Bạch Đằng Hải Khẩu: Nội Dung, Phân Tích, Soạn Bài, Giáo Án. Tìm Hiểu Thêm Về Ý Nghĩa Nhan Đề, Sơ Đồ Tư Duy, Hoàn Cảnh Sáng Tác.
NỘI DUNG CHÍNH
Giới Thiệu Bài Thơ Bạch Đằng Hải Khẩu
Bạch Đằng Hải Khẩu là một bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Trãi, được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Bài thơ này nằm trong tập “Ức Trai thi tập” và thể hiện niềm tự hào, cảm xúc lịch sử của tác giả về dòng sông Bạch Đằng, nơi gắn liền với những chiến thắng lịch sử lẫy lừng của dân tộc Việt Nam.
- Bài thơ “Bạch Đằng hải khẩu” rút trong tập thơ “Ức Trai thi tập” hiện có 105 bài thơ chữ Hán. Trong “Nguyễn Trãi toàn tập” học giả Đào Duy Anh xếp bài thơ này vào số 45/105 bài.
- Tác giả viết về sông Bạch Đằng, đây là dòng sông lịch sử oai hùng. Năm 938 Ngô Quyền chém đầu tướng Hoàng Thao tiêu diệt quân Nam Hán xâm lược. Năm 981 Lê Hoàn đánh bại giặc Tống. Năm 1288 Trần Quốc Tuấn đại phá giặc Nguyên Mông bắt sống Ô Mã Nhị.
Nội dung chính của bài thơ:
- Cảnh sắc thiên nhiên: Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh cửa biển Bạch Đằng với gió bấc thổi mạnh và buồm thơ nhẹ lướt qua. Cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ và dữ dội được miêu tả qua hình ảnh núi non và bờ bãi.
- Chiến tích lịch sử: Nguyễn Trãi nhắc đến những chiến công oanh liệt của các vị anh hùng dân tộc tại dòng sông Bạch Đằng, nơi đã từng chứng kiến những trận đánh lớn chống lại quân xâm lược.
- Cảm xúc hoài niệm: Tác giả bày tỏ sự trăn trở và bâng khuâng khi nghĩ về những sự kiện lịch sử đã qua, đồng thời thể hiện lòng biết ơn và tự hào về những chiến công của cha ông
Bài thơ không chỉ là một tác phẩm văn học xuất sắc mà còn là một lời nhắc nhở về lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam.
Nội Dung Bài Thơ Bạch Đằng Hải Khẩu + Dịch Nghĩa
“Bạch Đằng hải khẩu” là bài thơ viết bằng chữ Hán của Nguyễn Trãi. Từ nơi đây nguồn cảm xúc tự hào Đại Việt dâng lên cuồn cuộn. Cùng đọc Nội Dung Bài Thơ Bạch Đằng Hải Khẩu + Dịch Nghĩa đầy đủ sau đây.
白藤海口
朔風吹海氣凌凌,
輕起吟帆過白藤。
鱷斷鯨刳山曲曲,
戈沉戟折岸層層。
關河百二由天設,
豪傑功名此地曾。
往事回頭嗟已矣,
臨流撫影意難勝。
Bạch Đằng hải khẩu
Sóc phong xung hải khí lăng lăng,
Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng.
Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc,
Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng.
Quan hà bách nhị do thiên thiết,
Hào kiệt công danh thử địa tằng.
Vãng sự hồi đầu ta dĩ hĩ,
Lâm lưu phủ ảnh ý nan thăng.
Dịch nghĩa
Cửa biển lồng lộng, gió bấc thổi băng băng;
Buồm thơ nhẹ lướt qua sông Bạch Đằng.
Nhìn núi từng khúc, như cá mập, cá sấu bị chặt từng đoạn,
Nhìn bờ từng lốp, như giáo kích gươm đao bị gãy chìm.
Cảnh núi sông hiểm yếu, tạo ra cái thế “lấy ít địch nhiều”,
Ðây là nơi hào kiệt từng lập nên công danh oanh liệt.
Việc xưa nghĩ lại, ôi tất cả đã qua rồi!
Tới đây viếng cảnh, nỗi lòng sao biết nên chăng?
Dịch thơ
Biển rung gió bấc thế bừng bừng,
Nhẹ cất buồm tha lướt Bạch Đằng.
Kình ngạc băm vàm non mấy khúc,
Giáo gươm chìm gãy bãi bao tầng.
Quan hà hiểm yếu trời kia đặt
Hào kiệt công danh đất ấy từng.
Việc trước quay đầu ôi đã vắng
Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng…
Chia sẻ cho bạn đọc 💚 Dục Thúy Sơn [Nguyễn Trãi] 💚 Sơ đồ tư duy, phân tích hay nhất
Về Tác Giả Nguyễn Trãi
Cùng Thohay.vn khám phá một vài thông tin Về Tác Giả Nguyễn Trãi.
- Nguyễn Trãi (1380 – 1442), hiệu Ức Trai.
- Quê gốc: Chi Ngại, Chí Linh, Hải Dương; sau dời về Nhị Khê (Thường Tín – Hà Tây).
- Thân sinh: Nguyễn Ứng Long – một nhà Nho nghèo, học giỏi, đỗ tiến sĩ đời Trần.
- Mẹ: Trần Thị Thái, con gái của Trần Nguyên Hãn.
- Sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước, văn hóa, văn học.
- Nợ nước, thù nhà => theo Lê Lợi tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
- 1427 – 1428: khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng => viết Bình Ngô đại cáo.
- Sau đó tham gia xây dựng đất nước, rồi bị oan.
- 1439 ra ở ẩn tại Côn Sơn.
- 1440 quay lại chốn quan trường.
- 1442: oan Lệ Chi Viên => tru di tam tộc, đến hơn 20 năm sau mới được Lê Thánh Tông minh oan.
- Những tác phẩm chính viết bằng chữ Hán: Quân Trung từ mệnh tập, Bình Ngô Đại Cáo, Ức trai thi tập, Chí Linh sơn phú, Băng Hồ di sự lục, Lam Sơn thực lục,…
- Những tác phẩm bằng chữ Nôm: Quốc âm thi tập hiện còn 254 bài chia làm bốn môn loại: Vô đề, Thời lệnh môn, Hoa mộc môn, Cầm thú môn. Phần Vô đề chia thành nhiều mục: Thủ vĩ ngâm (1 bài), Ngôn chí (21 bài), Mạn thuật (14 bài), Thuật hứng (25 bài), Tự thán (41 bài), Tự thuật (11 bài), Tức sự (4 bài), Bảo kính cảnh giới (61 bài) v.v…
Về Tác Phẩm Bạch Đằng Hải Khẩu
Về Tác Phẩm Bạch Đằng Hải Khẩu (cửa biển Bạch Đằng), bài thơ này của Nguyễn Trãi được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật.
Bài thơ “Cửa biển Bạch Đằng” ca ngợi sông Bạch Đằng hùng vĩ là mồ chôn quân xâm lược. Nhìn dòng sông, Nguyễn Trãi tự hào về cửa ải hiểm trở, tự hào về anh hùng hào kiệt, rồi bộc lộ lòng man mác bâng khuâng.
Xem thêm phân tích🌱 Bảo Kính Cảnh Giới [Nguyễn Trãi]🌱 Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật
Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Bạch Đằng Hải Khẩu
Cùng tìm hiểu Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Bạch Đằng Hải Khẩu nhé.
“Bạch Đằng Hải Khẩu” có nghĩa là cửa biển Bạch Đằng. Nhan đề như nói rõ được chủ đề trung tâm của bài thơ.
Vẻ đẹp không gian rộng lớn, kì vĩ của sông Bạch Đằng, nơi đã chứng kiến bao thay đổi vang dội, lịch sử của dân tộc cũng là nơi. Tác giả đứng trước dòng sông và hồi tượng lại những quá khứ, dĩ vãng một thời không khỏi nuối tiếc, xót xa.
Đừng bỏ lỡ tác phẩm 🌼 Bình Ngô Đại Cáo 🌼 Nội Dung Bài Thơ, Nghệ Thuật, Phân Tích
Giá Trị Bài Thơ Bạch Đằng Hải Khẩu
Sau đây là những Giá Trị Bài Thơ Bạch Đằng Hải Khẩu.
Giá trị nội dung
- Ca ngợi những ngành nghệ thuật truyền thống của dân tộc
- Niềm tự hào về mảnh đất chiến địa, từng lưu dấu nhiều chiến công hiển hách của cha ông
Giá trị nghệ thuật
- Các yếu tố miêu tả, biểu cảm, nghị luận: làm cho đối tượng được nhắc đến trở nên sinh động, cụ thể; khiến cho văn bản có sức thuyết phục với người đọc.
Bố Cục Bài Thơ Bạch Đằng Hải Khẩu
Bố Cục Bài Thơ Bạch Đằng Hải Khẩu chia thành 4 phần:
- Phần 1: 2 câu đề: Không gian rộng lớn của sông Bạch Đằng
- Phần 2: 2 câu thực: Dấu ấn lịch sử vẻ vang trên dòng sông này
- Phần 3: 2 câu luận: Những anh hùng hào kiệt trên sông Bạch Đằng.
- Phần 4: 2 câu kết: Hồi tưởng về quá khứ dĩ vãng oanh liệt.
Tham khảo về tác phẩm 🍀Mùa Xuân Chín [Hàn Mặc Tử]🍀 Sơ Đồ Tư Duy, Các Mẫu Phân Tích Hay
Dàn Ý Bạch Đằng Hải Khẩu
Tham khảo Dàn Ý Bạch Đằng Hải Khẩu chi tiết sau đây.
I. Mở bài:
- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Trãi
- Giới thiệu bài thơ Bạch Đằng Hải Khẩu: hoàn cảnh ra đời, nội dung.
II. Thân bài:
– Hành trình du ngoạn của tác giả:
+ Các địa danh Trung Quốc: Nguyên Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, đầm Vân Mộng.
→ Những địa danh được biết đến qua sách vở, qua sự tưởng tượng. Tác giả là người có vốn hiểu biết phong phú, sâu rộng.
+ Các danh lam thắng cảnh Đại Việt: Đại Than, Đông Triều và dừng chân ở Bạch Đằng – dòng sông của chiến công lịch sử vẻ vang của dân tộc.
→ Tác giả yêu thiên nhiên, thiết tha với quê hương, đất nước với quá khứ hào hùng của dân tộc.
+ Cách nói cường điệu: Sớm Nguyên Tương – chiều Vũ Huyệt, hành trình dài được khách thực hiện trong một ngày.
→ Không gian, thời gian của cuộc hành trình đã nâng cao tầm vóc của khách, say sưa, chủ động đến với thiên nhiên.
– Cảnh sắc thiên nhiên trên sông Bạch Đằng
+ Hùng vĩ, tráng lệ:
– “Sóng kình muôn dặm”: Địa thế hiểm trở, dữ dội của con sông Bạch Đằng.
– “Đuôi trĩ một màu”: Những con thuyền nối đuôi nhau trên dòng sông.
+ Thơ mộng, trữ tình
– Thời gian “ba thu”: Tháng thứ ba của mùa thu, thu chín nhất.
– “Nước trời một sắc”: Bầu trời, mặt nước đều hòa chung một màu trong xanh.
+ Hoang vu, hiu hắt
– Từ láy “san sát, đìu hiu”: Cực tả khung cảnh hoang vu, lạnh lẽo đầy lá lách, lau sợi
– “Giáo gãy, xương khô”: Chiến trường xưa, chốn tử nạn của quân thù.
– Tâm trạng của tác giả:
- Buồn thương, tiếc nuối trước cảnh vật đổi thay, cho những người đã ngã xuống
- Tư thế “đứng lặng giờ lâu” cho thấy nhà thơ đang đắm chìm vào thế giới nội tâm với sự tiếc nuối ngậm ngùi.
* Nghệ thuật:
- Bố cục chặt chẽ, cách kể tả sinh động
- Xây dựng các hình tượng nhân vật sinh động, đặc sắc mang ý nghĩa triết lí.
- Ngôn ngữ cô đọng, trong sáng, hào hùng.
III. Kết bài:
- Khái quát nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
- Mở rộng: Sông Bạch Đằng là đề tài, niềm cảm hứng lớn trong văn chương với rất nhiều tác phẩm nổi tiếng khác.
Có thể bạn quan tâm 🔻 Thu Hứng [Đỗ Phủ] 🔻 Sơ Đồ Tư Duy, Các Mẫu Phân Tích Hay
Soạn Bài Bạch Đằng Hải Khẩu
Đừng bỏ lỡ gợi ý Soạn Bài Bạch Đằng Hải Khẩu.
1. Đề tài, thi liệu, thể loại của văn bản.
– Đề tài: Lịch sử
– Thi liệu: cảnh sông Bạch Đằng với bãi cọc hiểm yếu, những trận đánh lịch sử trên sông Bạch Đằng.
– Thể loại: thất ngôn bát cú Đường luật
2. Cảm hứng lịch sử và cảm hứng thế sự trong văn bản.
– Cảm hứng lịch sử:
+ Quan sát Bạch Đằng, nhìn đâu nhà thơ cũng thấy dấu ấn của lịch sử. Cảnh núi non hiểm trở như một bãi chiến trường với “giáo gươm chìm gãy” đã gợi những chiến tích chống xâm lăng của cha ông xưa quang cảnh.
+ Câu thơ “Hào kiệt công danh đất ấy từng” gợi nhớ đến những anh hùng hào kiệt Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo với những chiến công lẫy lừng để bảo vệ đất nước trên dòng sông này.
– Cảm hứng thế sự: Đó là nỗi thất vọng của nhà thơ đối với thực tại xã hội. Những chiến công oanh liệt những anh hùng hào kiệt chỉ còn là chuyện cũ, chuyện đã qua, “vắng” trong hiện tại. Thời đại đang sống khác hoàn toàn với cảnh oai hùng ngày xưa. Triều đại khởi đầu thật oanh liệt, nhưng bây giờ chỉ còn khiến cho người ta lo lắng bâng khuâng.
3. Niềm tự hào về mảnh đất chiến địa, từng lưu dấu nhiều chiến công hiển hách của cha ông.
Niềm tự hào về mảnh đất chiến địa, từng lưu dấu nhiều chiến công hiển hách của cha ông được thể hiện trong cảm hứng lịch sử của bài thơ. Nhà thơ đến cửa biển Bạch Đằng, vừa miêu tả được khung cảnh hùng vĩ tráng lệ, vừa gợi nhắc đến chiến tích trên sông Bạch Đằng. Bài thơ thể hiện niềm tự hào về những chiến công lẫy lừng gắn liền với tên tuổi của những anh hùng hào kiệt. Đó không chỉ là niềm tự hào về lịch sử giữ nước anh hùng mà còn là niềm tự hào về khí phách dân tộc.
4. Sự suy ngẫm sâu sắc về lịch sử của tác giả.
Tác giả suy ngẫm về lịch sử, gợi nhắc chiến công trong quá khứ để từ đó thể hiện những bâng khuâng, lo lắng trước thực tại. Triều đại mà Nguyễn Trãi là khai quốc công thần, đã mở đầu thật hào hùng, nhưng hiện tại chỉ còn là cảnh quan trường hỗn độn. Những cảnh huy hoàng đều là “việc trước quay đầu ôi đã vắng”. Nguyễn Trãi không chỉ suy ngẫm về lịch sử đã qua, mà còn mượn lịch sử đã qua để suy ngẫm hôm nay.
Cập nhật cho bạn đọc ✨ Thơ Hai Cư ✨ Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật
Giáo Án Bạch Đằng Hải Khẩu
Cùng tham khảo nội dung Giáo Án Bạch Đằng Hải Khẩu.
A.Mục tiêu cần đạt:
Sau khi học xong, học sinh có thể đạt được những mục tiêu sau:
Kiến thức:
– Hiểu được nội dung chủ yếu của bài thơ: hoài niệm và suy ngẫm của tác giả về chiến công lịch sử trên sông Bạch Đằng.
– Thấy được tư tưởng nhân văn của tác giả với việc đề cao vai trò, vị trí của con người trong lịch sử.
– Nắm được đặc trưng cơ bản của thể phú về mặt kết cấu, hình tượng nghệ thuật, lời văn đồng thời thấy được đặc sắc nghệ thuật của Phú sông Bạch Đằng.
– Tích hợp liên môn lịch sử giúp Hs hiểu sâu sắc hơn về các chiến công trên dòng sông Bạch Đằng. (Bài 16: Thời Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, Bài 19: những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở các thế kỉ X – XV – Sách Lịch sử lớp 10)
– Tích hợp kiến thức về văn hóa và truyền thống lịch sử anh hùng của thời đại nhà Trần với những chiến công vang dội ở các bài thơ văn đã học như Tỏ lòng – Phạm Ngũ Lão, Tụng giá hoàn kinh sư – Trần Quang Khải, Hịch Tướng sĩ – Trần Quốc Tuấn… giúp Hs hiểu sâu sắc và có hệ thống về hào khí Đông A và nội dung yêu nước trong văn học trung đại.
– Tích hợp phân môn tiếng Việt ( Tiết 55: Các hình thức kết cấu của văn bản thuyết minh; Tiết 56: Lập dàn ý bài văn thuyết minh.)
– Tích hợp kĩ năng ( Tiết 50: Trình bày một vấn đề)
Kĩ năng:
– Làm quen và rèn luyện kĩ năng đọc- hiểu một tác phẩm văn học được viết theo thể phú trung đại.
– Giúp Hs có kĩ năng giao tiếp, kĩ năng thuyết trình, kĩ năng làm việc nhóm…
Thái độ:
– Bồi dưỡng tình yêu quê hương đất nước, niềm tự hào truyền thống lịch sử của dân tộc.
– Giúp Hs ý thức được trách nhiệm đối với vận mệnh dân tộc.
B.Thiết kế bài học:
I. Chuẩn bị của GV và HS:
- GV: Giáo án, SGV, băng tư liệu về các trận chiến trên sông Bạch Đằng, các hình ảnh minh họa.
- HS: Đọc văn bản trong SGK, trả lời các câu hỏi hướng dẫn học bài
Tìm đọc lại kiến thức lịch sử, văn hóa, địa lí về các chiến công trên dòng sông Bạch Đằng
Chuẩn bị bài văn thuyết minh bằng hình ảnh về tác giả Trương Hán Siêu và sông Bạch Đằng theo nhóm đã phân công
II.Tổ chức hoạt động dạy học:
Hoạt động 1: Ổn định lớp, kiểm tra sĩ số và giới thiệu bài mới
MT: tạo tâm thế để dẫn vào bài học
TG: 2p
Dòng sông Bạch Đằng gắn liền với những chiến công vang dội của dân tộc ta (Ngô Quyền thắng giặc Nam Hán, quân dân nhà Trần thắng giặc Nguyên- Mông).
Địa danh lịch sử này đã trở thành nguồn đề tài cho nhiều nhà thơ xưa khai thác: Trần Minh Tông với bài Bạch Đằng giang (trong đó có hai câu: “Ánh nước chiều hôm màu đỏ khé/ Tưởng rằng máu giặc vẫn chưa khô”), Nguyễn Trãi với Bạch Đằng hải khẩu, Nguyễn Sưởng với bài Bạch Đằng giang,…
Hoạt động 2: Tìm hiểu khái quát về tác giả tác phẩm
MT: Kể được những nét chính về tiểu sử, sự nghiệp văn học của tác giả Trương Hán Siêu, Nhắc lại được kiến thức lịch sử đã học về những chiến công oanh liệt trên dòng sông bạch đằng.
Nắm được đặc điểm của thể thơ, bố cục của bài Bạch Đằng giang phú.
Vận dụng kiến thức văn thuyết minh, lịch sử, địa lí để tìm hiểu vấn đề.
Phát huy kĩ năng thuyết trình, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng làm việc nhóm
HT: Hs chuẩn bị theo nhóm và thuyết minh trước lớp
TG: 10p
Hoạt động 3: Tìm hiểu chi tiết giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ
MT: Phân tích được tâm trạng hoài cổ của nhân vật Khách vừa phấn khởi, tự hào vừa buồn thương, nuối tiếc trước vẻ đẹp của sông Bạch Đằng.
Phân tích ý nghĩa và bài học lịch sử của các chiến tích trên sông Bạch Đằng qua lời kể của các bô lão.
Thấy được niềm tự hào dân tộc và tư tưởng nhân văn cao đẹp trong tác phẩm
HT: Vấn đáp, bình giảng.
TG: 25p
Hoạt động 4: Tìm hiểu đoạn kết của bài phú, tích hợp và liên hệ với thực tiễn
MT: Phân tích được cảm xúc và suy nghĩ của các bô lão và khách về sức mạnh dân tộc
Liên hệ với thực tiễn và rút ra được bài học cho bản thân.
HT: Vấn đáp, bình giảng.
TG: 5p
Hướng dẫn HS tự học.
Bài tập về nhà: Trong những ngày tháng chống Mĩ hào hùng, Chế Lan Viên viết:
Mỗi gié lúa đều muốn thêm nhiều hạt
Gỗ trăm cây đều muốn hóa nên trầm
Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt
Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng
Kết hợp những kiến thức lịch sử đã học với hình tượng trong bài cửa biển Bạch Đằng của Nguyễn Trãi, hãy viết một đoạn văn ngắn trình bày cảm nhận của em về hình tượng sông Bạch Đằng trong lịch sử.
Sơ Đồ Tư Duy Bạch Đằng Hải Khẩu
Tặng bạn đọc thêm các Sơ Đồ Tư Duy Bạch Đằng Hải Khẩu.
Tham khảo tác phẩm 🔻 Một Thời Đại Trong Thi Ca 🔻 Sơ Đồ Tư Duy, Các Mẫu Phân Tích
5 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Bạch Đằng Hải Khẩu Hay Nhất
Chia sẻ bạn đọc 5 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Bạch Đằng Hải Khẩu Hay Nhất.
Mẫu Phân Tích Bài Thơ Bạch Đằng Hải Khẩu Đặc Sắc – Mẫu 1
Nguyễn Trãi (1380-1442) có hơn một trăm bài thơ chữ Hán hiện sưu tầm được. Hoàng hậu Nguyễn Thị Anh (vợ vua Lê Thái Tông) và bọn gian thần đã âm mưu tàn độc, giết hại cả ba họ Đại công thần khai quốc Nguyễn Trãi và vợ ông là bà Lễ Nghi Học sĩ Nguyễn Thị Lộ, vào tháng Tám năm Nhâm Tuất 1442.
Mục tiêu chủ yếu là giết người diệt khẩu, nhằm che giấu việc bà Nguyễn Thị Anh đã có thai 3 tháng với Lê Nguyên Sơn, trước khi là vợ vua. Hơn hai chục năm sau, Nguyễn Trãi đã được vua Lê Thánh Tông xuống chiếu tẩy oan. Khoảng 15 vị Tiến sĩ đã được cử đi tìm kiếm di cảo thơ văn của Nguyễn Trãi còn lưu lạc trong dân gian.
Bên cạnh 254 bài thơ Nôm đã được tìm thấy, thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi, cho dù chỉ còn rất ít ỏi, nhưng phần nhiều đều là những bài thơ hay, rất hay. Một số bài đặc biệt hay. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc một trong nhiều bài thơ đặc sắc của Đại Thi hào dân tộc Nguyễn Trãi.
Nguyễn Trãi viết “Bạch Đằng hải khẩu” ở thời điểm nào? Theo một số nhà nghiên cứu lịch sử, thì cửa biển Bạch Đằng xưa là cửa sông Chanh ở phía Đông Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh ngày nay, không phải cửa Nam Triệu.
Tuy nhiên, sông Chanh cũng chỉ là một nhánh của hệ thống sông Bạch Đằng, mà nơi diễn ra các trận đánh của Ngô Quyền, của Lê Hoàn, của Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn chống giặc phương Bắc, lại bao chứa một khoảng không gian khá rộng, gồm cả hai bờ của dòng sông Bạch Đằng, phía Bắc thuộc tỉnh Quảng Ninh, phía Nam thuộc Hải Phòng bây giờ, xưa cũng là vùng đất An Bang, Xứ Đông cả.
Chỉ có thể ước đoán rằng Nguyễn Trãi đã từng ngồi trên chiếc thuyền buồm mà qua cửa Bạch Đằng, trong mùa gió bấc, mà chắc là từ bờ Bắc sang bờ Nam, nương theo gió, để “Nhẹ kéo buồm thơ qua cửa Bạch Đằng”…
Có thể thấy đây là thời điểm mà tâm trạng Nguyễn Trãi có phần phấn khích. Có lẽ, đây là thời điểm Nguyễn Trãi đã được phục chức, ở thời kỳ vua trẻ Lê Thái Tông (Lê Nguyên Long) trị vì. Ngoài các chức vụ được giao ở triều đình, Nguyễn Trãi còn được giao thêm việc quản lý quân dân hai đạo vùng Đông Bắc, một vùng đất biên cương chiến lược, cực kỳ quan trọng.
Ở thời điểm này, Nguyễn Trãi đi khinh lý khắp vùng Đông Bắc. Thi nhân cũng sáng tác khá nhiều bài thơ, cả chữ Hán và chữ Nôm. Bài thơ chữ Hán “BẠCH ĐẰNG HẢI KHẨU” được ra đời trong thời điểm và hoàn cảnh đó…
Gió bấc thổi trên biển, mang theo “khí lạnh”, nhưng chưa phải là gió cắt da cắt thịt. “Khí lăng lăng”, cũng mới chỉ là săn se lành lạnh, cuối thu, chưa ảnh hưởng nhiều tới việc đi lại, nên thi nhân mới có thể “Nhẹ kéo buồm thơ qua cửa Bạch Đằng”, cùng với một tâm trạng lâng lâng của một thi nhân đang làm chủ hoàn cảnh, làm chủ chính mình, tâm hồn có vẻ tiêu sái.
Hai câu 3 và 4, tả thực. Tả cảnh núi non và quang cảnh hai bờ sông Bạch Đằng:
Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc,
Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng.
Núi non lớp lớp nối tiếp nhau, chen vai thích cánh như luỹ như thành, như cá sấu bị chặt (ngạc đoạn), như cá kình bị mổ (kình khoa); rồi ngổn ngang chồng chất gò đống, ngòi lạch, hiện lên như thể những mũi qua chìm (qua trầm), những ngọn kích gãy (kích chiết) bên bờ sông…
Tả cảnh, liệt kê, liên tưởng so sánh khoa trương, nhưng là một sự liên tưởng rất chính xác, rất gợi cảm và hấp dẫn. Hơn thế, tả cảnh vật mà tác giả như đang dựng lại, đang tái hiện lịch sử oai hùng của những trận chiến ác liệt như thể vừa mới diễn ra ở chính nơi này, với một cảm hứng vô cùng hào sảng.
Người đọc có thể hình dung như thấy khúc sông này đang sôi lên tiếng hò reo dậy đất, tinh kỳ phấp phới, “Trận đánh thư hùng chửa phân/ Chiến luỹ Bắc Nam chống đối/ Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ/ Bầu trời đất chừ sắp đổi” (Trương Hán Siêu – BẠCH ĐẰNG GIANG PHÚ)…
Phải có một tâm hồn khoáng đạt, một tầm quan sát sâu rộng và khả năng liên tưởng nhạy bén, tài hoa, mới có thể sáng tạo được những câu thơ tràn đầy hào khí hào hùng như vậy!
Hai câu tiếp theo, luận về địa lợi. Bởi đang đối diện với núi non cảnh vật bên sông Bạch Đằng, cho nên tác giả mới “luận” về địa lợi, tức là cái sự lợi hại của hình thế núi non sông nước Bạch Đằng, xét về mặt quân sự.
Tác giả viết:
Quan hà bách nhị do thiên thiết,
Hào kiệt công danh thử địa tằng.
Bách nhị (hai trăm), đấy là mượn điển tích của sách SỬ KÝ bên Tàu, nói rằng hai vạn quân Tần, có thể đánh thắng được hai trăm vạn quân các nước chư hầu. Tức là hai người lính chốt giữ nơi hiểm yếu (cửa ải Hàm Cốc), có thể địch nổi trăm quân đối phương.
Cũng vậy, địa thế hiểm trở của Bạch Đằng, có thể làm tiêu vong bất kỳ đội quân xâm lược nào, cho dù chúng rất hùng hậu và thiện chiến. Trời đất đã sắp đặt cho ta quan hà hiểm yếu, ở chính nơi đây (thử địa tằng) để chống kẻ mạnh cuồng ngông và tàn bạo.
Đấy cũng chính là nơi anh hùng hào kiệt có thể lập nên công danh rạng rỡ, như Ngô Quyền, như Lê Hoàn, như Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn và biết bao anh hùng hào kiệt hữu danh và vô danh khác, nối tiếp nhau trong lịch sử chống xâm lăng, bảo vệ độc lập dân tộc.
Hai câu kết, cảm thán, suy tư về lịch sử.
Vãng sự hồi đầu ta dĩ hĩ,
Lâm lưu phủ ảnh ý nan thăng.
(Ngoảnh đầu xem việc cũ, than ôi/ Cúi xuống dòng sông mò bóng, tâm sự không thể nói nên lời)
Việc cũ, việc xưa (vãng sự), tức những trận chiến ác liệt từng diễn ra trên sông Bạch Đằng, những chiến công làm xoay chuyển trời đất, quay đầu nhìn lại, than ôi, tất cả đã trôi vào dĩ vãng. Bọn xâm lược đã tiêu vong, anh hùng lưu danh muôn thuở. Muôn lớp anh hùng về thiên cổ, chỉ còn dòng sông vẫn chảy hoài, mà nhục quân thù khôn rửa nổi! Trong lòng thi nhân trào lên bao nỗi cảm hoài mà “Cúi xuống dòng sông mò bóng, bao ý tình không sao nói hết ra được”…
Không nói, nhưng thật ra tình thơ ý thơ đã hiển lộ cả rồi. Chỉ là để cảm thán đấy thôi, cho ngân nga mãi tiếng lòng thi nhân đang dạt dào cảm xúc. “Cúi xuống dòng sông mò bóng” là một hình ảnh thơ rất lạ và giàu sức gợi hình, gợi cảm.
Ngồi trên chiếc thuyền nhẹ, kéo buồm thơ trên sông nước Bạch Đằng, rồi cúi xuống dòng sông lịch sử này mà “mò bóng”, mò chính cái bóng mình soi xuống, hay là mò cái bóng hình quá khứ xa xăm? Có lẽ là cả hai vậy! Và ý “nan thăng” (ý khó nói ra thành lời), cảm xúc không nói thành lời, không thể diễn đạt nên lời. Một ý thơ hàm xúc và độc đáo, nếu tôi không nhầm, thì mới chỉ thấy trong thơ của đại thi hào Nguyễn Trãi mà thôi!
Riêng câu cuối “Lâm lưu phủ ảnh ý nan thăng”, Trung tâm nghiên cứu Quốc học chép là “Lâm lưu phủ cảnh ý nan thăng” và dịch là “Trên sông ngắm cảnh, tình ý khó nói nên lời”…
Trộm nghĩ, nếu là chữ “phủ cảnh”, thì câu thơ bình thường, một nhà thơ cỡ “Thường thường bậc trung” cũng viết được. Chúng tôi tán thành bản chép của cụ Đào Duy Anh là “phủ ảnh”. “Lâm lưu phủ ảnh (Cúi xuống dòng sông mò cái bóng). Đấy mới là chữ của Nguyễn Trãi, là “thương hiệu Nguyễn Trãi”, bậc đại bút hàng đầu trong thơ ca nước Việt mấy ngàn năm.
Mẫu Phân Tích Bài Thơ Bạch Đằng Hải Khẩu Tiêu Biểu – Mẫu 2
Nhà thơ Nguyễn Trãi đến cửa biển Bạch Đằng thi hứng trào dâng, ông đã sáng tác bài thơ “Bạch Đằng hải khẩu” (Cửa biển Bạch Đằng) hào khí ngùn ngụt:
“Biển rung gió bấc thế bừng bừng,
Nhẹ cất buồm tha lướt Bạch Đằng.
Kình ngạc băm vàm non mấy khúc
Giáo gươm chìm gãy bãi bao tầng.
Quan hà hiểm yếu trời kia đặt
Hào kiệt công danh đất ấy từng.
Việc trước quay đầu ôi đã vắng
Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng…”
Sức hấp dẫn của “Cửa biển Bạch Đằng” trước tiên là ở không gian, sông rộng, cửa biển mở ra bát ngát, gió biển lùa vào cửa sông, sóng lớn. Nhà thơ dong buồm dạo chơi trên cửa sông Bạch Đằng:
“Biển rung gió bấc thế bừng bừng
Nhẹ cất buồm thơ lướt Bạch Đàng.”
Hình ảnh cánh buồm của nhà thơ kéo lên là nét cuối cùng hoàn mỹ bức tranh “Cửa biển Bạch Đằng”. Cảnh vừa hùng vĩ với núi non, sông nước, cửa biển, vừa thơ mộng với hình ảnh mong manh của cánh buồm trước gió. Nhà thơ không nói lộ ra như Cao Bá Quát “núi non đã kỳ tuyệt, lại thêm ta đến đây”, nhưng từng chi tiết, từng hình ảnh thơ khiến cho người đọc nghĩ đến lời của họ Cao.
Dạo thuyền trên sông nước, nhà thơ quan sát quang cảnh Bạch Đằng. Nhìn vào đâu nhà thơ cũng thấy dấu ấn của lịch sử:
“Kình ngạc băm vàm non mấy khúc,
Giáo gươm chìm gãy bãi bao tầng.”
Những hình ảnh ẩn dụ “Kình ngạc băm vằm” vừa miêu tả được cảnh núi non hiểm trở vừa gợi lại những chiến tích chống xâm lăng của cha ông xưa. Quang cảnh như một bãi chiến trường với “Giáo gươm chìm gãy bãi bao tầng”. Hình tượng thơ xứng với hào khí của người xưa, bộc lộ được niềm tự hào của tác giả đối với chiến tích Bạch Đằng.
Chuyển sang hai câu luận (5,6), tác giả suy tưởng về địa thế hiểm trở của núi non, về anh hùng hào kiệt của sông nước Bạch Đằng:
“Quan hà hiểm yếu trời kia đặt
Hào kiệt công danh đất ấy từng.”
Từ “hiểm yếu” dịch thoát mà hay. Trong nguyên bản chữ Hán là “bách nhị”, tác giả dùng chữ của Tư Mã Thiên khen địa thế của nước Tần là “bách nhị”, nghĩa là địa thế hiểm trở, quân ít có thể chống lại kẻ địch nhiều (hai người có thể địch nổi trăm người). Tác giả còn suy tưởng một cách thiêng liêng:
“Quan hà hiểm yếu trời kia đặt”
Trong văn chương mỗi khi hình ảnh trời xuất hiện đều tạo ra không khí thiêng liêng. Trong bài “Nam quốc sơn hà”, Lý Thường Kiệt cũng viết:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”
(Núi sông nước Nam vua Nam ở,
Cương giới đã ghi rõ trong sách Trời)
“Quan hà bách nhị do thiên thiết” này gắn liền với những anh hùng hào kiệt như Ngô Quyền (diệt quân Nam Hán thế kỉ IX), Trần Hưng Đạo (diệt quân Nguyên thế kỉ XIII). Từng chữ thơ thấm đẫm tinh thần tự hào của tác giả về non nước, về những bậc anh hùng hào kiệt đã có những chiến công lẫy lừng bảo vệ đất nước.
Từ cảm hứng lịch sử với giọng thơ hào hùng, nhà thơ chuyển sang dòng cảm nghĩ về thế sự với giọng bùi ngùi:
“Việc trước quay đầu ôi đã vắng
Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng…”
Tâm trạng của nhà thơ được thể hiện một cách kín đáo nhưng cũng không giấu được sự thất vọng của nhà thơ đối với xã hội bấy giờ. Theo ông, những chiến công oanh liệt bảo vệ đất nước của cha ông, những anh hùng hào kiệt chỉ còn là chuyện cũ, chuyện của lịch sử.
Còn thời đại của nhà thơ đang sống?. Một thời đại khởi đầu thật là oanh liệt, nhưng giờ đây chỉ còn một lũ quan bất tài, xiểm nịnh, ghen ghét người trung nghĩa. Nhà thơ viếng cảnh sông Bạch Đằng lòng bồi hồi khôn xiết:
“Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng…”
Nhiều nhà thơ đã đến cửa biển Bạch Đẳng lịch sử và đều có thơ để lại, nhưng có lẽ bài thơ “Bạch Đằng hải khẩu” (Cửa biển Bạch Đằng) của Nguyễn Trãi là bài thơ hay hơn cả. Quang cảnh Bạch Đằng được miêu tả vừa thơ mộng, vừa hùng vĩ, tráng lệ.
Những chiến tích của Bạch Đằng vừa là của anh hùng hào kiệt lại vừa là của khí thiêng sông núi. Cảm hứng lịch sử hòa quyện với cảm hứng thế sự khiến cho từng câu thơ có sự xôn xao ở bên trong và rung động lòng người đọc.
Mẫu Phân Tích Bài Thơ Bạch Đằng Hải Khẩu Ấn Tượng – Mẫu 3
Bài thơ “Bạch Đằng hải khẩu” rút trong tập thơ “ức Trai thi tập” hiện có 105 bài thơ chữ Hán. Trong “Nguyễn Trãi toàn tập” học giả Đào Duy Anh xếp bài thơ này vào số 45/105 bài.
Bạch Đằng là dòng sông lịch sử oai hùng. Năm 938 Ngô Quyền chém đầu tướng Hoàng Thao tiêu diệt quân Nam Hán xâm lược. Năm 981 Lê Hoàn đánh bại giặc Tông. Năm 1288 Trần Quốc Tuấn đại phá giặc Nguyên Mông bắt sống ồ Mã Nhi. Nhiều nhà thơ đã viết về sông Bạch Đằng.
Bài thơ “Cửa biển Bạch Đằng” ca ngợi sông Bạch Đằng hùng vĩ là mồ chôn quân xâm lược. Nhìn dòng sông, Nguyễn Trãi tự hào về cửa ải hiểm trở, tự hào về anh hùng hào kiệt, rồi lòng man mác bâng khuâng.
Bao trùm toàn bài thơ là cảm hứng lịch sử, là niềm tự hào dân tộc. Bài thơ chữ Hán viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Ngôn ngữ cổ kính trang trọng, hàm súc.
Nguyễn Trãi đến thăm cửa biển Bạch Đằng với cánh buồm thơ lộng gió tâm hồn thi sĩ. Gió bấc thổi mạnh trên mặt biển. Hình ảnh “cánh buồm thơ nhẹ” là một nét vẽ thần tình và tài hoa:
“Biển rung gió bấc thế bừng bừng
Nhẹ cất buồm thơ lướt Bạch Đằng”.
Ngắm biển trời bát ngát mênh mông, nhà thơ xúc động miêu tả cảnh núi non, bờ bãi nơi cửa biển Bạch Đằng bằng hai nét vẽ ẩn dụ hoành tráng, cái cao cái thấp, cái gần cái xa, đăng đối gợi cảm:
“Kình ngạc băm vằm non mấy khúc,
Giáo gươm chìm gãy bãi bao tầng”.
Núi nhấp nhô từng khúc như cá sấu bị chặt, cá kình bị mổ. “Kình ngạc” trong thơ cổ tượng trưng cho lũ giặc dữ; trong văn cảnh chỉ lũ giặc phương Bắc bị quân ta tiêu diệt trên Bạch Đằng giang. Bờ bãi lớp lớp như giáo gươm (quân xâm lược) bị chìm gãy chồng chất lên.
Cũng là hình ảnh ẩn dụ gợi tả sự thất trận của lũ giặc Nam Hán, giặc Tống, giặc Nguyên Mông thuở nào. Đây là hai câu thơ có hình tượng kì vĩ, hàm súc, giàu chất liên tưởng, mang cảm hứng lịch sử oai hùng. Sông Bạch Đằng, cửa biển Bạch Đằng là tử địa quân xâm lược phương Bắc:
“Bạch Đằng một cõi chiến tràng
Xương phơi trắng đất, máu màng đỏ sông”.
(Đại Nam Quốc sử diễn ca)
Thơ trở nên sâu lắng trong suy tưởng. Nguyễn Trãi khẳng định quan hà hiểm yếu. Sông Bạch Đằng hiểm yếu do thiên nhiên sắp đặt ra. Cũng là nơi để bậc anh hùng dụng binh chông giặc, lập nên bao chiến công lừng lẫy: “Tiếng thơm đồn mãi – Bia miệng chẳng mòn” (Trương Hán Siêu). Phép đốì tạo nên vần thơ đẹp, ca ngợi núi sông hiểm trở, dân tộc Đại Việt có nhiều anh hùng hào kiệt:
“Quan hà hiểm yếu trời kia đặt,
Hào kiệt công danh đất ấy từng”.
Tên tuổi những anh hùng như Ngô Quyền, Lê Hoàn, Trần Quốc Tuấn… bất tử với sông Bạch Đằng lịch sử.
Giọng thơ càng về cuối càng thiết tha sâu lắng. Đối cảnh mà sinh tình. Đến dòng sông nhìn cảnh mà nhớ bóng người xưa, lòng dạ cảm hoài bâng khuâng khôn xiết kể. Hoài niệm tạo nên chất thơ. Tự hào, nhớ thương, nghĩ về cái còn và cái mất, cái hiện tại và cái đã qua:
“Việc trước quay đầu ôi đã vắng
Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng”.
Cũng nói về hồn thiêng sông núi, cũng nói về đất nước và con người Việt Nam, ca ngợi sức mạnh Việt Nam mà Nguyễn Trãi chỉ nói về một cửa biển và một dòng sông Bạch Đăng. Mỗi chữ, mỗi câu thơ, mồi hình ảnh về cửa biển Bạch Đằng mà nhà thơ nói đến như nâng cao tầm vóc lớn lao của dân tộc để chúng ta yêu thêm sông núi tổ quôc thân yêu, yêu thêm truyền thống anh hùng của dân tộc và tin tưởng vào tiền đồ xán lạn của đất nước muôn đời.
“Cửa biển Bạch Đằng” là bài thơ kiệt tác tiêu biểu cho hồn thơ trang trọng hào hùng và tráng lệ của Nguyễn Trãi, mãi mãi “lấp lánh sao Khuê”.
Mẫu Phân Tích Bài Thơ Bạch Đằng Hải Khẩu Chọn Lọc – Mẫu 4
Bài thơ “Cửa biển Bạch Đằng” rút trong “, một trong những bài thơ kiệt tác ca ngợi đất nước và nhân tài Việt Nam. Bài thơ như một thiên bút kí trữ tình về một cuộc du ngoạn tuyệt đẹp của thi nhân:
“Biển lùa gió bấc thổi băng băng
Nhẹ kéo buồm thơ vượt Bạch Đằng.
Ngạc chặt kình băm non lởm chởm,
Giáo chìm gươm gãy bãi dăng dăng.
Quan hà hiểm trở, Trời kia dựng
Hào kiệt công danh đất ấy từng.
Chuyện cũ ngoảnh đầu, ôi đã dứt
Dòng trôi tìm bóng dạ bâng khuâng
Mở đầu bài thơ là hình ảnh “cánh buồm căng gió lướt nhẹ vượt Bạch Đằng Giang”. Một không gian mênh mông, bao la biển Trời sông nước. Gió biển lùa thổi mạnh, con thuyền lướt “băng băng “trên mặt biển. Cảnh quan bao la ấy của biển trời đã khơi dậy một tứ thơ khoáng đạt dâng lên dào dạt trong tâm hồn phơi phới của thi nhân. Du khách cùng với con thuyền và cánh buồm thơ đang sống trong tâm thơ vô cùng ung dung, thư thái:
“Biển lùa gió bấc thổi băng băng,
Nhẹ kéo buồm thơ vượt Bạch Đằng”.
Ức Trai đến với dòng sông, cửa biển không chỉ để thưởng ngoạn vẻ đẹp kì thú của thiên nhiên mà còn muốn tìm lại một thời đã qua, một thời oanh liệt về dòng sông lịch sử này. Hai câu thực là bức tranh hoành tráng về dòng sông, cửa biển Bạch Đằng:
“Ngạc chặt kình băm non lởm chởm,
Giáo chìm gươm gãy bãi dăng dăng”,
Núi, sông, bờ bãi hiện lên qua vần thơ và các hình ảnh ẩn dụ: “Ngạc”, “kình”, “gươm giáo “mang ý nghĩa tượng trưng. Trên cửa biển Bạch Đằng, núi trập trùng như bức trường thành chẳng khác nào đàn cá ngạc, cá kình – lũ giặc phương Bắc bị nhân dân ta căm giận băm vằm và chặt thành từng khúc.
Bờ bãi nhấp nhô “dăng dăng” kéo dài vô tận như giáo gươm của lũ giặc ngoại xâm bị nhân dân ta đánh chìm, bẻ gãy chất đống mà thành. Phép đối thần tình tạo nên vần thơ cân xứng hài hòa, cảnh vật cao thấp, xa gần đầy ấn tượng. Chất thơ dạt dào cảm hứng lịch sử đã đem đến cho người đọc những liên tưởng đầy tự hào về dòng sông và chiến công oai hùng của thiên nhiên.
Người đọc như cùng nhà thơ sống lại những năm tháng hào hùng thuở trước. Chính trên dòng sông Bạch Đằng này năm 938, Ngô Quyền đại thắng giặc Nam Hán, chém chết thái tử Hoàng Thao; Năm 1288, Trần Quốc Tuấn tiêu diệt 3 vạn quân Mông – Nguyên, bắt sống Ô Mã Nhi. Phải có một tấm lòng yêu nước và niềm tự hào lân tộc mãnh liệt, ức Trai mới viết nên những vần thơ tráng lệ như vậy.
Tiếp theo phần luận phép đối vẫn được sử dụng sáng tạo, cảm hứng lịch sử của thi nhân bừng sáng, ý thơ càng trở nên thâm trầm sâu sắc. Bài học giữ nước về địa lợi, về nhân hòa, về hào kiệt được nhà thơ nói lên rất thấm thía:
“Quan hà hiểm trở Trời kia dựng,
Hào kiệt công danh đất ấy từng”
Địa thế Bạch Đằng hiểm yếu, là tử địa đối với lũ giặc phương Bắc, cửa biển lòng sông hiểm yếu ấy là quà tặng của thiên nhiên ban cho nhân dân ta để bảo vệ xã tắc “vững bền muôn thuở”. Đất nước ta, dân tộc ta, anh hùng hào kiệt thời nào cũng có. Họ đã đem tài thao lược bài binh bố trận để lập nên những chiến công bất tử trên lòng sông Bạch Đằng.
Quan hà với hào kiệt, trời với đất, được đặt trong thế đăng đối, Ức Trai muốn khắc sâu tư tưởng yêu nước chống xâm lăng. Cuộc chiến đấu chống ngoại xâm để bảo vệ Tổ quốc Đại Việt từng diễn ra trên Bạch Đằng là chính nghĩa, lòng dân hợp lẽ Trời nên dã chiến thắng vẻ vang.
Hai câu kết, giọng thơ sâu lắng với bao cảm xúc mênh mang. Niềm cảm hoài dào dạt. Tâm hồn thi nhân như chan hòa với sông núi, mây Trời, sông nước. Tâm trí người anh hùng “Bình Ngô” sống lại một thời quá khứ oanh liệt của tiền nhân, suy tư trước những “việc cũ”, tìm lại “bóng” những anh hùng thuở trước mà lòng bâng khuâng. Câu thơ cảm thán vang lên bồi hồi, luyến tiếc, gợi lên bao nỗi nhớ thương man mác:
“Việc cũ ngoảnh đầu ôi đã dứt
Dòng trôi tìm bóng dạ bâng khuâng”
Nguyễn Trãi là nhà thơ viết nhiều, viết hay về cảnh trí thiên nhiên với một tình yêu tha thiết đối với tạo vật, với một cảm hứng lịch sử tràn đầy tình yêu nước và niềm tự hào dân tộc:
“Núi Dục Thúy mưa tan, non tựa ngọc,
Cửa Đại An triều dậy, nước ngang Trời,
(Vong Doanh)
“Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai”
(Côn Sơn ca)
Đằng sau những cảnh núi sông tráng lệ là hình ảnh nhân dân anh hùng được nhà thơ ca ngợi với tất cả niềm tự hào về sức mạnh nhân nghĩa Việt Nam.
Đọc bài thơ “Cửa biển Bạch Đằng”, đã cảm nhận sâu sắc thêm vế đối của người xưa: “Đằng Giang tự cổ huyết do hồng – Ta thêm yêu đất nước và con người Việt Nam, tự hào về những trang sử chống xâm lăng của nhân dân ta. Tâm hồn Ức Trai đã hóa núi sông ta.
Mẫu Phân Tích Bài Thơ Bạch Đằng Hải Khẩu Nổi Bật – Mẫu 5
Dòng sông Bạch Đằng gắn với chiến công lừng lẫy của đất nước đã là nguồn cảm hứng cho nhiều nhà thơ các thế hệ khác nhau của dân tộc.
Chúng ta đã từng biết đến thơ về Bạch Đằng của Trần Minh Tông, Trần Lâu, “Bài phú sông Bạch Đẳng” cùa Trương Hán Siêu, “Bạch Đằng hải khẩu” của Nguyễn Trãi, “Quá Bạch Đằng giang”, “Xuất Bạch Đằng hải môn tuấn An bằng của Lê Thánh Tông… Mỗi nhà thơ cảm nhận Bạch Đằng với một tâm trạng và diễn đạt điều đó bằng những bút pháp riêng.
Nguyễn Trãi qua Bạch Đằng vào một ngày đầy gió mạnh:
“Biển lùa gió bấc thổi băng băng”.
Nguyên văn “khi lăng lăng” mà có người dịch là thế bừng bừng. Khí lãng lăng như gợi nhớ lại không khí trận đánh mấy năm trước. Bây giờ nhà quân sự và cũng là nhà thơ Nguyễn Trãi đang có mặt ớ giữa nơi chiến trường xưa. Nhưng không chỉ đem con mắt của người làm tướng để xem chiến địa, mà chủ yếu như một nhà thơ du ngoạn.
Vi thế con thuyền của ông rất thi sĩ giương cánh buồm thơ:
“Nhẹ kéo buồm thơ vượt Bạch Đằng“.
Chữ “quá” có nghĩa là vượt hoặc qua. Nhưng hình như dịch vượt Bạch Đằng thì quá sát và do đó mất đi cái vẻ thanh thoát và bay bổng. Câu thơ dịch của Nguyên Đình Hồ có lẽ đắt hơn:
“Nhẹ cất buồm thơ lướt Bạch Đằng”.
Cửa biển Bạch Đằng bát ngát trời mây núi non hùng vĩ là “danh thắng núi sông vào bậc nhất”, “bên tá sóng nước ngút trời núi non đứng sừng sững”. Nguyễn Trãi đã chú thích về cửa biển này như vậy dưới bài thơ của mình. Có thể có nhiều cách cảm nhận và suy tư trước phong cảnh Bạch Đằng. Nhưng Nguyền Trãi vốn là nhà quân sự – nhà thơ – nên cách cảm nhận mang dấu ấn độc đáo, đượm màu sắc lịch sử hào hùng:
“Ngạc chặt kình băm non lởm chởm,
Giáo chìm gươm gãy bãi giăng giăng”.
Xin hãy chú ý một chút về cách nhìn núi và nhìn bãi bờ sông. Cũng là một cách so sánh, nhưng nếu viết: Núi như cá sấu bị chặt, cá kình bị phanh thì trước hết vẫn nhìn thấy núi. Nhưng Nguyễn Trãi tả:
“Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc”.
Rõ ràng ấn tượng mạnh, ấn tượng bao trùm là cảnh cá sấu bị chém, cá kình bị băm. Đó là cảnh núi non, nhưng trước hết đó là cảnh quân giặc dữ bị băm vằm trên cửa biển này mấy trăm năm trước. Cũng như thế, khi nhìn bờ bãi thì chưa thấy bờ mà thấy tầng tầng giáo gãy sương chìm, ở đây cảm hứng lịch cứ sống động mãnh liệt đã làm cho quang cảnh chiến địa được đẩy lên bình diện thứ nhất, còn cảnh thực thì lui xuống bình diện thứ hai.
Cần phải so sánh thêm một chút để thấy rõ điều này. Cùng với hồn thơ ấy, cũng tả núi ờ biến san sát hùng vĩ, như núi ở Vân Đồn:
“Đường Vân Đồn núi rồi lại núi”.
Muôn hộc núi xanh đen tựa những làn tóc màu xanh rủ xuống núi Vân Đồn. Còn đây là núi ờ cửa biển Thần Phù:
“Ngân ngọn núi sát bờ bày ra như măng mộc”.
(“Qua cửa biển Thần Phù”)
Điều này nói lên sự đa dạng trong cách cảm nhận của nhà thơ Nguyễn Trãi, nhưng trước hết cho thấy chính cảm hứng lịch sử đã khiến nhà thơ nhìn cảnh núi Bạch Đằng bằng cách nhìn như vậy.
Cảnh núi hiểm trở là cảnh của thiên nhiên. Nhưng con người anh hùng và chiến công của họ cũng góp phần làm cho cảnh sắc trở nên nổi tiếng. Hai câu thơ phần luận tiếp nối cảm hứng lịch sử ở trên.
Sự đối sánh giữa núi non hùng vĩ và hào kiệt anh hùng gợi thêm suy tưởng. Có lẽ núi sông của thiên nhiên tạo ra như đã dành sẵn để mãi mãi ghi chiến công của anh hùng hào kiệt. Và người anh hùng, tuy cuộc đời là hữu hạn nhưng với chiến công họ có thể trường tôn với núi sông:
“Việc cũ ngoảnh đầu ôi đã dứt,
Dòng trôi tìm bóng dạ bâng khuâng’’.
Nhà thơ Nguyễn Trãi thăm Bạch Đằng là để tìm lại người xưa với việc xưa. cảnh thì vẫn như xưa đó, nhưng việc xưa với người xưa nào thấy đâu ? Đến đây ta đoán ra vì sao trong câu thơ đầu tiên Nguyễn Trãi viết “gió bấc”. Ngày 8 tháng 3 năm Mậu Tí 1288 quân ta đại thắng trận Bạch Đằng.
Rất có thể mấy trăm năm sau Nguyễn Trãi đến thăm Bạch Đằng đúng vào ngày, hoặc đúng vào thời gian gần ngày chiến thắng nhất. Đó là khi còn có gió bấc thổi vào mọi cảnh vật gợi nhớ chiến địa rõ ràng hơn. Nhìn lại “vãng sự”, ngắm lại cảnh xưa vào thời điểm ấy xiết bao ý nghĩa.
Là một nhà quân sự, là một người đã giúp Lê Lợi làm nên những chiến công hào hùng của dân tộc ta ở thế kỉ XV, những chiến công có thế sánh ngang tầm vóc của các bậc hào kiệt thời trước, Nguyễn Trãi càng dẻ dàng cảm xúc và hoài niệm. Một nổi cảm xúc bâng khuâng xao xuyến trong lòng trước cảnh sắc núi sông một thời lừng lẫy chiến công.
Có điều đáng nói là con người lừng danh hết sức khiêm tốn, ông cảm xúc thuần túy như là một công dân, một nhà thơ trước lịch sử chứ không hề với tư cách người làm nên lịch sử. Vì thế cảm hứng của Nguyễn Trãi gần gũi và thân thuộc với bất kì một người Việt Nam yêu nước nào trước lịch sử của cha ông.
Bài thơ cho thấy thêm một nét đẹp trong tâm hồn phong phú trong sáng như sao Khuê của Nguyễn Trãi, nhà thơ – người anh hùng dân tộc thế kỉ XV.