là người “đeo lên người hắn đủ cả bộ lụa là, đủ cả bộ hạt cườm”, y như một mụ đàn bà. Còn người thanh niên thì xem vua như một trò vui mắt không phải mất tiền như xem “vợ lẽ nàng hầu vua Cao Miên”, hoặc “trò leo trèo, nhào lộn của sư thánh xứ Công Gô”.

Thậm chí còn tung tin Nhà hát Múa rối định ký hợp đồng thuê nhà vua biểu diễn! Thật không còn lời báng bổ, khinh miệt nào hơn đối với một đức Hoàng Thượng! Nhưng đó là sự thật: Khải Định chỉ đóng được một vai hề rẻ tiền trong lịch sử!

Việc đàm tiếu về truyện “vi hành” do kẻ bị nhận lầm – tác giả bức thư gửi cho cô em họ – thực hiện qua lời tâm sự trong thư. Đây là lời của một người An Nam, am hiểu nội tình nước Nam.

Ở đây Nguyễn Ái Quốc dùng biện pháp “quá mù ra mưa” – nhân có người nói nhà vua “vi hành”, thế là người anh họ trong thư liền liên hệ với các cuộc “vi hành” của các vị vua vĩ đại như vua Thuấn, vua Pie, và bình luận nhạo báng về cuộc “vi hành” tưởng tượng của vua Nam. Đây là một đoạn văn nữa mỉa mai sắc bén, từ nào cũng nhằm phơi trần thân phận và nhân cách hèn hạ của tên vua.

Phân Tích Vi Hành Tiêu Biểu – Mẫu 3

Đối với Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh thì sáng tạo nghệ thuật là hành vi cách mạng. Ngay những tác phẩm đầu tay viết trên đất Pháp đã mang tính chiến đấu quyết liệt vào thực dân Pháp và bọng phong kiến tay sai.

Năm 1922, Khải Định được bọn thực dân đưa sang “mẫu quốc” dự cuộc đấu xảo thuộc địa ở Macxây. Chuyến đi ô nhục này nhằm mục đích lừa dối thực dân Pháp, khẳng định bọn thực dân xâm lược là những “bậc” khai hóa. Mục đích chính của chúng là kêu gọi các nhà đầu tư Pháp đổ tiêng vào Đông Dương.

Những người yêu nước Việt Nam đã phản đối, lên án chuyến Tây nhục ngã của vương quốc An Nam. Và hàng loại các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc đã ra đời như: “Lời than vãn của Bà Trưng Trắc”, “Sở thích đặc biệt”, “Con rồng tre”…

Năm 1923, Khải Định đã về nước nhưng bóng ma của hắn vẫn gây bất lợi cho các nhà hoạt động cách mạng ở Pháp. Bác viết “Vi hành” là một đòn chí tử, hạ gục tên vua bù nhìn bán nước cũng như bọn thực dân pháp đang đeo mặt nạ “khai hóa” kia.

Trước hết chúng ta hãy tìm hiểu tên của tác phẩm này. Trong tiếng Pháp thì tên tác phẩm này có nghĩa là không ai biết, dùng tên giả. Nguyễn Ái Quốc muốn ngụ ý châm biếm rằng Khải Định ứ tưởng người Pháp kính trọng y lắm, nhưng thật sự thì chẳng ai biết mặt, biết tên y cả.

Dịch giả Phạm Huy Thông đã chọn một cái tên dịch ra tiếng Việt rất thích hợp với dụng ý của Bác, đó là “Vi hành”. Nghĩa của cái tên này có ba vấn đề cần phải chú ý. Thứ nhất, người vi hành phải là vua chúa, những người có quyên uy trong xã hội.

Điều thứ hai là những bậc vua chúa ấy phải cải trang, cải danh, phải đi vào trong sinh hoạt của quần chúng. Còn nét nghĩa thứ bac ho ta hiểu vi hàn gắn với những mục đích cao đẹp. Sauk hi tìm hiểu những điều mắt thấy tai nghe, những bậc vua chúa ấy thường đưa ra những chính sách phù hợp với quyền lợi của nhân dân.

Còn quốc vương An Nam thì sao? Ngay trong phần bình luận của nhân vật “tôi” thì ta đã thấy sự đối lập giữa những người vi hành thật và giả. Nhân vật “tôi” đã dẫn ra hai bằng chứng về những đấng minh quân, một người ở Phương Đông, một người ở Phương Tây, một người ở trong truyền thuyết, một người bằng xương bằng thịt rất nổi tiếng thời hiện đại.

Đó là vua Thuấn người đã từng mặc áo tơi đi cày với nông dân; đó là vua Pie, người đã từng làm công nhân ở các công xưởng nước Anh. Khải Định là vị hoàng đế của chúng ta – cùng vi hành đấy, ngài đã sang Pháp. Có phải chăng ngài đang theo bước vua Thuấn và vua Pie để làm một vị minh quân sáng suốt?

Không! Mục đích vi hành của ông vua này là để thỏa mãn những thú vui bản thân, để thực hiện những hành vi ám muội. Nhân vật “tôi” đã gọi chuyến đi của Khải Định là “nếm thử cuộc đời của các cậu công tử bé”. Đó là một kẻ đang tập tành thói ăn chơi bừa bãi bằng chính những đồng tiền xương máu của người dân An Nam.

Như vậy, tên truyện “Vi hành” cho người đọc một tư duy ngược, một vi hành trong ngoặc kép. Cách thức tạo liên tưởng là một thủ pháp châm biếm rất sắc sảo vốn được người phương Tây ưa dùng trong văn chương trào phúng.

Điều đặc sắc thứ hai của “Vi hành” chính là Nguyễn Ái Quốc đã sáng tạo ra một loại những chuối tình huống nhầm lẫn.

Quả thật, Bác chưa bao giờ tự nhận mình là nghệ sĩ. Nhưng những sáng tác của Bác đã bộc lộ cho ta thấy tư cách của một người nghệ sĩ vĩ đại. Tác giả Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã tạo ra cho mình một phong cách rất độc đáo, đó chính là yếu tố “kí” ở trong một thiên truyện. Trong tác phẩm “Vi hành” này thì nửa đầu là một truyện ngắn đích thực nhưng đến phần sau, khi chất “kỉ” quen thuộc của Người lại xuất hiện và cuốn hút người đọc.

Bác đã vẽ ra cho chúng ta thấy ở trong một toa tàu điện ngầm vắng khách để nói về tình huống nhầm lẫn thứ nhất. Đôi tình nhân trẻ người Pháp ấy ngồi canh bên nhân vật “tôi” mũi tẹt, da vàng, để phiếm đàm về quốc vương An Nam. Và “tôi” đã ghi lại cho cô em trong một bức thư dường như toàn bộ sự thật mà không hề thêm bớt.

Câu chuyện về Khải Định, sự kiện Khải Định sang nước Pháp đã được bọn quan thầy tô son trát phấn, làm rùm beng ở Việt Nam. Thì khi đến nước Pháp, thảm hại thay nso chỉ là một câu chuyện phiếm. Cặp tình nhân đang nói chuyện về vua mà lại sử dụng cách xưng hô hết sức phạm thượng.

Chàng trai khẳng định “Hắn đấy!” mà không một chút sợ sệt. Pháp là một đất nước dân chủ cộng hòa, vua chúa đối với thanh niên chỉ là những đồ vật cũ lỗi thời. Nó kích thích sư tò mò hơn là sự sùng bái.

Cuộc nói chuyện đã diễn ra rất tự nhiên, chi tiết gây ấn tượng đầu tiên chính là “cái chụp đèn” ngài đã “chụp lén đầu quấn khăn”. Thực ra đây là cái nón chóp, một biểu hiện quyền uy tuyệt đối của vua chúa phương Đông. Nhìn thấy cái nói chóp ấy là nhìn thấy Thiên tử.

Nhưng khổ thay, thanh niên người Pháp lại không hề biết tới cái nón chóp biểu hiện quyền uy này. Họ không hiểu cái vật Khải Định đội trên đầu là gì. Ở một thủ đô văn minh, tráng lệ như Pari thì cũng không kiếm đâu ra cái nón nào đặc biệt đến như vậy. Vì thế, đôi tình nhân ấy đã nghi Khải Định đang đội cái chóp đèn ở trên đầu.

Đức hoàng thượng này quả thật rất biết cách gây tò mò, gây cho người ta những cảm nhận thú vị. Nhưng hình tượng cái chụp đèn còn mang ý nghĩa châm biếm thâm độc hơn nữa! Dưới cái chọp đèn bình thường là cái bóng đèn thủy tinh, đến thời hạn thì phải thay. Cái chụp đèn này rất đặc biệt vì phía dưới nó là… cái đầu của Khải Định.

Đặt ra một sự so sánh thật hài hước mà thấm thía này, phải chăng Bác cũng ngụ ý nói rằng quốc vương An Nam cũng như cái bóng đèn thủy tinh không hơn không kém. Không sử dụng được nữa thì sẽ bị bọn thực dân Pháp hạ xuống rồi vứt đi không thương tiếc! Chỉ qua có một chi tiết cái chụp đèn mà bộ mặt bán nước bù nhìn của Khải Định đã bị vạch trần thật đích đáng!

Lâu nay, nhiều ý kiến phân tích cho rằng cách nhìn của đôi tình nhân trẻ người Pháp về gương mặt Khải Định chứa đựng sự phân biệt chủng tộc. Nhưng chúng ta hãy thử tìm hiểu đôi chút về khoảng thời gian sau chuyến du Tây của ông vua này.

Sau khi về nước (vào năm 1923) thì đến năm 1924, Khải Định đã tổ chức sự kiện mừng thỏ. Và đến năm 1925 – từ là chi một năm sau – hắn đã qua đời. Như vậy, đôi mắt tò mò tinh quái của đôi tình nhân kia (thực chất là đôi mắt của Nguyễn Ái Quốc) đã cho ta thấy được hiện tình bệnh hoạn của ông vua sắp chết non này.

Quả thật, qua chi tiết cái chụp đèn, ta thấy Khải Định là người đã lấy cái uy quyền của mình để làm trò lạ mắt cho người Pháp. Còn những nét trên gương mặt Khải Định với “cái mũi tẹt”, “đôi mắt xếch”, “cái mặt bủng như vỏ chanh” đã miêu tả quá rõ thể chất yếu ớt, bạc nhược của hắn.

Hắn lo cái thân mình chưa xong mà đòi chèo lái con thuyền dân tộc. Mà thật ra Khải Định cũng đâu có ý định chèo lái cho vận mệnh nước nhà. Hắn giữ ngôi báu ấy chỉ vì mục đích ăn chơi, hưởng lạc của chính bản thân hắn.

Phần chân dung còn lại của tên vua bạc nhược ấy được nhìn qua cặp mắt hết sức rành ròi thời trang cua cô gái Pari. Hắn đã đeo lên người “đủ cả bộ lụa là”, “đủ cả bộ hạt cườm”. Bộ dạng kì lạ của hắn khiến cho người Pháp phải bật cười. Quá quắt hơn nữa cả mười ngón tay của hắn “đeo đầy những nhẫn”. Than ôi! Khải Định thật sự không còn nhận dạng của một ông vua.

Cô gái Pari đã coi hắn như mọt hình nhân biểu diễn thời trang, cái gì cũng được tính toán chăm chút, đủ bộ. Nhờ tất cả các bộ trang sức ấy đều gây nên sự tò mò đặc biệt, sự phản cảm đặc biệt. Càng không hiểu được thì đôi tình nhân Pháp, thì người Pháp càng có khuynh hướng nhìn Khải Định như một trò chơi.

Cuối cùng, tính cách của nhân vật trào phúng Khải Định được lột tả qua việc làm, hành động của y. Cô gái đã nhìn thấy y ở trường đua ngựa với điệu bộ “nhút nhát”, “lúng ta lúng túng như một kẻ dân quê lần đầu tiên được nhìn thấy chốn thị thành.

Hắn đang tập tành ăn chơi ở Pari, và thảm hại hơn nữa, hắn chỉ là một tên “công tử bé” phải tập theo thói ăn chơi trác tang của những bậc đàn anh. Khải Định không là vua không được là một người dân bình thường, mà ngay cả trong lĩnh vực cờ gian bạc lận hắn cũng không có đủ tự tin để làm một tay ăn chơi thực thụ.

Còn chàng trai thì thuyết phục người bạn gái của mình, rằng Khải Định đang ngồi trước mặt hắn, hắn đang đi vi hành, còn các ông quan bà kiếc đi theo đã bị “gửi tuốt ở kho hành lí” để ông vua này “đi chơi vi hành”. Lại một chi tiết châm biếm thật hài hước, sâu sắc.

Khải Định đi vi hành mà chàng trại lại nói là “đi chơi vi hành” vậy tức là hắn đang đi chơi lén. Quan lại triều đình phong kiến đi theo chỉ là những đồ vật, những “hành lí” mang theo của Khải Định. Còn “vị” vua An Nam này thực ra cũng chỉ là một đồ vật được vặn dây cót sẵn mà thôi.

Mà thâm sâu hơn nữa, tác giả đã thông qua cuộc nói chuyện phiếm của đôi thanh niên này mà phác họa lên sự đánh giá của dư luận Pháp đối với ông vua dị hơm này. Thông qua câu nói của chàng trai “nghe nói ông bầu Nhà hát Múa rối có định kí giao kèo thuê đấy…” cũng đủ để ta hiểu Khải Định trước mắt người Pháp chỉ là một trò cười để mua vui.

Hắn sẵn sàng thay thế những con rối lòe loẹt, ngộ nghĩnh để làm cho con rối “sống” cho người khác giật dây. Khải Định – một ông vua uy quyền – trước mặt người dân An Nam thì khi sang Pháp hắn lại là một kẻ có thân phận thấp hèn nhất, phải bán mình đê mua vui cho thiên hạ. Mà tệ hại hơn, hắn không phải là một nghệ sĩ hài như Saclô, mà chỉ là một con rối cho người khác giật dây. Như vậy, giá trị của Khải Định dưới ngòi bút của Nguyễn Ái Quốc có cứ hạ thấp xuống dần.

Từ một ông vua thích khoe khoang, chưng diện đến lố lăng, từ một ke bạc nhược yếu ớt bệnh hoạn, từ một tên “công tử bé” giờ trở thành một con rối mua vui không chút tự do.

Nhưng thực sự, trên phương diện chính trị thì Khải Định đã là một con rối. Một con rối trong vai vua bù nhìn không nhất thiết là phải bán mình làm rối. Vậy phải chăng động cơ khiến hắn phải làm như vậy là vì cần có tiền để vào trường đua ngựa, vào những “hộp đen”…. Thật là hèn kém, nhục nhã…!

Xã hội Pháp nhìn Khải Định như môt món đồ chơi. Họ cho rằng hắn rất có ích cho họ. Vì sao vậy? Bởi vì khi Khải Định chưa tới thì người Pari đang “đói” những tin “thời sự” giật gân. “Cái lò ở Giăngbe đã bán chặt ra từng khúc thì không thu hút được công chúng lắm…”.

Và thật may mắn cho họ, “đúng lúc đó thì có một anh vua” đã đến với đất Pháp để mua vui cho họ. Họ tìm hiểu Khải Định bởi tính hiếu kì, quan tâm tới Khải Định cũng như quan tâm những chuyện hình sự vậy. Khải Định thật là một món đồ chơi thú vị cua người Pháp.

Thế còn giá trị tiền bạc của món đồ chơi ấy thì sao? Đôi thanh niên người Pháp đã có một bảng giá trị so sánh rất đặc biệt. Họ phải trả tới nghìn rưỡi Phrăng để xem vợ lẽ nàng hầu của Cao Miên, xem trò leo trèo nhào lộn của bọn sư thánh xứ Cônggô. Còn hôm nay thì họ “có mất tí tiền nào đâu mà được xem vua đang ngay cạnh”. Như vậy Khải Định là một món đồ chơi miễn phí cho người Pháp.

Hai tình huống nhầm lẫn liên tiếp theo đã được nhân vật “tôi” kể thoáng qua cho cô rm họ ở chốn quê nhà. Sự “thật thà, khờ khạo” của “tôi” đã cho chúng ta cái logic ngược. Chính người trong cuộc đã kể về sự đón tiếp nồng nhiệt của người Pháp khi thấy một người “mũi tẹt”, “da vàng”, Những tiếng “hắn đấy!” hay “xem hắn kìa!” là những lời chào mừng kín đáo và kính trọng mà chúng ta thường gặp dọc đường”.

Dĩ nhiên là mọi người đã nhầm lẫn nhân vật “tôi” mà cũng như bất cứ người dân Việt Nam nào mà họ thấy là Khải Định. Và chính ông vua An Nam ấy, với người Pháp chỉ là một kẻ tầm thường, cần bài xích.

Trường hợp nhầm lẫn thứ ba là chính quyền quyền thực dân nhầm lẫn “tôi” là Khải Định”. Vì thế “các vị ân cần theo dõi tôi chẳng khác bà mẹ hiền rình con thơ chập chững bước đi thứ nhất (…) các vị bám lấy đế giày tôi, dính chặt với tôi như hình với bóng”.

Thông qua chi tiết nhầm lẫn này, Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần bộ mặt thật của bọn thực dân cướp nước. Chúng đã cho mật thám theo dõi những người yêu nước Việt Nam trên đất Pháp như hình với bóng. Chúng đã lừa dối nhân dân Pháp.

Ngay trên chính quốc mà chúng cũng không ngần ngại thực hiện những hành vi ám muội. Chúng đã vi phạm hiến pháp, tước đoạt quyền tự do của con người ngay tại thủ đô Pari dân chủ, văn minh nhất châu Âu thời bấy giờ.

Sở dĩ tình huống của truyện độc đáo như vậy là vì Nguyễn Ái Quốc đã tạo nên một giọng điệu rất độc đáo thông qua hình thức một bức thư. Thực ra dùng thư để sáng tạo văn chương không phải là trường hơp hiếm hoi trong văn chương phương Tây. Nhưng với tư cách là một tác phẩm của dòng văn học cách mạng Việ Nam. “Vi hành” đã đóng góp vào văn chương hiện đại một hình thức mới được du nhập từ phương Tây.

Thư từ vốn thuộc phong cách ngôn ngữ sinh hoạt hằng ngày trong giao tiếp. Đặc điểm chính cua nó là rất tự nhiên, rất nhiều giọng điệu, nhiều đề tài. Nguyễn Ái Quốc đã biết lợi dụng vào đặc điểm này của thư từ để tạo ra một cảm giác thật cho một chuyện rất bịa của mình. Mâu thuẫn này đã làm cho hình tượng Khải Định trở nên đặc sắc và nhiều ý nghĩa.

Ta bắt gặp ở đây, những lằn roi châm biếm mỉa mai, quất thẳng vào mặt Khải Định theo phong cách châm biếm phương Tây. Ta bắt gặp cái giọng điệu có vẻ ngờ nghệch, cả tin của nhân vật “tôi” nhưng thực ra đó là sự cả tin giả vờ của một người hiểu đến chân tơ kẽ tóc đối tượng mình châm biếm.

Ngôn ngữ trong văn bản đã tạo nên một hiệu ứng ngược cho độc giả… Cũng chính nhờ giọng điệu thư từ, ta nghe được tiếng nói của trái tim người viết bồi hồi xao xuyến với quê nhà, với những kỉ niệm thời ấu thơ.

“Vi hành” là một tác phẩm văn chương đích thực, mặc dù người viết chỉ coi đó là một hành vi cách mạng. Nếu không có một trái tim yêu nước, không có lòng căm thù bọn phong kiến tay sai, bọn thực dân xâm lược, không có sự phẫn uất nhục nhã khi chứng kiến cảnh ô nhục của Khải Định thì sẽ không có tác phẩm “Vi hành” ra đời.

Tuy nhiên cũng cần khẳng định, để làm nên thành công rực rỡ của tác phẩm “Vi hành” một phần là do sự hiểu biết sâu sắc về văn học phương Tây và một năng khiếu trời phú cho Nguyễn Ái Quốc. Tác giả đã sáng tạo được những phần nữa là tình huống nhẫm lẫn, vẽ nên bức chân dung trào phúng độc đáo về Khải Định. Tác phẩm được viết năm 1923, nhưng chúng ta thấy hoàn toàn có lí khi xếp nó vào dòng văn học cách mạng Việt Nam 1930 – 1945.

Phân Tích Vi Hành Ấn Tượng – Mẫu 4

Nguyễn Ái Quốc là một nhà văn, nhà thơ, nhà Cách mạng vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Truyện kí của Người được coi là một bản ghi chép lịch sử không chỉ chính xác, bao quát mà còn có tính mỉa mai, châm biếm thời đại.

“Vi hành” là một trong số những tác phẩm truyện ngắn hay nhất, được viết bằng tiếng Pháp. Trong đó, ngòi bút nghệ thuật của tác giả đã vạch trần bản chất tay sai, bù nhìn của vua Khải Định và những thủ đoạn xảo trá từ phía thực dân xâm lược.

Sau thế chiến thứ nhất năm 1918, Pháp ra sức vơ vét, bóc lột thuộc địa nhằm bù đắp cho nền kinh tế kiệt quệ hậu chiến, đồng thời rêu rao trên toàn thế giới về tư tưởng “khai sáng”, “bảo hộ” đối với những quốc gia bị chúng xâm lược. Nhan đề “Vi hành” trong tiếng Pháp là “Incognito”, nghĩa là bí mật, ẩn danh.

Cái tên mang nhiều ý mỉa mai nhằm châm biếm vị trí bù nhìn của vua An Nam, xét vào bối cảnh truyện lại thêm hấp dẫn, cuốn hút. Hướng tới đối tượng độc giả là công chúng Pháp, tác phẩm sử dụng lối dùng từ mang âm hưởng châu Âu hiện đại cùng cách nói ẩn dụ nhiều tầng nghĩa, lại dễ hiểu, dễ ngấm, gây ra tiếng cười chua xót mà duyên dáng, cốt truyện dí dỏm, hài hước, lấy bối cảnh chuyến Pháp du của vua Khải Định để tố cáo sự gian xảo của bộ máy thực dân cai trị đương thời.

Câu chuyện kể về chuyến viếng thăm của vua Khải Định tới nước Pháp. “Vi hành” là hành động vua cải trang thành dân thường để đi tìm hiều đời sống thực trạng của nhân dân nhằm tiếp thu và cải tổ bộ máy cai trị.

Ở đây, vua An Nam “vi hành” tới tận Pháp để chứng kiến cơ sở vật chất và điều kiện sống của dân mình dưới sự cai trị của ngài, một tình huống vừa nực cười vừa không tưởng trong nghệ thuật xây dựng tình huống truyện của Nguyễn Ái Quốc, cốt để nói lên cái lố lăng, kệch cỡm của xã hội.

Mở đầu tác phẩm là lời chú thích: “Trích Những bức thư gửi cô em họ do tác giả tự dịch từ tiếng An Nam”, tính nghệ thuật độc đáo được sử dụng rất táo báo, khơi gợi sự tò mò từ phía độc giả. Người đọc băn khoăn không hiểu nội dung của bức thư này là gì, liệu là một bức thư thăm hỏi, hay một bức thư đặc biệt, thậm chí là một bức thư tình không đoan chính đúng theo cái tên gọi của tác phẩm: Bí mật.

Thực tế như một cú lừa ngoạn mục đánh vào tâm lý tác giả bởi nội dung và cốt truyện hoàn toàn không liên quan đến tên gọi hay lời tựa, đã cho thấy một ngòi bút trí tuệ, thông thái, thu hút độc giả một cách khéo léo và duyên dáng.

Nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Ái Quốc thể hiện ở thủ pháp mượn lời nhân vật để nói lên chính tư tưởng của mình. Thân là một người dân An Nam, Nguyễn Ái Quốc không được phép “phạm húy”, không được bôi nhọ, phê bình ông vua của nước mình, vì vậy, Người mượn lời một cặp đôi trai gái người Pháp trên chuyến tàu để làm cái cớ đả kích.

Tạo tình huống nhầm lẫn để đôi trai gái nhầm tác giả với vua Khải Định, lấy lời bàn tán, đối thoại của họ đã dần dần mở ra một tình huống trái khoáy. Tác giả kể lại câu chuyện nhầm lẫn ấy dưới điệu bộ bình thản, đôi trai gái người Pháp tưởng vị khách phương Nam kia không hiểu tiếng Pháp nên thoải mái đánh giá, bàn tán.

Họ cho rằng ông vua xứ Nam đi cùng chuyến tàu với họ, đang đi vi hành xem cuộc sống người dân như thế nào, đó là điều rất thú vị, đáng để bình luận. Mượn cách nhìn của nhân vật thứ ba vừa để tạo tính khách quan, bao quát, vừa để tấu hài, cho rằng việc một ông vua nọ sang nước họ thăm thú chẳng qua cũng chỉ là chuyện phù du, chuyện hài hước.

Chân dung vua Khải Định cũng từ lời đối thoại của hai nhân vật hiện ra rõ nét. Người Tây khó phân biệt được khuôn mặt khác nhau của người châu Á nên họ mặc sức bình phẩm từ dáng vẻ đến hành vi. Nét vẽ hết sức phóng túng, kệch cỡm với váy chẳng ra váy, quần không thành quần, trang sức đầy những vòng nhẫn thừa thãi, đội “cái chụp đèn chụp lên cái đầu quấn khăn”, khuôn mặt bủng “như vỏ chanh”, “mũi tẹt, mắt xếch”.

“Hắn còn làm mình bật cười hơn nữa cơ lúc hắn đeo lên người hắn đủ cả bộ lụa là, đủ cả bộ hạt cườm”, “hôm nay chúng mình có mất tí tiền nào đâu mà được xem vua đang ngay cạnh? Nghe nói ông bầu nhà hát Múa rối có định kí giao kèo thuê đấy”. Đối với những người dân Pháp, vua An Nam chẳng qua chỉ là một trò cười, một tên “múa rối” chẳng khác gì rạp xiếc họ thường đi xem.

Cách phác họa lố bịch về vẻ bề ngoài cốt để nói cái tha hóa từ trong bản chất. Khải Định tự mình trang trí cho mình những món đồ quê mùa, xấu xí, thể hiện lề thói vô độ, muốn nếm thử cuộc đời của các công tử bé, đường đường là thân vua có đầy đủ cung tần mỹ nữ, cao lương mĩ vị nhưng vẫn tập tành cách ăn chơi kiểu phương Tây.

Thực chất, Khải Định chỉ là ông vua bù nhìn, một con rối trong tay thực dân, dưới mắt người Pháp chỉ là thứ đồ chơi mua vui khi vốn giải trí tại thủ đô Paris ngày càng hạn hẹp, chỉ xứng đáng đặt ngang hàng với trò nhào lộn, leo trèo, có tiền mua vé là vào xem được.

Không chỉ dừng lại ở sự nhầm lẫn của cặp đôi trai gái, tác giả còn mở rộng ra nhằm châm biếm chính sách của thực dân Pháp. Bút pháp nghệ thuật sâu cay, đặc sắc, nhẹ nhàng mà thâm sâu.

Đối với dân chúng Pháp, “tất cả những ai có màu da vàng đều trở thành Hoàng đế ở Pháp”, thực tế, Pháp mời Khải Định sang thăm nhưng hoàn toàn không nhận ra ai thực sự là vua nên đối đãi với tất cả người An Nam trên đất Pháp như vua chúa, tất cả đều là thượng khách, ai ai cũng được “hộ giá tuốt”. Chuyện tưởng như đùa, như bịa đặt để gây hài nhưng lại vô cùng thực tế.

Chuyến “vi hành” của Khải Định không hề công khai mà vô cùng lén lút, ám muội nên chính phủ Pháp mới lầm tưởng. Giọng nói mỉa mai không chỉ nhắm vào tên vua bù nhìn mà còn lên án cả xã hội thực dân giả tạo, xảo trá, thật giả lẫn lộn. Cái hay ở ngòi bút nghệ thuật của Nguyễn Ái Quốc là không hô hào, không bóc mẽ trực tiếp mà uyển chuyển, vừa trào phúng hài hước, vừa thâm thúy, sâu cay.

Bằng lối viết uyển chuyển, xây dựng tình huống mới lạ, độc đáo, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chính trị và văn học, hệ thống ngôn từ giàu trí tuệ, súc tích, ngắn gọn và đặc biệt là tinh thần mỉa mai, châm biếm, tác giả đã vạch trần bộ mặt hèn hạ, tàn nhẫn của vua Khải Định cũng như chính sách tàn bạo của Pháp đối với các nước thuộc địa. Không chỉ tố cáo sâu cay, tác phẩm còn là một dấu mốc chói lọi trong sự nghiệp văn chương của Nguyễn Ái Quốc với thể loại truyện ngắn chính trị.

Phân Tích Vi Hành Đặc Sắc – Mẫu 5

Vi hành được sáng tác vào dịp vua bù nhìn Khải Định của triều đình nhà Nguyễn xin thực dân Pháp cho sang Pháp để dự cuộc triển lãm thuộc địa tổ chức ở Mác-xây (Marseille). Trong thời gian này, dư luận cho rằng Khải Định có một số việc làm ám muội. Bất bình trước thái độ và hành động làm tổn thương tới quốc thể ấy, Nguyễn Ái Quốc viết truyện này nhằm mục đích lột trần chân tướng của một tên vua bán nước.

Cái độc đáo của truyện thể hiện ngay ở cách đặt tên với hàm ý giễu cợt, đả kích nhẹ nhàng mà thâm thuý, sâu cay.

Vi hành vốn dĩ là cách gọi những cuộc đi kín đáo của các bậc vua chúa ngày xưa, mục đích là được tai nghe mắt thấy hiện thực đời sống dân chúng, từ đó có chính sách cai trị đúng đắn hơn, hợp lí hơn. Nhưng ở đây tác giả đã lồng cho Vi hành một ý nghĩa hoàn toàn ngược lại: để ám chi những cuộc đi lén lút, bất chính, cốt thỏa mãn những lạc thú cá nhân của Khải Định.

Tác giả khôn khéo trình bày truyện dưới hình thức một bức thư gửi cho cô em gái. Thực ra đây là truyện hư cấu một trăm phần trăm. Nhưng cái tài của tác giả là bịa mà như thật, còn hơn cả sự thật. Toàn bộ câu chuyện là một xâu chuỗi những sự hiểu lầm ngày càng tăng. Đôi trai gái người Pháp lầm người thanh niên da vàng ngồi cạnh là Khải Định.

Dân chúng Pháp lầm tất cả những người da vàng, mũi tẹt, mắt xếch trên đất Pháp là vua xứ An Nam. Đến ngay chính quyền Pháp cũng lẫn lộn không phân biệt đâu là Khải Định, đâu là kẻ đang bị theo dõi (Nguyễn Ái Quốc) nên lầm tưởng mà đối xử như với vua xứ An Nam. (Nguyễn Ái Quốc đi đâu chúng cũng cho tay sai đi theo đến đó).

Sự thật thì không bao giờ có chuyện nhầm lẫn buồn cười như vậy. Tác giả đã khéo bịa ra các tình huống như thật dưới hình thức như đùa. Nguyên nhân của xâu chuỗi nhầm lẫn tai hại trên là do các cuộc vi hành của Khải Định.

Qua lời trò chuyện của đôi trai gái người Pháp, người đọc có thể hình dung ra Khải Định với những nét lố bịch: mặt mũi ngây ngô, điệu bộ lúng ta lúng túng, quần áo, mũ mãng lố lăng… Thái độ của dân chúng Pháp là khinh bỉ, coi thường hắn.

Để cho câu chuyện đạt được hiệu quả châm biếm, đả kích cao nhất, tác giả đã xen kẽ những đoạn đối thoại của đôi thanh niên Pháp với những đoạn kể chuyện cho cô em họ nghe. Nhân vật cô em họ cũng là sản phẩm của hư cấu, là phương tiện để Nguyễn Ái Quốc trực tiếp tố cáo tội lỗi của tên vua bù nhìn Khải Định đã thừa lệnh thực dân Pháp đầu độc nhân dân ta bằng rượu và thuốc phiện, đẩy họ vào tình trạng sống khốn cùng, bế tắc.

Sự độc đáo còn thể hiện ở cách dẫn chuyện dí dỏm của tác giả. Ngòi bút biến hóa linh hoạt, hấp dẫn, văn ngắn gọn và súc tích, hàm chứa nhiều ý nghĩa. Chất hài hước trong truyện vừa mang tính sôi nổi của phương Tây vừa mang tính thâm trầm, sâu sắc của phương Đông.

Truyện ngắn Vi hành chứng minh cho sức tung hoành của ngòi bút đầy sáng tạo Nguyễn Ái Quốc. Truyện được viết nhằm mục đích chính trị rõ ràng nhưng vẫn là một tác phẩm văn chương đích thực. Nó xứng đáng tiêu biểu cho phong cách văn xuôi Nguyễn Ái Quốc.

Nhất định đừng bỏ qua ❤️️ Lai Tân [Hồ Chí Minh] ❤️️ Nội Dung Tác Phẩm, Nghệ Thuật 

Viết một bình luận