Tương Tư [Nguyễn Bính] ❤️️ Nội Dung, Nghệ Thuật, Phân Tích Bài Thơ ✅ Giới Thiệu Đến Bạn Đọc Tuyển Tập Sơ Đồ Tư Duy, Các Giá Trị.
NỘI DUNG CHÍNH
Nội Dung Bài Thơ Tương Tư
Nguyễn Bính được biết đến với hồn thơ mang bản sắc gần gũi với các khúc hát dân ca, ca dao cùng giọng thơ dịu nhẹ, ngọt ngào, thắm thiết. Bài thơ “Tương tư” in trong tập thơ “Lỡ bước sang ngang” là tác phẩm thể hiện rõ phong cách thơ Nguyễn Bính. Sau đây là Nội Dung Bài Thơ Tương Tư.
Tương tư
Tác giả: Nguyễn Bính
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người.
Gió mưa là bệnh của giời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi…
Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho!
Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?
Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
Tặng bạn trọn bộ 👉 CHÙM THƠ NGUYỄN BÍNH
Về Nhà Thơ Nguyễn Bính
Tiếp tục cùng khám phá những thông tin chính Về Nhà Thơ Nguyễn Bính nhé.
- Nguyễn Bính (1918 – 1966), tên khai sinh là Nguyễn Trọng Bính.
- Ông sinh ra trong một gia đình nhà Nho nghèo.
- Quê ở làng Thiện Vịnh, xã Đồng Động (nay thuộc xã Công Hòa), huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
- Năm 13 tuổi, ông đã biết làm thơ. Đến năm 19 tuổi, ông nhận được giải khuyến khích về thơ của Tự lực văn đoàn.
- Năm 1943, Nguyễn Bính vào Nam Bộ rồi ở lại tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp.
- Năm 1954, ông tập kết ra Bắc, tham gia công tác văn nghệ và báo chí ở Hà Nội, Nam Định.
- Thơ của Nguyễn Bính mang đậm phong vị dân gian, đem đến cho người đọc những hình ảnh thân thương của quê hương đất nước và tình người đằm thắm, thiết tha.
- Một số tác phẩm tiêu biểu:
- Trước Cách mạng: Tâm hồn tôi (1937), Lỡ bước sang ngang (1940), Hương cố nhân (1941), Mười hai bến nước (1942), Cây đàn tỳ bà (truyện thơ – 1944).
- Sau Cách mạng: Ông lão mài gươm (1947), Gửi người vợ miền Nam (1955), Tiếng trống đêm xuân (truyện thơ – 1958), Cô Son (chèo – 1961), Đêm sao sáng (1962), Người lái đò sông Vị (chèo – 1962)…
Xem thêm 👉 Thơ 7 Chữ Nguyễn Bính
Về Tác Phẩm Tương Tư
Về Tác Phẩm Tương Tư, bài thơ thuộc thể thơ lục bát. Thể thơ lục bát mang lại cảm giác nhẹ nhàng, sâu lắng, dễ đi vào lòng người và sức lay động trở nên to lớn hơn.
Bài thơ “Tương tư” rút trong tập thơ “Lỡ bước sang ngang” là một trong những sáng tác tiêu biểu cho phong cách thơ “chân quê” của Nguyễn Bính. Bài thơ đã ca ngợi vẻ đẹp của một tình yêu đôi lứa chân quê, mộc mạc mà chân thành, giản dị.
Xem thêm 👉 Mùa Xuân Xanh [Nguyễn Bính]
Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Tương Tư
Cùng tìm hiểu thông tin về Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Tương Tư nhé.
Bài thơ Tương tư được rút trong tập Lỡ bước sang ngang, tiêu biểu cho phong cách “chân quê” của nhà thơ.
Nhà thơ nhạy cảm với thời đại đầy biến động, đặc biệt là sự xáo trộn của văn chương, ông thể hiện sâu sắc nỗi day dứt không yên của tâm hồn thiết tha với những giá trị cổ truyền đang có nguy cơ bị mai một.
Vì thế, Nguyễn Bính đã đào sâu, tích hợp và phát huy một cách xuất sắc những truyền thống dân gian trong sáng tạo Thơ mới. Thơ ông mang đậm chất quê, hồn quê trong cả nội dung và hình thức, là sự hòa quyện giữa giọng điệu quê, lối nói quê, lời quê.
Bài thơ nổi tiếng 👉 Chân Quê Nguyễn Bính
Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Tương Tư
Bật mí bạn đọc Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Tương Tư.
Nhan đề bài thơ là “Tương tư” ám chỉ một trạng thái của con người, tương tư có nghĩa là nhớ nhung, nhưng lại không đơn thuần là nhớ nhung mà còn chứa đựng nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau nữa.
Khoảng cách về không gian, thời gian chính là cái cớ để tương tư. Cho nên tương tư là khao khát, là nỗ lực vượt không gian và chiến thắng thời gian để được gần kề.
=> Dạng thức đa dạng, phức tạp nhất nhưng cũng sống động nhất của tình yêu.
Tặng bạn 🌷Thơ Tình Nguyễn Bính ❤️️ 16 Tuyệt Phẩm Bất Hủ Nhất
Giá Trị Bài Thơ Tương Tư
Những Giá Trị Bài Thơ Tương Tư bao gồm:
Giá trị nội dung
- Bài thơ là tiếng lòng về một tình yêu trong sáng, đơn phương, mạnh mẽ.
- Thế hiện tình cảm chân thành, thấm đượm hồn quê Việt với nhiều nét đẹp văn hóa dân gian.
Giá trị nghệ thuật
- Thể thơ lục bát: đậm đà tính dân tộc, mang tính chất biểu cảm nồng nàn.
- Ngôn ngữ: dung dị, hồn nhiên, dân dã nhưng vẫn đậm chất lạng mạn, thơ mộng.
- Hệ thống ẩn dụ, hoán dụ đặc sắc và sáng tạo.
- Hình ảnh sóng đôi: trầu – cau, bến – đò, hoa – bướm, thôn Đoài – thôn Đông; quan niệm về tình yêu gắn bó, thủy chung…
- Thi liệu dân gian: Bài thơ mang vẻ đẹp chân quê, tiêu biểu cho phong cách thơ Nguyễn Bính.
Bố Cục Bài Thơ Tương Tư
Bố Cục Bài Thơ Tương Tư gồm 2 phần:
- Phần 1. Từ đầu đến “Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau”: Nỗi niềm tương tư của chàng trai.
- Phần 2. Còn lại: Ước vọng đôi lứa của chàng trai.
Xem thêm chùm 👉 Thơ Xuân Nguyễn Bính
Dàn Ý Bài Thơ Tương Tư
Đừng bỏ lỡ Dàn Ý Bài Thơ Tương Tư đầy đủ sau đây.
1. Mở bài
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm
+ Tác giả Nguyễn Bính được coi là “thi sĩ của đồng quê”
+ Bài thơ “Tương tư” được trích trong tập “Lỡ bước sang ngang”
2. Thân bài
– Giới thiệu về “căn bệnh” tương tư của nhân vật trữ tình:
+ Là sự nhớ thương của một người yêu đơn phương
+ Là điều tất yếu xảy ra trong tình yêu đôi lứa
– Những biểu hiện của “căn bệnh” tương tư:
+ Hờn dỗi, trách móc
+ Than thở nhớ mong
+ Trông ngóng, trách cứ
+ Khao khát và ước muốn tình yêu đôi lứa
3. Kết bài
– Tổng kết
+ Đặc sắc nội dung
+ Đặc sắc nghệ thuật
Chia sẻ cho bạn đọc 💌 Bài Thơ Quê Hương Của Nguyễn Bính💌
Sơ Đồ Tư Duy Tương Tư
Ngay sau đây là các Sơ Đồ Tư Duy Tương Tư chi tiết.
Có thể bạn sẽ cần 🌸 Vội Vàng [Xuân Diệu] 🌸 Sơ Đồ Tư Duy, Phân Tích, Dàn Ý
5 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Tương Tư Hay Nhất
Chia sẻ cho các bạn thêm 5 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Tương Tư Hay Nhất bên dưới.
Phân Tích Bài Thơ Tương Tư Tiêu Biểu – Mẫu 1
Nguyễn Bính (1918 – 1966) tên khai sinh là Nguyễn Bính Tuyết. Thuở nhỏ, ông học ở quê nhà, biết làm thơ từ năm 13 tuổi. Năm 1937, tập thơ Tâm hồn tôi được Tự lực văn đoàn trao giải. Năm 1945, Nguyễn Bính vào Nam Bộ.
Nguyễn Bính – một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Song trong khi hầu hết các thi sĩ trong phong trào Thơ mới đều chịu ảnh hưởng sâu đậm của thơ ca lãng mạn Pháp thì Nguyễn Bính về với văn hóa dân gian, gắn bó với môi trường bình dị, thân thuộc của đồng quê, qua những hàng cau, giàn trầu, rặng mồng tơi, cây đa, giếng nước, sân đình…
Cùng với Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân… Ông đã góp một dòng thơ, phái thơ riêng – Thơ mới dân gian, làm phong phú hơn cho thơ mới.
Tương tư rút tong tập thơ Lỡ bước sang ngang, tập thơ nổi tiếng và tiêu biểu cho phong cách thơ Nguyễn Bính trước cách mạng.
“Tương tư’ có nghĩa là nhớ nhau, nhưng tâm trạng tương tư không chỉ đơn thuần là nhớ nhung. Nỗi tương tư trong bài thơ này là một phức hợp các cảm xúc khác nhau, với những diễn biến không hề xuôi chiều. Bắt đầu là sự nhớ nhung:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
/…/
Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có mốt hàng cau liên phòng
Tất cả diễn biến theo lối xen lồng và chuyển hóa nhau rất tự nhiên, chân thực.
Trong bài thơ, chàng trai có ý trách móc cô gái. Bề ngoài, điều này là vô lí. Trong tình yêu, người chủ động đi đến phải là người con trai, đằng này lại trong vai thụ động ngồi chờ đợi mới có thể bộc bạch được tâm trạng tâm tư của một người trai quê như thế. Thứ hai, lối trách móc này không phải vì ghét, không giống như sự qui kết trách nhiệm, đỗ lỗi thông thường. Mà trách vì yêu.
Do quá mong nhớ, bị nỗi nhớ mong giày vò người trong cuộc dễ tưởng mình bị hờ hững, nên sinh ra “hờn ngược, trách xuôi” thôi, không có hàm ý ghét bỏ. Nói khác đi, trách chỉ là một cách bộc bạch tình yêu. Người đời cũng gọi thế là “trách yêu”.
Câu lục ngắt nhịp 3/3 phá đi cái nhịp thông thường của thơ lục bát (2/2/2). Ý và lời vế sau lặp lại vế trước. Cách ngắt nhịp này khiến chữ” lại” ở đầu nhịp sau trở thành điểm nhấn của ngữ điệu. Nó gợi được dòng thời gian cứ trôi qua hết sức chậm chạp, ngày mới chỉ còn là sự lặp lại ngày cũ một cách chán ngán và vô vọng.
Nỗi tương tư của chàng trai và qua đó là mối nhân duyên của đôi trai gái này càng đậm nét chân quê hơn vì nó gắn liền với khung cảnh và cây cỏ chốn quê. Trong nỗi nhớ nhung của chàng trai hiện lên những chi tiết về những địa danh, cảnh vật, cây cỏ… thuộc về chốn quê bao đời: thôn Đoài, thôn Đông, đò giang, bến đò, hoa bướm, giàn giầu, hàng cau…
Những chi tiết này vừa tạo ra không gian quê kiểng cho nhân vật trữ tình bày tỏ mối tương tư, vừa là phương tiện, thậm chí, là ngôn ngữ nữa để nhân vật trữ tình diễn tả tâm trạng tương tư của mình một cách tự nhiên, kín đáo, ý nhị. Có như thế, tình và cảnh mới có thế hòa quyện vào nhau được.
Trong bài thơ này, trước hết thể hiện ở cách tạo ảnh độc đáo: hình ảnh chàng trai thôn Đoài ngồi nhớ cô gái thôn Đông, đã khiến cho thi sĩ mở rộng ra và khái quát thành thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông. Đây không chỉ đơn thuần là cách nói vòng, mà quan trọng hơn, nó tạo ra hai nỗi nhớ song hành và chuyển hóa, gắn với hai chủ thể và hai đối tượng: người nhớ người và thôn nhớ thôn, chính vì có người nhớ người mà có thôn nhớ thôn.
Khát vọng lứa đôi trong mối tương tư này còn được biểu hiện tinh vi bằng nhiều cặp đôi trong bài: thôn Đoài – thôn Đông, một người – một người, gió mưa – tương tư, tôi – nàng, bên ấy – bên này, hai thôn – một làng, bến – đò. hoa khuê các – bướm giang hồ, nhà anh – nhà em, giàn giầu – hàng cau, cau thôn Đoài – giầu thôn Đông.
Các cặp đôi trên xuất hiện theo trình tự từ xa đến gần, cuối cùng dừng lại ở cặp đôi giầu – cau. Điều ấy cho thấy rõ, bên dưới nỗi tương tư là niềm khát khao gần kề, khao khát chung tình, khao khát nhân duyên, tình yêu gắn với hôn nhân là một đặc điểm quan niệm tình yêu trong thơ Nguyễn Bính(cũng giống với ca dao). Điều này thêm một minh chứng để khẳng định thêm rằng chất truyền thống, chất chân quê đã thấm sầu và hồn thơ Nguyễn Bính.
Phân Tích Bài Thơ Tương Tư Đặc Sắc – Mẫu 2
Nguyễn Bính là nhà thơ nổi tiếng của phong trào Thơ mới trước Cách mạng tháng Tám. Giữa những giọng điệu mới lạ, thơ Nguyễn Bính vẫn giữ được âm hưởng gần gũi với ca dao dân ca, giản dị hồn nhiên mà ngọt ngào, thắm thiết. Tương tư in trong tập Lỡ bước sang ngang, xuất bản năm 1940 tại Hà Nội.
Tập thơ này đã mang lại tiếng vang cho tác giả và dấy lên trong đông đảo người đọc một phong trào thuộc thơ, yêu thơ Nguyễn Bính. Bài thơ Tương tư nói lên tâm trạng khắc khoải chờ mong của một chàng trai đang yêu với tình yêu đơn phương không được đáp đền. Mối tương tư ấy được đặt vào khung cảnh nông thôn với dáng dấp một mối tình chân chất như trong ca dao và mang hương vị đồng quê mộc mạc.
Tâm lí của những kẻ đang yêu là luôn muốn được gần gũi bên nhau. Bởi vậy, một ngày không gặp dài bằng ba thu. Những người đang yêu nhớ nhau mà không gặp được nhau thì sinh ra tương tư. Thường là một người thương nhớ một người mà không được đền đáp lại, trường hợp này trong văn chương mới gọi là tương tư.
Lịch sử tình yêu xưa nay đã ghi nhận bao trái tim Trương Chi tan nát bởi mối hận tình. Chàng trai trong bài thơ này cũng tương tư nhưng có phần nhẹ nhàng hơn bởi tình yêu chưa đặt được cơ sở rạch ròi.
Bốn câu thơ đầu bày tỏ nỗi nhớ mong khắc khoải của kẻ đang yêu. Chàng trai không giấu là mình tương tư:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người.
Nắng mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng
Mối tương tư ấy được thể hiện bằng những hình thức quen thuộc trong ca dao xưa, ở đây, lối hoán dụ nghệ thuật, thủ pháp nhân hóa và thành ngữ dân gian kết hợp với nhau hài hòa, tự nhiên: Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông, rồi bệnh của giời, bệnh của tôi. Dường như đất trời cũng chia sẻ nhớ mong, dự phần tương tư với con người.
Tôi yêu nàng, tôi tương tư, nào có khác chi trời lúc gió lúc mưa. Tâm trạng tương tư của chàng trai cũng tự nhiên như quy luật của trời đất vậy.
“Cái tôi” trong thơ Nguyễn Bính xuất hiện cùng với những “cái tôi” khác trong Thơ mới lúc bấy giờ; có điều nó mang màu sắc độc đáo bởi nó thiết tha, chân thành, gần gũi với cuộc đời bình dị của người dân quê. Nó có thôn Đông, thôn Đoài, có chín nhớ mười mong, có trầu, có cau.
Tưởng như một đôi trai gái đồng quê mới bén duyên nhau bên hàng rào dâm bụt, bên giậu mồng tơi, vừa rõ ràng mà vừa mơ hồ. Nhân vật tôi thì đã rõ, còn nhân vật nàng thì vẫn thấp thoáng, vu vơ.
Nếu ở khổ thơ đầu, nhà thơ nói thật là mình đang tương tư thì đến ba khổ thơ sau, nhà thơ trách người mình yêu sao quá hững hờ:
Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
/…/
Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?
Vậy là chàng trai đang nhớ thật, đang tương tự thật, nhưng khổ tâm ở chỗ nhớ thương có đi mà không có lại. m điệu thơ lục bát uyển chuyển, mượt mà rất hợp với cách thể hiện dung dị: nào là hai bên chung lại một làng, bên ấy, bên này; nào là Cách nhau có một đầu đình; Có xa xôi mấy mà tình xa xôi. Trách móc rồi tự bộc bạch là mình Tương tư thức mấy đêm rồi và ước mong.
Vẫn là bên ấy, bên này cách biệt. Ngày qua ngày lại qua ngày, Lá xanh nay đã thành cây lá vàng. Thời gian cứ lạnh lùng trôi mà bên ấy vẫn bằn bặt bóng chim tăm cá. Hỏi làm sao bên này chẳng chờ đợi đến hao mòn, tàn úa? Mơ làm chi đến chuyện bao nhiêu ngói bấy nhiêu tình hay chuyện tam tứ núi, ngũ lục sông?
Thế là đã rõ: Tất cả đều vu vơ, chỉ có một điều rất thật là nỗi buồn da diết của chàng trai đang tương tư. Yêu người mà chẳng được người yêu, nhớ mong mà chẳng gặp. Một mối tình như thế sẽ kết thúc ra sao? Chàng trai trở lại với ước mơ thầm kín về một cuộc hôn nhân tốt đẹp cùng nỗi băn khoăn, khắc khoải của lòng mình:
Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
Đến lúc này thì không cần vòng vo, ẩn giấu chi nữa, chàng trai không còn xưng tôi mà mạnh dạn xưng là anh và gọi nàng bằng em. Cũng chẳng cẩn bóng gió xa xôi: Bao giờ bến mới gặp đò hay Tương tư thức mấy đêm rồi mà nói thẳng đến chuyện hôn nhân:
Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thử hình dung cau ấy, trầu này mà kết thành một mâm xinh đẹp thì thật tà đúng nghi lễ cưới xin. Nhưng trớ trêu làm sao: trầu thì ở nhà em, cau lại ở nhà anh. Em ở thôn Đông, anh ở thôn Đoài: Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông. Vậy: Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào ? Như vậy là tương tư chưa đi quá nỗi nhớ và nỗi nhớ vẫn chỉ là một bên, một chiều.
Bài thơ là một mảnh hồn của nhà thơ, là “cái tôi”mang đậm phong cách Nguyễn Bính: giản dị, hồn nhiên, dân dã mà không kém phần thơ mộng, lãng mạn. Nhà thơ nói chuyện tương tư, kì thực là nói tới khao khát tình yêu và hạnh phúc.
Qua đó khẳng định “cái tôi cá nhân” với quyền được sống đúng nghĩa của nó. Tương tư là một trong nhiều dẫn chứng chứng minh cho nhận xét tinh tế của Tô Hoài: Nguyễn Bính là nhà thơ của tình quê, chân quê, hồn quê.
Phân Tích Bài Thơ Tương Tư Nổi Bật – Mẫu 3
Tác giả Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ đi tiên phong và tiêu biểu cho phong trào thơ mới. Tuy nhiên khác với các nhà thơ cùng thời chịu ảnh hưởng của thơ ca lãng mạn Pháp thì thơ của Nguyễn Bính lại thường đậm đà truyền thống dân tộc, văn hóa dân gian, gắn bó với sự bình dị, mộc mạc của đồng quê. Bài thơ “Tương tư” của ông nằm trong tập thơ “Lỡ bước sang ngang” là một bài thơ tiêu biểu nhất cho phong cách thơ của ông.
Nhan đề bài thơ là “Tương tư” ám chỉ một trạng thái của con người, tương tư có nghĩa là nhớ nhung, nhưng lại không đơn thuần là nhớ nhung mà còn chứa đựng nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau nữa.
Sự tương tư thường bắt đầu với những con người đang yêu, và trong bài thơ này, nhân vật trữ tình tương tư là một chàng trai quê chân thật, chất phác. Diễn biến trong tâm trạng của chàng trai chính là mạch cảm xúc của bài thơ, trong bốn câu thơ đầu ta cảm nhận được nỗi nhớ mong khắc khoải của kẻ đang yêu:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông…
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
Nỗi nhớ ấy được tác giả thể hiện bằng những hình thức quen thuộc của ca dao xưa, có thể thấy hình ảnh hoán dụ “thôn Đoài” và “thôn Đông” chính là con người, và chính là chàng trai của thôn Đoài đang nhớ tới người mình yêu ở thôn Đông. Rồi lại đong đếm cụ thể nỗi nhớ mong ấy bằng thành ngữ dân gian “chín nhớ mười mong”.
“Hai thôn chung lại một làng…
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?”
Nỗi nhớ tương tư của chàng trai đang dần rơi vào nỗi khổ tâm, bởi có thương đi mà chẳng có thương lại. Sự trách móc nhẹ nhàng sao gần nhau chỉ cách nhau có “một đầu đình” mà bên ấy lại chẳng sang bên này, để cho bên này chờ mong mòn mỏi. Trách móc rồi lại tự bộc bạch rằng vì tương tư về người mình yêu mà đã thức trắng bao đêm, chỉ mong ước được gặp người mình yêu, thế nhưng càng nhớ, càng trách, càng hỏi thì người ta vẫn cứ hững hờ, xa xôi.
Tình yêu như thế ở đời không phải ít, một bên thì yêu đến si tình, tương tư đến khổ tâm còn một bên lại mơ hồ, vô định.
Vậy nên có trách móc hay tương tư cũng đều rơi vào khoảng không, không ai cảm thấu, càng khiến cho nỗi tương tư thêm xót xa, chua chát. Sự cách biệt giữa bên ấy bên này ngày càng xa xôi, thời gian đã dài đằng đẵng “ngày lại qua ngày” đến nỗi la xanh nhuộm chuyển thành lá vàng, thế nhưng thời gian trôi lạnh lùng như chính sự lạnh lùng của bên ấy. Hỏi cứ như vậy làm sao bên này lại chẳng chờ đợi đến héo mòn, khô úa.
Như vậy cho đến những khổ thơ này ta đã rõ: tất cả đều là từ một phía, chỉ là nỗi tương tư chân thành của chàng trai không được đáp lại. Yêu người nhưng chẳng được người yêu lai, nhớ mong nhưng chẳng được gặp gỡ, bởi người ta cũng chẳng muốn gặp mình, chàng trai lại đành quay lại với chính mình, trở lại với niềm mơ ước thầm kín của mình về một mối nhân duyên tốt đẹp:
“Nhà em có một giàn giầu…
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
Chàng trai đã mạnh dạn xưng “anh” và gọi người mình yêu là “em”, chẳng cần bóng gió, vòng vo xa xôi nữa mà đi thẳng tới vấn đề muốn được kết tóc se duyên, muốn được ở bên cạnh người mình yêu thương. Thế nhưng thật trớ trêu thay chàng trai vẫn không thoát khỏi được nỗi nhớ mong chẳng được đền đáp, vẫn là câu hỏi không ai hồi đáp.
Qua bài thơ “Tương tư” chúng ta thấy được một mảnh hồn thơ của Nguyễn Bính trong đó, đó chính là cái giản dị, hồn nhiên mà dân giã, không kém phần thơ mộng, lãng mạn. Chỉ là nói chuyện tương tư nhưng sâu thẳm là nhà thơ đang nhắc tới khát khao tình yêu và hạnh phúc.
Phân Tích Bài Thơ Tương Tư Ấn Tượng – Mẫu 4
Phong trào thơ mới để lại cho văn học nước nhà những thành tựu rực rỡ với những tên tuổi lớn. Đó là Xuân Diệu với tâm hồn rạo rực khát khao về tình yêu, tuổi trẻ và cuộc sống, là một Lưu Trọng Lư với những hồn thơ mơ màng mà tha thiết với vạn vật với cuộc đời, đó còn là một Hàn Mạc Tử “điên” trong từng vần thơ nhỏ, một Huy Cận buồn ảo não một mối sầu dằng dặc, mênh mông.
Và có một nhà thơ cũng đặc biệt không kém, ở ông luôn chất chứa những ý vị sâu sắc, nồng đượm tình quê, chất quê dung dị mà vô cùng gợi cảm, hấp dẫn và thu hút đó là thi sĩ Nguyễn Bính. Ông để lại cho đời nhiều nhiên bài thơ đẹp và “Tương tư ” chính là một trong số đó.
Cũng viết về tình yêu, nhưng “Tương tư” mang màu cảm xúc rất riêng, rất đặc biệt mà chỉ có trong thơ tình Nguyễn Bính. Bài thơ viết về mối tình đơn phương của một chàng trai thôn Đoài đem lòng mến người con gái thôn Đông, và khi yêu người ta đem lòng thương, đem lòng nhớ và đem lòng “tương tư”, mối tình ấy có vẻ như thầm lặng đấy nhưng lại chứa chan đầy tâm sự và vô cùng mãnh liệt.
” Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Nắng mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
Bằng lối nói hoán dụ, tác giả đã vẽ nên chuyện tình của đôi trai gái hai thôn. Chàng trai lúc này đây dường như đang ngồi thẩn thơ mong nhớ về người trong mộng. Lỡ đem lòng thương nên nỗi nhớ da diết khôn nguôi “chín nhớ mười mong”. Thành ngữ dân gian được vận dụng để miêu tả nỗi nhớ vô cùng đặc sắc, đó là một niềm nhớ vô bờ, một niềm thương mong da diết.
Nếu thời tiết thất thường, khi nắng khi mưa ấy là “bệnh trời”, một căn bệnh vốn có và vốn như thế không ai có thể thay đổi được thì tình yêu của chàng trai cũng kiên định như thế. Và khi đã yêu thì nỗi “tương tư” trở thành một lẽ tự nhiên, một căn bệnh do tôi yêu nàng mà có. Bệnh tương tư làm sao ai có thể chữa được ngoại trừ người mà chàng trai thương thầm nhớ trộm.
”Nắng mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
Hai câu thơ đi vào lòng người thật nhẹ nhàng, tình yêu được diễn tả thật ý nhị và tinh tế. Có hai câu thơ ấy thôi mà nó khiến bao người phải thổn thức, bao kẻ tình si đến bây giờ vẫn chọn nó để bày tỏ tình cảm của mình với người thương. Tự tận đáy lòng ấy của những chàng trai đang yêu, luôn là bóng hình người con gái nhỏ mà họ dành trọn vẹn tình cảm yêu thương, bởi vậy mà căn bệnh tương tư cứ thế nảy sinh cũng hợp lẽ vậy thôi.
”Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này”
Cả hai người đang sống chung một làng ấy thôi, cùng chung quê hương, chung những con đường ngày ngày qua lại, chúng cả không gian ấy vậy mà chẳng gặp được nhau bởi” bên ấy” đâu có chịu sang “bên này”.
Lời trách móc sao mà dễ thương đến thế, người trách cũng não lòng vì người mình mong không tới, người bởi trách cũng đâu có biết được cảm tình của chàng trai dành cho mình nên có lẽ nếu nàng có muốn sáng cũng chẳng đặng một lý do cho hợp tình vẹn lý. Và có lẽ, bởi chẳng gặp được “bên ấy” nên chàng trai cứ kéo dài thêm nỗi mong chờ, kéo dài thêm dòng tâm trạng nhớ, đợi, thương, mong:
”Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”
Thời gian cứ thế vô tình trôi qua “ngày qua ngày” chẳng đợi một ai cả duy chỉ có lòng chàng trai ngày một thiết tha, trăn trở. Nỗi nhớ ấy qua bao tháng ngày từ hạ sang thu vẫn vẹn nguyên và đong đầy như thế. Cách kết hợp láy chữ đầy tài tình mà lại vô cùng tự nhiên “ngày qua ngày lại qua ngày” không chỉ tạo nên âm hưởng mà còn đặc tả nỗi nhớ người trong mong vô cùng ân tình, tha thiết. Một nỗi nhớ đằng đẵng ngập tràn cả không gian và thời gian.
Trong ca dao xưa, các tác giả thường mượn từ “ai” như một sự phiếm chỉ cho đối tượng trữ tình được nhắc đến. Ở đây, từ “ai” cũng được dùng như thế, sự lặp lại có ý đồ tạo nên ý tứ vừa trách móc vừa mong đợi người mình ngày đêm tương tư hiểu cho nỗi lòng này, trái tim này đang bồi hồi, thổn thức vì yêu mà bao nhiêu đêm không ngủ.
Những dòng thơ cuối nghe sao mà buồn vương đến thớ, nỗi chực chờ được gặp lại chẳng thể gặp, gieo trong mình tia hy vọng cho tương lai, ngày tương phùng gặp gỡ nhưng biết đến bao giờ nhỉ:
“Bao giờ bến mới gặp đò
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau”
Những hình tượng bến, đò, hoa, bướm được dùng nhiều trong văn học dân gian, đặc biệt ở ca dao hai hình tượng này chiếm rất lớn. Đó là những hình ẩn dụ biểu tượng cho đôi lứa trai gái trong tình yêu. Và trong bài thơ, đôi lứa ấy chưa thể gặp nhau để kết duyên trăm năm chồng vợ.
”Nhà em có một giàn giầu
Nhà tôi có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”
Trầu cau là những vật chung đôi, là biểu tượng cho mối tình trăm năm kết tóc se duyên chẳng đổi dời. Trầu – cau có ý nghĩa vô cùng đặc biệt trong mỗi cuộc vui hạnh phúc, vì vậy, Nguyễn Bính là sử dụng hình ảnh này như một sự hy vọng cho mối tình đơn phương này có một cái kết hạnh phúc viên mãn. Đó là nỗi nhớ, nỗi tương tư chứa đầy niềm yêu, niềm hy vọng.
Nguyễn Bính – một thi sĩ đồng quê dạt dào tình yêu quê hương đất nước. Bao hình ảnh thôn quê, bến đò, trầu cau, cũng những chất liệu dân gian được nhà thơ vận dụng vào bài đầy sáng tạo. Đó là một tư duy nghệ thuật vô cùng văn minh, một tư tưởng mới được bộc lộ quá những tinh hoa, cốt cách văn học dân tộc, ngôn ngữ giản dị mà ý tứ sâu lắng, cảm xúc chân thành.
Phân Tích Bài Thơ Tương Tư Hay Nhất – Mẫu 5
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã từng nhận xét Nguyễn Bính rằng:” Người nhà quê của Nguyễn Bính vẫn ngang nhiên sống như thường”. Đúng vậy, con người ấy sống trong từ câu thơ, từng nỗi nhớ da diết. Nỗi nhớ ấy thể hiện rõ nhất trong bài thơ Tương Tư trích từ tập Lỡ Bước Sang Ngang- một tập thơ tiêu biểu của ông trước cách mạng.
Ai trong chúng ta đã một lần ” tương tư” sầu nhớ chắc hẳn sẽ thấu hiểu cảm xúc ấy. Tương tư là thương, là nhớ, là bồi hồi khi nghĩ về hình bóng yêu thương. Nó là phức hợp cảm xúc, dậy lên như từng đợt sóng trong lòng:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười thương một người
Nắng mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Mở đầu khổ thơ là nỗi nhớ nhưng là nỗi nhớ gián tiếp qua không gian. Đó là “thôn Đoài” nhớ “thôn Đông”, nỗi tương tư giăng mắc khắp không gian bởi lối hoán dụ quen thuộc trong ca dao xưa. Kín đáo mà không kém phần tâm tình tha thiết và sâu sắc hơn nữa tác giả lấy chuyện nắng chuyện mưa, mượn “căn bệnh” vốn dĩ của trời để trải lòng mình.
Tác giả coi “tương tư” là một căn bệnh đã tiềm ẩn trong chính con người mình, cũng rất đỗi bình thường như bao chuyện khác, giống như quy luật của thiên nhiên tạo hóa vậy. Bốn câu thơ ấy mở ra nỗi nhớ khiến người đọc thích thú tò mò về mối tương tư của anh chàng thôn Đoài và cô nàng thôn Đông ngày ấy
Đến những câu thơ tiếp theo, ta như nghe thấy lời trách móc nhẹ nhàng và rất kín đáo thôi. Trách cô gái hững hờ, trách cô gái kia sao lại vờ như không biết gì về nỗi lòng ta:
Hai thôn chung lại một làng
………
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?
Nhịp thơ nhanh, câu hỏi dồn dập của nhân vật trữ tình hỏi người thương của mình. Vì sao nàng chẳng sang? Hai thôn ấy chung một làng mà sao nghe cách xa đến vậy, nếu mà nhớ người ta thì phải tìm đường mà sang thăm người ta chứ đằng này lại còn trách người ta không sang với mình.
Cũng không biết được rằng có phải cô gái không sang không hay là tại vì nỗi tương tư kia khiến cho người tương tư thấy thời gian quá dài, và không gian thật gần mà trở nên xa xôi quá.
Một khi con người ta tương tư, cũng hay nghĩ rằng nửa kia không quan tâm, vô tâm vô tình lắm. Rồi cứ thế ” ngày qua ngày lại qua ngày” điệp từ ngày lặp lại hai lần trong một câu thơ kết hợp với hai từ “qua, lại” khiến ta cảm thấy thời gian chờ đợi đang dần trôi đi thật chậm và thật đều, dài tựa ba thu.
Càng về cuối, những câu thơ vang lên như một ước nguyện với một tình yêu viên mãn vững bền và hạnh phúc:
Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
Hình ảnh trầu cau thể hiện ước nguyện được ở bên nhau của nhà thơ với người mình thầm thương trộm nhớ. Trầu cau từ xưa là thứ không thể thiếu trong tập tục cưới hỏi và nó là hình tượng thể hiện mối tình trăm năm hạnh phúc. Giàn giầu như đang chờ đợi hàng cau đến để têm thành miếng trầu kết duyên vợ chồng trăm năm.
Tương Tư của Nguyễn Bính là một trong những bài thơ góp phần tạo nên tên tuổi của ông và nó làm giàu cho phong trào thơ mới nói riêng và nên thơ ca Việt Nam nói chung. Đọc bài thơ ta biết, nỗi nhớ ấy sẽ còn vọng mãi qua bao thời đại thi ca.