Bài Thơ Bà Tôi Của Kao Sơn ❤️️ Nội Dung, Ý Nghĩa, Cảm Nhận ✅ Bài Thơ Thể Hiện Tình Cảm Yêu Thương Và Nhân Đạo giữa Hai Bà Cụ Khác Hoàn Cảnh.
NỘI DUNG CHÍNH
Nội Dung Bài Thơ Bà Tôi Của Kao Sơn
Bài thơ: Bà tôi
Tác giả: Kao Sơn
Bà hành khất đến ngõ tôi
Bà tôi cung cúc ra mời vào trong
Lưng còng đỡ lấy lưng còng
Thầm hai tiếng gậy…
tụng trong nắng chiều.
Nhà nghèo chẳng có bao nhiêu
Gạo còn hai ống chia đều thảo thơm
Nhường khách ngồi chiếc chổi rơm.
Bà ngồi dưới đất mắt buồn… ngó xa.
Lá tre rụng xuống sân nhà
Thoảng hương nụ vối…
chiều qua…
cùng chiều.
Thohay.vn Tặng Bạn ❤️️ Bài Thơ Bà Em Của Nguyễn Thụy Kha ❤️️ Nội Dung, Ý Nghĩa
Ý Nghĩa Bài Thơ Bà Tôi Của Kao Sơn
Bài thơ thể hiện sự đồng cảm và gắn bó giữa hai bà cụ, khi họ có chung số phận là người già, người nghèo, người phải sống nhờ vào lòng từ bi của thiên hạ. Bà tôi đã hiểu được nỗi khổ của bà hành khất, nên đã kêu khói vươn nhẹ lên mây, đừng bay quẩn làm cay mắt bà. Bà hành khất đã biết ơn sự hiếu khách của bà tôi, nên đã tụng trong nắng chiều hai tiếng gậy – có thể là một lời chúc phúc hay một lời cầu nguyện
Những Cảm Nhận Về Bài Thơ Bà Tôi Hay Nhất
Chia sẽ những bài văn mẫu cảm nhận về bài thơ Bà tôi hay nhất.
☛ Cảm Nhận Về Bài Thơ Bà Tôi Hay Nhất
Bài thơ có ba khổ. Mỗi khổ giống như một phân đoạn của thước phim quay chậm, với những pha đặc tả cận cảnh: Hai tấm lưng còng đỡ lấy nhau, một đôi mắt buồn ngó xa xăm, những chiếc là vàng rụng trong buổi chiều tĩnh lặng… Tất cả thật tự nhiên, thật khẽ khàng mà khiến lòng ta không khỏi xa xót! Cuộc sống bao giờ mới hết cảnh những người phải lang thang xin ăn. Nhất là những người già cả?
“Bà hành khất đến ngõ tôi
Bà tôi cung cúc ra mời vào trong
Lưng còng đỡ lấy lưng còng…
Gạo còn hai ống chia đều thảo thơm
Nhường khách ngồi chiếc chổi rơm
Bà ngồi dưới đất mắt buồn ngó xa”…
Có thể ai đó đọc bài thơ và thầm nghĩ: Bà hành khất này thật may mắn, đến xin ăn mà được chủ nhà đón tiếp như một vị khách quý! Lại có người băn khoăn. Bà cụ chủ nhà đối xử quá tốt với bà lão ăn xin chăng? Tôi thì trộm nghĩ: Ở đây không có ranh giới giữa chủ nhà và người ăn xin, mà là cuộc hội ngộ của hai người bạn già đã xa cách lâu ngày.
Vì thế một loạt động từ nhẹ mang đậm sắc thái tình cảm “mời, đỡ, chia, nhường…” mà tác giả sử dụng ở bài thơ thật hợp lí. Vừa cho thấy óc quan sát tinh tế vừa thể hiện tình cảm yêu thương, kính trọng của tác giả với người bà của mình. Hành động của bà phải chăng đã mang đến cho chúng ta bài học nhân nghĩa ở đời: “Thương người như thể thương thân”, “Lá rách ít đùm lá rách nhiều”.
Sẽ là thiếu sót nếu ta bỏ qua cách dùng từ hành khất của tác giả. Hành khất, ăn xin, ăn mày đều là những từ đồng nghĩa chỉ những người sa cơ lỡ bước phải đi xin ăn nhờ vào sự bố thí của thiên hạ để duy trì sự sống. Ở đây tác giả dùng từ hành khất (từ Hán Việt) một cách trang trọng đã cho người đọc thấy một lối ứng xử hết sức nhân văn giữa bà tôi và người ăn xin.
“Lá tre rụng xuống sân nhà
Thoảng hương nụ vối… chiều qua… cùng chiều”
Chẳng phải ngẫu nhiên tác giả lấy buổi chiều làm bối cảnh diễn ra câu chuyện trên. Hình ảnh buổi chiều, hình ảnh lá rụng đều có thể ví với người già, tuổi già. Lá sẽ rụng về cội trong yên bình. Còn chiều qua nhanh hay chậm một phần tùy thuộc ở chúng ta. Những đứa con, đứa cháu có biết nâng niu chăm sóc để những phận đời già nua được an hưởng nốt những buổi chiều của cuộc đời trong yên ả.
Bài thơ được viết bằng thể thơ lục bát và đã đạt đến độ tương đối hoàn chỉnh về nội dung và nghệ thuật. Giống như nhiều bài thơ khác của Kao Sơn “Bà tôi” mang dáng dấp như một câu chuyện kể: có nhân vật, có tình tiết, có kết cấu…
Dưới điểm nhìn của nhân vật “tôi”- người chứng kiến toàn bộ câu chuyện tác giả kể lại cuộc hạnh ngộ giữa người bà của mình và người hành khất qua đó làm toát lên thái độ ứng xử cảm động chan chứa tình người của người bà đối với người ăn xin. Đó là nét đẹp tinh thần rất cần phải được trân trọng, nâng niu, gìn giữ và nhân lên.
Mời bạn xem thêm ☛ Bài Thơ Ngoại Ơi
☛ Cảm Nhận Về Bài Thơ Bà Tôi Đặc Sắc
Câu thơ mở đầu: “Bà hành khất đến ngõ tôi”, giới thiệu không gian, hoàn cảnh của cuộc gặp gỡ. Hành khất, ăn xin, ăn mày, đều là những từ đồng nghĩa chỉ những người sa cơ, lỡ bước phải đi xin ăn nhờ vào sự bố thí của thiên hạ để duy trì sự sống. Ở đây, tác giả dùng từ hành khất (từ Hán Việt) một cách trang trọng đã phần nào hé mở cho người đọc thấy một lối ứng xử “đặc biệt” giữa “Bà tôi” và người ăn xin. Lối ứng xử ấy được cụ thể qua thái độ, hành động và tâm trạng của người bà:
“Bà tôi cung cúc ra mời vào trong”.
Từ cung cúc giúp người đọc hình dung dáng vẻ vội vàng, tận tuỵ, sốt sắng và cung kính trên mức bình thường. Bà đón người hành khất như đón một người bạn quý:
“Lưng còng đỡ lấy lưng còng”.
Chỉ bằng hai chữ lưng còng, biện pháp tu từ hoán dụ đã khắc họa chân dung già nua, nhọc nhằn có phần tội nghiệp của hai người bạn già. Từ “lưng còng” được lặp lại, kết hợp với động từ “đỡ”, câu thơ đã tái hiện một hình ảnh đẹp đẽ, cảm động, ấm áp rất tình người giữa chủ nhà và người hành khất.
Câu thơ tiếp: “Thầm hai tiếng gậy tụng trong nắng chiều” là một câu thơ hay. Nó không chỉ cụ thể hóa dáng vẻ già nua tội nghiệp của hai bà cụ, mà qua từ “tụng” đã giúp ta hiểu hai tiếng gậy của hai bà cụ gõ vào buổi chiều như tiếng mõ đang tụng cho những kiếp người nghèo khó. Nhưng đó cũng chưa phải là điều tác giả muốn nói. Mà điều quan trọng nhất, cảm động nhất quán xuyến toàn bộ bài thơ chính là tấm lòng thảo thơm của người bà:
“Nhà nghèo chẳng có bao nhiêu
Gạo còn hai ống chia đều, thảo thơm”.
Hai ống gạo được chia đều, giá trị vật chất mà bà hành khất nhận được không có gì to tát, nhưng giá trị tinh thần lại vô cùng to lớn. Giá trị ấy đọng lại ở hành động chia đều thảo thơm của “Bà tôi”. Đó là hành động đầy tính nhân bản. Bởi gia cảnh của “Bà tôi” cũng nghèo. Nhưng giúp người phải nghĩ đến ta, cho nên hành động chia đều hai ống gạo ít ỏi còn lại trong nhà là rất thực tế và hợp lý. Đó là biểu hiện của tấm lòng thơm thảo mang nét đẹp truyền thống “Thương người như thể thương thân”.
Nhưng tại sao “Bà tôi” lại có thái độ cư xử đầy tình người như vậy đối với bà hành khất? Hai câu thơ sau đã làm sáng tỏ điều này: “Nhường khách ngồi chiếc chổi rơm/Bà ngồi dưới đất mắt buồn ngó xa”. Bà tôi không coi người hành khất là kẻ đến xin ăn mà coi là khách.
Qua cách cư xử của bà, địa vị của người ăn xin bỗng chốc thay đổi từ kẻ hành khất trở thành khách và được đối đãi như khách quý. Khoảng cách giữa chủ nhà và người ăn xin, giữa người cho và kẻ nhận đã bị xóa nhòa.
Hình ảnh “Bà tôi” ý tứ: “Nhường khách ngồi chiếc chổi rơm”, còn chủ nhà thì “ngồi dưới đất” là hình ảnh rất tự nhiên, dân dã thường thấy ở thôn quê. Nó không chỉ bao hàm thái độ trọng khách, mà còn thể hiện sự chân thật giản dị, gần gũi, đồng cảm của người bà đối với khách – người hành khất. Câu thơ: “Bà ngồi dưới đất mắt buồn ngó xa” đầy ám ảnh, gợi nhắc về những kiếp nghèo, những số phận không may mắn, hay một quá khứ buồn đau?
Hai câu kết của bài thơ đã đưa người đọc trở lại một không gian làng quê thân thuộc vào một buổi chiều: “Lá tre rụng xuống sân nhà/ Thoảng hương nụ vối… chiều qua… cùng chiều”. Không gian chở nặng hồn quê ấy như một bản nhạc chiều dịu nhẹ, ngân rung, lắng đọng mãi trong lòng người đọc, làm thành một ẩn dụ đẹp đẽ, thân thương của tình quê, tình người.
Bài thơ được tác giả viết bằng thể thơ lục bát và đã đạt đến độ tương đối hoàn chỉnh về nghệ thuật và nội dung. Cũng giống như nhiều bài thơ khác của Kao Sơn, bài thơ “Bà tôi” mang dáng dấp một câu chuyện kể có nhân vật, có tình tiết, có kết cấu…
Dưới điểm nhìn của nhân vật “tôi”, tác giả kể lại cuộc hội ngộ giữa người bà của mình và người hành khất, qua đó làm toát lên thái độ ứng xử đầy cảm động chan chứa tình người của bà đối với người ăn xin. Đây là nét đẹp tinh thần rất cần được trân trọng, nâng niu, gìn giữ và cần nhân lên trong cuộc sống đời thường.
Thohay.vn Chia Sẽ ❤️️ Bài Thơ Bà Em ❤️️ Nội Dung, Ý Nghĩa, Giáo Án