Nguyệt Cầm [Xuân Diệu]: Nội Dung Bài Thơ + Phân Tích

Nguyệt Cầm [Xuân Diệu] ❤️️ Nội Dung Bài Thơ, Phân Tích ✅ Tham Khảo Thông Tin Về Hoàn Cảnh Sáng Tác, Bố Cục, Ý Nghĩa Tác Phẩm Thơ.

Nội Dung Bài Thơ Nguyệt Cầm Của Xuân Diệu

Bài thơ Nguyệt Cầm là một thi phẩm đặc sắc của ông hoàng thơ tình Xuân Diệu. Nội dung bài thơ như thế nào thì mời bạn đón đọc ngay sau đây.

Nguyệt cầm
Tác giả: Xuân Diệu

Trăng nhập vào đây cung nguyệt lạnh,
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần.
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm!
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.

Mây vắng, trời trong, đêm thuỷ tinh;
Lung linh bóng sáng bỗng rung mình
Vì nghe nương tử trong câu hát
Đã chết đêm rằm theo nước xanh.

Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời,
Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi…
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận:
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người…

Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê.
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề
Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.

Đọc hiểu tác phẩm 🔰Tương Tư Chiều [Xuân Diệu]🔰 Nội Dung Bài Thơ, Phân Tích

Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Nguyệt Cầm

Bài thơ Nguyệt Cầm nằm trong tập thơ Gửi hương cho gió được xuất bản năm 1945 của Xuân Diệu.

Về bối cảnh bài thơ ra đời thì giai đoạn 1930 – 1945, thơ ca lãng mạn Việt Nam chịu sự ảnh hưởng nhiều của thi pháp thơ tượng trưng ở Pháp, tức là “thế giới thống nhất trong tình âm u, huyền bí của nó” hay “hương sắc và âm thanh trong không gian tương ứng với nhau” (Bôđơle).

Và thời điểm này cũng chính là thời điểm bài thơ Nguyệt Cầm của Xuân Diệu ra đời. Bài thơ chịu ảnh hưởng của thuyết giao ứng của Baudelaire và được sáng tác theo quan niệm của trường phái biểu tượng về một vũ trụ huyền bí chỉ có thể được cảm nhận nhờ sự giao thoa của nhiều giác quan.

Nguyệt Cầm Là Gì

Nguyệt cầm là gì? Theo đó “Nguyệt” có nghĩa là trăng, “Cầm” có nghĩa là cây đàn, vì vậy Nguyệt cầm có nghĩa là cây đàn nguyệt. Đây là nhạc cụ dây gẩy xuất xứ từ Trung Quốc được du nhập vào Việt Nam, trong Nam còn gọi là đờn kìm. Loại đàn này có hộp đàn hình tròn như mặt trăng nên mới có tên là “đàn nguyệt”.

Giới thiệu thêm🍃Gửi Hương Cho Gió [Xuân Diệu]🍃 Nội Dung, Ý Nghĩa

Ý Nghĩa Bài Thơ Nguyệt Cầm

Bài thơ Nguyệt cầm thể hiện sự giao cảm giữa hương sắc và thanh âm, giữa đất trời và cỏ cây, giữa vũ trụ và con người, giữa trần gian và âm cảnh. Thông qua bài thơ, ta thấy được trực giác mẫn cảm của Xuân Diệu, ông đã nắm bắt giây phút hội ngộ thiêng liêng giữa thực tại và siêu hình, giữa nội tâm và ngoại giới để đạt tới thăng hoa trong tác phẩm nghệ thuật.

Đọc Hiểu Bài Thơ Nguyệt Cầm

Gợi ý trả lời các câu hỏi trong phần đọc hiểu bài thơ Nguyệt Cầm.

👉 Câu 1: Xác định thể thơ của bài thơ Nguyệt Cầm?

Đáp án: Thể thơ của văn bản: Thơ bảy chữ

👉 Câu 2: Nêu tên và cho biết tác dụng của biện pháp tu từ có trong câu thơ sau: Sương bạc làm thinh, khuya nín thở.

Đáp án: Biện pháp tu từ: Nhân hóa. Nhân hóa hình ảnh “sương bạc”; “khuya” cũng có hành động như con người: làm thinh; nín thở.

⇒ Tác dụng của biện pháp tu từ: giúp câu thơ trở nên gợi hình, gợi cảm. Khắc họa hình ảnh thiên nhiên một các gần gũi, sinh động và giàu sức sống. Qua đó, thể hiện sự cảm nhận tinh tế, tâm trạng sầu não của tác giả trong đêm trăng.

👉 Câu 3: Nêu cách hiểu của anh chị về tình cảm của tác giả được thể hiện trong câu “Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần.”

Đáp án: Qua câu thơ” Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần” thể hiện tâm trạng buồn thương, đầy suy tư, cảm xúc của tác giả. Kết hợp với cách ngắt nhịp 2/2/3, lại càng như làm nổi bất nét u sầu, nhiều tâm sự của người thi sĩ.

👉 Câu 4: Theo anh chị, nhà thơ Xuân Diệu muốn bộc lộ tâm sự gì khi viết:

Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê.
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề

Đáp án: Khi viết “Bốn bề ảnh nhạc: biển pha lê” nhà thơ Xuân Diệu muốn bộc lộ tâm sự về cảm giác chơi vơi trước một khung cảnh mênh mông, rộng lớn và vô định. Con người thì nhỏ bé với kiếp số hữu hạn mà cuộc sống là vô tận. Nhận thức được sự nhỏ bé, bế tắc của bản thân, nhà thơ khao khát muốn tìm kiếm những điều tinh tế, giao cảm với đời.

Gợi ý tìm hiểu ❤️️Bài Thơ Yêu Của Xuân Diệu❤️️ Tìm Hiểu Nội Dung, Nghệ Thuật

Trăng Nhập Vào Dây Cung Nguyệt Lạnh Là Gì

Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh nghĩa là gì? Cùng Thohay.vn giải mã ngay sau đây nhé!

“Trăng nhập”, Xuân Diệu ở đây ám chỉ trăng là một linh hồn nhạy cảm, đang đi tìm chỗ tựa nương, linh hồn ấy nhập vào “dây cung nguyệt lạnh” càng làm cho cảm giác lạnh lẽo tăng thêm. Nhưng câu thơ không chỉ đơn giản là cảm giác về xúc giác, thị giác. Dường như tác giả đang định lý giải “tại sao lại gọi là đàn nguyệt?”.

Cây đàn nguyệt là đàn trăng và trăng cũng là một cây đàn, tác giả dùng chất liệu ánh sáng và âm thanh để diễn tả âm sắc của “đàn nguyệt”. Vì vậy câu thơ cho ta hai cách hiểu: nếu trăng là một cây đàn thì giọt đàn là giọt trăng, nếu đàn là trăng thì âm thanh là sắc trăng.

Nghệ Thuật Bài Thơ Nguyệt Cầm

Tổng kết các giá trị nghệ thuật trong bài thơ Nguyệt Cầm.

  • Bài thơ Nguyệt Cầm của Xuân Diệu thuộc thể thơ 7 chữ.
  • Sử dụng thủ pháp xáo trộn hình ảnh, biến cái thực là “dây đàn” thành cái ảo là “trăng”.
  • Hình ảnh thơ cụ thể, sinh động, mang tính gợi rất cao.
  • Nhà thơ đã dùng âm thanh để miêu tả cái hình ảnh, ánh trăng buông xuống như những giọt lệ sầu thương.

Phân tích bài thơ🌿Nụ Cười Xuân Xuân Diệu 🌿 Chi tiết

4+ Mẫu Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Nguyệt Cầm Hay Nhất

Gửi tặng bạn các mẫu văn cảm nhận, phân tích bài thơ Nguyệt Cầm của Xuân Diệu hay nhất.

Mẫu Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Nguyệt Cầm Hay

Trong văn chương của dân tộc cũng như văn chương của thế giới, ta có thể thấy hình ảnh ánh trăng là một hình ảnh rất đỗi quen thuộc trong cảm hứng thi ca của các thi nhân, đã có rất nhiều những tác phẩm hay, thành công với các đề tài này.

Trăng được khai thác ở nhiều khía cạnh, truyền tải, biểu đạt cho những nội dung, đề tài khác nhau. Vì vậy có thể nói viết về trăng không còn là một đề tài mới mẻ, đây cũng là áp lực cho các thế hệ thi nhân sau đó.

Nhưng đến lượt của mình, Xuân Diệu đã thể hiện một cách mới mẻ, sáng tạo về cái đề tài tưởng chừng như đã quá đỗi quen thuộc ấy, không chỉ lựa chọn cho mình một điểm nhìn, một khía cạnh mới để khám phá, mà Xuân Diệu còn đặt hình ảnh quen thuộc ấy với một sự vật ngỡ không mấy liên quan, đó chính là tiếng đàn cầm, tạo nên một tác phẩm thành công mang tên “Nguyệt cầm”.

“Nguyệt cầm” là bài thơ Xuân Diệu viết để thể hiện những cảm xúc, tình cảm đầy chất trữ tình, đặc biệt là những ẩn ý của cảm xúc ấy được thể hiện qua một hình ảnh mới lạ “nguyệt cầm”. Với nhan đề của bài thơ này ta có thể liên tưởng về sự hòa quyện của ánh trăng trong bản nhạc của người nghệ sĩ, sự hòa quyện này không chỉ tạo nên khung cảnh tuyệt sắc mà còn tạo ra âm thanh du dương, quyến rũ, hấp dẫn người nhìn, người xem.

Mặt khác cũng gợi đến bóng dáng của nhân vật trữ tình với cây đàn cầm gảy trong đêm trăng. Nhưng đó chỉ là cảm nhận đầu tiên của độc giả về nhan đề của bài thơ, nhưng liệu mục đích, ý niệm của nhà thơ có phải vậy không thì còn cần phải xem xét, tìm hiểu:

Trăng nhập vào đây cung nguyệt lạnh,
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần.
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm!
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.

Không gian được nhà thơ Xuân Diệu gợi mở ra ở đây chính là không gian của một đêm trăng, đối tượng soi chiếu của ánh trăng đó được gợi nhắc cụ thể ở đây, chính là “cung nguyệt”. Thể hiện sự tiếp xúc giữa ánh trăng với cung đàn, Xuân Diệu đã thể hiện thông qua động từ “nhập”, từ này có sức ám ảnh mạnh mẽ, vì nó không chỉ gợi ra sự giao hòa của trăng- đàn mà nó còn gợi ra sự hợp nhất thành một giữa chúng.

Nhưng sự giao hòa tuyệt đối này gợi ra cho người đọc sự choáng ngợp, đồng thời cảm nhận được hơi lạnh vô hình len lỏi, tác động vào tâm trí, trong dòng cảm nhận “Trăng nhập vào đây cung nguyệt lạnh”.

Ngay câu thơ đầu tiên, nhà thơ Xuân Diệu đã tạo cho bài thơ một âm hưởng trầm buồn, và nỗi buồn ấy được thể hiện ngay trong câu thơ sau đó “Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần”, vầng trăng trong cái nhìn của nhà thơ cũng đâu phải là một hiện tượng của thiên nhiên mà nó như một con người, có sự đa cảm nhất định, biết thương, biết nhớ.

Tương đồng với dòng xúc cảm của vầng trăng, cung đàn dường như cũng u uất, lặng lẽ trong giai điệu “Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm”, và trong cách miêu tả của nhà thơ, ta lại liên tưởng đến đàn và trăng như một đôi tình nhân, và giữa họ là một chuyện tình buồn.

“Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân”, “giọt rơi” ở đây có thể là ánh trăng, hiểu như vậy ta có thể thấy được cái độc đáo trong cảm nhận của Xuân Diệu, vì nhà thơ đã dùng âm thanh để miêu tả cái hình ảnh, ánh trăng buông xuống như những giọt lệ sầu thương.

Mây vắng, trời trong, đêm thuỷ tinh;
Lung linh bóng sáng bỗng rung mình
Vì nghe nương tử trong câu hát
Đã chết đêm rằm theo nước xanh.

Không gian trữ tình tiếp tục được nhà thơ mô tả bằng những hình ảnh cụ thể, sinh động. Đó chính là là không gian của bầu trời đêm “Mây vắng, trời trong, đêm thủy tinh”, không gian ấy tuy có trăng nhưng vắng những đám mây lại gợi ra một không gian bị thu hẹp, “trời trong” vừa gợi ra độ sâu, vừa gợi ra độ trong của bầu trời, khi ấy, không gian buổi đêm như “thủy tinh”.

Và ánh sáng của vầng trăng trên bầu trời ánh chiếu xuống không mang cảm giác yên bình như thường thấy mà nó sáng “lung linh”, tức ánh sáng đẹp nhưng lại mang đến sự rung mình cho người nhìn, người đón nhận nó.

Và nguyên nhân của sự rung mình đó cũng được nhà thơ lí giải, đó là sự tích về cái chết của người phụ nữ, khi người phụ nữ ấy cất tiếng hát rồi đắm mình trong dòng chảy của dòng nước xanh, vào đúng thời khắc đêm rằm, khi ánh trăng cũng đẹp, cũng lung linh như vậy.

“Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời
Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi…
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người”.

Từ những nét phác thảo thoáng qua, nhà thơ Xuân Diệu đã đi đặc tả cụ thể những chi tiết, hoàn thiện những nét vẽ cụ thể của bức tranh thơ. Không gian đêm trăng là không gian của tiết trời vào thu, vì vậy mà ánh trăng như càng thêm tỏ rạng “Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời”.

Và trong không gian tuyệt sắc của không gian đêm trăng đó, vang vọng đâu đó tiếng đàn đầy u uẩn, bởi nó lạnh như nước, làm tái tê cõi lòng người nghe “Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi..”, câu thơ gợi cho người đọc liên tưởng cho người đọc liên tưởng đến một thứ âm thanh réo rắt, lạnh lẽo, khắc khoải đến tận tâm can. Và sở dĩ tiếng nhạc bi thương, réo rắt như thế là bởi chính chủ thể của tiếng đàn ấy đang đeo mối sầu không có người dãi tỏ “Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người”.

“Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề
Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê”.

Ở khổ thơ cuối này, ta có thể thấy cách mô tả của nhà thơ Xuân Diệu rất độc đáo, bởi nhà thơ một lần nữa lấy cái hình ảnh để đặc tả cái âm thanh “Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê”, rõ ràng là âm thanh của cung đàn đấy nhưng lại được thể hiện qua hình ảnh đầy sức gợi tả “ánh”, với cách dùng từ này tạo ra được sức hấp dẫn cũng như các cung bậc cảm xúc mà tiếng nhạc đó mang lại.

Sự đẹp đẽ của tiếng nhạc đó được Xuân Diệu liên tưởng đến vẻ đẹp của “biển pha lê”, cái đẹp mênh mông, trong sáng. Đến đây nhân vật trữ tình mới xuất hiện trong sự suy tư bộn bề “Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề”, không gian xung quanh cũng như đồng cảm với thi nhân, như cảm nhận được nỗi buồn, sự bỗi bề ấy mà “làm thinh”, “nín thở”. Âm thanh tiếng nhạc vẫn réo rắt, không chỉ đánh động tâm can con người mà còn đánh động đến cả sao Khuê “Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê”.

Bài thơ “Nguyệt cầm” của nhà thơ Xuân Diệu là một bài thơ mang những cảm xúc rất đặc biệt của nhà thơ, bởi độc giả thường quen với hồn thơ Xuân Diệu, một hồn thơ dạt dào cảm xúc tươi mới, sự hối hả, vội vàng đầy đắm say với tình yêu, với cảnh sắc, vẻ đẹp của “thời tươi” thì trong bài thơ này tuy vẫn đạt ào cảm xúc, song lại mang âm vị trầm buồn, chất chứa những nỗi suy tư, những bí mật không thể dãi bày, không thể tâm sự.

Mẫu Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Nguyệt Cầm Ngắn Gọn

Xuân Diệu cũng như các nhà thơ trong phong trào Thơ mới đều chịu ảnh hưởng của thuyết Tương giao. Trong bài thơ “Huyền diệu”, Xuân Diệu đã lấy câu thơ của thi sĩ tượng trưng Pháp Bauxdelaire làm đề từ “Les parfums, les coulcurs et les sons se répondent” (Hương thơm, màu sắc và âm thanh hòa điệu).

Xuân Diệu là thi sĩ xúc cảm bằng cảm giác nên thuyết Tương giao (Correspondance) ảnh hưởng đến thơ Xuân Diệu sâu đậm nhất. Nhưng hồn thơ Xuân Diệu có gốc rễ sâu xa trong nền văn hóa dân tộc nên thuyết Tương giao đến với Xuân Diệu cũng có nét độc đáo riêng.

Ví như thời đó âm nhạc phương Tây đã du nhập vào nước ta, những nhạc cụ như vĩ cầm, dương cầm, phong cầm không còn xa lạ với nền âm nhạc của nước nhà, nhưng Xuân Diệu lại xúc động với tiếng đàn Nguyệt (Nguyệt cầm) một cây đàn của phương Đông, đặc biệt là ở Trung Quốc và Việt Nam.

Cây đàn Nguyệt với mặt tròn vành vạnh như mặt trăng, với bôn dây to nhỏ đã từng “nhỏ máu năm đầu ngón tay” của những kiếp cầm ca như Thúy Kiều, người ca nữ trên sông Tầm Dương, Chiêu Quân…

Tiếng đàn vừa cất lên thì những giác quan của nhà thơ đều rung động, thị giác, thính giác và xúc giác cùng đồng hiện:

“Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hãi trăng ngần
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân”

Những thanh trắc (nhập, nguyệt, lạnh…) nức nở, kết hợp với những thanh bằng trùng điệp (trăng… trăng… trăng, đàn… đàn… đàn) tạo ra âm thanh trầm uất. Những nhịp hai (trăng thương/trăng nhớ; đàn buồn/đàn lặng) ngắc ngứ, đứt đoạn diễn tả nỗi buồn u ẩn vạn kỉ của những kiếp cầm ca. Những nốt đàn buồn chầm chậm đọng thành từng giọt như giọt lệ:

“Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân”

Thị giác đã kết hợp với thính giác mà thành “lệ ngân”, giọt lệ có âm thanh “ngân” lên nỗi buồn của ca nữ.

Tiếng đàn vừa mở ra không gian cao rộng “mây vắng, trời trong, đêm thủy tinh”, vừa dội vào tâm hồn thi nhân, xao động đến nơi sâu thẳm của trái tim yêu thương của thi nhân:

“Linh lung bóng sáng bỗng rung mình
Vì nghe nương tử trong câu hát
Đã chết đêm rằm theo nước xanh”

Nhịp thơ chuyển, từ những câu thơ 2/2/3 đã chuyển thành 2/5 (thu lạnh/càng thêm nguyệt tỏ ngời) rồi nhịp 4/1/2 (Đàn ghê như nước/lạnh/trời ơi!) Cái nhịp một đã diễn tả được cái đảo phách ngoạn mục của người chơi Nguyệt cầm. Xúc giác trong thơ (ghê, lạnh) bộc lộ trực cảm mạnh mẽ, tạo ra nét riêng mê li của thơ Xuân Diệu.

Chuỗi hợp âm uất hận va sát vào nhau như tiếng sỏi xao xác, khô khốc, mà sao lại “long lanh”? “Long lanh tiếng sỏi vang vang hận”? “Long lanh” là thuộc phần tài hoa của người gẩy đàn, tiếng đàn “buồn”, “hận” nhưng hay quá, đẹp quá, trong âm thanh có hình ảnh, gợi nhớ những mĩ nhân bất hạnh đã từng nhập hồn vào cây đàn nguyệt (như mĩ nhân đàn tì bà trên bến Tầm Dương…)

“Long lanh tiếng sỏi vang vang hận
Trăng nhớ Tầm Dương nhạc nhớ người”

Nhà thơ có cảm giác chìm ngập trong biển âm thanh, tiếng “nguyệt cầm” trong quá, sáng quá thành biển “pha lê”. Hình tượng thơ thật là mĩ lệ! Sóng nhạc vỗ vào “chiếc đảo hồn tôi” mà nhà thơ nghe nỗi sầu âm nhạc lan tỏa cả vũ trụ:

“Bốn bề ánh nhạc: biển pha lè;
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề.
Sương bạc làm thinh khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê”

Mẫu Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Nguyệt Cầm Hay Đặc Sắc

Sinh thời, Xuân Diệu từng viết: Tôi có cái mà người ta gọi là “tâm hồn”, cái gì đó mà nó là hướng toát ra tinh vi nhất, huyền bí nhất. Tâm hồn ấy là một tâm hồn thơ, luôn cảm nhận cuộc sống bằng mọi giác quan của mình.

Trong thơ Xuân Diệu có vai trò đặc biệt của cảm giác, cảm giác về cuộc sống xung quanh nhà thơ muôn hình muôn vẻ, có khi lại là những điều lớn lao trong tình yêu, trong lòng người, nhưng có khi là chỉ qua việc nghe “nguyệt cầm” nhà thơ đã tạo nên bao điều tinh tế. “Nguyệt cầm” là một trong những điều tinh tế ấy.

Thơ ca lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 có ảnh hưởng nhiều của thi pháp thơ tượng trưng ở Pháp, tức là “thế giới thống nhất trong tình âm u, huyền bí của nó” hay “hương sắc và âm thanh trong không gian tương ứng với nhau” (Bôđơle) …

Trong thơ Xuân Diệu, sự chuyển đổi cảm giác giữa âm thanh, màu sắc, hương vị … rất thuần thục, nhà thơ luôn tạo ra những kênh cảm giác giao thoa với nhau. “Nguyệt cầm” là bài thơ nói nhiều về sự giao thoa ấy. Nhà thơ đã chọn đây là bài thơ hay nhất của ông, “bài thơ thăng hoa từ đầu đến cuối”.

Không khí bao trùm lên toàn bộ bài thơ toát ra một vẻ lạnh, cái lạnh thấu suốt và thấm sâu, nó “nhập” vào hồn người từ những câu thơ đầu:
 
“Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân …”
 
“Trăng nhập”, hình như trăng ở đây là một linh hồn nhạy cảm, bơ vơ đang đi tìm chỗ tựa nương, linh hồn ấy nhập vào “dây cung nguyệt lạnh” càng làm cho cảm giác lạnh lẽo tăng thêm. Nhưng câu thơ không chỉ đơn giản là cảm giác về xúc giác, thị giác. Dường như nhà thơ đang định lý giải “tại sao lại gọi là đàn nguyệt?”.
 
Đây là loại đàn thuộc một loại tỳ bà dành cho phụ nữ chơi. Nhưng nếu như chỉ lý giải như thế câu thơ trở nên tầm thường quá, lắp ghép các sự vật hiện tượng lại với nhau để lý giải dòng cảm xúc thực không phải là ý định của nhà thơ. “Dây đàn” ở đây chính là sự biểu hiện của ánh trăng, trăng dường như hoá thân thành dây đàn, dây đàn thành âm sắc của trăng.

Với thủ pháp xáo trộn hình ảnh, biến cái thực là “dây đàn” thành cái ảo là “trăng”. Và ngược lại, Xuân Diệu muốn cấu tứ theo lối đồng nhất: cây đàn nguyệt là đàn trăng và trăng cũng là một cây đàn, nhà thơ dùng chất liệu ánh sáng và âm thanh để diễn tả âm sác của “đàn nguyệt”.

Câu thơ tạo cho người đọc hai cách hiểu: nêu trăng là một cây đàn thì giọt đàn là giọt trăng, nếu đàn là trăng thì âm thanh là sắc trăng. Câu thơ hay đến mức kỳ diệu, đi trên ranh giới giữa cái thực và cái ảo, tạo nên cho dây đàn hai âm sắc: nóng và lạnh, trong đó lạnh là sở trường:

“Trăng thương, trăng nhổ, hỡi trăng ngần
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm”
 
Nhịp thơ 2/2/3 khiến ta liên tưởng đến những buồn thương mà đàn, trăng đã nói hộ thi sĩ, cứ nao nao, từng đợt, từng đợt như chực trào ra nơi khoé mắt. Âm thanh nguyệt cầm được cảm nhận sâu sắc chính bởi tâm hồn thi sĩ hoà nhập với tâm tình nghệ sĩ.

Hai câu thơ như tách ra thành những chùm ba hợp âm. Chính vì có trăng nhập vào đàn nên âm sắc rung lên vừa là âm, vừa là sắc. Mỗi cặp “trăng thương, trăng nhớ, trăng ngần” là một nốt đàn. “Đàn buồn, đàn lặng, đàn chậm” là sự thay đổi của nốt đàn, trên là trăng, dưới là đàn, trên là ánh sáng, dưới là âm thanh. Tất cả đều đạt đến sự tuyệt đối của âm sắc.
 
Các giai điệu “trăng – đàn”, “đàn – trăng” cứ lặp đi lặp lại dễ gảy cho ta cảm xúc buồn. Nếu như ở câu trên từ “ngần” đặt ở cuối câu là tiếng đàn dàn trải thì câu dưới từ “chậm” (thanh nặng) ở cuối câu tiếp theo từ “lặng” (thanh nặng) và “buồn” (thanh huyền) làm cho tiếng đàn như nghẹn lại, buồn thảm hơn. Những điệp khúc ấy cứ xoáy vào ta, da diết lạ kỳ. Tiếng đàn là sự đồng vọng của tiếng hồn bay tới vầng trăng, cái vầng trăng vẫn có tự muôn đời: trăng quá khứ, trăng của thực tại và trăng của những áng thơ ấy….

Chính những ảo ảnh cảm giác mà ta cảm nhận được đã tạo nên sự so sánh: “mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân”. Giọt ở đây là giọt đàn, cả bảy chữ là sự chuyển đổi của các kênh cảm giác: lấy cái hữu hình hoá cái vô hình: nếu như “giọt” là đơn vị của chất lỏng thì “giọt rơi tàn như lệ ngân” lại là giọt ánh sáng, giọt âm thanh.

“Rơi” không chỉ nghe thấy tiếng vang ngân mà còn thây được cả ánh sáng “tàn”, đem so sánh với “lệ” là giọt chất lỏng tạo cho “giọt” có cấu trúc muôn hình thể: âm thanh biến thành ánh sáng, ý thơ lung linh, chính tâm hồn tinh tế của thi nhân đã “kết” tiếng đàn kia từ âm, sắc thành giọt lỏng.
 
Cái phi lý tính ấy ta đã gặp nhiều trong thơ Xuân Diệu, tăng sức gợi cảm cho bài thơ. Có thể nói, Xuân Diệu đã đưa cái trong của tiếng đàn lên đến đỉnh cao của nghệ thuật, của cái đẹp là “thuỷ ngân”, đồng thời cũng đưa cái buồn của tiếng đàn xuống đến tuyệt đôi.

Âm thanh tích tụ mối sầu ở cảnh, ở tình kết thành giọt rơi giữa đêm vắng, giọt âm thanh cứ chơi vơi giữa lòng vũ trụ, giữa lòng thi sĩ. Dư âm của nó cứ lay động nhẹ trái tim nhà thơ, cứ đọng dần, đọng dần cho đầy tâm hồn cô vắng. So với tiếng đàn trong thơ Nguyễn Du xưa, tiếng đàn của Xuân Diệu buồn một nỗi buồn hết sức hiện đại, tất cả đều ở mức tinh tế nhất.

Chợt một cảm giác ghê sợ xâm chiếm dần nỗi buồn miên man khi bóng sáng lung linh bỗng rung mình:
 
“ Mây vắng, trời trong, đêm thuỷ tinh
Lung linh bóng sáng bỗng rung mình
Vì nghe nương tử trong câu hát
Đã chết đêm rằm theo nước xanh”.
 
Vẫn tiếp tục là cảnh, là tiếng đàn cất lên trong đêm khuya mơ hồ, thanh vắng. Câu thơ vẫn kết cấu theo chùm ba hợp âm nhưng ở đây là sự ngưng đọng ở cảnh: “Mây trắng, trời trong, đêm thuỷ tinh”. Đó là sản phẩm của sự tương giao, “đêm thuỷ tinh” là sự sáng tạo, cụ thể hoá cái vô hình thành cái hữu hình có thể sờ nắm được.
 
Câu thơ không hề nói đến hình ảnh con người, cảnh trong sạch quá đỗi, nỗi buồn lan toả trong không gian thanh sáng quá thành ra như không có gì lấp vào được. Không vợi đi mà cứ tăng lên. Không có con người, không một làn gió, không có âm thanh nào khác ngoài tiếng đàn, càng không có hơi ấm của cuộc sống.

Ngước lên bầu trời cao trong vắt, đối diện với tâm hồn: Mây không phải không có mà là đi vắng, nghĩa là mọi đêm vẫn có nhưng đêm nay thì không, sự hẫng hụt như tăng lên. Không gian trong đến choáng ngợp, giữa âm thanh và màu sắc có sự tương đồng. Chính tiếng đàn thánh thót mà trầm lắng, nhanh dồn dập mà chậm rãi làm cho ánh trăng kia như run lên trong không gian quá rộng, quá trong:

“Linh lung bóng sáng bỗng rung mình”
 
Câu thơ có sự chuyển đổi cảm giác cực mạnh, nếu “lung linh” là ánh sáng được cảm nhận bằng thị giác thì “lung linh” có cả xúc giác, cảm giác ghê sợ, rợn, lạnh ở phía sau, làm cho ta rùng mình. Dường như ngoài đêm ra, bóng sáng là thính giả duy nhất của đêm nhạc, nghe nhạc vì rung động nên rùng mình.
 
“Bóng sáng” là hư ảo nhưng tác giả thấy có một bóng sáng hiện lên trong đêm đó, cả cái vô hình cũng trở nên rung động, chứng tỏ sự tác động mạnh mẽ của âm thanh không chỉ làm cho con người xúc động mà còn làm cho cả những cái hư ảo, tưởng như không tồn tại cũng rung mình. Hai vần “inh – ung” đặt trong một câu thơ dễ gây cho ta cũng có cảm giác “rung rinh” ấy.
 
“Bỗng rùng mình” chuẩn bị cho ý thơ dưới:
 
“Vì nghe nương tử trong câu hát
Đã chết đêm rằm theo nước xanh”
 
Dường như câu thơ nói rõ thêm nguyên nhân làm cho ta nghe thấy tiếng đàn buồn, thì ra thi nhân không quá thả hồn mình vào và bay bổng theo tiếng đàn mà quên đi cuộc sống con người, Xuân Diệu đang hướng tới con người. Hình như tiếng đàn ấy rất hợp với tiếng lòng thi sĩ, khi hai tiếng ấy gặp nhau có sức gợi hình ảnh rất lớn, dường như tiếng ấy hợp với tình này.

Tiếng đàn buồn rơi trong đêm trăng làm cho thi sĩ liên tưởng đến những con người bạc mệnh, những con người ấy cũng đã từng sống trong cảnh buồn thương, rơi rụng. Số phận của họ mỏng manh như tiếng đàn nhưng không dễ dàng làm cho người đời quên đi mà ngược lại, luôn in dấu trong cảnh vật, con người.

Họ là ai? “Vì nghe nương tử trong câu hát”. Thì ra chỉ một bản đàn, qua những câu hát buồn lặng ấy đã tái hiện cả một kiếp người bạc mệnh. Họ là những người phụ nữ tài sắc nhưng “hồng nhan đa truân”, cuộc đời họ bất hạnh, buồn thảm như tiếng đàn của họ.

Không phải ngẫu nhiên mà những người phụ nữ tài sắc thường là những người giỏi cầm thơ, nàng Kiều trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du đánh đàn biểu hiện nỗi lòng mình đến độ “Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay”. Còn “nương tử” trong bài thơ này có lẽ là nàng Chiêu Quân chăng? Có phải bản nhạc mà nhà thơ nghe là đang hát về nàng hay nghe nhạc mà tác giả liên tưởng đến nàng?

Câu thơ có chiều sâu của thời gian, ở hiện tại nhà thơ nhìn về quá khứ, không gian được mở rộng, dường như tiếng đàn là nơi thu hút nhất những cảm xúc tài hoa: người tài hoa, âm sắc tài hoa, tất cả chơi vơi trong dòng âm thanh lơ lửng trong không gian. Phải chăng quá khứ đang biểu hiện hiện tại? Cảm giác về âm, sắc ấy khiến cho ánh trăng cũng rung mình thương xót cho kiếp người xấu số. Cái còn lại của đời người ấy là tinh anh của người đẹp.

Câu thơ rất “Tây” của Xuân Diệu đã tái hiện rất đúng cuộc đời người con gái tài hoa nhưng bạc mệnh Chiêu Quân. Đêm rằm chết dần, tàn dần theo nước xanh hay người con gái ấy gói cuộc đời mình lại trong tiếng đàn, câu hát rồi để mặc chảy trôi vĩnh viễn theo dòng nước xanh – dòng đời hoang dại? Câu thơ có sự lụi tàn của cái đẹp, có cái vô tình của tạo hoá, có cái nhẫn tâm của cuộc đời. Bạc bẽo lắm thay ! Cái sự thật phù phàng ấy đã bao lần được nói tới trong văn thơ trung đại, nay đến lượt Xuân Diệu.

Chính điều đó giữ ông lại với tâm hồn Việt Nam. Bao nhiêu tình cảm tiếc thương cho đời người tài hoa bạc mệnh biểu hiện bằng hình ảnh thơ phũ phàng, nhà thơ như muốn nói đến điều tương như vô lý mà lại là sự thực ở đời.

Dù sao thì ta cũng thấy nhà thơ đã nhận ra điều đó, giúp ta hiểu biết thêm về người xưa, về âm thanh tài hoa của “Nguyệt cầm” . Nghĩ thế những tưởng cho lòng mình ấm lại, tìm thấy chút gì ấm áp, nhưng trời ơi, tiếng đàn buồn lặng lại bị ánh trăng lạnh lẽo lấn át đi, không gian tràn ngập tiếng đàn vẫn ám ảnh và đập mạnh vào giác quan của nhà thơ, của ta, cảm giác lạnh vẫn cứ tăng lên:
 
“Thu lạnh càng thêm nguyệt tơ ngời
… Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người”.
 
Không gian của bài thơ ngày càng khuya khoắt, thanh vắng hơn, dường như cái lạnh của đêm thu càng làm tăng thêm độ ngời sáng của trăng. Tiếng đàn không chỉ dừng lại ở mức độ tạo nên cảm xúc buồn mà chuyển thành “ghê”, tức là sợ hãi, mặc cảm như lùi xa.

Cả bài thơ có đến ba từ “lạnh” nhưng phải đến từ thứ ba do được ngăn cách quyết liệt bởi hai dấu phẩy mới thấy hết được cái lạnh toát ra mạnh mẽ nhất; cách chuyển đổi cảm giác từ thính giác sang xúc giác đến độ như thế đã là tuyệt đối! Cái lạnh lọc trong ánh trăng, rùng mình làm người đọc cũng rợn người.

Tiếng kêu “trời ơi” không kìm nén được đã cất lên như sự chứng minh cho sự không dừng được của cảm xúc, như tiếng kêu thảng thốt của một tâm hồn mềm yêu trước cái lạnh dễ sợ của đêm nhạc, trước ký ức buồn thương. Cái rùng mình được diễn tả bằng nhịp ngắt từ “lạnh” riêng thành một nhịp, đó là sự tận cùng của cảm nhận. Thi nhân đã thu lòng mình vào khí thu lạnh lẽo, ánh trăng tỏ ngời và nỗi niềm uất hận từ tiếng đàn, những nỗi niềm ấy còn tồn tại trong cả sỏi đá.
 
Câu thơ đảo từ “long lanh” lên đầu cho ta thấy ánh sáng phát ra từ tiếng đàn, đọng vào sỏi đá. Cái cảm giác xù xì, trầm đục ấy lẽ ra phải được cảm nhận bằng thị giác nay “vang vọng” thì đã chuyển sang thính giác. Tiếng đàn đẹp và hay nay lại là tiếng vang của những mối hận trong lòng, những mối hận đã lên tiếng. Thế mới biết sự nhập tâm của người chơi đàn và người nghe đàn đạt đến mức độ như thế nào ! Trăng đêm thu trong “Nguyệt cầm” nhớ trăng bến Tầm Dương, Xuân Diệu nhớ đến Bạch Cư Dị.

Câu thơ đưa ta về bến Tầm Dương, với cảnh và tình ngày xưa, với cùng một lứa bên trời lận đận, để cảm nhận tiếng đàn ở mức độ tinh vi nhất: cả trăng, nhạc và ánh sáng … hoà vào nhau. Nhà thơ đã nghe tiếng đàn bằng toàn bộ sự sống của mình. Còn ta, ta nghe tiếng đàn thơ bằng các giác quan của mình. Tất cả nằm trong sự cộng hưởng đến tuyệt vời. Thế mới biết năng lực tạo hình bằng âm thanh của Xuân Diệu đạt đến mức tài hoa như thế nào.
 
Tiếng đàn về đêm khuya nghe càng rõ, càng dồn dập:
 
“Bốn bề ánh nhạc biển pha lê …
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê”
 
Hình ảnh thơ được cấu tạo từ sự tương giao, sự chuyển đổi của các giác quan: âm nhạc toả lan trong không gian mang lại cả màu sắc, hình khối. Ta không chỉ nghe thấy mà còn cảm thấy trong cái rùng mình, sờ nắm thấy từ chất liệu quý “pha lê”.
 
 Không gian bao quanh, tiếng đàn hoá thành đại dương chứa âm thanh, mỗi giọt âm thanh vừa là trăng, là bạc, là pha lê. Câu thơ như vút cao lên. Tuy nhiên, từ đầu tới giờ đêm nhạc chỉ gây cho ta cảm giác ớn lạnh thì biển pha lê kia cũng chỉ là một bể sầu vô định, mênh mông, choáng ngợp mà trên đó có một linh hồn – chiếc đảo đang bơ vơ.

Hai từ “bốn bề” đặt ở đầu câu thứ nhất lặp lại ở cuối câu thứ hai vừa đóng khung cuộc đời con người trong đó lại vừa mở ra một không gian vô tận mà ở đó con người thật nhỏ bé, khó xác định, cứ bị ngợp dần.

Có thể nói mặc cảm cô đơn bế tắc luôn ám ảnh các nhà thơ mới, nhất là Xuân Diệu. Ông như một “con chim hoạ mi hoan hỉ hót trong bóng đêm những nỗi cô đơn của mình bằng những tiếng ngọt ngào” (Shelley). Hình ảnh “chiếc đảo hồn tôi … “ là nỗi lòng tự bạch của thi sĩ nói riêng và một tầng lớp lúc bấy giờ. Tiếng “rợn” như một cái rùng mình trước sự thật ấy.

Đây không phải là lần duy nhất Xuân Diệu cảm thấy choáng váng vì cô đơn. Ông khát khao giao cảm hết mình với đời nhưng những gì mà ông nhận lại thì “chưa đủ” nên càng thấy cô đơn, mà càng cô đơn ông càng giao cảm, càng đi sâu vào những điều tinh tế, ông đã thạo dò la tâm cảnh, tâm tình. Khát khao ấy biểu hiện rõ nét trong hai câu thơ:
 
“Chỉ biển trời xanh, chẳng bên trời
Mắt nhìn thêm rợn ánh khơi vơi”
(Buồn trăng)
 
Cái vô biên, bất tận của vũ trụ luôn tác động đến cảm giác, cảm xúc của thi sĩ, và khi ấy phương thức giãi bày, bộc lộ tuyệt vời nhất lại là thơ.
 
Toàn bài im ắng và lặng lẽ. Cái tĩnh mịch như lên cao độ ở hai câu kết:
 
“Sương bạc làm thinh khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê”
 
Không còn gì ngoài tiếng đàn đang thả ra từng giọt ảm thanh não nề. Sương bạc, đêm khuya là thính giả của đêm nhạc cũng lặng thinh và nín thơ và rồi chợt nhận ra rằng sao Khuê đang bị mờ dần bởi mối sầu trong nhạc, nhà thơ ngước nhìn lên. Lúc này giọng đàn sầu não đã chiếm lĩnh cả bên trong những vì tinh tú, tâm sự trong nhạc đã sâu sắc tuyệt đối. Vũ trụ đã nghiêng mình, lòng người đã bị chinh phục !.
 
Bài thơ kết thúc trong lúc cả vũ trụ bị thu hút bởi âm thanh Nguyệt cầm. Chỉ còn những sợi ánh sáng trăng, giọt âm thanh trăng như vương lại, đọng trên trang thơ.

Mẫu Cảm Nhận, Phân Tích Bài Thơ Nguyệt Cầm Tiêu Biểu

Bài Nguyệt cầm của Xuân Diệu, ảnh hưởng Tỳ bà hành, hoà hợp với thuyết giao ứng (“correspondance”) của Baudelaire, là một bài thơ mới, âm hưởng cổ điển và lãng mạn.

Xuân Diệu nghe đàn trên sông Hương, trạnh nhớ hận tình Trương Chi – Mỵ Nương mà làm nên Nguyệt cầm. Cảm xúc lời thơ, Cung Tiến sáng tác Nguyệt cầm, tình khúc lãng mạn giá trị, mang những cung bậc Tây phương.

Bài thơ Nguyệt cầm thể hiện sự giao cảm giữa hương sắc và thanh âm, giữa đất trời và cỏ cây, giữa vũ trụ và con người, giữa trần gian và âm cảnh. Nói như Baudelaire: Bởi thơ và qua thơ, bởi nhạc và qua nhạc mà tâm hồn thoảng thấy những ánh hào quang ẩn sau cõi chết. Người thi sĩ bằng trực giác mẫn cảm nắm bắt giây phút hội ngộ thiêng liêng giữa thực tại và siêu hình, giữa nội tâm và ngoại giới để đạt tới thăng hoa trong tác phẩm nghệ thuật.

Bước vào bài thơ, câu đầu:

Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh

Hai chữ dây cung mập mờ ý nghĩa, làm môi giới cho tình và ý. Dây vừa là dây đàn mà cũng là dây tơ. Cung vừa là cung Hằng, vừa là cung tơ.

Câu thơ đưa ra nhiều hình ảnh chập trùng: Trăng nhập vào trăng? Trăng nhập vào dây đàn? Trăng nhập vào cung tơ? Mà trăng là ai? Nếu trăng là anh: Anh nhập vào cung trăng? Anh nhập vào cung đàn? Hay anh nhập vào em? Nguyệt còn đồng âm với huyệt. “Trăng – nguyệt” -ẩn dụ cổ điển- nhờ sự táo bạo và mãnh lực của chữ nhập, vướng mắc vào dây, vương tơ (ngầm).

Trăng đắm trong ẩm ướt của vùng nguyệt lạnh, gợi lên hình ảnh nồng nàn đầy nhục cảm mà cũng vô cùng dịu dàng, tế nhị, thanh khiết, mà cũng có thể là cõi chết, nơi hội ngộ của những âm hồn.

Chuyển sang câu hai:

Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần

Tính cách đối xứng giữa trăng thương và thương trăng, trăng nhớ và nhớ trăng, tạo nên sức tương ái nhớ thương – thương nhớ giữa đôi bên. Sự kết hợp với chữ hỡi – là tiếng gọi xa, gọi mà không chắc người nghe có nghe tiếng mình không (Trời hỡi! làm sao cho khỏi đói. -Hàn Mạc Tử) – tạo nên khoảng cách muôn trùng giữa hai đối tượng: trăng và đàn.

Nếu “Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh” mở ra bối cảnh gần gụi da diết “Trăng nhập đàn” thì “Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần” dẫn đến niềm nhớ thương đòi đoạn, và sự phân chia nghìn trùng xa cách giữa đôi bên. Vì thế hai câu thơ trên trở thành cặp phạm trù song song đối đẳng. Tiếp đến: “Ðàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm” và “Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân” có sự chuyển đề: đàn đang từ vị trí khách thể ở hai câu thơ đầu:

Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần

Bỗng chuyển sang vị trí chủ thể ở câu 3, câu 4:

Ðàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân

Nhận xét thứ nhì: Tuy “Ðàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm” vẫn giữ nguyên cấu trúc hình thức như “Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần”, nhưng ở đây tĩnh từ buồn và lặng đã thay thế động từ, biến trạng thái tĩnh thành động, khiến cho mệnh đề đàn buồn trở nên đa nghĩa: tiếng đàn buồn? Người đánh đàn buồn? Hay đàn đang gẩy khúc nhạc buồn?…

Và đàn lặng cũng mang những ngụ ý: tiếng đàn lặng đi? người kỹ nữ ngưng đàn? hay khúc nhạc bỗng dưng im bặt?… cho thấy cách tạo hình ở “Ðàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm” khác với cách tạo hình của “Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần”.

Câu thơ kế tiếp “Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân” tiếp tục mô tả tiếng đàn và tâm cảm người gẩy đàn. Chữ tàn gieo vào giữa câu thơ như nỗi trớ trêu của định mệnh. Tàn: Tàn cung? Tàn canh? Tàn phai? mà cũng có thể là tàn nhẫn, rơi vào chính giữa câu thơ, chia loan, rẽ thuý, tạo nên những tác dụng:

– Phân chia câu thơ làm hai vế so sánh: Mỗi giọt rơi = như lệ ngân.
– Chia rẽ chủ ngữ “giọt lệ” ra làm hai nhân cách khác, hai hình ảnh khác: giọt rơi, lệ ngân.
– Hai hình ảnh này và dư âm này tác động một lần nữa xuống nỗi đau thương ly cách giữa trăng và đàn.
– Tàn còn có nghĩa tàn cung là bặt tiếng đàn, là tàn tạ như tiếng đàn rơi xuống, tan đi, vỡ ra… như khối hận tình mang xuống tuyền đài chưa tan…
– Và tàn còn có thể là tàn phai, như nhan sắc người kỹ nữ trong khoảnh khắc tàn canh, rỏ mỗi tiếng đàn như ngân một giọt lệ.

Toàn bộ bốn câu thơ có cấu trúc song song, đối đẳng, nhà thơ tận dụng sự đối xứng giữa những cặp phạm trù (trăng – đèn), (gần – xa), (ngoại cảnh – tâm cảnh), dùng những ngụ ý, hàm ngôn tạo mối tương quan giữa những điều nói và những điều không nói, giữa thực và hư, giữa tĩnh và động, để mở ra đến vô cùng, sự gần gụi và xa cách giữa trăng và đàn.

Sang tiết đoạn B, tác giả đổi thay phong cách:

Mây vắng, trời trong, đêm thuỷ tinh
Lung linh bóng sáng bỗng rung mình
Vì nghe nương tử trong câu hát
Ðã chết đêm rằm theo nước xanh.

Đoạn thơ này mang cấu trúc văn xuôi, với những mệnh đề tiếp cận có tính cách giải thích, bổ nghĩa cho nhau (vì… đã…). Sự bắc cầu trực tiếp bằng một mệnh đề xé hai (“enjambement avec rejet” mà Xuân Diệu mượn trong thơ Pháp) liên kết chặt chẽ câu thơ trên với câu thơ dưới, kết hợp bốn câu thành một phát ngôn có trình tự nhất định.

Tuy nhiên, câu trên vẫn là thơ vì những mệnh đề tuy liên tục và có trình tự trong ý, nhưng thiếu chủ ngữ và vị ngữ nên không “thành văn”: Mây vắng, trời trong, đêm thuỷ tinh là ba hình ảnh độc lập, dị biệt nhưng song song về nghĩa: Mây vắng = trời trong = đêm thuỷ tinh.

Nhịp cầu thứ nhất liên kết đêm thuỷ tinh với lung linh bóng sáng, bật ra hai khả năng diễn nghĩa: hoặc là có hai cảnh tượng song song: Ðêm thuỷ tinh lung linh và bóng sáng bỗng rung mình, hoặc là cả cái “đêm thuỷ tinh lung linh bóng sáng” đó bỗng rung mình.

Giải thích thứ hai này ngụ ngầm ý nghĩa: Mây vắng và trời trong cũng rung mình như đêm thuỷ tinh vì ba yếu tố trên cùng một chức năng ngữ nghĩa và cấu trúc trong câu.

Tại sao rung mình? Vì tất cả đều nghe nương tử trong câu hát. Ðến đây sự bắc cầu trở nên huyền nhiệm: Ðộng từ “đã chết” bơ vơ, buông lỏng, không có chủ ngữ. Ai đã chết? Nương tử đã chết? Câu hát đã chết? hay là tất cả những nhân vật: mây, trời, đêm thuỷ tinh, bóng sáng kia, vì nghe nương tử hát mà cùng tự tử trong đêm rằm dưới nước xanh, như huyền thoại Lý Bạch ôm trăng nhẩy xuống dòng Dương Tử?

Tiết đoạn B kết hợp hài hoà khái niệm thẩm mỹ giữa Ðông -Tây, trong cấu trúc hình thức và nội dung thi ca.

Tiết đoạn C trở lại cuộc tương kiến giữa Ðàn và Trăng:

Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời,
Ðàn ghê như nước, lạnh, trời ơi…
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người…

Âm hưởng và giai điệu trong tiết đoạn này ngẫu hứng từ tiếng đàn của người kỹ nữ trong Tỳ bà hành, nhất là “Ðàn ghê như nước, lạnh, trời ơi…” và “Long lanh tiếng sỏi vang vang hận”:

Uyết tuyền lưu thuỷ hạ thán
Thuỷ tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt
(Nước tuôn róc rách, chẩy mau xuống ghềnh
Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt)

Và chính dư âm tiếng đàn đã làm cho thiên nhiên âm nhạc và con người tương tư nhau: “Trăng nhớ Tầm Dương nhạc nhớ người” làm cho hiện tại luyến lưu dĩ vãng, làm cho sự cách biệt giữa không gian và thời gian, nghệ thuật và tình người ngắn lại, nhưng cũng lại trải ra biền biệt đến vô cùng, và mở đường cho bốn câu thơ cuối:

Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê,
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề.
Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.

Tiết đoạn D, song song với tiết đoạn B, trở lại quang cảnh vũ trụ và tâm cảnh người nghe đàn, ngắm trăng: Câu 1 mở ẩn dụ thành ấn tượng so sánh:

Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê,

Thi sĩ giao hoà âm nhạc với ánh trăng thành một biển sáng có âm thanh pha lê.

Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề.

Lần đầu tiên, nhân xưng tôi xuất hiện trong thơ. Sự hiện diện của thi sĩ, đơn côi tuyệt đỉnh. Ẩn dụ “chiếc đảo hồn tôi” và tâm cảm “rợn bốn bề” phù trợ nỗi hoang lạnh cho hai đoản ngữ “chiếc đảo” và “hồn tôi”, kèm thêm bốn hình vị độc lập chiếc – đảo – hồn – rợn đều mang ẩn nghĩa đơn chiếc, hoang vắng, âm hồn, ghê rợn,… nói lên sự lạc lõng gây gây của thi nhân trong cõi trần âm u hoang lạnh. Niềm tâm sự ấy đắm trong khung cảnh:

Sương bạc làm thinh, khuya nín thở

Tình huống “Sương bạc làm thinh, khuya nín thở” trên đây nối tiếp với “Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề”, như để giới thiệu thiên nhiên “Sương bạc” với không và thời gian “khuya”, những nhân tố mới này cùng “làm thinh” và “nín thở” để:

Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.

Thi sĩ đã đem nội tâm của con người hoà cùng âm nhạc, ném vào vũ trụ hành tinh. Còn lại một mình đối diện với cõi chết, âm u, hoang lạnh. Bềnh bồng ngoài thực tại, trong vị trí giao tiếp giữa không gian và vũ trụ. Lưỡng lự, nửa thăng thiên về một hành tinh lý tưởng, nửa hạ huyệt về cõi độc dược, Ác hoa (Les fleurs du mal).

Sự đối chất giữa Lý tưởng (Idéal) và Nỗi sầu (Spleen, Ennui) trong Baudelaire, không chỉ truyền sang Xuân Diệu, thấm vào Huy Cận, mà còn thông suốt cả một thế hệ thi nhân, biến thành nỗi sầu nhân thế, tận diệt thế nhân trong cảm giác nghẹt thở, bất lực, hoang mang, muôn đời buồn bã.

Không nên bỏ lỡ tác phẩm ❤️️ Đây Mùa Thu Tới❤️️ Nội Dung, Ý Nghĩa

Viết một bình luận